Quy định về tên của công dân Việt Nam trong bộ luật dân sự năm 2015 nhìn dưới góc độ hộ tịch có yếu tố nước ngoài

Vấn đề họ và tên trên các giấy tờ hộ tịch và nhân thân do Nhà nước Việt Nam cấp cho công dân Một bất cập liên quan đến họ và tên trên giấy tờ hộ tịch và nhân thân mà các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thường xuyên phải giải quyết là xác định/ phân biệt các thành phần họ/tên để làm các thủ tục hành chính ở nước sở tại. Trên thực tế, tất cả các giấy tờ hộ tịch và nhân thân được Nhà nước Việt Nam cấp cho công dân đều không phân định rõ ràng họ và tên. Trên Giấy khai sinh và Hộ chiếu đều chỉ có một dòng ghi chung họ và tên, trong khi các giấy tờ tương ứng của phần lớn các nước đều phân định họ (tiếng Anh: Family name; tiếng Pháp: Nom de famille) và tên (tiếng Anh: First name hoặc Given name; tiếng Pháp: Prénom). Thậm chí nhiều trường hợp mang họ ghép của cha mẹ như Trần Nguyễn Vân Anh. Trường hợp họ đơn (Trần, Đinh, Nguyễn ) có thể xác nhận theo tập quán và dựa vào họ và tên của người cha. Tuy nhiên, trong các trường hợp họ ghép của cha mẹ như ví dụ nêu trên, công dân muốn xác định Trần Nguyễn là họ nhưng các cơ quan đại diện không có cơ sở để xác nhận. Ngoài ra còn các họ có ghi theo chi như: Trịnh Xuân, Nguyễn Hữu, Ngô Văn Rõ ràng, việc các văn bản pháp luật hiện hành của nước ta chưa rõ ràng và còn nhiều mâu thuẫn về vấn đề họ tên đang là rào cản không nhỏ đối với tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 173 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định về tên của công dân Việt Nam trong bộ luật dân sự năm 2015 nhìn dưới góc độ hộ tịch có yếu tố nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUY ĐỊNH VỀ TÊN CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 NHÌN DƯỚI GÓC ĐỘ HỘ TỊCH CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Tóm tắt: Một trong những quy định mới của Bộ luật Dân sự Việt Nam (BLDS) năm 2015 so với BLDS năm 2005 đã hết hiệu lực là quy định về giới hạn đối với việc đặt tên của công dân Việt Nam, “tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam” (khoản 3, Điều 26). Trong thực tiễn, quy định mới này có thể gây ra những vướng mắc khi thực hiện, đặc biệt là đối với các trường hợp có yếu tố nước ngoài 1 vốn đang ngày càng trở nên phổ biến dưới tác động của quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. 1 Trường hợp “có yếu tố nước ngoài” ở đây được hiểu là trường hợp: (1) Sự việc, hành vi, thủ tục dân sự diễn ra ở nước ngoài; (2) Một trong các bên liên quan có quốc tịch nước ngoài ; (3) Cả hai trường hợp trên. Xem thêm định nghĩa về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong BLDS năm 2015 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vũ Đoàn Kết* Lý Vân Anh** * Giảng viên Học viện Ngoại giao * Giảng viên Học viện Ngoại giao Abstract One of the new provisions of Civil Code of 2015 in comparison with the ones of the expired Civil Code of 2005 is the regulation on the naming of Vietnamese citizens, that is "the name of Vietnamese citizens must be in Vietnamese or other ethnic languages of Vietnam "(clause 3, Article 26). In practice, this new regulation may cause difficulties in enforcements, especially for cases where foreign elements are becoming increasingly popular under the impact of international integration in depths. Thông tin bài viết: Từ khóa: Bộ luật Dân sự; tên gọi; công dân Việt Nam; giấy tờ hộ tịch; xuất nhập cảnh Lịch sử bài viết: Nhận bài : 26/08/2019 Biên tập : 10/09/2019 Duyệt bài : 12/09/2019 Article Infomation: Keywords: Civil Code; names; Vietnamese residents; imigrations; civil status paper. Article History: Received : 26 Aug. 2019 Edited : 10 Sep. 2019 Approved : 22 Sep. 2019 1. Quy định về tên gọi của công dân Việt Nam và các vấn đề pháp lý đặt ra Điều 26 BLDS năm 2015 đã bổ sung thêm nhiều quy định mới về tên họ của cá THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 39Số 18(394) T9/2019 nhân so với Điều 26 BLDS năm 20052, trong đó có quy định hạn chế việc đặt tên đối với công dân Việt Nam. Cụ thể là khoản 3 Điều 26 BLDS năm 2015 quy định về việc đặt tên bị hạn chế trong những trường hợp “xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này”. Bên cạnh hạn chế chung này, đoạn 2 của khoản 3 Điều này còn bổ sung một yêu cầu cụ thể : “Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ”. Cũng theo khoản 1, Điều 26 BLDS năm 2015, tên của công dân (trong cụm từ « việc đặt tên ») có thể được hiểu là thành phần cuối trong trật tự họ tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có). Căn cứ vào quy định này, việc cha mẹ đặt tên bằng tiếng nước ngoài cho con là công dân Việt Nam sẽ bị coi là vi phạm Điều 26. Quy định nêu trên về tên gọi có một số điểm không rõ ràng, có thể dẫn tới việc áp dụng không thống nhất. Chẳng hạn, từ «tên» trong quy định tại khoản 3 Điều 26 BLDS năm 2015 được hiểu như thế nào? Chúng tôi cho rằng, khoản 3 Điều 26 BLDS năm 2015 có thể được hiểu theo 3 cách khác nhau: Cách thứ nhất, quy định này áp dụng cho tên gọi đầy đủ của một người, bao gồm cả họ và tên, đều phải bằng tiếng Việt; cách thứ hai, tên Việt có nghĩa là thành phần cuối cùng trong trật tự họ và tên. Theo cách hiểu này, họ bằng tiếng nước ngoài được chấp nhận; cách thứ ba, chỉ cần một thành phần trong họ và tên bằng tiếng Việt. Thực tế công tác hộ tịch tại nước ngoài cho thấy, cha mẹ trẻ sinh ra ở nước ngoài không gặp khó khăn trong vấn đề chọn họ 2 Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 được thông qua ngày 14/6/2005, đã được thay thế bởi BLDS năm 2015. 3 Chúng tôi sẽ nêu bất cập trong việc ghi họ trên các giấy tờ hộ tịch và nhân thân do Nhà nước Việt Nam cấp cho công dân ở phần sau. (có thể họ của cha hoặc họ ghép của cha và mẹ)3. Tuy nhiên, việc chọn tên riêng cho trẻ (tiếng anh là “first name” hoặc “given name”, tiếng Pháp là “prénom”) thường có bất cập. Cha mẹ trẻ và tập quán tại các nước đều thuận theo hướng chọn tên riêng của trẻ theo tiếng địa phương, một mặt giúp thuận tiện trong giao dịch, giao tiếp; mặt khác không tạo ra sự phân biệt, kỳ thị giữa trẻ sinh ra có yếu tố nước ngoài và trẻ sinh ra có cha mẹ là người sở tại. Ngay cả đối với người thành niên, khi sinh sống, làm việc, nhập quốc tịch nước sở tại họ cũng lưu ý việc thêm một tên bằng tiếng sở tại để thuận tiện trong giao tiếp và hội nhập. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng, để tạo điều kiện thuận lợi cho công dân sinh sống, làm việc, định cư lâu dài ở nước ngoài, cần phải diễn giải theo cách thứ ba, theo đó chỉ yêu cầu một thành phần trong họ và tên bằng tiếng Việt là đủ, bởi điều này vẫn đảm bảo có yếu tố tiếng Việt trong họ và tên của người có quốc tịch Việt Nam. Cách hiểu này cũng phù hợp với quy định tại Điều 27 BLDS năm 2015 cho phép vợ, chồng được thay đổi họ theo họ của người kia trong quan hệ hôn nhân, gia đình có yếu tố nước ngoài (điểm e khoản 1). Mặt khác, các quy định của pháp luật hiện hành của nước ta không cho thấy, Điều 26 BLDS năm 2015 sẽ được áp dụng đối với những thủ tục nào? Liệu điều khoản này cần được tuân thủ trong mọi trường hợp đối với tất cả các công dân Việt Nam hiện tại và tương lai: bao gồm các thủ tục nhập quốc tịch Việt Nam, thủ tục đăng ký khai sinh lần đầu tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, thủ tục ghi vào sổ hộ tịch việc đăng ký khai sinh đã được thực hiện tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài; hay chỉ áp dụng THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 40 Số 18(394) T9/2019 đối với thủ tục đăng ký khai sinh lần đầu tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam (trong đó có cơ quan đại diện)? Chỉ áp dụng với các trương hợp sẽ nhập quốc tịch Việt Nam sau ngày 01/01/2017 hay điều chỉnh cả các trường hợp đã có quốc tịch Việt Nam trước ngày 01/01/2017? Điều này sẽ dẫn đến các hệ quả áp dụng khác nhau, thậm chí dẫn đến tình trạng thiếu nhất quán giữa các cơ quan làm công tác hộ tịch trong và ngoài nước, giữa các cơ quan đại diện ở các nước khác nhau và ở cùng một nước nhưng trước và sau thời điểm 01/01/2017. Một câu hỏi khác đặt ra là, quy định về việc đặt tên tại khoản 3, Điều 26 BLDS năm 2015 có mâu thuẫn với nguyên tắc tôn trọng quyền tự do cá nhân được nêu tại khoản 2 Điều 3 của Bộ luật này hay không? Trước hết, có thể thấy quy định «tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam» không phải là một điều cấm trong luật Việt Nam; do đó, việc đặt tên bằng tiếng nước ngoài không thể bị coi là vi phạm điều cấm. Hơn nữa, việc đặt tên theo tiếng nước ngoài, mặc dù có thể gây ra một số khó khăn thực tế (như cách phát âm, cách viết trên các văn bản hành chính khi hành vi này được thực hiện ở trong nước) cũng không thể bị coi là trái với đạo đức xã hội hay vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Ngược lại, nếu đòi hỏi công dân Việt Nam phải đặt tên theo tiếng Việt thì sẽ gây phức tạp đối với trẻ có cha hoặc mẹ là người nước ngoài hoặc trẻ đã được khai sinh ở nước ngoài với tên theo tiếng nước ngoài. Chẳng hạn, để trẻ được chấp nhận đăng ký khai sinh tại cơ quan có thẩm quyền Việt Nam hoặc ghi vào sổ hộ tịch, trong khi trẻ đã có tên nước ngoài theo khai sinh nước ngoài, cha mẹ trẻ phải thực hiện cải chính 4 Ngoài ra, hiện chưa có quy định nào nêu rõ thế nào là tên tiếng Việt hoặc thuần Việt. Thực tế cho thấy đa số tên của người Việt Nam đều có yếu tố Hán – Việt, chẳng hạn như Hồng Sơn, Nhật Minh, Minh Triết, v.v.. hoặc đổi tên trẻ thành tên tiếng Việt tại cơ quan có thẩm quyền sở tại. Đây là điều hoàn toàn không đơn giản bởi ở nhiều nước, việc cải chính tên họ phải được thực hiện tại tòa án. Ngoài ra, yêu cầu này sẽ gây ra nhiều khó khăn cho người dân vì việc đổi tên trên khai sinh kéo theo những hệ lụy về giấy tờ khác như hộ chiếu, thẻ cư trú, sổ gia đình, bảo hiểm xã hội, v.v.., gây tốn phí thời gian, tiền của của công dân. Ngoài ra, một khó khăn khác cũng đặt ra về mặt ngôn ngữ là tên thuần Việt thường có dấu, dẫn đến trên văn bản giấy tờ do cơ quan đại diện cấp bằng tiếng Việt và bản dịch cũng khó đồng nhất. Chúng tôi cho rằng, quy định như vậy gây ra nhiều khó khăn, phiền phức cho công dân hơn. Trong thực tế, với quá trình hội nhập toàn cầu sâu rộng như hiện nay, việc trẻ sinh ra có yếu tố nước ngoài được đăng ký khai sinh tại các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam ở trong nước cũng không còn là trường hợp hiếm hoặc cá biệt. Còn tại các cơ quan đại diện (CQĐD), việc đăng ký khai sinh thường chủ yếu rơi vào trường hợp có cả cha lẫn mẹ là người Việt Nam. Tuy nhiên, với các trường hợp chỉ có một bên cha hoặc mẹ là người Việt Nam hoặc do quy định đặc thù trẻ sinh ra trên lãnh thổ nước sở tại bắt buộc phải làm thủ tục đăng ký khai sinh với nước sở tại trước, thủ tục thường nhật của CQĐD là ghi vào sổ hộ tịch việc đăng ký khai sinh đã được thực hiện tại cơ quan thẩm quyền nước ngoài. Việc trẻ có bố hoặc mẹ là người nước ngoài, hoặc cả gia đình đang định cư ở nước ngoài, dẫn tới việc lựa chọn tên nước ngoài cho trẻ là điều dễ hiểu và với mục đích đảm bảo sự thuận tiện, phù hợp với nơi định cư. Hơn nữa, khi cha mẹ trẻ làm thủ tục đăng ký khai sinh ở nước sở tại, việc chọn tên tiếng Việt4 cũng gây khó khăn cho chính THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 41Số 18(394) T9/2019 quyền sở tại vì tên tiếng Việt thường phải có dấu. Điều này gần như bất khả thi với các nước sử dụng các ký tự không thuộc hệ chữ la-tinh (Lào, Campuchia, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước Ả-rập). Vì vậy, khi làm thủ tục ghi sổ hộ tịch tại CQĐD phải dịch, phiên âm. Đối với các nước theo hệ chữ la-tinh, khi làm thủ tục ghi sổ hộ tịch tại CQĐD phải tiến hành thêm dấu và điều này dẫn đến khác biệt giữa văn bản do nước sở tại cấp và văn bản do CQĐD ban hành, không hoàn toàn phù hợp với quy định tại Luật Hộ tịch 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Một câu hỏi khác đặt ra là, liệu quy định hạn chế về tên gọi trong BLDS năm 2015 có cho phép cơ quan có thẩm quyền Việt Nam từ chối đăng ký khai sinh cho trẻ nếu trẻ không được đặt tên bằng tiếng Việt? Nếu có, liệu sự từ chối này có dẫn tới vi phạm quyền được khai sinh là một trong các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận cụ thể tại Điều 30 BLDS năm 2015? Hơn thế nữa, Điều 42 Hiến pháp năm 2013, công nhận quyền của công dân được lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp và coi việc “sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ” là một quyền chứ không phải là một nghĩa vụ bắt buộc. Vậy quy định này của BLDS năm 2015 có trái với Hiến pháp, mâu thuẫn với chính các nguyên tắc cơ bản trong BLDS năm 2015? Khúc mắc về thủ tục đăng ký khai sinh này cũng sẽ lặp lại đối với thủ tục ghi sổ hộ tịch. Cho tới khi BLDS năm 2015 có hiệu lực (01/01/2017), thủ tục ghi sổ hộ tịch việc đăng ký khai sinh đã được thực hiện tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài được thực hiện theo quy định của Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn bản thi hành (Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và Thông tư số 15/2015/TT-BTP). Khoản 9, Điều 19 Thông 5 Luật Quốc tịch số 24/2008/QH12, ngày 13/11/2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 theo Luật số 56/2014/QH13 ngày 24/6/2014. tư của Bộ Tư pháp hướng dẫn: “Khi ghi vào Sổ hộ tịch, phải ghi theo đúng nội dung của giấy tờ hộ tịch”. Tuy nhiên, khi BLDS có hiệu lực, hướng dẫn này đã trở nên vênh với khoản 3, Điều 26 BLDS năm 2015, đối với các trường hợp trẻ đã đăng ký khai sinh tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài mang họ và tên, hoặc tên bằng tiếng nước ngoài. Để đảm bảo vừa tuân thủ Điều 26 BLDS năm 2015 và pháp luật về hộ tịch, cha mẹ trẻ đã có tên nước ngoài buộc phải làm thủ tục cải chính, đổi tên cho trẻ. Như đã nêu ở trên đây, tại nhiều nước, thủ tục này rất phức tạp và dẫn tới những tốn kém vô lý cho công dân, gây thêm khó khăn trong cuộc sống và hội nhập của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Quy định về tên gọi tại Điều 26 BLDS năm 2015 có ảnh hưởng gì tới việc đã và sẽ nhập quốc tịch Việt Nam của người nước ngoài? Thậm chí, có thể đi xa hơn, việc trẻ bị từ chối đăng ký khai sinh hoặc ghi sổ hộ tịch có ảnh hưởng như thế nào tới quốc tịch Việt Nam của trẻ? Điều 2 Luật Quốc tịch năm 20085 ghi nhận quyền có quốc tịch của cá nhân và Điều 8 thể hiện cam kết của nhà nước Việt Nam trong việc hạn chế tình trạng không quốc tịch. Điều 15 và 16 Luật Quốc tịch quy định rõ: trẻ có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thì có quyền có quốc tịch Việt Nam. Điều 19 Luật này quy định người nước ngoài được phép nhập quốc tịch Việt Nam theo những điều kiện được nêu ra. Khoản 4, Điều 19 Luật Quốc tịch năm 2008 quy định: “Người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên gọi Việt Nam. Tên gọi này do người xin nhập quốc tịch Việt Nam lựa chọn và được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam”. Có thể thấy, nếu như quy định về tên gọi Việt Nam là một trong các điều THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 42 Số 18(394) T9/2019 kiện để nhập quốc tịch Việt Nam, yêu cầu này không đặt ra trong Luật quốc tịch đối với người sinh ra có cha/mẹ là công dân Việt Nam. Việc từ chối khai sinh cho trẻ không có tên Việt do đó không đương nhiên làm mất quốc tịch Việt Nam của trẻ, nhưng lại gây ra những hệ lụy thực tế bởi theo Điều 11 Luật Quốc tịch, giấy tờ để chứng minh quốc tịch Việt Nam là giấy khai sinh Việt Nam và để làm được các giấy tờ Việt Nam cho trẻ đều cần phải có giấy khai sinh Việt Nam. 2. Vấn đề họ và tên trên các giấy tờ hộ tịch và nhân thân do Nhà nước Việt Nam cấp cho công dân Một bất cập liên quan đến họ và tên trên giấy tờ hộ tịch và nhân thân mà các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thường xuyên phải giải quyết là xác định/ phân biệt các thành phần họ/tên để làm các thủ tục hành chính ở nước sở tại. Trên thực tế, tất cả các giấy tờ hộ tịch và nhân thân được Nhà nước Việt Nam cấp cho công dân đều không phân định rõ ràng họ và tên. Trên Giấy khai sinh và Hộ chiếu đều chỉ có một dòng ghi chung họ và tên, trong khi các giấy tờ tương ứng của phần lớn các nước đều phân định họ (tiếng Anh: Family name; tiếng Pháp: Nom de famille) và tên (tiếng Anh: First name hoặc Given name; tiếng Pháp: Prénom). Thậm chí nhiều trường hợp mang họ ghép của cha mẹ như Trần Nguyễn Vân Anh. Trường hợp họ đơn (Trần, Đinh, Nguyễn) có thể xác nhận theo tập quán và 6 Xem bài viết về chủ đề này trên BBC Tiếng Việt, ngày 15/01/2018, https://www.bbc.com/vietnamese/culture-so- cial-42689897, truy cập ngày 22/8/2019. 7 Nghị quyết số 36 NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị nêu rõ: “Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống xã hội nước sở tại, đồng thời duy trì quan hệ gắn bó với quê hương, đất nước”. Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 19/5/2015 của Bộ Chính trị nêu rõ: “Trong quá trình nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài sẽ tiếp tục gia tăng cả về số lượng và địa bàn cư trú, có cuộc sống ngày càng ổn định, có tiềm lực về tri thức và kinh tế, có vị trí và ảnh hưởng trong xã hội nước sở tại. Tình hình quốc tế, trong nước và những yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới đòi hỏi công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần được tăng cường, hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục phát triển vững mạnh, nâng cao uy tín, tham gia tích cực vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước sở tại; góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. dựa vào họ và tên của người cha. Tuy nhiên, trong các trường hợp họ ghép của cha mẹ như ví dụ nêu trên, công dân muốn xác định Trần Nguyễn là họ nhưng các cơ quan đại diện không có cơ sở để xác nhận. Ngoài ra còn các họ có ghi theo chi như: Trịnh Xuân, Nguyễn Hữu, Ngô Văn Rõ ràng, việc các văn bản pháp luật hiện hành của nước ta chưa rõ ràng và còn nhiều mâu thuẫn về vấn đề họ tên đang là rào cản không nhỏ đối với tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta6. 3. Giải pháp Theo chúng tôi, giải pháp đảm bảo tính nhất quán và quyền lợi cho công dân Việt Nam là cần sửa đổi BLDS năm 2015 theo hướng, bỏ quy định cụ thể về tên phải bằng tiếng Việt tại đoạn 2 của khoản 3 Điều 26 BLDS năm 2015. Trong khi chờ đợi việc sửa đổi này, trước mắt, cần có văn bản hướng dẫn giải thích quy định này của pháp luật (BLDS năm 2015) phù hợp với các trường hợp có yếu tố nước ngoài. Giải pháp này được đề xuất trên tinh thần pháp luật cần phải được áp dụng linh hoạt phù hợp với thực tiễn và tạo thuận lợi cho công dân, có tính đến bối cảnh toàn cầu hóa, phù hợp với Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới và gần đây nhất là Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 19/5/2015 của Bộ Chính trị7 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 43Số 18(394) T9/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquy_dinh_ve_ten_cua_cong_dan_viet_nam_trong_bo_luat_dan_su_n.pdf