Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera

Mở đầu 1.Tính cấp thiết của đề tài. Chiến lược mở cửa để đưa dần nền kinh tế nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện cách đây hơn 13 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chính sách mở cửa là chủ trương thu hót vốn đầu tư của nước ngoài và đặc biệt quan trọng là chính sách thu hót vốn trực tiếp của nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có vai trò then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam. Thu hót đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phát triển hàng xuất khẩu không chỉ nhằm tăng thêm vốn cho đầu tư phát triển sản xuất mà còn tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nước nhà những máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất ra nhiều mặt hàng có chất lượng cao, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần ổn định nền tài chính tiền tệ quốc gia, thúc đẩy kinh tế phát triển Chính vì vậy, việc xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hót vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 21, một thế kỷ mà tốc độ tăng trưởng kinh tế được đánh giá là nhanh do đang trong tiến trình hội nhập WTO. Đồng thời cũng là nhân tố quan trọng để đưa đất nước ta từ một quốc gia nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước công nghiệp, để đưa chủ trương của Đảng ta xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh sớm trở thành hiện thực. 2.Mục đích của đề tài Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá khái quát và phân tích tổng thể về đặc điểm, xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nghiên cứu thực trạng, xác định tiềm năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói chung và của Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nói riêng. Từ nội dung nghiên cứu về những thuận lợi và khó khăn trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá để rót ra những bài học thực tiễn góp phần nhỏ bé vào công cuộc phát triển hàng xuất khẩu của nước nhà. Qua đây làm sáng tỏ quá trình thu hót có kết quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Chuyên đề phân tích cụ thể môi trường đầu ở nước ta, chủ trương tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước nói chung và xuất khẩu của Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Qua đó nhằm đưa ra những đề xuất phát triển của Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới. 3.Phương pháp nghiên cứu Chuyên đề được xây dựng và trình bày trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó có vận dụng lý thuyết kinh tế học hiện đại về đầu tư và xuất nhập khẩu hàng hoá. Dùng phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê và khái quát hoá đối tượng nghiên cứu để đạt được mục tiêu đề ra. [B] 4.Kết cấu của chuyên đề Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo chuyên đề gồm ba chương: Chương I: Lý luận chung về vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá tại các doanh nghiệp. Chương II: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera. Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera đến 2010.

doc68 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1696 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cáo của Công ty Viglacera năm 2001 nhận định: "Tuy vậy cũng phải thừa nhận là có một số cơ chế chính sách của ta nên đối chiếu với tập quán thương mại và khu vực cũng như thế giới còn có những điều khác biệt khiến cho quá trình đàm phán ra nhập các tổ chức thương mại khu vực vàquốc tế có những mặt hạn chế… 2. Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu đạt được năm KÕt qu¶ ho¹t ®éng xuÊt nhËp khÈu ®¹t ®­îc n¨m 2002 Theo báo cáo của Công ty ngày 26/11/2001 về chương trình kế hoạch xuất nhập khẩu được đề ra như sau: "... Tổng kim ngạch xuất khẩu 11 tỷ USD, tăng 26 - 27% so với thực hiện năm 2001. Tổng kim ngạch nhập khẩu 13,2 tỷ USD tăng 18% so với năm 2001... Thực hiện lịch trình hội nhập với thị trường thế giới và khu vực, đồng thời củng cố so với năm 2001… Thực hiện lịch trình hội nhập với thị trường thế giới và khu vực, đồng thời củng cố và phát triển thương mại song phương, củng cố và mở rộng các thị trường truyền thống ,phát triển các thị trường mới, tổ chức thực hiện có hiệu quả việc cung cấp về thông tin và hàng hoá cho Công ty" Năm 2001 một số sửa đổi trong chính sách xuất nhập khẩu hàng hoá rất quan trọng về phía Nhà Nước nhằm khuyến khích và nới lỏng cho phép Công ty được tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Cùng với luật thương mại, Nghị định số 57/1998/NĐ - CP đã tạo hành lang pháp lý quan trọng, tạo ra tính chính đáng cho hoạt động xuất nhập khẩu của Nhà nước còng nh­ phía Công ty. Bảng 3: Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu năm 2002 Đơn vị : triệu USD Trị giá Tỷ lệ % so với 2001 Xuất nhập khẩu 20.856,0 4 Nhập khẩu 9.316,0 1,9 Xuất khẩu 11.495,0 - 0,8 Nguồn : phòng kế toán Công ty Theo báo cáo của Tổng công ty Viglacera ngày 20/3/2002 “Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 9,361 tỷ USD bằng 91% kế hoạch đề ra (kế hoạch được Tổng công ty điều chỉnh) và chỉ tăng ở dưới 2 chữ số. Trong số này, chủ yếu thay đổi trong xuất khẩu vật liệu xây dựng: 7,332 tỷ USD chiếm 78,3% tổng giá trị và giảm 1% so với năm 2001". Còng theo báo cáo này, kết quả xuất khẩu các mặt hàng chính, xếp theo thứ tự giá trị từ cao đến thấp nh­ sau: a. Vật liệu xây dùng: Kim ngạch xuất khẩu đạt 1,45 tỷ USD, tăng 2,2 % so với năm 2001, xuất vào thị trường có hạn ngạch tăng 35% nhưng xuất vào thị trường không có hạn ngạch lại giảm 22% b. Lao động: Trong những năm vừa qua xu hướng xuất khẩu lao động ra các nước trong khu vực cũng như trong châu Á đã có nhiều thuận lợi, số lượng người tham xuất khẩu lao động đã tăng lên nhiều so với trước nhưng cũng có khá nhiều bất cập là có rất nhiều công ty “ma” ở nước tiếp nhận đã móc nối làm khó khăn cho người lao động cũng như công ty nhận môi giới ở phía Việt Nam. Khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam vốn đã yếu lại bị yếu thêm do đồng tiền của các nước trong khu vực mất giá, tạo cho hàng hoá của nước này rẻ hơn và cạnh tranh mạnh hơn. Nhu cầu tiêu thụ hàng hoá các nước Châu Á giảm làm cho giá cả hàng hoá của thể giới giảm mạnh trong đó có hàng hoá của nước ta. Do một loạt các biện pháp khuyến khích xuất khẩu của nước ta trong những năm qua đã có tác dụng tích cực đến việc hoạt động xuất nhập khẩu. Trước hết kim ngạch luôn tăng đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu năm 2002 có giảm đôi chút nhưng chủ yếu giảm ở việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, do vậy ảnh hưởng không đáng kể tới sản xuất và xuất khẩu. Xuất khẩu tuy tăng chậm nhưng cơ cấu xuất khẩu vẫn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần Cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng chuyển dịch theo hướng tích cực, kim ngạch xuất khẩu vào các nước bạn hàng chủ chốt tại Châu Á tăng 28% so với năm 2001, vào thị trường Nam Phi tăng 63%, vào Ôxtrâylia tăng tới 159% … Nhìn chung giá trị xuất khẩu của Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam vẫn giữ được mức tăng trưởng khá (khoảng 11%). 3.Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu đạt được năm KÕt qu¶ ho¹t ®éng xuÊt nhËp khÈu ®¹t ®­îc n¨m 2003 Theo báo cáo của Tổng công ty Viglacera ngày 20/3/2003 nhận định: " Năm 2003 hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam nói chung cũng như Công ty nói riêng vẫn còn tiếp tục đối mặt với rất nhiều khó khăn cần phải giải quyết. Giá cả thị trường thế giới tiếp tục biến động theo chiều hướng không có lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam…". Theo kế hoạch, xuất khẩu năm 2003 phải phấn đấu đạt 10 tỷ USD, tăng 6,8% so với năm 1998… Cơ cấu hàng xuất khẩu dự kiến như sau: + Nguyên vật liệu xây dựng 37,3% và tăng 10% so với năm 2002. +Xuất khẩu lao động 38,2%, tăng 7% so với năm 2002. + Hàng công nghiệp nặng, khoáng sản chiếm 24,5% tăng 2,2% so với năm 2002. Hàng xuất khẩu chủ yếu bao gồm: + Gạch ốp lát : Tăng 17,7% so với năm 2002 : T¨ng 17,7% so víi n¨m 2002 + Gạch xây dùng : Tăng 5% : T¨ng 5% +Kính xây dùng : Tăng 4% so với năm 2002 : T¨ng 4% so víi n¨m 2002 + Nguyên vật liệu sứ xây dựng: Xấp xỉ bằng năm 2002 Các biện pháp khuyến khích bao gồm: + Giải quyết triệt để những vướng mắc về quyền kinh doanh để phát huy đầy đủ tác dụng của Nghị định 57/1998 NĐ - CP + Mở rộng thêm phạm vi được phép kinh doanh xuất nhập khẩu cho khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Hỗ trợ tín dụng cho các dự án sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. + Triển khai các biện pháp mở rộng thị trường nước ngoài năm 2003 tập trung vào các thị trường lớn sau: thị trường Châu Á, thị trường EU, thị trường Nam Mỹ, thị trường Nam Phi và Trung Cận Đông. + Gắn chỉ tiêu nhập khẩu một số mặt hàng có tỷ trọng lợi nhuận cao với khả năng xuất khẩu. + Nghiên cứu để điều chỉnh những bất hợp lý về thuế giá trị gia tăng… + Kết quả đạt được: Mặc dù nền kinh tế nước ta vẫn còn có rất nhiều khó khăn như lạm phát đang xẩy ra rất cao cũng như bị ảnh hưởng bởi cá c đại dịch lớn như: dịch cóm gà, Viêm đường hô hấp làm cho vốn đầu tư cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân giảm sút dẫn tới tỷ trọng tăng trưởng trong sản xuất thấp, hàng hoá sản xuất ra tiêu thụ chậm, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu ở nước nhà nói chung và Công ty nói riêng. Nhưng với tiền năng sẵn có của nền kinh tế trong nước kết hợp với đà phục hồi của hầu hết các nền sản xuất trong khu vực Đông Nam Á nên hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta cũng đã đạt được hiệu quả rất đáng khích lệ. Theo báo cáo của Tổng công ty Viglacera ngày 15/11/`2003: "Xuất nhập khẩu hàng hoá tiếp tục có bước chuyển biến tích cực, trước hết đó là nhịp độ xuất khẩu tăng dần, vượt mức dự kiến và nhập siêu giảm mạnh. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 110 triệu USD, tăng 17,5% so với năm 2002 và vượt 10,5% so với chỉ tiêu Tổng công ty đề ra… Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 81 triệu USD, giảm 2,8% so với năm 2002 Nhập siêu năm 2003 khoảng 1,5 triệu USD, chiếm 1,8% tổng kim ngạch nhập khẩu, thấp hơn nhiều so với mức nhập siêu năm 2002 (là 23%). Qua bảng số liệu trên ta thấy tình trạng nhập siêu ở mức cao những năm trước đây đến nay đã được kiểm soát chặt chẽ và dự kiến nhập siêu dừng ở mức 1.3 triệu USD, đã cho thấy tốc độ tăng trưởng của kim ngạch nhập khẩu đã giảm hơn năm 2002, đặc biệt Công ty đã có giá trị xuất khẩu rất cao là 110 triệu USD. Ở đây thể hiện trình độ phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty đã tập trung phát triển để có sản phẩm xuất siêu như vật liệu xây dựng. Nhưng mặt khác, qua số liệu xuất siêu này cũng thể hiện ở mức độ đầu tư vào sản xuất, nhất là đầu tư để nhập khẩu máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ của Công ty còn hạn chế và như vậy sẽ ảnh hưởng tới xuất khẩu trong những năm tiếp theo, bởi lẽ không đầu tư thoả đáng cho sản xuất thì kim ngạch xuất khẩu không có cơ sở để tăng vững chắc được. Tại Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nói chung và Công ty nói riêng, tình hình nhập siêu tuy có giảm so với những năm trước nhưng còn ở mức khá cao (81 triệu USD). Điều này cho phép Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có điều kiện để tiếp tục triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh, trong đó có lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và tạo cho kim ngạch xuất khẩu trong năm tới tuy không cao nhưng vẫn tiếp tục tăng hơn năm 2003. III.NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG VIỆC TIẾN HÀNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU. Nh÷ng h¹n chÕ vµ nguyªn nh©n trong viÖc tiÕn hµnh ho¹t ®éng xuÊt khÈu. Những hạn chế của hoạt động xuất khẩu trong khối doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài thời gian qua có nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nguyên nhân chủ quan là sự điều hành quản lý của Nhà nước, năng lực của Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; còn nguyên nhân khách quan là do bối cảnh của nền kinh tế trong nước cũng như bối cảnh của quốc tế, đặc biệt là khủng hoảng tài chính trong khu vực. Trong phạm vi nghiên cứu nhỏ hẹp của chuyên đề, người viết chỉ đi sâu phân tích những nguyên nhân thuộc về chủ quan. 1. Về quản lý Nhà nước VÒ qu¶n lý Nhµ n­íc - Về nhận thức Chưa thấy hết tầm quan trọng của việc phải nâng cao nhanh chóng mức sống của nhân dân lên, có liên quan như thế nào đối với vận mệnh đất nước, nên không toàn tâm toàn ý chăm lo cho mục tiêu này. Chưa thấy hết ý nghĩa của đầu tư (mà đi sâu hơn là xuất khẩu) có quan hệ nh­ thế nào đối với việc nâng cao nhanh chóng mức sống của nhân dân, vẫn ỷ lại vào tiềm năng lao động và đất đai. Điều mà giê đây không còn là lợi thế tuyệt đối nữa bởi sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, của nền kinh tế tri thức, khi mà khoa học công nghệ đã trở thành một yếu tố của lực lượng sản xuất thì chỉ có con người với hàm lượng khoa học cao mới là lợi thế lớn nhất của các quốc gia. - Về quản lý, điều hành: hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài chưa hoàn thiện. Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài liên tục được bổ sung, sửa đổi. Trong khoảng hơn 10 năm luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội bàn đến không dưới năm lần, trong đó có hai lần làm mới và ba lần bổ sung. Sù hay thay đổi của pháp luật và thể chế quản lý đã tạo ra tâm lý trông chờ, hoang mang cho các nhà đầu tư. Từ chỗ đó dẫn tới hoạt động sản xuất kinh doanh ở khu vực đầu tư nước ngoài giảm và kéo theo hoạt động xuất khẩu cũng giảm theo. Vẫn biết pháp luật được đúc kết từ thực tiễn, nó không được cao hơn hoặc thấp hơn các yêu cầu của thực tiễn, nhưng pháp luật cũng có sứ mạng dự báo, đón trước những quan hệ xã hội sẽ phát sinh để kịp thời điều chỉnh. Điều này đòi hỏi các nhà làm luật phải có đầu óc tổng hợp, có tầm nhìn xa, trông rộng. Nhờ vậy mà pháp luật vừa phản ánh đúng thực tiễn cuộc sống, vừa Ýt phải sửa đổi, tạo được thế ổn định tương đối, tạo tâm lý yên ổn cho nhà đầu tư nước ngoài yên tâm sản xuất. - Về cơ chế điều hành xuất khẩu. Cơ chế điều hành xuất khẩu của Việt Nam còn rất nhiều điểm chưa hợp lý làm cản trở hoạt động xuất khẩu của Công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù chính phủ Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng dường như những điều kiện đó còn chưa đủ. Một mặt, các chính sách đề cao việc đẩy mạnh xuất khẩu nhưng những hàng rào thuế quan lại bảo hộ sản xuất trong nước, thay thế hàng nhập khẩu và có phần mâu thuẫn với chiến lược hướng về xuất khẩu. Ví dụ như hiện nay, yêu cầu xuất khẩu tối thiểu đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn quá cao, điều này sẽ không khuyến khích xuất khẩu của khu vực này cũng như tạo nên xu hướng đầu tư vào những ngành đựơc bảo hộ. Đây là lý giải xác thực nhất cho việc hiện nay quy mô xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn thấp, số dự án hướng về xuất khẩu chưa nhiều. - Về thủ tục hành chính hải quan. Vấn đề thủ tục hành chính còn quá nhiều rườm rà vẫn luôn là vấn đề bức xúc mà chúng ta chưa thể giải quyết trong một sớm một chiều. Hầu nh­ trong bất kỳ một lĩnh vực, một công việc nào, những thủ tục phức tạp, phiền hà đều là những cản trở cho hiệu quả công việc. Trong hoạt động xuất khẩu cũng vậy, vấn đề càng trở nên khó khăn hơn khi áp dụng với những nhà đầu tư nước ngoài, những người đã quen với tác phong công nghiệp - nhanh gọn, đơn giản. Ở Việt Nam, sự phức tạp không chỉ thể hiện trong việc cần quá nhiều giấy tờ pháp lý cho xuất khẩu mà còn thể hiện ở việc tốn quá nhiều thời gian, chi phí cũng như công đoạn cho những công việc này. Đó là chưa kể trong quá trình hoạt động họ vẫn còn gặp nhiều phiền phức (thanh tra của các Bộ, Ngành …). Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến cho tình hình xuất khẩu của Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa tương xứng với tiềm năng của nó. - Cơ sở hạ tầng yếu kém Trong lĩnh vực cơ cơ sở hạ tầng, chỉ có viễn thông là ở mức tương đối hoàn thiện. Các yếu tố khác nh­ đường bộ, đường sắt, sân bay, cầu cảng, các phương tiện vận tải, tiện Ých công cộng hầu nh­ chưa đáp ứng được các nhà đầu tư. Thiếu tiện nghi và đắt đỏ vẫn là thực trạng của cơ sở hạ tầng Việt Nam. Ví dụ giá điện đắt hơn so với mức trung bình của khu vực khoảng 1,5 lần, giá nước sạch cho sản xuất của ta hiện ở mức cao của khu vực. Giá lắp đặt điện thoại ở các nước trong khu vực đều có xu hướng giảm nhằm khuyến khích tăng số lượng thuê bao. Trong khi đó giá lắp đặt điện thoại của ta hiện nay gần nh­ đắt nhất khu vực. Giá lắp đặt một máy điện thoại cố định ở Hà Nội (129 USD/máy), đắt gấp 2,33 lần so với ở Jakata (55,4 USD/máy). Giá vé máy bay của các tuyến bay trong nước cũng có sự khác biệt giữa người Việt Nam với người nước ngoài… Những yếu tố trên tưởng chõng nhỏ bé nhưng nó lại có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của nhà đầu tư còng nh­ ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm làm ra. - Xu hướng vận động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Ở Việt Nam, về cơ cấu đầu tư nước ngoài tuy đã có những bước chuyển biến rõ rệt trong những năm gần đây theo xu hướng chuyển dần sang các ngành công nghiệp chế tạo song nhìn chung xu hướng đầu tư vào các nghành khai thác tài nguyên, xây dựng… và các ngành kinh doanh dịch vụ vẫn chiếm vị chí hàng đầu. Điều đó giải thích lý do vì sao khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa tạo ra năng lực xuất khẩu lớn. Đây là xu hướng chung của hầu hết các nền kinh tế theo con đường thu hót đầu tư nước ngoài cho công nghiệp hoá nhất là trong thời kỳ đầu. Nhưng xét về lâu dài, nếu không nhanh chóng cải thiện cơ cấu đầu tư nước ngoài theo định hướng xuất khẩu và sản xuất thay thế nhập khẩu thì chẳng những đất nước khó có thể tham gia vào quá trình hội nhập mà điều quan trọng là không thể nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, khó vượt qua được những thách thức trước sự biến động của thị trường thế giới và từ đó khó có thể thực hiện thành công chiến lược hướng về xuất khẩu. - Về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp đã ảnh hưởng không Ýt đến chính sách lùa chọn sản phẩm xuất khẩu. Những điều này phần nhiều cũng là do cơ chế, chính sách của Việt Nam chưa hợp lý. Giá lao động của Việt Nam thấp hơn Inđônêxia 30% là lợi thế của Việt Nam nhưng năng suất lao động của Việt Nam kém hơn 50% lại là điểm yếu mà Việt Nam cần khắc phục. Hay mức giá dịch vụ của Việt Nam cao hơn so với Philippin và Thái Lan là những chi phí mà Việt Nam cần phải giảm nhiều mới có thể phát triển những sản phẩm có khả năng cạnh tranh đối với họ thông qua xuất khẩu của Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2. Về phía Công ty VÒ phÝa C«ng ty - Mặc dù có rất nhiều lợi thế so sánh so với Công ty nôị địa nhưng những năm qua, xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của nó. Điều này là do khó khăn cơ bản về cơ cấu thị trường. Còng nh­ cơ cấu thị trường xuất khẩu của các nước, cơ cấu thị trường xuất khẩu của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay cũng đang mất cân đối nghiêm trọng. Sản phẩm của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được xuất khẩu chủ yếu sang ASEAN, Nhật, các nước NICs, còn Châu Âu và Châu Mỹ vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Hơn thế, các nhà đầu tư này cũng chủ yếu đến từ các khu vực trên, xuất khẩu qua kênh nội bộ của Công ty là chính. Điều này càng làm cho thị trường xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thiên hướng mạnh tới các nước trong khu vực, các nước Châu Á. Chính vì vậy khi cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á xảy ra, xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam chưa phát huy được tiềm năng của doanh nghiệp mình, đó là tiềm năng về khoa học công nghệ, về lợi thế cạnh tranh… Chương III Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu viglacera đến 2010 I.PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY ĐẾN 2010 Ph­¬ng h­íng vµ môc tiªu ph¸t triÓn cña c«ng ty ®Õn 2010 Được sự chỉ đạo của Tổng công ty Viglacera cũng như xem xét tình hình hoạt động của công ty trong những năm vừa qua, công ty phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình hàng năm từ 25 - 30%/năm, mở rộng chính sách cũng như các biện pháp trong đó có chính sách thu hót vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn lại chặng đường vừa qua, tuy công ty đã có một số lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài nhưng với tốc độ phát triển như hiện nay thì số vốn đó cũng chưa đủ. Với nguồn vốn 26.198 triệu USD là số vốn mà công ty thu hót được trong mấy năm vừa qua, công ty phấn đấu đến năm 2010 sẽ đạt được mức 50.000 triệu USD. Bên cạnh việc thu hót vốn đầu tư nước ngoài là tăng khả năng xuất nhập khẩu ra thị trường thế giới. Hiện nay thị trường xuất khẩu hàng hoá của công ty còn quá eo hẹp, một số thị trường có khả năng xuất khẩu cao chưa được quan tâm tới nh­ thị trường Châu Phi, Đông Á. Trong những năm qua từ 2001 - 2003 tổng trị giá xuất nhập khẩu trung bình của công ty mới chỉ đạt khoảng 20.856 triệu USD. Nh­ vậy với mức vốn đầu tư nước ngoài khá lớn thì công ty sẽ có các chính sách nhằm tăng cường khả năng xuất khẩu hơn nữa mới đáp ứng được tính cân bằng trong nguồn vốn. Vì chỉ có xuất khẩu cao mới thu hót được nhiều hơn nữa nguồn vốn đấu thầu nước ngoài. Xét về cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của công ty trong những năm vừa qua có xu hướng về xuất khẩu lao động trong khi đó các mặt hàng thuộc ngành sản xuất chính thu hót được nhiều vốn đầu tư nước ngoài thì còn chưa được quan tâm đáng kể. Ví dô nh­ năm 2001 công ty xuất khẩu lao động đạt được 3.500 triệu USD trong khi đó nguyên vật liệu xây dựng đạt được 3.200 triệu USD. Xét về mọi mặt thì nguyên vật liệu xây dựng là mặt hàng có số vốn FDI nhiều nhất (79.200 USD) trong đó máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất cũng chiếm tới 82.201 triệu USD. Chính vì vậy mà dưới sự chỉ đạo của Tổng công ty Viglacera công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu cố gắng đến 2010 tăng lượng xuất khẩu vật liệu xây dựng lên khoảng 8.000 triệu USD nhằm đảm bảo thế cân bằng trong việc thu hót vốn đầu tư nước ngoài và việc xuất nhập khẩu hàng hoá. II.MỘT SỐ GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ ĐẾN 2010. Mét sè gi¶i ph¸p tõ phÝa nh»m thóc ®Èy ho¹t ®éng xuÊt nhËp khÈu hµng ho¸ ®Õn 2010. 1.Tăng cường hơn nữa việc thu hót vốn FDI vào công ty. T¨ng c­êng h¬n n÷a viÖc thu hót vèn FDI vµo c«ng ty. Nh­ ta đã biết vốn đầu tư nước ngoài có tác động rất lớn trong việc thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Hiện nay lượng vốn FDI trong công ty cũng khá lớn tuy nhiên cũng chưa đủ mạnh để có thể để mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá sang những thị trường lớn đặc biệt là những thị trường khó tính nh­ EU, Nhật Bản, Mỹ... Vốn đầu tư nước ngoài có thể nâng cao công nghệ sản xuất cho công ty làm giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá ở thị trường nước ngoài. Một thực tế hiện nay là giá cả của hàng hoá Việt Nam cả trong nước cũng như ngoài nước rất cao, điều này ảnh hưởng rất lớn đến tính cạnh tranh ở những thị trường khó tính. Vốn FDI có tác động lớn tới vấn đề tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu. Vấn đề tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đòi hỏi những người có tầm nhìn, tránh những thủ tục cần thiết gây khó khăn cho bên nhập khẩu. Việc này được thực hiện rất tốt đối với những nhà đầu tư nước ngoài bởi chính phong cách làm việc của họ là nhanh gọn. 2.Củng cố và phát huy tiềm năng của doanh nghiệp Cñng cè vµ ph¸t huy tiÒm n¨ng cña doanh nghiÖp. Tiềm năng của doanh nghiệp có thể bao gồm vốn kỹ thuật, công nghệ, tổ chức quản lý kinh doanh… Muốn kinh doanh thành công nói chung và xuất khẩu thành công nói riêng, Công ty phải không ngừng củng cố và phát huy tiềm năng của mình. * Về vốn: Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị xản xuất - kinh doanh. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể mạnh hơn Công ty Việt Nam ở chỗ họ có thể có nhiều vốn hơn. Nhưng chỉ nhiều hơn thì chưa đủ mà phải biết sử dụng nguồn vốn đó như thế nào, phải huy động thêm vốn như thế nào để không ngừng mở rộng và phát triển sản xuất - kinh doanh. Công ty có thể bổ sung vốn lưu động và vốn cố định của mình trích từ lợi nhuận hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản của Công ty vì nguồn vốn bên trong bao giê cũng là vốn quyết định năng lực thực sự. Sẽ tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nếu kinh doanh tốt thì nguồn vốn này sẽ được bổ sung thêm và ngược lại. Khi nguồn vốn được bổ sung và sử dụng có hiệu quả thì có cơ hội để kinh doanh tốt. Nhưng mét doanh nghiệp biết cách kinh doanh là một doanh nghiệp phải biết tận dụng không chỉ nguồn vốn tự có của mình. Việc huy động và sử dụng vốn bên ngoài cũng là một cách kinh doanh khác, vừa là để bổ sung cho tổng vốn, vừa để tận dụng hiệu quả nguồn lực nhàn rỗi của xã hội. Nh­ ta thấy hiện nay, Công ty có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang yêu cầu có cơ chế cho vay đơn giản từ phía Ngân hàng, các tổ chức tín dụng… Sự lớn mạnh và phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính, tín dụng phải phát triển một cách tương ứng. Ngược lại, những doanh nghiệp nào biết sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngoài nguồn sẵn có thì doanh nghiệp đó sẽ thành công. Một nguồn vốn phụ khác có thể huy động được là từ phía đối tác kinh doanh. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp có thể yêu cầu hỗ trợ tín dụng từ phía đối tác. Cụ thể là đối với một số hợp đồng xuất khẩu (quá lớn hoặc độ rủi ro cao) doanh nghiệp nên yêu cầu người mua (nhập khẩu) ứng trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng, doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như vốn của mình. * Về kỹ thuật công nghệ Ngày nay, khi khoa học công nghệ đã trở thành tư liệu sản xuất thì việc tăng cường đầu tư cho mặt này trong mỗi doanh nghiệp cũng là điều dễ hiểu. Khoa học kỹ thuật tiên tiến và phù hợp là tiền đề cho việc đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tận dụng tiềm lực vốn và công nghệ của mình để tăng năng suất lao động, giảm chi phí, tăng chất lượng hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh khi xuất khẩu. Không chỉ dừng ở việc chế tạo, lắp ráp, sơ chế mà phải dần theo hướng tinh chế nhằm tạo ra những mặt hàng mới, giá trị và chất lượng cao trong xuất khẩu. Việt Nam có lợi thế quan trọng về lao động và tài nguyên, vì vậy trước mắt, khi chưa thể chuyển hẳn sang những ngành công nghệ cao, Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn cần hướng vào những ngành sử dụng nhiều lao động như nông, lâm, thuỷ sản phục vụ xuất khẩu. Không ngừng đầu tư vào công nghệ mới, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Trong nhiều trường hợp, tận dụng những công nghệ sẵn có chưa đủ để giành được thắng lợi. Vì vậy khi cần thiết Công ty vẫn cần mạnh dạn đầu tư vào những công nghệ tiên tiến nhất, vượt trội nhất để đạt được mục tiêu của mình. Công nghệ mới sẽ giúp cho doanh nghiệp có lợi thế trên thương trường khi tung ra một sản phẩm mới, đáp ứng được thị trường quốc tế luôn cạnh tranh gay gắt. Công nghệ kỹ thuật mới cũng giúp cho doanh nghiệp có được vị thế tốt. * Về vấn đề tổ chức hoạt động xuất khẩu. Tổ chức hoạt động xuất khẩu không chỉ tập trung ở những khâu công việc cụ thể mà trước hết còn ở việc tổ chức hệ thống quản trị. Để đối phó với một thị trường cạnh tranh gay gắt, việc nâng cao chất lượng công tác quản trị mang tính tất yếu. Nâng cao chất lượng công tác quản trị nhằm thích ứng với thay đổi của môi trường, chủ động và hiệu quả hơn. Việc đổi mới và hoàn chỉnh bộ máy tổ chức doanh nghiệp phải đảm bảo yêu cầu gọn nhẹ, hợp lý. Gọn nhẹ là để tránh vết mòn mà Công ty Việt Nam thường đi qua là quá cồng kềnh dẫn tới chồng chéo, phủ định nhau, hơn nữa sẽ không phát huy được tối đa năng lực của mỗi người. Hợp lý là vừa để vận dụng được hiệu quả nguồn trí lực hiện có, vừa tạo ra kết quả tốt. Để đạt được điều này, Công ty cần thực hiện việc phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các nhà quản trị cấp cao; phân công đúng nhiệm vụ phù hợp với năng lực cho mỗi nhà quản trị; tổ chức sắp xếp lại thành viên trong các ban chức năng… Sau khi đã có một tổ chức quản lý hợp lý, doanh nghiệp mới có thể tiến hành tổ chức hoạt động xuất khẩu cho có hiệu quả được. Công ty xuất khẩu không chỉ là những đơn vị sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu mà còn thực hiện thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp chỉ đơn thuần sản xuất hàng xuất khẩu thì biện pháp cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu là đa dạng hoá loại hình kinh doanh, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Điều này sẽ được trình bày rõ hơn ở mục sau. Đối với Công ty kinh doanh mặt hàng xuất khẩu thông qua thu mua, tạo nguồn thì biện pháp cần thiết là: - Mở rộng hình thức tạo nguồn: Muốn hoạt động xuất khẩu tiến hành được thì điều kiện đầu tiên là phải có hàng hoá để xuất khẩu, nghĩa là phải có nguồn hàng xuất khẩu. Vì vậy, công tác tạo nguồn chiếm phần lớn thời gian trong cả quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thông thường thì các hoạt động tạo nguồn chủ yếu là do thu mua từ các địa phương rồi đem về phân loại, đóng gói. Với hình thức này, việc tạo nguồn diễn ra đơn giản, nhanh gọn, vốn quay vòng nhanh, không đòi hỏi máy móc thiết bị cồng kềnh, có thể chuyển đổi mặt hàng kinh doanh một cách linh hoạt. Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng duy nhất hình thức này thì hiệu quả đạt được sẽ không cao vì như vậy doanh nghiệp chỉ có mối quan hệ kinh tế hết sức đơn điệu. Hơn thế, đối với những nguồn hàng nhỏ lẻ, cá thể thì Công ty không thể mua trực tiếp được vì sẽ tốn rất nhiều thời gian. Vì thế đa dạng hoá các loại hình tạo nguồn cũng là điều cần làm. Công ty có thể tìm ra các hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu mới thông qua mạng lưới bạn hàng của mình. Công ty cũng có thể nhận xuất khẩu uỷ thác - hình thức này hiện nay đang rất được ưa chuộng. Công ty có thể lợi dụng mối quan hệ bạn hàng rộng rãi đa phương của mình để có thể thực hiện được nhiều hơn các hợp đồng uỷ thác xuất khẩu. - Tổ chức tốt khâu bảo quản, dự trữ : Mét trong những biện pháp nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là củng cố, hoàn thiện khâu dự trữ, bảo quản hàng hoá. Điều này ở Công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có phần tốt hơn Công ty trong nước, mặc dù vậy vẫn cần chú ý đến nhiều hơn. Trong tình hình hiện nay, có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài muốn đầu tư vào những ngành và lĩnh vực được Nhà nước bảo hộ nhiều hơn là đầu tư vào kinh doanh xuất khẩu. Có những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực cụ thể và đòi hái Nhà nước bảo hộ cho ngành mà mình hoạt động kinh doanh. Điều này thực sự không làm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tính cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường còng nh­ trong hoạt động xuất khẩu. Tóm lại, Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phát huy những lợi thế vốn có về vốn, về công nghệ kỹ thuật, về tổ chức sản xuất để đầu tư, sản xuất những sản phẩm mới có chất lượng cao và có sức cạnh tranh lành mạnh trên thương trường quốc tế. 3.Chủ động tìm kiếm thị trường, bạn hàng Chñ ®éng t×m kiÕm thÞ tr­êng, b¹n hµng. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có ưu thế về thị trường và có nhiều kinh nghiệm về thâm nhập thị trường hơn Công ty trong nước, do vậy cần phải phát huy những ưu điểm này để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Công ty có vốn đầu tư nước ngoài thường có các Công ty mẹ, các chi nhánh ở nước ngoài, do vậy đây là đầu cầu để tăng cường giao lưu trao đổi thông tin và bàn bạc ký kết hợp đồng thuận tiện hơn rất nhiều so với Công ty trong nước. Khi phát huy được những lợi thế vốn có này sẽ góp phần đẩy mạnh phát triển xuất khẩu trong tương lai. Cụ thể, Công ty có thể áp dụng một số hình thức sau: * Đẩy mạnh công tác marketing thương mại: chính sách marketing phù hợp sẽ là công cụ quan trọng để đạt mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Marketing hỗn hợp nếu sử dụng sai lệch thì không những không mở rộng được thị trường mà còn mất thêm khách hàng truyền thống. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải xây dùng cho mình chiến lược marketing có tính khả thi kết hợp hài hoà với các tham số của nó. - Về sản phẩm: Doanh nghiệp cần phải xác định các sản phẩm đưa ra thị trường nào thì phải phù hợp với thị trường đó. Do nhu cầu thị hiếu của các thị trường khác nhau và luôn thay đổi nên các mặt hàng của doanh nghiệp cũng phải không ngõng thay đổi theo. - Về giá cả: Giá cả là công cụ giúp Công ty thực hiện mục tiêu lợi nhuận song nó cũng là yếu tố quan tâm hàng đầu của khách hàng. Chính vì vậy Công ty cần có chính sách định giá hợp lý vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu của mình, vừa đảm bảo lợi Ých cho khách hàng. - Về phân phối: Xuất phát từ đặc điểm của môi trường kinh doanh là các thị trường khác nhau, do đó chi phí để thực hiện phân phối cũng khác nhau nên Công ty cần phải xây dựng hệ thống kênh phân phối để tận dụng tối đa các nguồn lực, đồng thời tiết kiệm tối đa các chi phí phát sinh. - Về xúc tiến: Xúc tiến thương mại có thể được thực hiện thông qua hội chợ, triển lãm, khuyến mại, quảng cáo… Những hoạt động này cần phải được sử dụng một cách phù hợp trong mỗi điều kiện, mỗi hoàn cảnh, mỗi thị trường khác nhau. * Công ty nên chú trọng chuyển dịch cơ cấu thị trường theo hướng tăng nhanh các thị trường tiêu thụ trực tiếp và có sức mua lớn như Châu Phi, Nam Mỹ và một số nước châu Á…, giảm dần các thị trường trung gian, từng bước khôi phục lại các thị trường Liên bang Nga, các nước Đông Âu, tích cực tìm kiếm các thị trường mới. 4.Đa dạng hoá loại hình kinh doanh - mặt hàng kinh doanh §a d¹ng ho¸ lo¹i h×nh kinh doanh - mÆt hµng kinh doanh Đa dạng hoá kinh doanh vừa để hạn chế rủi ro, vừa tận dụng hết những nguồn lực, đồng thời phục vụ được nhiều đối tượng, góp phẩn mở rộng thị trường. Đây là xu hướng chung của Công ty trong tình hình hiện nay. - Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh. Công ty cần chú ý đầu tư vào những ngành quy mô vừa và nhỏ làm phong phú mặt hàng kinh doanh. Những lĩnh vực đầu tư quy mô vừa và nhỏ tạo điều kiện cho doanh nghiệp chuyển đổi linh hoạt cơ cấu mặt hàng kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh về sản phẩm. Nhưng đối với những doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh, việc cải tiến cơ cấu mặt hàng phải theo hướng khác. Mặc dù thông thường, mỗi doanh nghiệp đều phải có một hệ thống các sản phẩm hàng hoá xuất khẩu đa đạng nhưng theo đòi hỏi của thị trường thì việc đổi mới hệ thống này phải được thực hiện không ngừng… Công ty cần không ngừng bổ sung những chủng loại hàng mới, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống của doanh nghiệp cần tiếp tục phát huy vai trò chủ lực, Công ty cũng cần chú trọng tới nhóm mặt hàng mới. Việc chuyên môn hoá vào những mặt hàng có lợi thế, những mặt hàng mới sẽ giúp cho cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Công ty phong phú hơn. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh không chỉ có nghĩa là mở rộng danh mục mặt hàng mà điều cốt yếu quan trọng là phải không ngừng nâng cao chất lựơng hàng xuất khẩu của mình. Hàng hoá muốn xuất khẩu không thể không chú ý đến chất lượng, nhất là trong tình hình hiện nay, khi cung luôn vượt quá cầu thì chất lượng là một trong những vũ khí cạnh tranh hữu hiệu nhất. Chất lượng cũng không chỉ thể hiện ở sản phẩm mà còn thể hiện qua bao bì, qua giá cả, qua các dịch vụ kèm theo … Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là phải hoàn thiện đồng bộ các mặt trên. Việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng bằng cách đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ cũng sẽ mang lại hiệu quả đáng kể vì một khi các sản phẩm có chất lượng, giá cả tương đương nhau, dịch vụ tốt hơn sẽ thu hót nhiều khách hàng hơn. - Đa dạng hoá loại hình kinh doanh. Bên cạnh việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, Công ty cũng cần phải đa dạng hơn các loại hình kinh doanh xuất khẩu. Có thể có các hình thức kinh doanh xuất khẩu như hình thức xuất khẩu tự doanh. Với hình thức này, Công ty sẽ tự tìm kiếm, giao dịch và thực hiện hợp đồng với bạn hàng. Điều này cũng có nghĩa là Công ty phải năng động, sáng tạo, chủ động hơn trong các hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, Công ty còn có thể tiến hành xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị sản xuất kinh doanh khác để thu phí dịch vụ uỷ thác. Đối với loại hình này, các khâu nghiệp vụ được rút ngắn lại, Công ty chỉ phải thực hiện việc ký kết, thực hiện hợp đồng với nước ngoài và làm những thoả thuận cần thiết (bằng văn bản) với các đơn vị sản xuất trong nước. Ngoài ra, Công ty còn có thể xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu, qua đó đáp ứng nhu cầu của phía nước ngoài nếu họ đang tìm kiếm loại hàng hoá mà Công ty kinh doanh bằng việc tiến hành trao đôỉ hàng hoá có giá trị tương đương với nhau. Doanh nghiệp có thể phối hợp sử dụng linh hoạt các hình thức này phù hợp với từng điều kiện cụ thể sao cho có hiệu quả tốt nhất. 5.Quan tâm đúng mức yếu tố con người. Quan t©m ®óng møc yÕu tè con ng­êi. Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra thị trường bên ngoài đòi hỏi Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cần quan tâm đúng mức yếu tố con người trong các khâu từ sản xuất đến xuất khẩu hàng hoá, quan tâm trong việc đào tạo bồi dưỡng tay nghề, quan tâm trong việc tăng thêm thu nhập về lương và các chế độ chăm sóc sức khoẻ ngừơi lao động. Có nh­ vậy mới phát huy được yếu tố con người trong chiến lược phát triển xuất khẩu. 6.Mét số giải pháp từ phía nhà nước. Mét sè gi¶i ph¸p tõ phÝa nhµ n­íc. Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá ở Công ty thì công ty cần phải có những giải pháp thích hợp. Bên cạnh đó chỉ có sự nổ lực của công ty thôi thì chưa đủ bởi vì như đã nói ở trên hoạt động xuất nhập khẩu phụ thuộc rất nhiều yếu tố trong đó có nhiều yếu tố xuất phát từ phía nhà nước như thủ tục hải quan, các chính sách hỗ trợ từ phía nhà nước. Dưới đây là một số giải pháp buộc nhà nước phải hỗ trợ: - Quán triệt quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế đối ngoại. Đảm bảo nguyên tắc độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Nguyên tắc của sự hội nhập là phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, giữa phát triển quan hệ kinh tế cùng có lợi và bảo vệ an ninh chính trị với độc lập chủ quyền quốc gia. Khai thác có hiệu quả những lợi thế trong phân công lao động quốc tế; kết hợp sức mạnh của dân téc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Lợi thế của mỗi nước trong phân công lao động quốc tế chính là việc các nước khai thác được những thế mạnh của quốc gia mình nhằm sản xuất ra các loại hàng hoá, dịch vụ đáp ứng được nhu cầu của các quốc gia khác. Lợi thế của mỗi nước có được khai thác hay không lại phụ thuộc vào việc các quốc gia có xác định đúng những lợi thế của mình đồng thời có các biện pháp thích hợp để khai thác nó bao gồm cả việc tận dụng sức mạnh của thời đại về khoa học công nghệ, khoa học quản lý… Việt Nam có những thế mạnh chủ yếu về nguồn nhân lực dồi dào, về tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí địa lý thuận lợi nhưng việc khai thác những lợi thế này còn rất hạn chế. Bởi chúng ta chưa kết hợp tốt giữa nội lực và ngoại lực. Vì thế, khai thác có hiệu quả lợi thế của sự phân công lao động quốc tế là một nội dung quan trọng của kinh tế đối ngoại. Đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại phù hợp với cơ chế thị trường, trên nguyên tắc bình đẳng và các bên cùng có lợi. Các hoạt động kinh tế đối ngoại mang tính chất quốc gia rõ rệt bởi vì các chủ thể tham gia quan hệ là các quốc gia riêng lẻ và có lợi Ých độc lập với nhau. Các quan hệ kinh tế đối ngoại không chỉ mang tính chất kinh tế thương mại, mà còn chịu sự chi phối không nhỏ của các yếu tố chính trị và ngoại giao, cho nên đa phương hoá thị trường là điều cần thiết. Cần đi sâu nghiên cứu để lùa chọn đúng đối tượng và thị trường, nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn hàng đầu, đồng thời phải nắm vững phương châm độc lập tự chủ, các bên cùng có lợi. Xây dựng tín nhiệm quốc tế thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế là điều kiện không thể thiếu được trong quan hệ làm ăn với nước ngoài. Tuy nhiên, cần tranh thủ khai thác và mở rộng các quan hệ làm ăn với các nước Tây Âu và thị trường Bắc Mỹ là những nơi có tiềm lực mạnh về khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Hiệu quả kinh tế xã hội là mục tiêu hàng đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng và phải được xem xét một cách toàn diện, không những ở góc độ kinh doanh và kinh tế mà cả góc độ chính trị xã hội, trên phạm vi cả nước và toàn xã hội. Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại là những tác động của nó đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy hoạt động kinh tế đối ngoại là phải nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia và là nền tảng để nâng cao mức sống của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, thực hiện tốt các mục tiêu chiến lược mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. - Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài. Sau khi đã quán triệt được quan điểm về đường lối phát triển kinh tế đối ngoại, việc đầu tiên cần làm đó là thu hót được nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Có các nhà đầu tư thì mới có xuất khẩu. Muốn làm được điều này thì cần có mét hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài thật rõ ràng. Bảo đảm một khuôn khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định, một hệ thống ưu đãi và khuyến khích cao hơn các nước trong khu vực. Luật hoá, nâng cao chất lượng công tác làm luật, sao cho luật sau khi ban hành có sức sống trong thực tế và tương đối ổn định. - Hoàn thiện hệ thống chính sách cải thiện môi trường kinh doanh môi trường đầu tư. Tiếp tục thực hiện lé trình giảm chi phí đầu tư., sửa đổi một số chính sách đang gây cản trở đầu tư nước ngoài. Hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật kinh tế nói chung. Hiện nay, môi trường kinh doanh của Việt Nam còn được đánh giá là còn nhiều hạn chế, gây cản trở cho hoạt động kinh doanh nói chung trong đó có doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Do đó, cần được gấp rút hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Một số chính sách ảnh hưởng tới tiến trình thu hót vốn FDI của doanh nghiệp có thể nêu lên như sau: chính sách đất đai, chính sách tài chính, tín dụng và ngoại hối, bán nhà ở cho người nước ngoài. Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư. Muốn thu hót đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực,địa bàn và các dự án ưu tiên, khuyến khích đầu tư, cần tạo dựng và công bố một hệ thống ưu đãi cao hơn các nước trong khu vực, bởi Việt Nam là nước đi sau và lạc hậu hơn so với nhiều nước trong khu vực kể cả về sơ sở hạ tầng, trình độ khoa học công nghệ và nghèo. Nếu chúng ta không chịu thiệt để tạo ra những ưu đãi cao hơn các nước khác chúng ta sẽ không thể cạnh tranh được với họ. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư trước hết là chính sách thuế. Thuế ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, bởi lợi nhuận tỷ lệ nghịch với tổng chi trong đó thuế chiếm tỷ trọng rất lớn; Thuế tạo ra thị trường đủ lớn cho nhà đầu tư sản xuất vào một ngành nào đó.Thuế quyết định dung lượng sản xuất và ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư; thuế là nguồn thu chính của mọi quốc gia, trên cơ sở nguồn thu, Chính phủ trang trải các nguồn chi trong đó có chi cho đầu tư phát triển tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho hoạt động đầu tư, là nguồn đối ứng quan trọng để thu hót đầu tư nước ngoài, vì thế thuế góp phần tạo dựng nên môi trường đầu tư ổn định hay bất ổn để các nhà đầu tư lùa chọn đầu tư. - Hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật kinh tế về xuất khẩu. Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu và ưu tiên, khuyến khích xuất khẩu đối với Công ty trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng, nó đòi hỏi phải thực hiện một cách nhất quán trong thực tiễn quản lý và điều hành các chủ trương xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu trong suốt tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đây là tiền đề rất quan trọng để định hướng các chính sách về tài chính, thương mại, đầu tư … Chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu tự nó đảm bảo các yêu cầu về hội nhập quốc tế và khu vực, từng bước mở rộng thị trường đi liền với việc giảm dần các hàng rào thuế quan, bởi quan hệ kinh tế thị trường là dùa trên sự bình đẳng và cùng có lợi. Do vậy ta muốn phát triển mạnh xuất khẩu thì mặt khác ta cũng phải mở dần thị trường trong nước cho hàng hoá của các nước khác thâm nhập vào. Giảm tối đa sự phân biệt đối xử giữa chủ đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo một sân chơi bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đặc biệt phải bình đẳng trong các lĩnh vực ưu đãi về hỗ trợ xuất khẩu (quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia, hỗ trợ lãi suất…) cũng như cần phải xoá bỏ sự phân biệt giữa các khoản chi gắn với xuất khẩu giữa Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Cho phép các nhà đầu tư có thể đầu tư vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Trước đây, pháp luật quy định các nhà đầu tư chỉ được phép đầu tư vào các lĩnh vực nhất định. Hiện nay, pháp luật đã cho phép Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phép đầu tư vào tất cả những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Nếu làm được điều này thì đồng nghĩa với việc có nhiều mặt hàng hơn để xuất khẩu. Tuy nhiên, quy định là thế còn thực hiện lại không được nh­ thế, đặc biệt là trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Đến đây nhìn chung vẫn còn tồn tại cơ chế “xin - cho”, có phần nặng về công việc hành chính mà chưa ngang tầm quản lý vĩ mô của ngành, tạo điều kiện cho tham nhòng, tiêu cực. Do đó, cần hết sức chú trọng tới việc quản lý điều hành theo pháp luật chứ không được duy trì cơ chế “xin cho”. Điều gì pháp luật không cấm làm thì phải được tự do kinh doanh theo đúng nghĩa của nã chứ không để tình trạng gây khó khăn, phiền phức dưới mọi hình thức quản lý. - Nhà nước cần có một chính sách thuế minh bạch, mềm dẻo và đồng thời quy định tỷ giá đồng nội tệ linh hoạt để đảm bảo khuyến khích phát triển xuất khẩu của Công ty trong cả nước trong đó có doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Tỷ giá đồng nội tệ có tác dụng thúc đẩy hoặc hạn chế xuất nhập khẩu hàng hoá, do vậy sử dụng công cụ tỷ giá là một việc làm của mọi Nhà nước và các Chính phủ trên toàn thế giới. Một tỷ giá tiền tệ hợp lý là hết sức cần thiết để phát triển xuất khẩu hàng hoá ở nước ta, góp phần xây dựng kinh tế đất nước. - Xây dựng hành lang pháp lý thống nhất, có hiệu lực. Một hành lang pháp lý thống nhất sẽ góp phần tạo tâm lý yên tâm đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu thường chịu nhiều rủi ro biến động của thị trường thế giới. Tuy nhiên trong thời gian qua, hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước của Việt Nam vẫn còn rất nhiều vướng mắc, phức tạp, chồng chéo, gây cản trở đến hoạt động kinh doanh của Công ty, đặc biệt là khu vực đầu tư nước ngoài vốn quen với những thủ tục đơn giản, rõ ràng. Trong hệ thống pháp luật có nhiều văn bản không thống nhất, giải thích không rõ ràng dẫn đến việc khi đi vào thực tế đã gặp phải nhiều rắc rối do sự chồng chéo, do sự giải thích sai lệch, do những lỗ hổng pháp luật. Hơn nữa, nhiều khi các văn bản của Nhà nước đã không khẳng định được hiệu lực pháp lý cuả mình làm hình thành nên tâm lý coi thường pháp luật hoặc không tin tưởng với những gì pháp luật quy định cũng như khuyến khích. Trong quản lý Nhà nước cũng diễn ra tình trạng chồng chéo, phủ định lẫn nhau, có những doanh nghiệp mỗi năm chịu đến 4 - 5 đợt kiểm tra, thanh tra của vài ba cơ quan Nhà nước thuộc những bộ ngành khác nhau. Việc quản lý này không những không phát huy hiệu quả mà còn gây nên nhiều phiền hà, rắc rối, mất thời gian cho Công ty. Để khắc phục tình trạng trên, trong thời gian tới Nhà nước cần chó ý các mặt sau: - Ưu tiên vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho xuất khẩu. Hướng đầu tư nước ngoài vào xây dựng các ngành công nghiệp công nghệ cao để tạo ra hàng xuất khẩu có giá trị cao trong thời gian tới. Chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu cần xây dựng theo hướng sau: Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với mức cao hơn, thực hiện chế độ phân bố hạn ngạch xuất khẩu cho Công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Thu hẹp danh mục các sản phẩm phải đảm bảo xuất khẩu từ 80% trở lên theo hướng chỉ áp dụng yêu câù này đối với một số sản phẩm thật cần thiết phải bảo hộ, đối với những sản phẩm thực sự có lợi thế cạnh tranh, đồng thời xử lý linh hoạt bằng cách không bắt buộc các nhà đầu tư phải cam kết xuất khẩu ngay từ đầu mà có thể thực hiện từng bước. Đối với các dự án đang hoạt động, gặp khó khăn khách quan do thị trường bị thu hẹp có thể cho phép tăng tỷ lệ tiêu thụ nội địa trong trường hợp sản phẩm cùng loại vẫn phải nhập khẩu vào thị trường trong nước có nhu cầu. Thêm nữa, cần chuyển sang áp dụng các biện pháp kinh tế, dùng đòn bẩy kinh tế là chủ yếu để khuyến khích xuất khẩu. - Cải tiến thủ tục hành chính. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo thuận lợi, giảm phiền hà, giảm thời gian đối với việc cấp giấy phép xuất khẩu, thủ tục hải quan, hoàn thuế VAT, thuế nhập khẩu nguyên liệu đối với các sản phẩm xuất khẩu. - Xây dựng cơ chế xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin hỗ trợ xuất khẩu Xúc tiến thương mại đã thực sự thu hót được sự quan tâm của các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý Nhà nước cũng như giới kinh doanh và ngày càng khẳng định vài trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu. Nhiều hoạt động được triển khai nhằm củng cố thêm nhận thức của xã hội, của các cấp ngành Công ty như toạ đàm, viết bài trên báo chí, phóng sự truyền hình… đề cập tới vấn đề cấp bách là tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty trong bối cảnh của xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá về thương mại và đầu tư. - Công tác đào tạo cán bộ Công tác đào tạo con người là một nhiệm vụ quan trọng không chỉ riêng đối với một lĩnh vực nào. Công việc này cần có sự giải quyết ngay cả ở chính Công ty.Trong điều kiện nước ta còn khó khăn về nhiều mặt, công tác đào tạo cán bộ cũng còn chưa được quản tâm đúng mức. Hiện nay, mặc dù lực lượng lao động rất đông đảo nhưng đội ngò cán bộ có trình độ chuyên môn của Việt Nam vẫn còn hạn chế. Đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài đòi hỏi rất nhiều kỹ năng chuyên môn như nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, ngoại ngữ, hợp tác đầu tư…, số lượng những cán bộ có thể đáp ứng được là Ýt. Công tác cán bộ cũng là công tác yếu kém nhất của Việt Nam thời gian qua trong lĩnh vực đầu tư cũng như thương mại quốc tế. Điều này đã khiến cho Việt Nam chịu rất nhiều thua thiệt. Chính vì vậy, trong thời gian tới, công tác đào tạo cán bộ cần phải được chú trọng đặc biệt. Kết luận Xuất nhập khẩu hàng hoá có một vai trò vô cùng quan trọng đối với một nền kinh tế thực hiện chiến lược kinh tế mở. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá giúp cho nền kinh tế đất nước phát triển mạnh mẽ, góp phần đưa nền kinh tế quốc gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, phù hợp với xu thế chung về tính toàn cầu hoá nền kinh tế ngày nay. Xuất khẩu hàng hoá ngày càng khẳng định là hướng đi đúng và là mục tiêu hàng đầu của một nền kinh tế mở. Do vậy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá nên đã đề ra một loạt các giải pháp khuyến khích mạnh xuất khẩu đối với Công ty trong nước cũng như đối với Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Nước ta đã trải qua hơn 10 năm thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế và cũng thời gian này, hàng hoá nước ngoài ngày càng thâm nhập vào thị trường nước ta, hàng hoá của chúng ta cũng vươn mạnh ra thị trường bên ngoài. Để đạt hiệu quả cao khi tham gia vào thương mại quốc tế, tất yếu đòi hỏi phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của nước nhà. Hơn 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, chóng ta đã thu hót một nguồn vốn đáng kể từ bên ngoài vào xây dựng và phát triển kinh tế, Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu thế trội hơn so với Công ty trong nước trong lĩnh vực phát triển xuất khẩu. Những ưu thế về vốn, thiết bị máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, ưu thế về thâm nhập thị trường… Khi được kết hợp với những chính sách ưu tiên khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta sẽ góp phần thúc đẩy mạnh xuất khẩu trong Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Với những chủ trương, chính sách khuyến khích mạnh xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, với những tiềm năng sẵn có trong nước cùng với tiềm năng vốn có của Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam, chóng ta hy vọng hoạt động xuất khẩu của Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam sẽ đạt được những kết quả lớn hơn trong những năm tới, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước ta trong thế kỷ 21. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Văn kiện Hội nghị TW, khoá IX 2. Báo cáo của Công ty Viglacera ngày 30/12/2000 3. Báo cáo của Tổng công ty Viglacera tháng 11/2000 và 11/2001 4. Quyết định 28 TTg, ngày 13/1/1997 của Thủ tướng Chính phủ 5. Báo cáo của Tổng công ty Viglacera tháng 3/2003 6. Báo cáo của Tổng công ty Viglacera tháng 11/1998 7. Báo cáo của Tổng công ty Viglacera ngày 15/11/2003 8. Nghị định số 10/1998/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích đầu tư 9. Quyết định số 1921/QĐ-TM ngày 1/9/1999 về bãi bỏ việc duyệt xuất nhập khẩu 10. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi năm 1996 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 173.doc
Tài liệu liên quan