Sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước

TÓM TẮT : LỜI NÓI ĐẦU3 CHƯƠNG I : 6 NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG (1986) CHƯƠNG II: 11 ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ VII CỦA ĐẢNG CHƯƠNG III : 14 TỔNG KẾT 10 NĂM ĐỔI MỚI – ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ VIII CỦA ĐẢNG CHƯƠNG IV :17 TỔNG KẾT 15 NĂM ĐỔI MỚI – ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ IX CỦA ĐẢNG CHƯƠNG 5 :21 PHƯƠNG HƯỚNG , NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TỂ - XÃ HỘI TRONG ĐẠI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ X CỦA ĐẢNG KẾT LUẬN 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO 27 Lời mở đầu Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh; dân tộc Việt Nam đã làm nên những chiến công hiển hách và những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử cũng như thời đại, từ thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tới chiến thắng Điện biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động đại cầu, tới chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhân tố tất yếu trong mọi chiến thắng của dân tộc ta. Ngày nay, khi dân tộc ta đang từng bước tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước một cách toàn diện, vai trò của Đảng càng trở nên quan trọng hơn; điều đó đã được minh chứng qua những biến đổi kì diệu của đất nước ta trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước ta bước ra khỏi thời kì lạc hậu kém phát triển, đưa nước ta bước vào một thời kì phát triển mới, tiến những bước dài trong thời kì quá độ đi lên Chủ nghĩa Xã hội. Đó chính là điều mà chúng em sẽ trình bày qua bài tiểu luận này.

doc26 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 5933 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế phát triển cân đối và tăng trưởng ổn định. Ở mỗi giai đoạn, mỗi chặng đường khác nhau thì vị trí của công nghiệp và nông nghiệp cũng khác nhau, vì vậy mà trong giai đoạn hiện nay, Đảng chủ trương tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước tiến lên nền sản xuất lớn Xã hội Chủ nghĩa. Yêu cầu đặt ra là: “tăng nhanh về khối lượng và tỉ suất hàng nông sản kết hợp chuyên môn hóa với phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp” Đối với các ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, báo cáo chính trị tại đại hội cũng chỉ rõ nhiệm vụ của công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp là phải đáp ứng được nhu cầu của người dân về những loại hàng cần thiết để đảm bảo yêu cầu chế biến nông lâm thủy sản và tăng nhanh việc làm hàng gia công xuất khẩu. Đối với công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng là phải “phục vụ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu tiên; rồi dựa trên những kinh nghiêm thực tế chuẩn bị tiền đề cho sự phát triến kinh tế trong chặng đường tiếp theo”; cũng trên cơ sở định hướng đó, đại hội cũng khẳng định đường lối ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng như dầu khí, điện đồng thời cũng phải chú trọng cải tạo màng lưới giao thông vận tải: “ưu tiên giao thông vận tải đường thủy, tăng tỷ trọng vận tải đường săt, sắp xếp hợp lý vận tải đường bộ, phát triển đường không”, bên cạnh đó cũng cần chú trọng việc phát triển màng lưới giao thông nông thôn thông qua việc kết hợp giữa người dân, nhà nước và các tổ chức kinh tế tập thể khác. Đồng thời trong báo cáo; đại hội cũng chỉ ra tầm quan trọng của các ngành kinh tế dịch vụ. Bởi trong nền kinh tế không thể thiếu đi các ngành kinh tế này. Tuy nhiên trong thực tế, tỷ trọng của ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nước ta chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Đại hội đã nêu ra cần phải đẩy mạnh việc phát triển các ngành như sản xuất hàng tiêu dùng; buôn bán nhỏ và vừa, phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Tựu chung lại, sự đổi mới của cơ cấu kinh tế là nhằm hướng tới thực hiện tốt kế hoạch 5 năm trong tương lai gần và ba mục tiêu – ba chương trình trọng điểm về: Lương thực thực phẩm Sản xuất hàng tiêu dùng Đẩy mạnh xuất khẩu Những định hướng trong việc đổi mới cơ chế quản lý Bên cạnh công tác đổi mới cơ cấu kinh tế; Đại hội còn đưa ra quyết định mới về cải tạo Xã hội Chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa nhất thiết phải tuân theo những quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định những bước đi và hình thức thích hợp; từ đó đại hội khẳng định “ đẩy mạnh cải tạo Xã hội Chủ nghĩa là thường xuyên, liên tục trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội…” Ngoài việc phát huy nội lực từ kinh tế trong nước Đảng ta còn chủ trương đẩy mạnh, mở rộng hiệu quả của kinh tế đối ngoại. Nhiệm vụ ổn định và phát triển của kinh tế trong chặng đường đầu tiên của con đường đổi mới toàn diện này nhanh hay chậm phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác kinh tế đối ngoại. Đại hội VI nêu rõ sự cần thiết “ công bố chính sách khuyến khích đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức nhất là đối với các ngành, cơ sơ đòi hòi trình độ kĩ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố luật đầu tư mới cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để kinh doanh.” Để thiết lập cơ chế quản lý mới cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về bộ máy nhà nước. Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính-kinh tế với quản lý theo điạ phương và vùng lãnh thổ. Đại hội VI của Đảng cho rằng để tăng cường sức chiến đấu của Đảng cũng như năng lực tổ chức thực tiễn, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt, đổi mới tư duy mà đặc biệt là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phương cách lãnh đạo và công tác. Tuy nhiên, đổi mới nhưng phải nắm chắc áp dụng hợp lý chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu một cách có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn, khắc phục những quan điểm sai lầm, lỗi thời. Đổi mới tư duy không đồng nghĩa với việc phủ nhận sạch trơn những quan điểm tư duy lý luận sẵn có mà nó là sự phủ nhận mang tính kế thừa; phát huy những mặt đúng đắn trong tư duy đã có đồng thời khắc phục những mặt còn sai lầm hoặc lệch lạc. Đó chính là nhiệm vụ lớn lao của công tác tư tưởng trong sự nghiệp đổi mới. Đồng thời với việc đổi mới đội ngũ cán bộ, phong cách làm việc, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng cũng có yêu cầu tất yếu là cần đổi mới , nâng cao hiệu quả của công tác sinh hoạt tư tưởng trong việc thống nhất tư tưởng tăng cường đoàn kết trong Đảng. Đại hội VI của Đảng đã hoạch định đường lối đỏi mới một cách toàn diện và sâu sắc, triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng toàn dân, thể hiện cho tinh thần trách nhiệm cao của Đảng với dân tộc, với đât nước. Và trên tinh thần của đại hội VI; công cuộc đổi mới đã được triển khai một cách mạnh mẽ. Tuy vậy tình hình đất nước cũng như thế giới trong giai đoạn 1987-1988 có nhiều biến động phức tạp, ảnh hưởng lớn tới đất nước ta. Trong nước, lạm phát vẫn chưa thaoát khỏi tình trạng “ba con số”: 1986-774,7%;1987 398,3%. Đời sống nhân dân khó khăn, tiền lương, trợ cấp xã hội giảm sút mạnh. Công thương nghiệp đình đốn, nông nghiệp không cung ứng đủ nhu cầu trong nước, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi. Quốc tế, sự sụp đỏ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô gây nên những ảnh hưởng không tốt tới tình hình cách mạng đất nước ta. Trước tình hình muôn ngàn khó khăn chồng chất như vậy, Đảng và nhá nước cùng với toàn thể nhân dân càng tỏ rõ bản lĩnh vững vàng; một mặt phân tích rõ những nguyên nhân của các khó khăn như chậm tổng kết thực tiễn để đưa ra những quyết sách hợp lý; nhà nước chậm cụ thể hóa đường lối của Đảng vào thực tiến…đồng thời giữ vững lập trường chính trị; khắc phục khó khăn, từng bước đưa nghị quyết đại hội VI vào thực tiễn. Những thành tựu ban đầu Các hội nghị trung ương khóa VI đã tập trung bàn và quyết định những bước đi quan trọng của sự nghiệp đổi mới. Hội nghị lần 2 ban chấp hành trung ương (4-1987) bàn về vấn đề lưu thông phân phối; các hội nghị tiếp theo cho tới hội nghị 6 (3-1989)đã quyết định những chủ trương chính sách lớn nhằm đẩy mạnh quá trình đổi mới, đặc biệt là về vấn đề đổi mới cơ cấu kinh tế. Nhờ có những quyết sách hợp lý của Đảng mà nền kinh tế đã có những bước chuyển biến tích cực; mức lạm phát giảm xuống nhanh chóng chỉ còn ở mức “hai con số” (67,4%-1990). Công thương nghiệp khởi sắc trở lại; ba chương trình kinh tế trọng điểm đạt được những tiến bộ rõ rệt. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội được cải thiện và phát huy; quốc phòng an ninh được giữ vững; hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi thị trường bị bao vây cô lập; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nhiều tiến bộ. Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội có tiến bộ đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu năm 1986 là 439 triệu rúp và 387 triệu USD nhưng tới năm 1990 đã tăng đáng kể lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu USD. Đã có hai mặt hàng xuất khẩu là gạo và dầu thô. Mức tăng trưởng hàng năm trong giai độan 1986-1990 đạt 3,9%. Đời sống tinh thần của nhân dân được nâng cao. Hệ thông luật pháp được cải thiện mang lại hiệu quả cao trong công tác quản lý. Quả thực,qua thực tế đã chứng minh đường lối lãnh đạo của Đảng là hoàn toàn đúng đắn; và Đảng đã chứng minh vai trò lãnh đạo tất yếu của mình thông qua việc định hướng đổi mới cũng như lãnh đạo nhân dân ta bước những bước đầu tiên trên con đường ấy. Ngay sau khi đại hội VI kêt thúc, Bộ chính trị và ban chấp hành khóa VI đã lập ra ban soạn thảo cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Để phát huy trí tuệ tập thể trong việc chuẩn bị các văn kiện, 3-1990, 5 tiểu ban của trung ương đã được thành lập nhằm lấy ý kiến rống rãi trong toàn bộ các tầng lớp nhân dân. Đó là một quá trình chuẩn bị công phu và kĩ lưỡng dựa trên những cơ sở lý luận đúng đắn kết hợp với những kinh nghiệm thực tiến có được trong giai đoạn 1986-1990 tiến tới Đại hội VII. Chương II: ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VII CỦA ĐẢNG Đánh giá giai đoạn đầu tiên của chặng đường đổi mới Đại hội VII diễn ra từ ngày 24 tới ngày 27-6-1991 tại Hà Nội. Tham dự đại hội có 1176 đại biểu thay mặt cho 2,1 triệu Đảng viên trên toàn quốc. Đại hội diễn ra trong hoàn cảnh mà Liên Xô và các nước Đông Âu đã sụp đổ, do vậy đại hội này mang tính chất quyết đinh vận mệnh đất nước. Nắm vững nguyên tắc và quan điểm đổi mới đã được đề ra từ đại hội VI, Đảng vẫn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng sẽ lãnh đạo toàn dân vượt qua giai đoạn khó khăn này. Sau 5 năm tiến hành nghị quyết đại hội VI, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát huy được truyền thống anh hùng, bản chất cần cù sáng tạo, hoàn thành được những nhiệm vụ cơ bản đã được đề ra trong đại hội VI, đông thời cũng tạo tiền đề thuận lợi cho giai đoạn tiếp theo. Từ thực tiễn thành đã được tổng kết trong báo cáo tại đại hội VII, Đảng ta đã rút ra một số kinh nghiêm: Phải kiên định giữ vững định hướng Xã hội Chủ nghĩa trong quá trình đổi mới Đổi mới toàn diện triệt để theo những bước đi và hình thức thích hợp Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa có sự chi phối của nhà nước. Tiếp tục phát huy sâu rộng nền dân chủ Xã hội Chủ nghĩa nhưng cần xem xét và cân đối, đề ra những bước đi phù hợp với tình hình chính trị thực tiễn xã hội nói chung. Trong quá trình đổi mới cần đề cao công tác dự báo, kịp thời phát hiện và giải quyết những vấn đề nảy sinh ngay từ gốc rễ của nó. Tăng cường tổng kết, rút ra kinh nghiêm thực tiến, kết hợp với hoàn chỉnh lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa Xã hội. Từ đó, đại hội đã đề ra định hướng, cương lĩnh cho những bước đi tiếp theo. Những bước đi tiếp theo của sự nghiệp đổi mới Nhiêm vụ quan trọng của đại hội VII là tập trung trí tuệ thảo luận và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định, phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2008. Cương lĩnh đã khái quát qua quá trình cách mạng Việt Nam và từ đó rút ra bài học: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh cũng trình bày vấn đề quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều khuyết điểm và các biện pháp khắc phục trước tình hình thế giới. Từ kết qủa nghiên cứu lí luận và tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời cũng nêu ra những đặc trưng cơ bản nhất của Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta. Đó là một xã hội: “ - Do nhân dân lao động làm chủ Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng hoàn toàn khỏi áp bức bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Các dân tộc trong nước bình đẳng đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu hảo hợp tác với tất cả các nước trên thế giới.” Ngoài ra cương lĩnh cũng cho rằng “Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường Xã hội Chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.” Đại hội VII của Đảng đã thông qua chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000. Mục tiêu tổng quát năm 2000 là “ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ 21. Đề ra chiến lược về vấn đề cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và các cơ sở lớn, xây dựng những chỉ tiêu dựa trên những căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn của từng lĩnh vực. Sau Đại hội VII, sự tan rã của Liên Xô tác động sâu sắc đến nước ta. Một số Đảng viên cùng nhân dân đã hoài nghi về tiền đồ của chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, nước ta còn bị các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá gây mất ổn định và bạo loạn. Nước ta một lần nữa rơi vào tình trạng hiểm nghèo. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng tổ chức động viên toàn dân và toàn quân tăng cường đoàn kết, nêu cao ý chí tự lực - tự cường, độc lập - sáng tạo, vượt qua thách thức, tiếp tục tiến lên Xã hội Chủ nghĩa. Ngày 25 – 11 – 1991 tới ngày 4 – 12 – 1991, Hội nghị lần II Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII họp và ra nghị quyết về nhiệm vụ và giải pháp ổn định, phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn 1992 – 1995. Dựa trên những quan điểm của Đảng, ngày 15 – 4 – 1992, Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ XI đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp đã thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng và khẳng định điều đó tại điều 4. Ngày 23 – 8 – 1995, Hội nghị lần thứ VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra nghị quyết tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính. Ngoài ra Đảng còn rất chú trọng công tác lý luận, vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện lịch sử mới. Ngày 28 – 3 – 1992, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01-NG/TU về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay. Ngày 29 – 6 – 1992, Hội nghị lần III Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đề ra một số nhiệm vụ đổi mới trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Hội nghị lần IV Ban chấp hành Trung ương Đảng, tháng 1 năm 1993, đã có các nghị quyết và nhiệm vụ văn hóa-văn nghệ, sự nghiệp giáo dục-đào tạo, chăm sóc y tế, bảo vệ sức khỏe nhân dân và chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình và công tác thanh niên trong thời kỳ mới. Trong tiến trình đổi mới, nông nghiệp luôn là ngành kinh tế được Đảng và Nhà nước quan tâm đặt lên hàng đầu. Qua 5 năm đổi mới, nông nghiệp đã đạt được những thành tựu to lớn. Chính vì vậy, Đảng nhấn mạnh “Đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp hướng vào sản xuất hàng hóa kết hợp với chính sách kinh tế nhiều thành phần. Góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế hiện có ở nước ta. Bên cạnh nông nghiệp, công nghiệp cũng được chú trọng, đặc biết là các nghành công nghiệp nặng, xây dựng cơ sở vật chất Xã hội Chủ nghĩa. Đảng dánh giá là “chủ trương phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chính là yêu cầu cấp bách, trọng tâm của thời kỳ mới. Đi đôi với quá trình phát triển kinh tế, Đảng chủ trương đoàn kết dân tộc, tăng cường mặt trận dân tộc thống nhất như tinh thân của Đại hội VII đã đề ra. Đại đoàn kết đan tộc là là đoàn kêt những người trong một đại gia dình các dân tộc Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, giai cấp, tôn giáo, dân tộc,nhằm giữ vững và bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đồng thời cũng là điều kiện tiên quyết để đưa nước ta ra khỏi thời kì lạc hậu tiến lên “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 1991-1995 Từ 1992, vượt qua những thử thách, công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo tiếp tục phát triển toàn diện, vững chắc. Giá trị sản lượng công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ tăng khá nhanh. Lạm phát năm 1992 là 17,5%, giảm xuống một cách nhanh chóng xuống còn 5,2% năm 1993. Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này đạt bình quân 7,2%. Tốc độ tăng trưởng công-nông nghiệp cao. Tính tới năm 1993, nước ta đã hoàn thành các chỉ tiêu về kinh tế xã hội, bảo đảm các yêu cầu về quốc phòng và an ninh. Đồng thời cũng mở rộng quan hệ đối ngoại. Đặc biệt trong những năm 1991-1995, nhờ việc thực hiện cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế và những mục tiêu cụ thể do đại hội VII đề ra, công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5-6,2%). Tỷ trọng, sản lượng công nghiệp tăng cao. Sản xuất nông nghiệp không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu hàng năm 2 triệu tấn. Lạm phát giảm từ 67,4% năm 1991 xuống còn 12,7% năm 1995. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể; trình độ dân trí tăng lên, sự nghiệp giáo dục và đào tạo có những chuyển biến tích cực. An ninh, chính trị, quốc phòng được củng cố và đảm bảo vững chắc; công tác củng cố và xây dựng Đảng đạt được nhiều thành tựu lớn. Về mặt đối ngoại, nước ta đã khôi phục và mở rộng quan hệ hợp tác với Trung Quốc về nhiều mặt; tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị vốn có với Lào, Campuchia; trở thành thành viên ASEAN; củng cố quan hệ với Nga và các nước Đông Âu; bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Chương III: TỔNG KẾT 10 NĂM ĐỔI MỚI – ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VIII CỦA ĐẢNG Tổng kết 10 năm đổi mới – định hướng cho giai đoạn tiếp theo: Với những thành công của 10 năm đổi mới và 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội VII; Đảng đã quyết định tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng từ ngày 28-6-1996 tới 1-7-1996 tại Hà Nội. Tham dự đại hội có 1169 đại biểu cùng nhiều đoàn đại biểu quốc tế. Đại hội có nhiệm vụ tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới đồng thời cũng quyết định mục tiêu, phương hướng, giải pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước đến năm 2000 và 2020, bổ sung sửa đổi điều lệ Đảng. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới một cách toàn diện và 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội VII, đất nước ta đã vượt qua nhiều thử thách cam go, những khoảnh khắc tưởng chừng không vượt qua được; không những vậy nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng còn vươn lên đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn và có ý ngĩa rất quan trọng. Nhiêm vụ được đại hội VII đề ra cho giai đoạn 1991-1995 đã cơ bản hoàn thành. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng tuy nhiên vẫn còn nhiều mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ được đề ra trong thời kì đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tạo tiền đề cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép nước ta bước vào thời kì mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa một cách toàn diện. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ ràng và chắc chắn hơn. Điều đó cho thấy tính đúng đắn trong quyết định đổi mới và phương cách lãnh đạo dổi mới của Đảng. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Đại hội VIII cũng chỉ ra nhiều khuyết điểm thiếu sót cần khắc phục như chưa thực hiện tiết kiệm, đời sống nhân dân còn nghèo, mức sống thấp… Đánh giá chặng đường đổi mới 10 năm đổi mới; đại hội đã nêu ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu: Nắm vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong suốt quá trình đổi mới, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Kiên trì chủ nghĩa Mác – Lenin cùng tư tưởng Hồ Chí Minh . Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị. Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường, tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Tăng trưởng nhanh vè kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái. Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; phát huy sức mạnh dân tộc. Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ va giúp đỡ của nhân dân thế giới; kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ, là công tác then chốt Ngoài ra Đảng còn xác định “Mục tiêu của công nghiệp hóa hiện đại hóa là xây dựng có sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cao, quốc phòng và an ninh vững chắc; dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay tới năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” Đảng chủ trương phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ; nang cao quy mô,chất lượng của công tác giáo dục – đào tạo, đưa chúng lên làm những quốc sách hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới tư duy, nhân lực. Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 1996-2000 Từ giữa năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở châu Á nổ ra, đe dọa gây nên những ảnh hưởng xấu tới kinh tế – xã hội nước ta; điều đó buộc Đáng và nhà nước phải đề ra những chính sách kịp thời để ngăn chặn, ổn định nền kinh tế trong giai đoạn khủng hoảng trầm trọng này. Chính vì thế mà ngay trong thời kì khủng hoảng trầm trọng này, công cuộc cải cách vẫn đạt được những thành tựu đáng kể. Kinh tế tăng trưởng khá; GDP tăng bình quân 6,94%/năm. Nông nghiệp tăng trưởng liên tục, sản lượng lương thực năm sau cao hơn năm trước một triệu tấn; công nghiệp tăng trưởng đều 13,5%/năm về giá trị sản xuất; bộ phận kinh tế dịch vụ khởi sắc, dần chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế… nhìn chung, tới năm 2000, đã chặn được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu đề ra đều đạt hoặc vượt mức kế hoạch đề ra. Cơ sở hạ tầng có nhiều sự đổi thay đáng kể, góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Tình hình chính trị – xã họi về cơ bản được ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường. Các lực lượng vũ trang nhân dân có nhiều cố găng trong công tác bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Cơ cấu của các cơ quan an ninh quân đổi dược đổi mới phù hợp tình thình mới. Quan hệ đối ngoại được mở rộng về nhiều mặt đem lại những kết quả tốt. Tăng cường quan hệ với các nước Xã hội Chủ nghĩa trên thế giới, các nước láng giềng, nhiều tổ chức kinh tế xã hội trên toàn thế giới. Ngoại giao nhân dân được mở rộng và phát triển. Công tác tổ chức và xây dựng Đảng cũng được chú trọng và nâng lên một tầm cao mới; hệ thống chính trị được củng cố đã tiến hành cải cách một bước nền hành chính quốc gia, tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa. Các tổ chức chính trị cũng được đổi mới về nội dung và hình thức hoạt động, mở rộng và nâng cao tính dân chủ, tăng cường quyền làm chủ thực sự của nhân dân trên nhiều lĩnh vực. Những thành tựu của giai đoạn 5 năm 1996-2000 đã tăng cường sức mạnh tổng hợp làm thay đổi bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân; củng cố một cách vững chắc vai trò và vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng đáng kể trong việc điều hành quản lý hành chính; nhờ đó đã phát huy được lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, cần cù sáng tạo về trí tuệ ra sức bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng không chỉ có những thành tựu, việc thực hiện nghị quyết đại hội VII cũng đã bộc lộ nhiều yếu kém, khuyết điểm nghiêm trọng. Nền kinh tế còn tăng trưởng thiếu tính ổn định, bền vững, mức cạnh tranh trên trường quốc tế thấp. Chỉ tiêu phát triển kinh tế giai đoan 1996-2000 là 9-10% chưa đạt. Nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế xã hội nhức nhối yêu cầu phải giải quyết nhanh chóng. Cơ chế hành chính, chính sách có cải cách xong chưa đồng bộ và chưa tạo được động lực mạnh để phát triển. Tình trạng tham nhũng nghiêm trọng của một số lượng không nhỏ những cán bộ cấp cao của nhà nước có chiều hướng gia tăng. Chương IV TỔNG KẾT 15 NĂM ĐỔI MỚI – ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ IX CỦA ĐẢNG Thế kỷ XX qua đi, nước ta bước vào thế kỉ XXI với nhiều thời cơ, thuận lợi xong cũng gặp không ít những khó khăn, nguy hiểm. Đay là thời kỳ có khả năng duy trì, ổn định nền hòa bình hiện tại trên thế giới cũng như trong nước, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống xã hội. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hướng tới mộ nền kinh tế hiện đại. Song đây cũng là thời kỳ gia tăng những nguy cơ khó lường từ các thế lực thù địch, các âm mưu diễn biến hòa bình khó đề phòng. Đánh giá 15 năm đổi mới và thực hiện nghị quyết đại hội VIII Đánh giá giai đoạn 15 năm phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước và nhân dân ta dã đạt được không ít những thành tựu quan trọng. Cơ sở vật chất – kỹ thuật Xã hội Chủ nghĩa được tăng cường. Đất nước còn nhiều tiềm năng về tài nguyên, con người đã và đang được khai thác có hiệu quả. Điều kiện thế giới hòa bình cùng với xu thế hợp tác, đối thoại hơn đối đầu tạo điều kiện cho nước ta tranh thủ ngoại lực củng cố nội lực, làm đà vươn xa cho nền kinh tế. Bên cạnh đó vẫn còn tại những khó khăn nghiêm trọng. Đó là sự tụt hậu của Việt Nam so với nhiều quốc gia và vùng lãnh thỏ trên thế giới cũng như trong khu vực. Sự sai lệch trong định hướng Xã hội Chủ nghĩa; tệ nạn tham nhũng, quan liêu có chiều hướng gia tăng đáng báo động và ngày một nghiêm trọng hơn. Các âm mưu diễn biến hòa bình ngày càng khó đề phòng. Tất cả đều đã được chỉ ra trong nghi quyết đại hội VIII (1994), cho thấy tàm nhìn chiến lược và khả năng dự báo tình hình đã được nâng lên một bước. Trong những khó khăn đã nêu trên, Đảng đã nhận định: “Tình trạng tham những và và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng; gây bất bình, làm giảm lòng tin của nhân dân; nước ta vẫn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, trong khi đó cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nếu chúng ta không nhanh chón vươn lên thì sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế.” (Trích: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại bieru toàn quốc lần thứ IX; NXB CTQG; H; 2001; tr.67) Do vậy, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, khó khăn và phát triển mạnh mẽ trong thời kì mới trở thành vấn dề mang tính sống còn của Đảng. Nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn này là lãnh đạo nhân dân ta; định hướng đường lối cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn 2001-2005; 2001-2010. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Trên cơ sở đánh giá việc thực hiện nghị quyết đại hội VIII vào thực tiễn và nắm bắt tình hình thực tế, định hương phát triển cho giai đoạn tiếp theo, đại họi đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã được tiến hành từ ngày 19 đén 22-4-2001; tham dự đại hội có 1168 đại biểu đại diện cho gần 2,5 triệu Đảng viên trong toàn Đảng. Với tiêu chí và nhiệm vụ nêu trên; báo cáo chính trị tại đại hội đã được thông qua với tiêu đề: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện dại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.” Báo cáo dã trình bày 10 vấn đề trọng yếu: Việt Nam trong thế kỉ XX và triển vọng phát triển trong thế kỉ XXI. Tình hình đất nước 5 năm vừa qua và những bài học kinh nghiệm rút ra sau 15 năm đổi mới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm dà bản sắc dân tộc. Tăng cường quốc phòng và an ninh. Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Đẩy mạnh cải cách tổ chức và phương cách hoạt động của nhà nước; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng phù hợp thời kì mới, nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Từ đó, đại hội đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn 2001-2010 là đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa tạo tiền đề cho tới năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp đồng thời đại hội cũng vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phất triển trong giai doạn 5 năm 2001-2005. Mục tiêu chiến lược được Đảng hoạch định trước là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nang cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Nâng cao nguồn lực con người về cả phẩm chất lẫn tình độ; nâng cao năng lực khoa học – công nghệ; nâng cao cơ sở hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng; thể chế kinh tế kinh tế thị trường có sự chi phối của nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của Việt Nam trên trường quóc tế được nâng cao. Trên cơ sơ đó; đại hội đã đưa ra mục tieu cụ thể là: Đưa GDP năm 2010 gấp đôi năm 2001; ổn định và nâng cao tiềm lực kinh tế của Việt Nam; ổn định nền kinh tế vĩ mô, phát triển ngoại thương, giảm lạm phát… Đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng của khối ngành công nghiệp dịch vụ; tiến tới giảm dần tỷ trọng nông nghiệp; cân đối tỷ lệ lao động giữa các ngành vùng một cách hợp lý. Nâng cao chỉ số phát triển con người của nước ta: giảm tỷ lệ sinh xuống 1,1%; xóa đói giảm nghèo đi đôi với phát triển kinh tế nông thôn; giai quyết, cân đối vấn đề việc làm; phổ cập giáo dục trong toàn quốc, chống mù chữ. Tiếp thu và vận dụng hiệu quả khoa học công nghệ vào đời sống. Không ngừng đổi mới, củng cố kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật, quốc phòng an ninh. Nâng cao vai trò chủ đạo của nhà nước trong nền kinh tế. Phát triển nhanh phải đi đôi với công bằng và tiến bộ xã hội; đồng thời cũng phải gắn bó chặt chẽ với quốc phòng an ninh. Những thành tựu đã đạt được trong gia đoạn 2001-2005 Thứ nhất, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng 7,5%/ năm, đạt mục tiêu đề ra; năm 2005 là năm thứ 25 tăng liên tục, cao hơn kỷ lục 23 năm do Hàn Quốc đạt được vào năm 1997 và chỉ thấp thua kỷ lục 27 năm hiện do CHND Trung Hoa nắm giữ. Ngành nông nghiệp tiếp tục đạt được sự thần kỳ khi chỉ sau mươi năm sản lượng lương thực đã tăng gấp đôi, đã tạo ra sản lượng tương đương với sản lượng của hai châu thổ lớn nhất nước mà ông cha ta phải mất hàng nghìn năm mới tạo ra được. Công nghiệp 15 năm liên tục tăng trưởng hai chữ số - một tốc độ tăng cao, tăng liên tục, tăng trong thời gian dài mà các thời kỳ trước đó chưa bao giờ đạt được. Dịch vụ đã chặn lại được sự sút giảm tỷ trọng trong GDP, bắt đầu từ năm 2005 đã tăng lên. GDP bình quân đầu người năm 2005 tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái đã đạt 638 USD, vượt khá xa so với mức 288 USD của năm 1995 và 402 USD của năm 2000; tính theo sức mua tương đương đã vượt 2.700 USD, cao hơn nhiều so với mức 1.236 USD năm 1995 và 1.996 USD của năm 2000.   Thứ hai, cơ cấu ngành kinh tế đã có bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng thị trường; cơ cấu vùng kinh tế chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng.   Thứ ba, nguồn lực trong và ngoài nước được huy động tích cực, đưa tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP lên 38,4%, chỉ thấp thua tỷ lệ trên 40% của CHND Trung Hoa. Nguồn vốn ngoài quốc doanh đã chiếm gần một phần ba tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài theo số đăng ký mới và bổ sung lên đến trên 60 tỉ USD, thực hiện đạt khoảng 33 tỉ USD; nguồn vốn ODA đạt trên 30 tỉ USD, giải ngân đạt khoảng 16 tỉ USD. Cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường. Thứ tư, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng được cải thiện, vừa tăng tiêu dùng, vừa tăng tích lũy. Thu ngân sách đã 8 năm liền vừa vượt dự toán, vừa tăng cao so với năm trước; tỷ lệ so với GDP đạt trên dưới 22%; bội chi ngân sách vẫn trong vòng kiểm soát dưới 5% GDP. Tỷ giá VND/USD tăng thấp. Cán cân thanh toán liên tục thặng dư. Thứ năm, xuất khẩu tăng nhanh, một tháng bây giờ bằng cả năm từ 1993, một quý bây giờ bằng cả năm 1996. Xuất khẩu bình quân đầu người đạt 390 USD, đã vượt Indonesia. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP đã đạt trên 60%, thuộc loại cao trên thế giới. Tăng trưởng xuất khẩu cao gấp trên 2 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhập siêu bắt đầu giảm và quý I/ 2006 đã xuất siêu. Khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng. Lượng kiều hối tăng mạnh. Thứ sáu, các lĩnh vực xã hội có tiến bộ. Chỉ số phát triển con người (HDI) đã đạt tiến bộ về ba mặt: HDI tăng; xếp hạng về HDI trên thế giới tăng; xếp hạng về HDI cao hơn xếp hạng về GDP. Công tác xóa đói giảm nghèo đã thực hiện được mục tiêu thiên niên kỷ, giảm còn một nửa so với cách đây mười năm. Quy mô giáo dục, đào tạo tăng. Tỷ lệ thất nghiệp giảm... Thứ bảy, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được củng cố, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế- xã hội.   Thứ tám, các kết quả trên càng có ý nghĩa khi đạt được trong điều kiện có nhiều khó khăn ở cả trong nước và quốc tế. Ở trong nước mới chỉ có mấy năm mà một lần dịch SARC, 2 lần dịch cúm, mấy năm thiên tai lớn..., ở ngoài nước thì liên tiếp gặp các hàng rào kỹ thuật, nhất là các vụ kiện bán phá giá mỗi khi quy mô xuất khẩu tăng lên ... Trong khi đó, điểm xuất phát của nền kinh tế còn thấp, hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu, lại thêm có một bộ phận cán bộ hư hỏng. Đây cũng là những lý do làm cho tăng trưởng kinh tế còn ở dưới mức tiềm năng Tất cả đã minh chứng cho đường lối đổi mới đúng dắn của đất nước ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng; vững bước tiến lên trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. CHƯƠNG V PHƯƠNG HƯỚNG , NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TỂ - XÃ HỘI TRONG ĐẠI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ X CỦA ĐẢNG I. Mục tiêu, nhiệm vụ và chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 1. Mục tiêu tổng quát Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. 2. Các nhiệm vụ chủ yếu Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển có thu nhập thấp Chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, thực hiện các nguyên tắc của thị trường, hình thành đồng bộ các loại thị trường và hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm của nước ta. Tích cực, chủ động đẩy nhanh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế. Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức. Tạo chuyển biến mạnh trong việc xây dựng văn hoá, đạo đức và lối sống; kiềm chế tốc độ tăng dân số, nâng cao thể chất và sức khoẻ nhân dân; bảo vệ và cải thiện môi trường. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết việc làm, khuyến khích làm giàu hợp pháp, xoá đói, giảm nghèo, phát triển hệ thống an sinh; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo bước chuyển rõ rệt về cải cách hành chính, ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tăng cường quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị - xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững môi trường hoà bình và ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 3. Các chỉ tiêu định hướng về phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu a) Về kinh tế Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 2,1 lần năm 2000. Trong 5 năm 2006 - 2010, tốc độ tăng trưởng GDP 7,5 - 8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 theo giá hiện hành đạt khoảng 1.050 - 1.100 USD. Cơ cấu ngành trong GDP năm 2010: khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%; công nghiệp và xây dựng 43 - 44%; dịch vụ 40 - 41%. Kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. Tỉ lệ huy động GDP vào ngân sách đạt 21 - 22%. Vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 40% GDP. Mật độ điện thoại đạt 35 máy/100 dân; mật độ Internet đạt 12,6 thuê bao/100 dân. b) Về xã hội Năm 2010, tốc độ phát triển dân số khoảng 1,14%/năm. Lao động nông nghiệp năm 2010 chiếm dưới 50% lao động xã hội. Tạo việc làm cho 8 triệu lao động; tỉ lệ thất nghiệp thành thị dưới 5%. Tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10 - 11% vào năm 2010 Năm 2010, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; giáo dục đại học và cao đẳng đạt 200 sinh viên /10.000 dân; lao động đã qua đào tạo chiếm 40% tổng lao động xã hội. Tỉ lệ bác sĩ đạt 7 người/10.000 dân. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2010 đạt 72 tuổi. Tỉ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 16%o; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống dưới 20%; tỉ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản dưới 60/100.000 trẻ đẻ sống. c) Về môi trường Đưa tỉ lệ che phủ rừng vào năm 2010 lên 42 – 43%. Năm 2010, 95% dân cư thành thị và 75% dân cư ở nông thôn được sử dụng nước sạch. Năm 2010, 100% các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 50% các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường; 100% số đô thị loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải; 80 - 90% chất thải rắn, 100% chất thải y tế được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường. II. Định hướng phát triển ngàynh , lĩnh vực và vùng 1. Về kinh tế Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hoá Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội theo hướng hiện đại Tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ Tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại 2. Về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ: Tạo được chuyển biến cơ bản về phát triển giáo dục và đào tạo Phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ 3. Về văn hoá, xã hội Phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội Kiềm chế tốc độ tăng dân số, chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm và an sinh xã hội Tiếp tục đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân Phát triển thể dục, thể thao 4. Tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên Áp dụng các biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn các hành vi huỷ hoại hoặc gây ô nhiễm môi trường, từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp, cải thiện chất lượng môi trường, đặc biệt tập trung khắc phục ô nhiễm ở các lưu vực sông, các đô thị và khu công nghiệp, các làng nghề, nơi có đông dân cư và nhiều hoạt động kinh tế. Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hoá với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững. Tăng cường quản lý, bảo đảm khai thác tài nguyên hợp lý và tiết kiệm; xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định về phục hồi môi trường các khu khai thác khoáng sản và các hệ sinh thái đã bị xâm phạm, bảo đảm cân bằng sinh thái. Nhà nước tăng cường đầu tư và đổi mới chính sách để thu hút đầu tư của xã hội vào lĩnh vực môi trường; trước hết là các hoạt động thu gom, xử lý và tái chế chất thải. Phát triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường. Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng - thủy văn; chủ động phòng, chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn. 5. Định hướng và chính sách phát triển vùng Bằng chính sách thích hợp tạo điều kiện cho tất cả các vùng trong cả nước phát triển nhanh hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý mỗi vùng và liên vùng; đồng thời, tạo ra sự liên kết giữa các vùng nhằm đem lại hiệu quả cao, phát triển nhanh và ổn định, có sức cạnh tranh; khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính. Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các vùng khó khăn, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bổ sung chính sách, khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh tại các vùng khó khăn. Phát triển mạnh kinh tế biển vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm với những ngành có lợi thế so sánh để đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch biển, đảo; đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu và phát triển các công nghiệp, dịch vụ bổ trợ. Hình thành một số hành lang kinh tế ven biển. Nhanh chóng phát triển kinh tế - xã hội ở các hải đảo gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tập trung xây dựng và phát huy vai trò của thành phố Hà Nội là trung tâm kinh tế lớn đặc biệt của phía Bắc và cả nước; xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm lớn về tài chính, ngân hàng, viễn thông, công nghiệp công nghệ cao, thương mại, du lịch, đào tạo, y tế chất lượng cao của phía Nam và cả nước; tiếp tục đầu tư xây dựng để phát huy vai trò quan trọng của các thành phố biển Hải Phòng, Đà Nẵng; phát huy lợi thế là cố đô và di sản văn hoá thế giới để phát triển thành phố Huế thành một trung tâm lớn về du lịch và dịch vụ; xây dựng thành phố Cần Thơ sớm trở thành trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long. 6. Về kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh theo phương châm: phát triển kinh tế - xã hội là nền tảng để bảo vệ Tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện tốt đường lối đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội củng cố hoà bình, ổn định để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là vùng biển, đảo. Bố trí thế trận quốc phòng, an ninh phù hợp với tình hình mới và kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy các nguồn lực, lồng ghép các chương trình, các dự án để xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo Tiếp tục sắp xếp lại và nâng cao khả năng bảo đảm của công nghiệp quốc phòng; tập trung đầu tư vào những khâu đặc thù phục vụ quốc phòng, an ninh mà công nghiệp dân sinh không có khả năng bảo đảm. Bảo đảm tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của lực lượng vũ trang. Đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật, nghiệp vụ có trình độ công nghệ cao để tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội, khả năng chủ động ứng phó của lực lượng công an trong mọi tình huống. Đầu tư cho khoa học kỹ thuật và công nghệ quốc phòng, an ninh, đồng thời có chính sách thích đáng để động viên tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia phục vụ quốc phòng, an ninh. III. Các chính sách và giải pháp 1- Chính sách phát huy các nguồn lực Thực hiện nhất quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước Tiếp tục đổi mới, tạo động lực phát triển có hiệu quả các loại hình kinh tế tập thể Tiếp tục phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân Thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài Đổi mới chính sách đầu tư 2. Phát triển đồng bộ các loại thị trường và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Phát triển đồng bộ các loại  thị trường Chính sách tài chính, tiền tệ và tín dụng Đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quy hoạch, kế hoạch 3. Đẩy mạnh cải cách hành chính công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội 4. Thực hiện đồng bộ, kiên quyết các giải pháp để phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước KẾT LUẬN Ngày nay vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được cải thiện và nâng cao. Cuối năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO. Và vào ngày 17/10/2007, Việt Nam lần đầu tiên trở thành thành viên của Hội đồng Bảo an (HĐBA) Liên hiệp Quốc, sau 30 năm kể từ khi được kết nạp vào tổ chức toàn cầu này (20.9.1977). Có được những bước tiến thần kì ấy là nhưof có sựu lãnh đạo đúng đắn của Đảng và nhà nước trong thời kì đổi mới; đưa kinh tế – xã hội Việt Nam tiến lên, khởi sắc. Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng chứng tỏ vai trò lãnh đạo, tiên phong của mình trong vai trò của một Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, bên cạnh những điều đã đạt được, công tác xây dựng và tổ chức Đảng phải đảm bảo cho vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng phải thể hiện rõ dân chủ hoá, phát huy sáng tạo đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân. Qua đó vận dụng một cách khéo léo và hợp lý chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng hồ chí minh vào thực tiễn. Qua đó, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta tiến bước đi lên trong thời kì đổi mới. Tài liệu tham khảo: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng – Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng – Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng – Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng – Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Ñảng – Giáo trình lịch sử đảng Cộng sản Việt nam – NXB Chính trị quốc gia - 2006

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc01_tieu_luan_lsd_cong_cuoc_doi_moi_0693.doc