Sự hình thành và phát triển khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam

Nhờ việc tích cực thực hiện cải cách kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo chủ trương của Đại hội Đảng đề ra, trong 20 năm đổi mới vừa qua(1986-2006), Việt Nam đã đạt được những thành quả quan trọng về kinh tế cũng như đời sống văn hoá, xã hội. - Tỷ lệ tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm (trung bình giai đoạn 2001-2005 đạt 7,5%), riêng năm 2006 đạt 8,17%, tổng GDP toàn xã hội ước tính đạt 61,7 tỷ USD, GDP đầu người đạt 11,5 triệu đồng, tương đương 720 USD. - Cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo công nghiệp hóa, hiện đại hóa (chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản). Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng từ 40,97% năm 2005 lên 41,52% trong năm 2006; khu vực dịch vụ tăng từ 38,01% lên 38,08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 21,02% xuống còn 20,40%.; tỷ lệ tiết kiệm tăng nhanh (gấp 3 lần, từ 11% GDP năm 1986 lên 39% năm 2005).

doc79 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1042 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự hình thành và phát triển khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động R&D cho thấy: đối với ngành cơ khí - điện tử, R&D đạt 0,8% doanh thu, đối với ngành may mặc - da giày là 1,04%, ngành chế biến thực phẩm là 2,9%; trong khi đó, con số này ở các doanh nghiệp FDI lần lượt là 5,6%; 1,4% và 0,8%. Trong các lĩnh vực trên, chi phí cho R&D trong ngành cơ khí-điện tử của khu vực FDI cao gấp 7 lần so với các doanh nghiệp trong nước. Đánh giá chung, có thể nói mức độ quan tâm đầu tư cho R&D của doanh nghiệp FDI cao gấp 3 lần so với doanh nghiệp trong nước (theo kết luận của CIEM). Kết quả nghiên cứu trên cũng cho thấy, trình độ công nghệ sử dụng ở các doanh nghiệp trong nước hiện nay tương đối thấp, có tới 40% doanh nghiệp đang sử dụng thiết bị, công nghệ được sản xuất cách đây 25 năm và 50% thiết bị được sản xuất 15 năm trước đây, chỉ có 10% doanh nghiệp được đánh giá là đang sử dụng công nghệ tiên tiến. Nếu tính theo tuổi thọ và năm khấu hao tài sản thì hầu hết thiết bị công nghệ mà doanh nghiệp trong nước đang sử dụng đã quá cũ và lạc hậu, hay nói một cách tổng quát, việc đầu tư đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp trong nước chưa được quan tâm đúng mức và nếu có thì cũng diễn ra rất chậm. Chuyển giao công nghệ của khu vực FDI tới doanh nghiệp trong nước được nhìn nhận là có ảnh hưởng lâu dài, đóng góp tích cực vào việc tăng năng suất trong các ngành công nghiệp của Việt Nam. Có thể thấy một xu hướng đang từng bước nổi rõ là việc mở rộng thu hút FDI đi liền với sự đổi mới và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của nhiều tổ chức trong và ngoài nước, mức độ chuyển giao công nghệ của FDI tới doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua còn rất hạn chế và chưa đáp ứng được mong muốn (xem tài liệu của tác giả Le Thanh Thuy). Nguyên nhân của mặt hạn chế này một phần xuất phát từ thực tế là khả năng hấp thu công nghệ và tiềm lực tài chính của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và của doanh nghiệp tư nhân nói riêng còn ở mức thấp. 1.3.2. Tác động nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam Bản thân sự hiện diện của doanh nghiệp FDI đã là một tác nhân thúc đẩy cạnh tranh và trong nhiều trường hợp, thực tế này có thể dẫn đến tình trạng giảm sút sản lượng của doanh nghiệp trong nước, thậm chí có thể buộc doanh nghiệp rời khỏi thị trường hoặc có thể sống sót nếu vượt qua được giai đoạn điều chỉnh cơ cấu để thích nghi với môi trường cạnh tranh mới. Nếu biết tận dụng trong quá trình sản xuất của mình các hàng hóa trung gian và các yếu tố khác của doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong nước hoàn toàn có khả năng bứt phá để sau đó trực tiếp tiến hành xuất khẩu. Theo nghiên cứu năm 2003 của VCCI, các doanh nghiệp trong nước tự đánh giá khả năng cạnh tranh của mình cao hơn tại thị trường trong nước (so với hoạt động tại thị trường nước ngoài), nhưng lại tỏ ra thiếu tự tin trong việc cạnh tranh với các đối thủ có vốn đầu tư nước ngoài ngay tại thị trường trong nước. Các doanh nghiệp cũng kém tự tin trong việc đánh giá khả năng tự nâng cao sức cạnh tranh của mình, với mức độ đánh giá giảm từ mức 3,54 trong năm 1999 xuống dần đến mức 3,20 trong năm 2003. Hiện tại, các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước đối với một số ngành đang có tác dụng đối với doanh nghiệp, nhưng trong tiến trình hội nhập tới đây những biện pháp này sẽ dần mất đi, đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu một cách quyết liệt để nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ tại cả thị trường trong nước và nước ngoài. Cuộc điều tra về năng lực xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp do VCCI thực hiện gần đây cũng cho thấy: Chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng xuất khẩu, 13,7% doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu, 62% doanh nghiệp hoàn toàn chưa có khả năng xuất khẩu. Cho dù vài năm gần đây, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong nhiều ngành sản xuất đã tăng lên đáng kể, nhưng nhìn chung còn yếu kém do năng suất lao động chưa cao; chất lượng và tính độc đáo của sản phẩm thấp; trình độ công nghệ và khả năng tiếp cận công nghệ mới hạn chế; chi phí đầu vào cao, chưa cạnh tranh được với hàng nhập khẩu; thị trường đầu ra cho sản phẩm chưa ổn định, thiếu bền vững... Trong thời gian qua, chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá toàn diện tác động lan tỏa của KCN và của FDI đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Do đó, chưa đủ cơ sở về số liệu thực tế để phân tích sâu tác động này. Những lập luận trên đây chỉ nhằm phản ánh một thực tế rằng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn yếu. Đồng thời, nghiên cứu của nhóm tác giả Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế trung ương đã chỉ ra một sự liên kết dương giữa khu vực FDI và các doanh nghiệp trong nước về năng lực cạnh tranh. Điều đó đặt ra yêu cầu tới đây cần có biện pháp để vừa thúc đẩy vừa khai thác hiệu quả tác động lan tỏa tích cực này. 1.3.3. Về sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam Mối quan hệ giữa FDI và công nghiệp phụ trợ trong nước có tính tương hỗ hai chiều và chỉ có thể phát triển bền vững trên nguyên tắc “đôi bên cùng có lợi”. Các doanh nghiệp FDI, dù đặt cơ sở sản xuất ở đâu, cũng đều cần một lượng lớn các yếu tố đầu vào. Họ có 3 lựa chọn: nhập khẩu, tổ chức sản xuất tại chỗ và tìm nguồn cung ứng địa phương (mua từ các doanh nghiệp trong nước, hoặc cũng có thể từ các doanh nghiệp FDI khác). Rõ ràng là, nếu có thể sử dụng các yếu tố này ở ngay nền kinh tế nước sở tại, thì họ sẽ giảm được đáng kể chi phí sản xuất, đồng thời có thể tập trung vào việc nâng cao tính chuyên môn hoá, phát huy những thế mạnh của riêng mình. Còn lợi ích của nước chủ nhà thì có thể dễ dàng nhận biết. Trước hết, mối liên kết với doanh nghiệp FDI làm tăng sản lượng và việc làm của các nhà cung ứng địa phương. Thêm vào đó, những ảnh hưởng gián tiếp có thể còn quan trọng hơn. Các liên kết có thể trở thành những kênh có sức mạnh cho việc phát tán tri thức và kỹ năng giữa các công ty. Các liên kết mạnh có thể kích thích hiệu quả, tăng năng suất, năng lực công nghệ và quản lý, đa dạng hoá thị trường cho nhà cung ứng. Mặt khác, chính sự liên kết này thường khuyến khích xuất khẩu đối với các công ty liên kết và trong những điều kiện hợp lý, các công ty trong nước có thể phát triển trở thành các nhà cung cấp toàn cầu hoặc trở thành các TNC theo đúng nghĩa của nó. Song phải thấy rằng, không phải lĩnh vực nào cũng có thể phát triển công nghiệp phụ trợ. Công nghiệp phụ trợ thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn, khấu hao dài, sản phẩm sản xuất quy mô hàng loạt, thị trường tiêu thụ đủ lớn để sản phẩm làm ra có thế có giá cạnh tranh hoặc đòi hỏi trình độ chuyên môn hóa và hiệp tác hóa rất cao nên yêu cầu công nghệ cao, liên kết sản xuất gần như khép kín, có sẵn địa chỉ sản xuất và tiêu thụ. Đồng thời, công nghiệp phụ trợ chỉ có thể phát triển khi đã có những ngành công nghiệp chính phát triển. Trong điều kiện cụ thể hiện nay của Việt Nam, công nghiệp phụ trợ chỉ có thể phát triển có giới hạn ở một số ngành như sản xuất linh kiện, phụ liệu cho ngành chế tác, dệt may – da giày, điện tử - viễn thông, hóa chất... Các nhà nghiên cứu đã tổng kết và phân biệt ba phương thức hình thành và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ như sau: thứ nhất, FDI đi trước và kéo các công ty khác đầu tư phát triển các hoạt động phụ trợ; thứ hai, phát triển trước công nghiệp phụ trợ rồi mới thu hút FDI; thứ ba, đồng thời với sự gia tăng FDI, ngành công nghiệp phụ trợ cùng hình thành và phát triển. Thực tế cho thấy, có lẽ ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam đang đi theo phương thức thứ nhất, tức là có FDI trước, rồi công nghiệp phụ trợ mới từng bước hình thành. Trong hơn 10 năm qua, ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam đã đạt được một số thành tựu tích cực, nhưng nhìn chung cho đến nay ngành này vẫn chưa phát triển được như mong muốn. Theo số liệu thống kê, ở một số ngành hàng có tốc độ phát triển công nghiệp phụ trợ thì tỷ lệ nội địa hóa cũng chỉ ở mức thấp như: trong ngành điện tử, 80% linh kiện là nhập khẩu và 20% được các doanh nghiệp trong nước đáp ứng; ngành dệt may - da giày, doanh nghiệp trong nước cũng đã đáp ứng được trên dưới 20%; ngành lắp ráp ôtô - khoảng 3,5%. Thành công lớn nhất có thể kể đến là ngành lắp ráp xe máy. Theo số liệu của Bộ Công nghiệp, hiện nay Việt Nam có 230 doanh nghiệp đang sản xuất linh kiện, phụ tùng và đã cung cấp được khoảng 70% nhu cầu phụ tùng cho các doanh nghiệp lắp ráp xe máy, trong đó có tới 150 doanh nghiệp trong nước tham gia sản xuất, còn lại là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.  Theo nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), các công ty lắp ráp xe máy Nhật Bản đánh giá chất lượng sản phẩm do nhiều doanh nghiệp Việt Nam sản xuất chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của họ và chất lượng sản phẩm kém hơn của Thái Lan, Đài Loan, đồng thời dịch vụ sau bán hàng cũng còn yếu. Đây là vấn đề mà các ngành công nghiệp phụ trợ khác cũng đang mắc phải và phần lớn những sản phẩm đạt yêu cầu về chất lượng thì giá thành lại quá cao. Có một thực tế là, doanh nghiệp FDI ít tìm được nguồn cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ đáng tin cậy. Do vậy, các doanh nghiệp FDI hướng vào xuất khẩu có khuynh hướng sử dụng linh kiện và nguyên liệu nhập khẩu hoặc do các công ty FDI khác sản xuất. Điển hình như công ty Honda, tỷ lệ nội địa hóa tăng khá nhanh, từ 10 lên 60% trong vòng 6 năm, nhưng vai trò đóng góp của doanh nghiệp trong nước lại không đáng kể. Phần lớn các bộ phận, linh kiện và nhiều sản phẩm công nghiệp phụ trợ khác đều do Honda tự sản xuất trong nội bộ nhà máy hoặc mua từ các doanh nghiệp FDI khác (ví dụ năm 2003, Honda đã mua linh kiện và các sản phẩm trung gian khác từ 42 doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, trong đó chỉ có 13 doanh nghiệp là đơn vị trong nước).     Hạn chế và nguyên nhân tồn tại 2.1. Hạn chế Trong thời gian qua, mặc dù các KCN, KCX bước đầu đã thể hiện được vai trò không thể thay thế của mình trong quá trình CNH, HĐH. Tuy vậy, sau nhiều năm phát triển, bên cạnh những ưu thế, những thành tựu nổi bật, các KCN, KCX cũng đã bộc lộ một số khiếm khuyết, cản trở phát triển bền vững của nước ta. Điều này thể hiện ở một số mặt sau: Việc phân bố các KCN, KCX giữa các vùng còn bất hợp lí. Thành lập quá nhiều KCN, KCX ở cùng một vùng trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng hạ tâng kỹ thuật và xã hội cho các KCN. Điều này vô hình trung đã hình thành nên các KCN, KCX có chức năng tương tự nhau ở các địa phương, dẫn tới tình trạng cạnh tranh gay gắt, tự phát, chạy đua theo “phong trào”, làm cho hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp, các địa phương không khai thác được những lợi thế riêng có của các địa phương trong việc phát triển các KCN, KCX. Hơn nữa giữa công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch chưa ăn khớp nhau. Nhiều quy hoạch được duyệt, thậm chí đã đi vào xây dựng kết cấu hạ tầng thì địa phương lại thay đổi quy hoạch về diên tích, ranh giới, gây ra sự hoài nghi về tính ổn định của môi trường đầu tư và hiệu lực của các cơ quản quản lí nhà nước cấp Bộ, ảnh hưởng xấu đến thu hút nguồn vốn đầu tư vào các KCN, KCX Trong thời gian qua, để khuyến khích các thành phân fkinh tế trong và ngoài nước đầu tư vào các KCN, KCX, các địa phương đang ra sức “ganh đua, cạnh tranh” để thu hút các nguồn vốn đầu tư về các KCN, KCX ở địa phương mình. Nhiều địa phương đã ban hành những ưu đãi riêng “xé rào” để thu hút đầu tư, chấp nhận dùng ngân sách địa phương bù lỗ. Đièu này không chỉ làm ảnh hưởng đến Ngân sách nhà nước, mà còn dẫn đến tình trạng chèn lấn, ngáng chân nhau trong việc thu hút đầu tư, làm giảm hiệu quả của các KCN, KCX, không tận dụng được lợi thế của các địa phương, các doanh nghiệp. Xu hướng đầu tư vào KCN, KCX của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đang ngày càng tăng. Tuy nhiên cơ cấu đầu tư còn nhiều bất cập. Hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, KCX đều là các dự án thuộc ngành lắp ráp máy móc hoặc công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, tiêu dùng như dệt, sợi, may mặc, da dày . Còn các dự án đầu tư vào những ngành đòi hỏi công nghệ tiên tiến hiện đại như điện, điện tử, vật liệu mới còn quá ít. Nếu tình trạng này cứ tiếp diễn mặt bằng công nghệ quốc gia mãi mãi đi sau các nước, và chỉ là người gia công chế biến cho nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX tuy gia tăng về số lượng vốn đăng ký nhưng giảm về số lượng vốn đầu tư thực hiện. Quy mô bình quân mỗi dự án có năm sau có chiều hướng thấp hơn năm trước. Các dự án đã cấp giấy phép nhưng triển khai thực hiện rất chậm. Thực tế này cho thấy KCN, KCX trong vùng còn nhiều bất cập trong quy trình thực hiện các thủ tục, khiến KCN, KCX của vùng chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư từ các công ty lớn, xuyên quốc gia, nắm giữ những công nghệ gốc, sản xuất những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. Hơn nữa, mặc dù có trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào KCN, KCX nhưng phần lớn là các nước ở châu Á (chiếm gần 80%), còn những nước châu Âu, Bắc Mỹ - những nước có kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại lại có vị trí khá khiêm tốn trong cơ cấu đầu tư vào KCN, KCX. Đây là một dấu hiệu cần tiếp tục quan tâm, nghiên cứu trong thời gian tới.l Theo số liệu điều tra, hầu hết lực lượng lao động ở các địa phương có KCN, KCX chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn, không quen với môi trường sản lao động công nghiệp, chưa đáp ứng được những yêu cầu của công nghệ quản lý, sản xuất hiện đại của các doanh nghiệp trong KCN, KCX. Trình độ đại học và trên đại học trong các KCN, KCX chỉ chiếm có 4,5% tổng số lao động, tron gkhi đó lao động giản đơn chiếm tới 60%. Chính vì vậy mà tỷ lệ thất nghiệp của các địa phương có KCN, KCX vẫn ở mức cao, trong khi các doanh nghiệp lại thiếu lao động. Trong các KCN, KCX ở nước ta hiện nay, việc phát triển hạ tâng kỹ thuật vẫn được tiến hành theo hình thức Nhà nước giao đất cho doanh nghiệp phát triển hạ tầng thuê đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc thuê lại đất đã phát triển hạ tầng. Doanh nghiệp muốn đầu tư vào KCN, KCX thuê lại đất đã xây dựng hạ tầng của doanh nghiệp phát triển hạ tầng. Giá thuê đất trong KCN, KCX bao gồm giá đất thô cộng với chi phí giải toả, chi phí đầu tư phát triển hạ tầng và lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó không tính được quyền cho thuê đất thô (của Nhà nước). với quyền cho thuê hạ tầng (của doanh nghiệp phát triển hạ tầng), dẫn đến hiện tượng một số doanh nghiệp hạ tầng đầu cơ đất. Điều này làm cho giá thuê đất ở trong KCN, KCX nhiều khi cao hơn so với giá thuê đất ở bên ngoài KCN, làm độn chi phí của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thấp. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng ở các KCN, KCX còn nhiều bất cập, hạn chế, vừa phức tạp, vừa tốn nhiều thời gian, tiền bạc. Nhiều KCN, KCX còn phải mất 2-3 năm mới đền bù giải toả xong. Điều này đã đẩy chi phí xây dựng tăng lên, dẫn đến giá cho thuê đất tăng cao, làm giảm tính hấp dẫn của KCN, KCX. Thực tế trong thời gian qua, việc phát triển các KCN, KCX không hài hoà với phát triển các công trình xã hội (nhà ở, các công trình giáo dục, y tế phục vụ đời sống cho người lao động và gia đình họ làm việc trong các KCN, KCX). Nhà ở cho người lao động ở các KCN, KCX đang là vấn đề gay gắt nổi lên trong những năm gần đây. Nguyên nhân chủ yếu là công nhân làm việc trong KCN, KCX phần lớn là dân nhập cư từ các tỉnh khác, không có nhà ở, làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp. Vấn đề môi trường trong và xung quanh các KCN, KCX cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. KCN, KCX là nơi tập trung số lượng lớn các nhà máy công nghiệp. Tại đây nếu chất thải công nghiệp không được xử lí tốt sẽ làm cho môi trường bị ô nhiễm trên diện rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống và sức khoẻ của người lao động và nhân dân trong vùng. Thế nhưng do sự phát triển không đồng bộ theo quy hoạch và chưa quan tâm đúng mức nên ô nhiễm môi trường ở hầu hết các KCN, KCX đang trong tình trạng báo động đỏ, đe doạ sự phát triển bền vững trong thời gian tới. Nguyên nhân Những hạn chế trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ bắt nguồn chủ yếu từ các nguyên nhân: Chưa có sự chỉ đạo thống nhất trong phát triển KCN, KCX giữa các tỉnh, thành trong vùng. Thiếu một quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và KCN, KCX trong Vùng. Quy hoạch phát triển KCN, KCX chưa gắn chặt với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của ngành và lãnh thổ. Sự tham gia và phối hợp của các ngành, các cấp trong quản lý phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển công nghiệp, KCN trong Vùng còn lỏng lẻo. Quá trình hình thành và phát triển các KCN còn tự phát. Công tác chuẩn bị và xúc tiến đầu tư còn thực hiện chưa tốt và còn gặp nhiều khó khăn. Chưa có chính sách cụ thể cho sự phát triển các KCN, KCX trong vùng. Trong quá trình phát triển KCN, KCX, việc phát hiện ra và điều chỉnh các chính sách liên quan đến quản lý phát triển chưa kịp thời. Quá chú trọng vào phát triển các KCN tập trung quy mô lớn, trong khi thực tế đòi hỏi phát triển KCN có quy mô phù hợp Những năm qua, chúng ta chưa chú trọng hình thành các cụm côn nghiệp nhỏ ở địa phương. Các KCN lớn thành lập nhưng hoạt động không hiệu quả, dẫn đến tình trạng các KCN lớn thiếu vốn đầu tư và thu htú đầu tư hạn chế nên việc xây dựng tiến hành chậm và manh mún, cơ sở hạ tầng không đồng bộ, tỷ lệ lấp kín KCN thấp, trong khi tình trạng ô nhiễm môi trường tại các địa phương do các cơ sở sản xuất thủ công phân tán ngày càng trở nên trầm trọng. Chương III: Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài tại khu công nghiệp - khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ I. Phương hướng mục tiêu của Nhà nước 1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về đầu tư nước ngoài tại khu công nghiệp - khu chế xuất 1.1. Việt Nam với chiến lược phát triển các khu công nghiệp - khu chế xuất Trong quá trình thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đến nay, vai trò và hiệu quả kinh tế quan trọng của việc xây dựng và phát triển các Khu công nghiệp, khu chế xuất đã được Đảng và Nhà nước ta xác định rõ trong các văn kiện quan trọng về đường lối phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, ở một số địa phương như Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc,... đã xây dựng các cụm công nghiệp nhỏ để thu hút đầu tư, hoặc thực hiện việc di chuyển các cơ sở công nghiệp ra khỏi nội đô. Theo số liệu tổng hợp, hiện nay có 124 cụm công nghiệp hoặc khu công nghiệp vừa và nhỏ do các địa phương thành lập trên địa bàn 19 tỉnh, thành phố, với tổng diện tích hơn 6.500 ha. Các cụm công nghiệp và các khu công nghiệp vừa và nhỏ này được thành lập mang tính tự phát, không dựa trên quy hoạch, song chủ yếu tập trung phát triển nghề thủ công, làng nghề truyền thống, công nghiệp địa phương và di dời các cơ sở gây ô nhiễm ra khỏi các khu dân cư. Các khu công nghiệp Việt Nam hiện nay có sức thu hút đầu tư nước ngoài rất lớn, với cơ sở hạ tầng sẵn có và những chính sách ưu đãi nổi trội, cùng cơ chế quản lý đặc biệt, thủ tục đầu tư đơn giản, thuận tiện, thu hút gần 2.500 dự án, với tổng số vốn đầu tư 60.000 tỷ đồng, (10,5 tỷ USD), Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Định, Phú Yên,... là những địa bàn thu hút nhiều doanh nghiệp trong nước đầu tư nước ngoài đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất chủ yếu là các dự án sản xuất công nghiệp và dịch vụ sản xuất, chiếm 21,5% vốn đăng ký của tất cả các doanh nghiệp FDI đã được cấp giấy phép trong cả nước. Nếu chỉ tính riêng các ngành công nghiệp sản xuất (trừ dầu khí, bất động sản, dịch vụ) thì tỷ trọng này khoảng 40%. Các dự án phần lớn là trong ngành công nghiệp nhẹ, lắp ráp điện tử, công nghiệp thực phẩm có trang thiết bị và trình độ công nghệ ở mức tiên tiến so với trình độ chung của cả nước. Bên cạnh đó, một số khu công nghiệp đã thu hút được những dự án có trình độ công nghệ cao như các Công ty Rorze Robotech ở khu công nghiệp Nomura (Hải Phòng), Fujitsu ở khu công nghiệp Biên Hoà (Đồng Nai), Canon ở khu công nghiệp Thăng Long (Hà Nội). Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng cho phát triển công nghiệp có thị trường tiêu thụ sản phẩm lớn, nên thu hút được nhiều dự án đầu tư nhất với gần 1080 dự án FDI, tổng vốn đầu tư gần 8,6 tỷ USD. Tiếp đó là vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, thu hút 91 dự án với tổng vốn đăng ký 850 triệu USD và 23 dự án đầu tư trong nước với 340 tỷ đồng. Các khu công nghiệp ở Việt Nam đã thu hút trên 37 vạn lao động Việt Nam làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp, chưa kể đến hàng vạn lao động khác trong lĩnh vực xây dựng, cung cấp dịch vụ khu công nghiệp. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 do Ban chấp hành Trung ương Đảng trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu" "Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Quy hoạch phân bổ hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghiệp cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở". Chủ trương này trong thời gian qua đã được các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta bám sát thực hiện. Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trước hết phải gắn liền phát triển vùng, lãnh thổ và đô thị công nghiệp. Điều đó không chỉ đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế nhanh, mà còn phải đảm bảo sự phân bố hợp lý về sản xuất, vốn đầu tư, dân cư lao động, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, bảo vệ môi trường và an ninh, quốc phòng. Các khu công nghiệp ở các vùng kinh tế trọng điểm cần được phân bố hợp lý về không gian đô thị, gắn kết với quy hoạch phát triển các chuỗi đô thị. Riêng 2 thành phố lớn là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 2 trung tâm kinh tế quan trọng, do vậy, việc bố trí các khu công nghiệp phải được cân nhắc phù hợp với tốc độ đô thị hoá và tính chất của đô thị đông dân, hiện đại trong tương lai. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu xây dựng mô hình phát triển khu công nghiệp mới như: "toà nhà công nghiệp" đảm bảo tính hợp lý trong việc bố trí việc làm, giảm thiểu hiện tượng di chuyển lao động con lắc, gây áp lực lớn đến cơ sở hạ tầng đô thị đông dân sau này. Đối với nông thôn, trung du miền núi, các khu công nghiệp cần được phát triển với quy  mô vừa và nhỏ, phù hợp với khả năng riêng về đầu tư cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư theo hướng cung cấp dịch vụ cần thiết cho phát triển nông nghiệp và hàng hoá tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu của địa phương, cùng với việc phát triển vùng nguyên liệu. Chiến lược phát triển các khu công nghiệp đồng thời gợi ý, khuyến khích các vùng, địa phương có tiềm năng phát triển công nghiệp, nhưng điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, thì nên coi việc phát triển các khu công nghiệp như một trong những biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, từmg bước giải quyết sự chênh lệch phát triển giữa các vùng và nâng cao chiến lược sống cho người dân. Chiến lược phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian tới cần xác định những bước đi phù hợp trong xây dựng và phát triển khu công nghiệp, phù hợp với từng thời kỳ, từng khu vực có nhiều lợi thế, xây dựng quy hoạch cụ thể và có kế hoạch đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hôi cho phát triển khu công nghiệp, đô thị công nghiệp. Một trong những sách lược trọng tâm để mở rộng, tăng cường hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian tới là tăng cường thu hút đầu tư bằng nhiều biện pháp. Sự thành công của các khu công nghiệp, khu chế xuất cho đến nay được đánh giá trên cơ sở số lượng dự án đầu tư, số vốn đầu tư thu hút, số việc làm tạo ra, doanh số, giá trị gia tăng, chuyển giao công nghệ, tác động lan toả đối với từng vùng, lãnh thổ... Trong đó, thu hút đầu tư là nhân tố khởi đầu và có tính chất quyết định. Cần hướng các dự án sản xuất công nghiệp trừ những dự án có yêu cầu đặc biệt về môi trường và nguồn nguyên liệu đầu tư vào khu công nghiệp đã được thành lập. 1.2. Mục tiêu, triển vọng phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN tại vùng KTTĐ Bắc Bộ đến 2010 Mục tiêu phát triển chính của các KCN là tạo đà cho tăng trưởng công nghiệp, tạo nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Phát triển các KCN cũng để thúc đẩy các cơ sở sản xuất dịch vụ cùng phát triển, làm cơ sở cho việc phát triển các khu đô thị, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc phát triển các KCN thời gian tới hằm vào các mục tiêu cơ bản là: Hình thành hệ thống các KCN vừa và nhỏ tạo điều kiện phát triển khu vực nông thôn; Nâng cao tỷ lệ lấp đầy các KCN, phấn đầu đến 2010 về cơ bản lấp đầy diện tích các KCN đã được thành lập; thành lập mới và mở rộng một cách có chọn lọc các KCN tập trung trên các vùng lãnh thổ, các địa phương với tổng diện tích tăng thêm khoảng 5.000 km2. Tăng tỷ lệ đóng góp của các KCN vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp từ mức 26% hiện nay lên khoảng 35% vào năm 2010. Căn cứ tình hình thực tế, dự báo về tình hình thực hiện và triển vọng thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài vào các KCN như sau: Triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và KCN, KCX tại vùng KTTĐ Bắc Bộ nói riêng từ nay đến 2010, là tương đối sáng sủa. Đối với đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp thống nhất 2005 tiếp tục phát huy hiệu quả và Luật đầu tư chung 2006 được đưa vào áp dụng trong thực tiễn, được đánh gía là có tiềm năng to lớn. Đó là chưa kể nguồn kiều hối với mức tăng trưởng bình quân kỷ lục 22% - giai đoạn từ 2001-2004. Theo dự báo, những lĩnh vực có triển vọng hơn trong việc thu hút đầu tư vào các KCN trong 5 năm tới sẽ là ngành công nghiệp năng lượng (điện, than và dầu khí); tiếp đến là công nghiệp ô tô. Công nghiệp dệt may, da giày cũng có tiềm năng lớn, song cần tăng tốc đầu tư để tăng tỷ lệ sản xuất nguyên, phụ liệu trong nước phục vụ cho phát triển. Cơ khí đóng tàu, sản xuất máy móc, thiết bị điện tử, thiết bị thông tin, phần mềm và vật liệu xây dựng cũng là những lĩnh vực kinh tế hứa hẹn, nếu có chính sách khuyến khích đầu tư đúng mức. Trong năm năm tới, thu hút ĐTTTNN mới và mở rộng tăng vốn dự kiên đạt khoảng 5 tỷ USD ( trong đó thu hút mới khoảng 600 dự án) với đặc điểm là sẽ tăng trong giai đoạn từ 2005-2007 phù hợp với xu thế phục hồi kinh tế thế giới, những cải cách về môi trường ĐTNN của Việt Nam, những ngành và lĩnh vực có khả năng thu hút thêm vốn đầu tư và việc gia nhập WTO của Việt Nam. Thu hút đầu tư trong nước dự kiến đạt 2 tỷ USD ( trong đó thu hút mới khoảng 1000 dự án) với đặc điểm là sẽ tăng trong giai đoạn từ 2005-2008 phù hợp với những cải cách về môi trường đầu tư và kinh doanh trong nước trong thời gian qua, một số dự án trong nước lớn có khả năng triển khai như khí hoá lỏng, điện, phân đạm, thép. Dự kiến trong thời kỳ 2009-2010 sẽ giảm xuống khi các dự án lớn đã triển khai. 2.Một số giải pháp cơ bản thu hút ĐTTTNN vào các KCN tới năm 2010 2.1. Một số giải pháp đề xuất nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài tại khu công nghiệp - khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 2.2.1. Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư   * Đẩy mạnh vận động và xúc tiến đầu tư vào các KCN. Đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp vận động, xúc tiếng đầu tư; chú trọng xúc tiến đầu tư theo lĩnh vực, địa bàn với đối tác cụ thể, chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia và các doanh nghiệp vừa, nhỏ. Xây dựng Quỹ xúc tiếng đầu tư trên cơ sở ngân sách của Nhà nước, cấp hỗ trợ kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp. Giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đang xây dựng hoặc đang sản xuất kinh doanh Thực hiện thống nhất, chủ động công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào KCN với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các bộ, ngành và chính quyền địa phương. Cần thành lập một cơ quan chuyên môn làm công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào KCN và các khu vực khác. Nhà nước cần dành kinh phí thoả đáng từ ngân sách nhà nước cho công tác vạn động xúc tiến đầu tư; tổ chức công bố rộng rãi quy hoạch chi tiết, danh mục các dự án ưu tiên đầu tư và các chính sách khuyến khích đầu tư vào KCN để các nhà đầu tư và người dân được biết; cung cấp miễn phí các thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đầu tư; hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân có công thu hút các nhà đầu tư vào KCN. Tăng cường bộ phận xúc tiến đầu tư tại các cơ quan đại diện của nước ta ở một số nước và địa bàn trọng điểm để chủ động vận động, xúc tiến đầu tư với từng dự án, từng tập đoàn, từng nhà đầu tư có tiềm năng, nhất là các tập đoàn xuyên quốc gia. Cần tiến hành tiếp thị các KCN của nước ta ở những nơi là xuất phất điểm chính của đầu tư trong nước và ngoài nước (FDI) như các tỉnh thành phố lớn trong nước và ngoài nước như Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Singapore. Học tập các nước trong khu vực, tăng cường quảng bá điểm khác biệt của KCN mình, phát huy “giá trị cộng thêm” để thu hút đầu tư. Giá cho thuê đất rẻ ở ĐBSCL không phải là yếu tố quyết định trong việc thu hút đầu tư (giá cho thuê đất thấp hơn giá thành đầu tư xây dựng hạ tầng của ha đất công nghiệp). Xây dựng KCN trong khu vực nghèo (vùng noong nghiệp ĐBSCL) rẻ hơn trong khu vực phát triển (TP. HCM, Hà Nội), có chi phí lao động, đất đai, vật liệu thấp hơn, ngược lại, có chi phí hạ tầng cơ sở và vận chuyển cao hơn, do đó các nhà đầu tư thường hướng đến khu vực phát triển hơn. Để tăng cường sự đầu tư của các nhà đầu tư trong nước, nhằm tạo sự phát triển bền vững, lâu dài, việc ra đời của các tập đoàn kinh doanh trong nước, nhằm tạo sự phát triển bền vững, lâu dài, việc ra đời của các tập đoàn kinh doanh trong nước là một bước tất nhiên trên con đường phát triển kinh tế. Chính những tập đoàn này sẽ gắn bó chặt chẽ với nền kinh tế nước nhà và là thước đo của nền kinh tế. Lực lượng này sẽ đóng vai trò “vùng đệm” trước những dao động kinh tế thế giới như cuộc khủng hoảng kinh tế hồi năm 1997, góp phần ổn định việc đầu tư kinh doanh trong nước. * Áp dụng các biện pháp tăng sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư Vận dụng kinh nghiệm của một số nước ASEAN, để môi trường đầu tư ở nước ta được hấp dẫn hơn, ngoài những khu kinh tế mở hay khu kinh tế (với diện tích rộng như Chu Lai và Dung Quất), Việt Nam có thể thiết lập các khu mậu dịch tự do hay các khu tự do trong một KCN. Những người sống trong khu mậu dịch tự do trong một KCN có thể được mua hàng nhập khẩu miễn thuế. Khu tự do dành riêng cho hàng hoá và nguyên vật liệu. Nhà nước có thể thu tiền kho chứa cũng như các phí liên qua trong việc chuyên chở, các thủ tục giấy tờ. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách thu hút đầu tư, chính sách thu hút FDI: giảm giá đầu vào nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất, chi phí lưu thông hàng hoá, mà hiện nay Việt Nam cao hơn hẳn các nước trong khu vực, chính sách thuế thu nhập của người nước ngoài * Vấn đề phát triển các KCN theo quy hoạch Có 2 quan điểm trong phát triển các KCN: quan điểm thứ nhất cho rằng tăng thu hút đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI về mặt số lượng, bất kể vào lĩnh vực nào, quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư vào KCN; quan điểm thứ 2 cho rằng đã đến lức tăng thu hút đầu tư tư trong nước và FDI về chất lượng theo một quy hoạch, các KCN phải có tính chuyên và cơ cấu hợp lý phù hợp với khả năng và lợi thế của mình. Quan điểm thứ nhất hiện nay là phổ biến, hầu như các KCN đều tập trung mọi cố gắng để thu hút đầu tư FDI vào địa bàn của mình bất kể ngành nghề nào, sản phẩm nào. Điều này là không hợp lý. Việc phát triển các KCN, KCX cần phải theo một quy hoạch thống nhất, có chính sách ưu tiên phát triển ngàng trong từng KCN dựa trên lợi thế của từng khu, thực hiện sự phân công hợp tác giữa các KCN các tỉnh, các địa phương gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Do những tác động quan trọng cũng như vai trò chiến lược của các KCN trong sự phát triển kinh tế cần phải có một tầm nhìn, một kế hoạch dài hạn cho sự xây dựng các KCN và đưa ra những chính sách thích hợp cho các loại hình công nghiệp cần khuyến khích đầu tư vào các khu này để tạo ra sự liên kết giữa các KCN và các doanh nghiệp KCN, phát sinh ra lực đẩy khôn ngừng khởi động sự phát triển kinh tế nước nhà, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Để cho việc hiện thực của tầm nhìn chiến lược tiến hành tốt đẹp, sự đáp ứng tích cực của người dân, nhất là trong việc đền bù giải toả, cũng là một yếu tố quan trọng. *Quản lý và chính sách phát triển KCN, KCX Chính sách Nhà nước tác động quan trọng đến phát triển các KCN, KCX, cần không ngừng hoàn thiện các chính sách. Đẩy mạnh chuyển từ công tác quản lý hành chính sang công tác dịch vụ theo cơ chế “một cửa” trong quản lý phát triển các KCN. Cải cách hành chính và côn nghệ thông tin trong quản lý. Đảm bảo quản lý thống nhất các KCN. Ngoài ra cần từ bỏ quan niệm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiểm, như các nhà đầu tư nước ngoài thường nói Việt Nam chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất. Học tập kinh nghiệm Trung Quốc là trước cho, sau lấy có tính làm ăn lâu dài trong thu hút đầu tư FDI vào KCN. Xác định các mặt bằng chính sách chung cho các KCN, KCX trong cả nước, tránh tình trạng các địa phương “cạnh tranh” lẫn nhau, đưa ra các chính sách ưu đãi, chính sách thuế thường là vượt khung, trái với Luật đầu tư chung. Đồng thời, ban hành các chính sách ưu đãi các nhà đầu tư trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN, KCX: giá thuê đất, thuế, hỗ trợ vốn, lãi suất ưu đãi. Tiến tới giảm sự phân biệt trong các chính sách ưu đãi giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt hỗ trợ tài chính để thu hút các doanh nghiệp vào KCN. Áp dụng cho các doanh nghiệp trong KCN xuất khẩu vào thị trường trong nước được hưởng thuế suất CEPT để có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước ASEAN xuất vào Việt Nam. Các chính sách áp dụng cần đồng bộ và thiết thực, có tác dụng lâu dài, Sự thống nhất giữa các bộ, ngành và sự thực thi của chính quyền địa phương là rất quan trọng nhằm tránh sự chồng chéo và chậm trễ gây cản trở cho doanh nghiệp * Xây dựng chuẩn mực và cơ cấu lại các KCN. Xây dựng chất lượng KCN ngang tầm khu vực và quốc tế, xác định tiêu chuẩn các xí nghiệp đầu tư vào KCN về quy mô, ngành nghề và công nghệ. Xác định tiêu chuẩn các xí nghiệp đầu tư vào KCN về quy mô, ngành nghề, công nghệ để tạo được hiệu quả đầu tư cao. Đối với một số KCN cần định hướng phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp năng, các ngành có hàm lượng khoa học và vốn cao. Phát triển các KCN phải kết hợp chặt chẽ với quy hoạch và quá trình đô thị hoá, phân bố dân cư, theo hướng hình thành mạng lưới đô thị hài hoà, rộng thoáng, kiên quyết tránh tập trung xây dựng các đô thị quá lớn tạo ra sự quá tải về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở đô thị. Không hể cứ mỗi KCN, KCX đều xây dựng các cụm dân cư riêng rẽ, điều đó đưa đến phá vỡi quy hoạch đô thị hoá, cũng như làm tăng chi phí xây dựng KCN, giảm hiệu quả các KCN, KCX. * Phát triển đồng bộ các thể loại tập trung công nghiệp Xây dựng cả 3 thể loại : KCN tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề công nghiệp. Không nên xây dựng quá nhiều KCN trong một thời gian, cần chú trọng phát triển các làng nghề và các cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Cụm công nghiệp vừa và nhỏ là một mô hình tập trung công nghiệp thường hình thành ở các huyện thị vùng nông thôn tập hợp lại theo cùng ngành nghề, mô hình thích hợp để thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển công nghiệp nông thôn. Các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, ngoài việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho thuê đất, hỗ trợ hoàn toàn chi phí giải phóng mặt bằng, các công trình ngoài hàng rào và các công trình công cộng trong cụm, cần thực hiện chương trình xây dựng nhà xưởng tiêu chuẩn bán trả chậm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn ít, doanh nghiệp được trả chậm tới 10 năm. * Cải thiện cơ sở hạ tầng tại các KCN. Phương hướng của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (7 tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Quảng Ninh) về kết cấu hạ tầng kinh tế, đáng chú ý, sẽ phát triển mới các tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (lệch về phía Nam so với QL5 hiện tại), Hà Nội - Hạ Long-Móng Cái, Hà Nội - Ninh Bình, Hoà Lạc - Trung Hà, Hà Nội - Việt Trì, Hà Nội - Thái Nguyên. Xây dựng mới tuyến đường sắt từ Yên Viên (huyện Gia Lâm - Hà Nội) đến Phả Lại (Hải Dương), TP Hạ Long và cảng Cái Lân (Quảng Ninh), đường sắt nối TP Hải Phòng với cảng Đình Vũ. Nâng cấp tuyến đường sắt hiện có, đầu tiên là tuyến Hà Nội - Hải Phòng làm tuyến đường sắt 2 chiều đầu tiên trong cả nước, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng sân bay quốc tế mới tại Miếu Môn (Hà Tây). Nâng công suất sân bay Nội Bài lên 6 triệu hành khách/năm vào năm 2005, từ 8-10 triệu vào năm 2010 Cơ sở hạ tầng đảm bảo là một trong những điều kiện quan trọng nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào các KCN. Vì vậy cần đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật dịch vụ và xã hội trong KCN, đảm bảo tính đồng bộ, thuận tiện thoả mãn khách hàng. Cần lưu ý để kết quả hoạt động và phát triển trong KCN không được gây hệ quả tiêu cực cho khu vực về giao thông, môi trường và tệ nạn xã hội * Sử dụng đất hiệu quả và giảm bớt tình trạng ô nhiễm môi trường ở các KCN. Cần tập trung lấp đầy và phát triển hiệu quả các KCN đã có, khi nào các KCN lấp đầy 60-70% diện tích thì mới cho phép triển khai các KCN tiếp theo. Để tránh ô nhiễm môi trường, những dự án đầu tư vào KCN, KCX phải hoàn tất các hạng mục công trình xử lí chất thải mới được phép hoạt động. Khi cho thuê được 50% diện tích thì phải tiến hành xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung. Cần có biện pháp phối hợp giữa các KCN và các địa phương trong bảo vệ môi trường, tránh gây ô nhiễm cho nhauhh 2.2.2 Giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài - Một là, nâng cao chất lượng quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài làm cơ sở thực hiện chương trình vận động đầu tư. Để tăng cường tinh minh bạch, ổn định và có thể dự đoán trước được môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc lực chọn cơ hội đầu tư, cần thực hiện đúng quy định của Nghị định 24/2000/NĐ-CP, theo đó Danh mục dự án gọi vốn ĐTNN vào KCN khi được công bố thì được coi là đã thống nhất về chủ trương và phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ. Để đảm bảo tính khả thi của quy định này, Danh mục phải được xây dựng phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH trong từng thời kỳ, đồng thời phải tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của nhà đầu tư. Những thông tin về mục tiêu, địa điểm, hình thức, đối tác thực hiện dự án..vv trong Danh mục phải có độ chính xác và tin cậy cao. - Hai là, đổi mới, đa dạng hoá các phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư. Thực hiện các chương trình vận động trực tiếp đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác cụ thể theo hướng: tiếp xúc trực tiếp ở các cấp khác nhau (kể cả Chính phủ, Nhà nước), với các công ty, các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công ty trực thuộc và hoặc có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào KCN; mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tài chính, các công ty tư vấn, xúc tiến ĐTNN.. vv để phối hợp vận động các khách hàng của họ đầu tư vào Việt Nam; chuẩn bị thông tin chi tiết về một số dự án có tính khả thi cao để đưa ra giới thiệu với các nhà đầu tư có tiềm năng nhân dịp các chuyến thăm của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chính phủ đi các nước. Kết hợp vận động đầu tư trong các dịp tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, triển lãm, hội chợ; nâng cao hiệu quả hoạt động vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các cơ quan, hãng thông tấn, báo chí, truyền hình trong và ngoài nước để tăng tầng suất thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư vào KCN; kịp thời chuẩn xác thông tin, khắc phục tình trạng đưa tin sai hoặc cố tình bóp méo sự thật về KCN ở Việt Nam; duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với với cộng đồng các nhà đầu tư, đặc biệt là trong khuôn khổ Diễn dàn doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp có vốn ĐTNN.. nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp, coi đó là giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư mới; tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước về kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam. Kịp thời khen thưởng các cá nhân, doanh nghiệp có đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển KCN ở Việt Nam. - Ba là, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư. Để thực hiện có hiệu quả chủ trương mở rộng, đa phương hoá đối tác đầu tư, cần tổ chức nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thực trạng và xu hướng đầu tư của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia từ các nước và khu vực quan trọng như EU, Nhật Bản, Hoa kỳ.. vv. Mặt khác, cần nghiên cứu tình hình, xu hướng ĐTNN trên thế giới, kinh nghiệm thu hút đầu tư của một nước trong khu vực, đặc biệt là các cơ chế pháp lý song phương và đa phương điều chỉnh quan hệ hợp tác đầu tư quốc tế mà Việt Nam đã và đang trong quá trình tham gia. Đây là chương trình nghiên cứu quan trọng, không chỉ phục vụ thiết thực cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư mà còn tạo điều kiện cho việc xây dựng và triển khai thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư. - Bốn là, tăng cường hợp tác song phương và đa phương vế xúc tiến đầu tư. Sửa đổi Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã ký với Hàn Quốc theo những nguyên tắc về đối xử đã thoả thuận với Hoa Kỳ, xem xét áp dụng nguyên tắc đối xử nói trên đối với các nhà đầu tư EU. Tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư song phương đã được thiết lập trong thời gian qua với JICA và JETRO (Nhật Bản), Trung tâm xúc tiến đầu tư và du lịch ASEAN (Nhật Bản), OPIC (Hoa Kỳ), GTZ (Đức).. nhằm tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức này trong việc thực hiện các chương trình vận động đầu tư trực tiếp với từng đối tác, lĩnh vực cụ thể. Nghiên cứu thực trạng và xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các công ty đa quốc gia, hỗ trợ đào tạo về kỹ thuật xúc tiến đầu tư..vv. Nối lại quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các cơ quan Chính phủ ở các nước trong khu vực như Văn phòng Hội đồng đầu tư Thái Lan (OBOI), Cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA), Hội đồng phát triển kinh tế Singapore (EDB). Tham gia tích cực và chủ động hơn nữa vào các chương trình xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn khu vực theo hướng sau: xây dựng và cập nhật thường xuyên các chương trình hành động quốc gia về tự do hoá, thuận lợi hoá và xúc tiến đầu tư mà Việt Nam đã cam kết trong khuôn khổ ASEAN, APEC và ASEM; tham gia tích cực vào chương trình hợp tác và tham vấn giữa các cơ quan quản lý đầu tư của các nước thành viên, đồng thời tăng cường đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, diễn đàn quốc tế khác để xác định các rào cản đối với đầu tư và kiến nghị các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư của khu vực nói chung và từng nước thành viên nói riêng; duy trì, mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các tổ chức quốc tế như WB, IFC, FIAS, MIGA, ESCAP theo chương trình đã thoả thuận. - Năm là, nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư. Khẩn trương xây dựng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam, đồng thời kết nối mạng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam với trang Web của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh, cũng như trang Web của các Công ty phát triển hạ tầng KCN của cả nước hình thành hệ thống mạng thông tin chung về KCN của Việt Nam. - Sáu là, bố trí ngân sách phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư. Nhà nước cần dành kinh phí thoả đáng từ ngân sách Nhà nước cho công tác này, không chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN hoặc bên nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng KCN. . Một số kiến nghị nhằm phát huy tác động tràn của ĐTTTNN tại KCN, KCX vùng KTTĐ Bắc Bộ Để tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển của các KCN, tăng cường thu hút FDI, tận dụng ngoại lực và phát huy nội lực nhằm mục tiêu “công nghiệp hoá rút ngắn”, có thể đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy tác động tràn và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam triệt để khai thác các tác động tích cực đó Đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, tạo thuận lợi thu hút các công ty xuyên quốc gia và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ Như chúng ta đều biết, các công ty lớn trên thế giới, đa quốc gia hay xuyên quốc gia, là những người có tiềm năng tài chính hùng mạnh, có thị phần lớn, nên bản thân họ chắc chắn sẽ sẵn sàng hơn trong việc chuyển giao công nghệ, chia sẻ tri thức. Theo số liệu thống kê, hiện nay trên thế giới có tới 60.000 công ty xuyên quốc gia (TNC) với khoảng 250.000 chi nhánh trên khắp thế giới, chiếm 25% giá trị của nền sản xuất toàn cầu, 65% kim ngạch thương mại quốc tế, 70% đầu tư nước ngoài, 90% công nghệ cao. Các nước có nhiều TNC nhất ( số liệu 1993) lần lượt là : Đức, Nhật Bản, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Mỹ, Pháp, Anh, Canada, Hàn Quốc. 100 TNCs lớn nhất chiếm 1/6 FDI. Trên quy mô toàn cầu, đầu tư trực tiếp của TNCs là 222 tỷ USD(1993) Thực tiễn phát triển ở châu á những năm gần đây cho thấy, ấn Độ là nước đã rất thành công trong lĩnh vực thu hút các công ty lớn đến đầu tư, tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh ở nước mình. Số liệu thống kê chỉ ra rằng, phần lớn dòng vốn FDI chảy vào nước này đều từ các TNC lớn trên thế giới. Tính đến năm 2005, hơn 100 trong số 500 công ty lớn nhất thế giới (thuộc nhóm Fortune 500) đã có mặt tại ấn Độ, trong khi con số này ở Trung Quốc chỉ là 33. Đối với Việt Nam, việc công ty Intel - nhà sản xuất hàng đầu thế giới về chip điện tử - đầu năm 2006 đã triển khai dự án trị giá 605 triệu USD tại Khu công nghệ cao Tp. Hồ Chí Minh là một tín hiệu tốt đẹp; hy vọng sẽ mở ra nhiều triển vọng thu hút các nhà đầu tư lớn với các dự án công nghệ cao. Bên cạnh những biện pháp mang tính ưu đãi, thì yếu tố rất quan trọng để thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư lớn chính là sự phát triển mạnh, hiệu quả và bền vững của ngành công nghiệp phụ trợ trong nước. ở đây có vai trò rất lớn của các chính sách của Nhà nước, bởi thông thường các công ty nước ngoài có thể không dễ nhận biết được các nhà cung ứng tiềm tàng trong nước hoặc họ cảm thấy quá phức tạp, thậm chí tốn kém để liên hệ và làm việc với những người này. Mặt khác, họ cũng có thể ngập ngừng trong việc đầu tư nhằm xây dựng các năng lực địa phương bởi năng lực hiện có là quá thấp so với mức yêu cầu của họ hoặc đơn giản là các nhà cung ứng trong nước không có điều kiện tiếp cận với công nghệ hoặc nguồn lực tài chính cần thiết để có thể đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp FDI. Trong bối cảnh đó, Chính phủ cần áp dụng các biện pháp nhằm khuyến khích và tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Những biện pháp như vậy có thể rất đa dạng, ví dụ như: (i) Thúc đẩy thương mại và đầu tư; (ii) Hỗ trợ việc tạo ra và làm sâu sắc các mối liên kết; (iii) Đào tạo nguồn nhân lực; và (iv) Trực tiếp tài trợ. 2.3.2. Nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam Để phát huy tác động tích cực của KCN và các doanh nghiệp FDI về mặt đổi mới công nghệ, bản thân các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng cho mình một “năng lực hấp thu” đủ mạnh. Ngoài những yếu tố phụ khác, năng lực này thể hiện tập trung ở trình độ phát triển nguồn nhân lực; mức độ trang bị máy móc, thiết bị hiện đại (tất nhiên là cả tiềm lực tài chính) và năng lực quản lý công nghệ của doanh nghiệp. Đây là những yếu tố mà doanh nghiệp Việt Nam còn bộc lộ những “lỗ hổng” không dễ khỏa lấp trong một thời gian ngắn. Với quyết tâm từ phía Nhà nước, thể hiện trong việc triển khai “Đề án Phát triển thị trường công nghệ” vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2005, với nỗ lực từ phía cộng đồng doanh nghiệp, cùng với sự hỗ trợ của quốc tế, chúng ta có thể hy vọng sẽ sớm nâng cao được năng lực này. 2.3.3. Tăng cường công tác thông tin và dự báo kinh tế hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Nó thể hiện trên nhiều khía cạnh, dưới nhiều góc độ và được đo lường ở hai cấp độ: từng sản phẩm và toàn doanh nghiệp. ở cấp độ sản phẩm, đó có thể là các yếu tố: giá thành, chất lượng, mẫu mã, thị phần, mức độ đáp ứng thị hiếu, hiệu quả hoạt động quảng cáo, tiếp thị,... Còn riêng ở cấp độ toàn doanh nghiệp, đó là những yếu tố rất quan trọng như: thương hiệu, uy tín và đặc biệt là chất lượng và hiệu quả của công tác quản trị doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, cần làm rất nhiều việc để bảo đảm và từng bước nâng cao các yếu tố liệt kê ở trên, nhưng có lẽ bao trùm lên và liên quan đến tất cả các yếu tố là cần nhanh chóng tăng cường công tác thông tin và dự báo kinh tế và áp dụng những thông tin, dự báo đó một cách khôn ngoan, có chọn lọc và thực sự hiệu quả. Muốn bảo đảm và tăng cường các yếu tố tạo thành năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần và phải biết tìm kiếm, khai thác nhiều loại thông tin. Điều đầu tiên là cần nhanh chóng mở rộng việc khai thác Internet tại các ban quản lý và các doanh nghiệp trong KCN. Theo quan sát của chúng tôi, Ban Quản lý Hepza của Tp. Hồ Chí Minh đã thành lập Trung tâm Thông tin để chủ động thu thập và cung cấp thông tin cho các dối tượng. Đây là một mô hình tốt để phát triển và sớm hình thành mạng thông tin nội bộ kết nối các Ban Quản lý trong cả nước để cùng nhau chia sẻ thông tin. Hiện nay, trong khuôn khổ Chương trình quốc gia về Công nghệ Thông tin, đang từng bước xây dựng hạ tầng kỹ thuật kết nối mạng trong cả nước. Vì thế, không cần thiết xây dựng mạng riêng cho lĩnh vực KCN, mà nên sử dụng công nghệ Internet để kết nối và triển khai thông tin Đồng thời, cần mở rộng hợp tác với các tổ chức nhà nước có chức năng về thông tin và dự báo, như Trung tâm Thông tin Tư liệu Khoa học – Công nghệ Quốc gia, Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế xã hội Quốc gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4890.doc
Tài liệu liên quan