Tài liệu Các chính sách thúc đẩy chuỗi giá trị toàn cầu (Tiếp theo)

Sau khi tăng trưởng bùng nổ trong những năm đầu thập niên 2000, GVC đã dần dần trở thành xương sống của nền kinh tế toàn cầu và thay đổi đáng kể hoạt động của nó. Sản xuất toàn cầu ngày nay trải rộng trên số lượng ngày càng tăng các công ty, các ngành công nghiệp và các quốc gia và một số nền kinh tế mới nổi đã trở thành cường quốc kinh tế nhờ GVC. Dòng chảy lớn của hàng hóa, dịch vụ, vốn, con người và công nghệ di chuyển qua biên giới trong các mạng lưới sản xuất quốc tế này đã dẫn đến sự liên kết ngày càng tăng giữa các quốc gia. Kể từ khi xuất hiện vào những năm 1980, GVC đã trở nên dài hơn và phức tạp hơn. Các công đoạn sản xuất số lượng hàng hóa ngày càng tăng - thêm nhiều sản phẩm truyền thống như hàng dệt may cũng như các sản phẩm chuyên sâu về công nghệ hơn, ví dụ: điện tử - và ngày càng nhiều dịch vụ được trải rộng trên nhiều địa điểm. Điều này đến lượt nó đã dẫn đến tăng trưởng thương mại và vận chuyển theo thời gian. Tổ chức sản xuất trong các GVC dài và phức tạp để tận dụng các yếu tố vị trí tối ưu cho các công đoạn cụ thể của sản xuất trên toàn cầu đã cho thấy lợi thế của nó đối với các công ty về năng suất, hiệu quả, quy mô nền kinh tế, v.v. Loạt chính sách GVC đã nêu bật một số câu hỏi chính cần được kiểm tra sâu hơn trong ngữ cảnh các chuỗi giá trị cụ thể, khu vực hoặc sáng kiến công tư. Một chủ đề thống nhất ở đây là sự cần thiết phải kết hợp - có thể là một trong số các công cụ chính sách khác nhau, khu vực pháp lý khác nhau hoặc sáng kiến công và tư.

pdf49 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 147 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Các chính sách thúc đẩy chuỗi giá trị toàn cầu (Tiếp theo), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p vừa, nhỏ và siêu nhỏ (MSME) Điểm đáng chú ý trong lĩnh vực dịch vụ là sự phát triển mạnh mẽ của các DNVVN. Không giống như các lĩnh vực hàng hóa thường có quy mô phục vụ thị trường quốc tế đáng kể, ngày càng có nhiều DNVVN trong lĩnh vực dịch vụ tham 26 gia vào GVC. Bằng chứng cho thấy các DNVVN về dịch vụ thâm dụng tri thức có khuynh hướng tham gia vào các hoạt động B2B quốc tế nhiều hơn so với các đối tác sản xuất của họ. Ngay từ năm 2000, người ta ước tính rằng các DNVVN về dịch vụ trên toàn cầu tham gia các liên minh quốc tế nhiều gấp 4 lần so với các DNVVN về chế tạo. Philippin là một ví dụ điển hình. Trong năm 2016, 99,57% các doanh nghiệp Philippin là MSME (hơn 80% trong số đó là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ); 60% đơn vị xuất khẩu là MSME, chiếm 25% doanh thu xuất khẩu của Philippin, chủ yếu là các nhà cung cấp dịch vụ cho các GVC. Mô hình thành công này lại chưa được nhân rộng ở các nơi khác. Ví dụ, ở Phần Lan, vào giữa những năm 2000, tỷ lệ doanh nghiệp dịch vụ xuất khẩu vào khoảng 6% đối với các doanh nghiệp có từ 1-9 nhân viên, 18% đối với các doanh nghiệp có 10-19 nhân viên, 30% đối với các doanh nghiệp có 50-249 nhân viên và gần 60% đối với các doanh nghiệp có từ 250 nhân viên trở lên. Các mô hình tương tự có thể thấy ở các quốc gia khác như Pháp, Ireland và Slovenia. Úc là quốc gia ít tham gia GVC hơn, các công ty kinh doanh dịch vụ lớn có xu hướng tham gia nhiều hơn vào kinh doanh xuất khẩu, dẫn đến dịch vụ xuất khẩu kém hiệu quả. Có thể thấy rằng tất cả các dữ liệu này xác nhận, kể cả đối với Philippin, là mặc dù các cơ hội thị trường quốc tế luôn sẵn đối với các công ty dịch vụ nhỏ, nhanh nhẹn, MSME vẫn phải đối mặt với những thách thức lớn khi tiếp cận. Khảo sát nhận thức kinh doanh trong suốt thập kỷ qua liên tục cho thấy việc thiếu tiếp cận các nguồn tài chính thương mại truyền thống luôn là hạn chế lớn nhất, hoặc ở gần tốp đầu, cản trở xuất khẩu dịch vụ đối với các MSME. Ngay cả ở các nước thành viên OECD, các MSME đều phải vật lộn để có được nguồn tài chính ngân hàng và dựa vào các nguồn nội bộ hoặc các lựa chọn khác như đầu tư thiên thần, chương trình vườn ươm, vốn mạo hiểm, nguồn lực cộng đồng và bao thanh toán. Ngân hàng thế giới coi sự thiếu tương tác của các nhà xuất khẩu dịch vụ trong hệ thống ngân hàng là một yếu tố mạnh mẽ để khôi phục khủng hoảng của thương mại dịch vụ trong suốt thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu. Các vấn đề tiếp cận tài chính thương mại có thể có xu hướng giảm bớt phần nào đối với các dịch vụ MSME tham gia vào thương mại trực tuyến, nhưng thường chỉ được thay thế bằng các vấn đề trong việc truy cập các hệ thống thanh toán. 27 Tuy nhiên, việc chuyển đổi sang kỹ thuật số hóa vẫn đang khiến nó trở nên dễ dàng hơn và làm giảm mức độ quan trọng của quy mô tại giai đoạn sản xuất. Trong nền kinh tế kỹ thuật số, chi phí bổ sung khi thêm khách hàng mới có thể là rất nhỏ và thậm chí các công ty dịch vụ khởi nghiệp có thể thâm nhập thị trường quốc tế - trở thành công dân toàn cầu. Rất nhiều ví dụ về hỗ trợ kỹ thuật số mang lại các cơ hội thương mại lớn cho các DNVVN như world wide web làm giảm các rào cản để thâm nhập thị trường. Âm nhạc, phim ảnh, phần mềm máy tính, trò chơi trên máy tính và các loại tương tự thường được sản xuất cho thị trường toàn cầu bởi các doanh nghiệp trẻ vừa và nhỏ. Một số nghiên cứu nhấn mạnh cách sử dụng nền tảng internet cho thương mại điện tử, cũng như các nền tảng truyền thông xã hội giúp các DNVVN tiếp cận thị trường quốc tế. Các nghiên cứu này nói chung không dành riêng cho các DNVVN về dịch vụ và chủ yếu tập trung vào các giao dịch B2C đối với hàng hóa, thay vì giao dịch dịch vụ B2B điện tử trong GVC. Một nghiên cứu chỉ ra rằng 82% các công ty bắt đầu kinh doanh qua thương mại điện tử nhờ internet là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Một nghiên cứu của eBay cho thấy xuất khẩu của các DNVVN tiếp cận các nền tảng thương mại điện tử vượt quá 5 lần so với xuất khẩu của nền kinh tế truyền thống và các công ty này có xu hướng có thu nhập cao hơn và thu được số lượng điểm đến xuất khẩu đa dạng hơn. Viện McKinsey Global đã chỉ ra rằng các DNVVN kinh doanh dịch vụ sử dụng internet để phục vụ các chức năng kinh doanh tăng gấp đôi so với các doanh nghiệp không sử dụng internet. Nhiều nhà bình luận kinh doanh cho rằng không thể tránh khỏi việc các DNVVN kinh doanh dịch vụ có hỗ trợ kỹ thuật số đang ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động GVC và thương mại B2B sẽ chiếm ưu thế áp đảo. Để tồn tại trên thị trường quốc tế, giống như các doanh nghiệp lớn hơn, các DNVVN kinh doanh dịch vụ sẽ tập trung vào năng lực cốt lõi và thị trường ngách và thuê ngoài các nhiệm vụ không cốt lõi cho các DNVVN kinh doanh dịch vụ khác. 2.4. Các phương diện phát triển công nghiệp dịch vụ Ở Đông Á, các khu vực kinh tế nhỏ như Singapore và Hồng Kông đã sớm tăng trưởng phát triển thông qua chuyên môn hóa trong ngành dịch vụ. Nhưng kinh nghiệm này không được lặp lại ở các nước khác, và các dịch vụ về cơ bản là thương mại hàng hóa. Dịch vụ hàng hải, hậu cần, thương mại và dịch vụ tài chính đều đóng vai trò rất lớn trong các mô hình phát triển xuất khẩu của các nền kinh tế này. 28 "Cách mạng dịch vụ", xuất hiện muộn ở Nam Á nhưng nhanh chóng tăng nhanh ở các nơi khác của thế giới đang phát triển, mở ra một con đường phát triển khác với sự bùng nổ của các dịch vụ kinh doanh, dường như độc lập với sản xuất. Lần đầu tiên, dịch vụ đưa ra một công cụ thay thế để phát triển, cho phép một số nền kinh tế đi sau nhảy cóc thẳng từ các nền kinh tế nông nghiệp sang các hoạt động làm thuê (Outsourcing) dịch vụ. Philippin là một ví dụ ban đầu ở Đông Á. Nhưng hiện tượng này nhanh chóng lan rộng khắp vùng Caribe đến châu Phi và đến Trung và Đông Âu. Bằng chứng đã bắt đầu cho thấy rằng các nước đang phát triển đang chuyển dịch theo hướng dịch vụ sớm hơn, với mức GDP bình quân đầu người thấp hơn so với thông thường trong quỹ đạo phát triển. Quan trọng hơn, đóng góp xuất khẩu dịch vụ vào tăng trưởng GDP ở các nước đang phát triển có thu nhập thấp được cho là cao hoặc cao hơn so với trường hợp của các nước có thu nhập cao. Đến năm 2013, một phần tư các nước chậm phát triển (LDC) - Campuchia, Djibouti, Gambia, Lào, Liberia, Nepal, Samoa, Tanzania, Vanuatu - là các nước xuất khẩu dịch vụ ròng. Trong giai đoạn 2007 - 2011, tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ của các nước chậm phát triển trung bình gần gấp đôi tốc độ tăng trưởng của thế giới và khoảng 18 quốc gia, hay một nửa số các nước chậm phát triển, có tỷ trọng dịch vụ trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở mức cao hơn mức trung bình toàn cầu vào năm 2013. Mức độ đa dạng hóa trong xuất khẩu dịch vụ ở các nước chậm phát triển là khá cao, mặc dù du lịch chiếm ưu thế. Bangladesh là nước chậm phát triển có hoạt động mạnh nhất trong xuất khẩu dịch vụ kinh doanh khác. Năm 2013, Báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD cho thấy, mặc dù FDI toàn cầu giảm 18% trong năm 2012, thì FDI dịch vụ ít bị ảnh hưởng nhất và dòng vốn FDI vào ngành dịch vụ ở các nước chậm phát triển đạt mức cao kỷ lục, tăng bởi các nhà đầu tư từ các nước đang phát triển. Chuyển thuê ngoài các dịch vụ kinh doanh cho các khu vực có chi phí thấp hơn ở các nước đang phát triển có một số đặc điểm khác biệt rõ rệt so với thuê ngoài diễn ra trong sản xuất. “Dòng” GVC được mở ra không phụ thuộc vào vận tải hàng hóa vật chất hoặc cơ sở hạ tầng giao thông vật chất. Tuy nhiên, các sân bay và liên kết hàng không rất quan trọng đối với dịch chuyển tạm thời của con người và giao tiếp mặt đối mặt, và cáp viễn thông dưới biển chắc chắn có liên quan đến kết nối internet. 29 Các yếu tố quan trọng hơn trong việc thu hút khách hàng nước ngoài liên quan đến “cơ sở hạ tầng kinh tế tri thức”; đó là chất lượng giáo dục đại học và đào tạo, bao gồm khả năng ngôn ngữ và kỹ năng CNTT. Văn hóa dịch vụ và mối quan hệ văn hóa với công ty dẫn đầu cũng có thể có liên quan. Múi giờ cũng là một yếu tố ảnh hưởng quan trọng. Môi trường kinh doanh, sự minh bạch của các chế độ pháp lý trong nước và quy định của pháp luật cũng rất quan trọng. Điều này một phần là do khó kiểm tra các hoạt động xuất khẩu dịch vụ trong “khu thương mại tự do” riêng biệt để đạt được hiệu quả pháp lý trong nước. Hơn nữa, trong khi quy mô thị trường trong nước nói chung không phải là động lực ban đầu, thì một số hoạt động mở rộng vào thị trường trong nước luôn là điều mong muốn đối với nhà đầu tư trong hoạt động xuất khẩu dịch vụ. Một số đặc điểm địa lý thông thường khác có tầm quan trọng thấp hơn. Ngoài những kết quả từ mô hình trọng lực, các công ty cũ nhỏ, xa xôi với thị trường đích ít liên quan hơn đến thương mại dịch vụ. Các dịch vụ có thể được xuất khẩu trực tuyến giúp kết nối các quốc gia nằm ngoài GVC do khoảng cách từ các trung tâm như Nhật Bản hoặc Trung Quốc ở châu Á, Hoa Kỳ ở Bắc Mỹ và Đức ở châu Âu. Việc chuyển hóa phát triển trong các lĩnh vực dịch vụ thành các kết quả tăng trưởng bền vững và bao trùm đòi hỏi phải tập trung và chiến lược hướng dịch vụ của chính phủ. Trung Quốc là một ví dụ nổi bật về chiến lược có chủ ý được vạch ra nhằm đạt bước phát triển nhảy vọt bằng cách nhắm tới khu vực dịch vụ. Hai Kế hoạch Phát triển Quốc gia 5 năm gần đây đã công nhận tầm quan trọng của các ngành dịch vụ, đặt ra các mục tiêu cho sự tăng trưởng việc làm ngành dịch vụ ở Đồng bằng Châu Giang. Các dịch vụ là trọng tâm rõ ràng của gói kích thích kinh tế của Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Khu vực thương mại dịch vụ tự do Thượng Hải - Phố Đông là khu thương mại dịch vụ tự do đầu tiên trên thế giới. Hội chợ Thương mại Dịch vụ Quốc tế Bắc Kinh-Trung Quốc là hội chợ xúc tiến xuất khẩu dành riêng cho tất cả các dịch vụ quốc tế đầu tiên. Trong số những kết quả thu được, có lẽ sự thể hiện thành công lớn nhất là ở Trung Quốc với ngành dịch vụ từ dưới 50% GDP đã vượt qua ranh giới đó. Với sự chuyển đổi cơ cấu lớn đối với nền kinh tế kỹ thuật số đang được thực hiện, sẽ nảy sinh các câu hỏi mới về vấn đề kinh tế và xã hội. Bản thân ngành dịch 30 vụ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi công nghệ đột ngột, bao gồm cả việc áp dụng trí tuệ nhân tạo, tự động hóa một loạt các nhiệm vụ dịch vụ trước đây do con người thực hiện. Tương lai của công việc đã trở thành một chủ đề chính cho nhiều nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp. Những lợi ích mà các nước đang phát triển được hưởng lợi từ việc gia công dịch vụ, đặc biệt là đối với tăng trưởng việc làm của phụ nữ, do đó có thể có rủi ro? A.T. Kearney ước tính rằng 1 triệu việc làm thuê ngoài (BPO) thực sự gặp rủi ro trong vòng 5 năm tới tập trung ở bốn quốc gia (Mỹ, Ấn Độ, Philippin và Ba Lan). Minh họa thực tế này, Infosys và Wipro gần đây đã sa thải 11.000 và 12.000 nhân viên tương ứng ở Ấn Độ, thay thế những người này bằng phần mềm thông minh. Hộp 5: Chuyển dịch sang ngành dịch vụ trong nền kinh tế toàn cầu - Lĩnh vực hoạt động kinh tế toàn cầu lớn nhất, chiếm hơn 70% GDP thế giới (bao gồm xây dựng và các tiện ích) - Yếu tố chủ đạo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đóng góp lớn nhất vào việc thúc đẩy tăng trưởng GDP và giảm nghèo - Đơn vị sử dụng lao động lớn nhất và tăng trưởng nhanh nhất; việc làm trong các ngành dịch vụ vượt qua việc làm trong ngành nông nghiệp hơn một thập kỷ trước đây - dịch vụ chỉ chiếm hơn một nửa tổng số việc làm toàn cầu trong năm 2017 và chiếm ba phần tư ở các nước có thu nhập cao - Yếu tố đóng góp phát triển nhanh nhất cho sự tham gia của nữ giới vào lực lượng lao động và tăng trưởng tiền lương nữ tương đối cao hơn 25 Đích chủ đạo của dòng FDI, tỷ trọng dịch vụ của cổ phiếu FDI toàn cầu cao hơn gấp đôi so với của sản xuất Yếu tố đóng góp đáng kể vào tăng trưởng năng suất - năng suất đa biến ngày càng được hiểu là đổi mới dịch vụ Thông thường các điều kiện thương mại kém hiệu quả (nhưng được biết đến có mức đánh giá thấp đáng kể trong cán cân thanh toán), các dịch vụ chiếm hơn 50% thương mại toàn cầu về giá trị gia tăng, và thương mại dịch vụ toàn cầu đang tăng trưởng liên quan đến thương mại hàng hóa - Các nước đang phát triển (trừ Trung Quốc) chỉ chiếm 25% xuất khẩu dịch vụ thế giới nhưng những đóng góp của họ đang tăng rất nhanh - Chín nước kém phát triển nhất là các nước xuất khẩu dịch vụ ròng; du lịch chiếm vai trò nổi bật như BPO - Các ngành dịch vụ đang quốc tế hóa; hiện tại không có dịch vụ thương mại có thể được coi là "không thể giao dịch" (thậm chí ngành làm tóc hoặc vệ sinh cũng không) - Các biện pháp ban đầu của UNCTAD và Phòng Phân tích Kinh tế Hoa Kỳ chỉ ra tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ cho thương mại B2B trong các dịch vụ kỹ thuật số trong GVC. 31 Một thái độ lạc quan được mô tả trong cuốn sách gần đây của Richard Baldwin, The Great Convergence – Sự hội tụ vĩ đại. Baldwin dự đoán rằng làn sóng toàn cầu hóa tiếp theo sẽ chứng kiến sự xóa bỏ các hoạt động trung gian dựa vào công nghệ và việc chuyển ra ngoài việc làm sang các nước đang phát triển sẽ tác động đến số lượng lớn các nhà cung cấp dịch vụ văn phòng ở các nước phát triển. Hình thức trực diện sẽ vẫn đóng vai trò rất quan trọng và các nhà cung cấp dịch vụ ở các nước đang phát triển, trong đó có cả phụ nữ, sẽ tiếp tục gia tăng sự tham gia của họ, gồm cả telepresence (hiện diện từ xa trên màn hình) và hologram (hình ảnh 3D), tại các thị trường dịch vụ ở các nước phát triển. Có thể nói, hầu hết các nhà bình luận kinh doanh dịch vụ dự đoán rằng sẽ không xảy ra quá trình mất việc làm ròng trong các ngành dịch vụ, mà hoàn toàn ngược lại. 2.5. Tính bền vững trong công nghiệp dịch vụ Đương nhiên, điều quan trọng là phải nhận ra vai trò của “các dịch vụ môi trường” trong việc mang đến tính bền vững công nghiệp nâng cao. Nhiều hoạt động dịch vụ vốn thường không được xác định là “thuộc về môi trường” cũng đóng một vai trò quan trọng trong kết quả này. Một số nghiên cứu đã minh họa điểm này. Nghiên cứu của APEC tập trung vào việc lắp đặt và vận hành thiết bị năng lượng tái tạo trong các lĩnh vực quang điện, gió và thủy điện phụ thuộc vào kiến thức và kỹ năng dịch vụ giá trị gia tăng cao. Công nghệ năng lượng tái tạo chỉ có thể được triển khai kết hợp với các dịch vụ liên quan khác, chẳng hạn như lắp đặt, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và bảo trì thiết bị. Nhiều dịch vụ khác cũng là đầu vào quan trọng đối với các dự án năng lượng tái tạo: dịch vụ tư vấn khoa học và kỹ thuật; các dịch vụ cần thiết để phân phối điện; các dịch vụ chuyên nghiệp; dịch vụ xây dựng và kỹ thuật; dịch vụ tư vấn quản lý và kiểm soát tài chính; và dịch vụ bảo trì và sửa chữa thiết bị. Kết luận chính sách quan trọng là bất kỳ nỗ lực quốc tế nào nhằm tạo thuận lợi cho thương mại hàng hóa có lợi cho môi trường cũng nên nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại dịch vụ môi trường được xác định rộng rãi bởi vì các dịch vụ liên quan là những yếu tố “không thể thiếu”. 32 Những nghiên cứu gần đây về vai trò của các dịch vụ trong giai đoạn chế tạo lại (re-manufacturing) của các GVC thiết bị công nghiệp nặng cũng cung cấp thông tin chi tiết về cách thức các đầu vào dịch vụ giúp đạt được các kết quả bền vững trong GVC tư liệu sản xuất quốc tế hóa phức tạp. Chế tạo lại được coi là mức tái sử dụng cao nhất đối với hàng hóa công nghiệp - một quá trình phát triển, tinh lọc và phức tạp chứ không đơn thuần là tái chế, làm mới hoặc dựng lại. Điều này một phần vì nó liên quan đến việc thu hồi các thành phần vật lý cốt lõi, vì vậy các doanh nghiệp có thể lấy lại phần lớn giá trị của hàng hóa được chế tạo trước đây ngay từ đầu chuỗi giá trị chế tạo lại, do đó giảm độ dài của khía cạnh hàng hóa của chuỗi giá trị và cả tài nguyên và cường độ vật chất của quá trình chế tạo lại. Hai nghiên cứu trường hợp kinh doanh gần đây, một nhà chế tạo thiết bị khai thác mỏ và xây dựng hạng nặng của Hoa Kỳ và một của Nhật Bản, cho thấy rằng gia tăng giá trị các dịch vụ liên quan đến chế tạo lại ở mỗi giai đoạn sản xuất và nhiều dịch vụ có giá trị rất cao, bao gồm mức độ chuyên môn, kỹ năng, kỹ thuật và kỹ năng thiết kế, hiểu biết sâu sắc về các đặc điểm kỹ thuật độc quyền, đào tạo mở rộng và phát triển công nghệ. Đối với công ty Mỹ, giai đoạn thiết kế và kỹ thuật gia tăng giá trị cao của chế tạo lại liên quan đến việc áp dụng công nghệ in 3D tiên tiến để khôi phục các thành phần về các đặc tính gốc và chất lượng tốt như mới. Các lợi ích môi trường được tạo ra có ảnh hưởng sâu rộng, bao gồm giảm chất thải từ sản xuất công nghiệp, giảm nhu cầu về nguyên liệu thô, và tạo ra “quy trình hậu cần đảo ngược khép kín” phục hồi các sản phẩm hết hạn sử dụng. Chu trình chế tạo lại giúp công ty đạt được các mục tiêu bền vững bằng cách mở rộng thời gian mà hàng hóa thâm dụng tài nguyên đang được sử dụng và giảm các vật liệu và năng lượng được sử dụng trong sản xuất. Nghiên cứu trường hợp thu hút sự chú ý đến cách các dịch vụ liên quan đến chế tạo lại mang lại lợi ích của “mất tính vật chất”, bao gồm “tăng hiệu quả vật chất trong hoạt động; thiết kế các sản phẩm giảm yêu cầu về số lượng lớn, bao gói hoặc yêu cầu năng lượng vòng đời; giảm yêu cầu vận tải trong chuỗi cung ứng, do đó giúp hạn chế việc sử dụng nhiên liệu và phương tiện; và thay thế các dịch vụ điện tử đối với các dịch vụ thâm dụng vật chất”. Đây là một ví dụ điển hình về câu chuyện tiến hóa được mô tả ở trên, với quy trình sản xuất rõ ràng chuyển đổi sang nội dung dịch vụ được kích hoạt kỹ thuật số lớn hơn. 33 Trong trường hợp của công ty Nhật Bản sản xuất các máy móc có tuổi thọ 20- 30 năm, 74 đầu vào dịch vụ được xác định dọc theo chuỗi giá trị, ước tính đóng góp hơn 50% giá trị gia tăng. Dịch vụ sau bán hàng có giá trị gia tăng rất cao - cao hơn cả giá của chính các máy móc. Dịch vụ hậu sảnh chiếm 1/3 hoạt động dịch vụ, giai đoạn chế tạo chiếm một phần năm, giai đoạn trước chế tạo và sau bán hàng đều chiếm 14%, giai đoạn thiết lập và sau chế tạo đều chiếm 9%. Năm mươi hai nhiệm vụ dịch vụ được thuê ngoài, bao gồm một số nhiệm vụ liên quan đến việc tuân thủ các quy định về sức khỏe, an toàn và môi trường. Điểm cuối cùng liên quan đến xu hướng bền vững liên quan đến môi trường được xây dựng, trong đó việc áp dụng các công nghệ mới có tác động phá vỡ chuỗi giá trị dịch vụ kiến trúc, kỹ thuật và xây dựng, nhiều dịch vụ trong số đó hưởng lợi từ khía cạnh môi trường. Ví dụ, các dịch vụ kiểm chứng trong tương lai đã được chuyển đổi với việc sử dụng CAD, cho phép ước tính mức tiêu thụ năng lượng tương lai của một tòa nhà và cải thiện tính bền vững của các kết quả môi trường được xây dựng. Việc áp dụng IoT cũng là một ví dụ, cho phép tất cả các đối tượng trên một công trường xây dựng được kết nối theo cách bền vững và hợp lý để thu thập và trao đổi dữ liệu về thiết bị, con người, công cụ, vật liệu và tác động môi trường. IoT cho phép các nhà thầu giám sát thiết bị, đưa ra cảnh báo bảo trì, theo dõi hàng tồn kho, thực hiện kiểm tra chất lượng tại chỗ, phát hiện lỗi sớm, giám sát tác động môi trường, dự đoán tai nạn và đảm bảo an toàn và theo dõi vị trí và hạnh phúc của nhân viên trong bất kỳ trường hợp khẩn cấp nào hoặc sơ tán công trường xây dựng. Trong bước tiếp theo, các công nghệ thực tế ảo sẽ cho phép các khía cạnh của việc theo dõi này được thực hiện từ xa, trong thời gian thực và ở nước ngoài trong các khu vực pháp lý chi phí thấp đối với các dịch vụ kỹ thuật và chuyên nghiệp, nhưng vẫn làm giảm tác động môi trường. 2.6. Bình đẳng giới trong công nghiệp dịch vụ Dữ liệu tự nói lên tất cả. Trên toàn thế giới, 40% lực lượng lao động làm việc trong năm 2009 là nữ. Trong số các lao động nữ trên thế giới, 37% làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp (33% đối với nam), 16% làm việc trong lĩnh vực sản xuất (26% đối với nam) và 47% làm việc trong lĩnh vực dịch vụ (40% đối với nam). 34 Phụ nữ chiếm xấp xỉ một nửa tổng số lao động toàn cầu trong lĩnh vực dịch vụ. Tỷ lệ lao động nữ trong lĩnh vực dịch vụ tăng nhanh, từ 41% năm 2001 lên 49,5% năm 2013. Trong ngành du lịch, phụ nữ chiếm 56% lực lượng lao động toàn cầu. Trong lĩnh vực CNTT, phụ nữ chiếm 30%. Trong ngành công nghiệp dịch vụ, lực lượng nữ giới làm việc ở vị trí nhân viên cấp dưới áp đảo hơn so với vị trí chủ doanh nghiệp, và tương đối ít người có khả năng thăng tiến lên vị trí quản lý. Quyền sở hữu và quản lý của nữ trong lĩnh vực dịch vụ cao hơn nhiều so với trong lĩnh vực sản xuất. Tuy nhiên, vị trí tổng giám đốc điều hành của 100 công ty công nghệ hàng đầu thế giới là phụ nữ chỉ chiếm 6%. Một số quốc gia và khu vực có vị trí cao hơn đáng kể so với mức trung bình toàn cầu này. Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đối với 14 nền kinh tế APEC có dữ liệu, hơn 65% nữ giới làm việc trong lĩnh vực dịch vụ. Trung bình 37% DNVVN trong khu vực APEC thuộc sở hữu của nữ giới, trong khi số lượng nữ giới tham gia chiếm số đông hơn nam giới tại các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Dữ liệu APEC cũng cho thấy rằng các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ làm thương mại ngoại tuyến bị chi phối bởi các công ty do nam giới sở hữu, trong khi đối với những người chỉ giao dịch trực tuyến, tỷ lệ các công ty do nữ giới sở hữu cao gấp đôi. 2.7. Ưu tiên chính sách và quản lý Một kết luận sơ bộ cho thấy, mặc dù tất cả những hạn chế thương mại dịch vụ trong nhiều thập kỷ đã không được cải cách hiệu quả, nhưng các vấn đề kinh tế kỹ thuật số phải chiếm vai trò nổi bật ngay lập tức trong chương trình thương mại nếu thương mại dịch vụ tiếp tục tạo ra năng suất và thu được phát triển trong những năm gần đây. Có đầy đủ bằng chứng về sự cần thiết phải thúc đẩy hơn nữa hợp tác pháp lý đối với các dịch vụ. Tuy nhiên, điều này chưa được quan tâm đầy đủ đối với các dịch vụ trong nền kinh tế kỹ thuật số. Các nhà quản lý không theo kịp với các biến đổi mô hình kinh doanh đang diễn ra. Sự tập trung cần hướng vào quản trị liên chính phủ về nội địa hóa dữ liệu, bảo vệ mã nguồn, yêu cầu mã hóa, bảo vệ người tiêu dùng và bảo mật dữ liệu. Cần phát triển các phương pháp quản lý giúp bảo vệ người tiêu dùng và bảo mật hợp pháp và 35 cũng cho phép luồng dữ liệu xuyên biên giới. Nguy cơ cao về phân mảnh quản lý hiện tại gây bất lợi đối với sự tăng trưởng dịch vụ toàn cầu. Xét từ khía cạnh phát triển, các ưu tiên cần tập trung bao gồm cải tiến về hạ tầng kỹ thuật số, quy định cạnh tranh chuyên nghiệp về các dịch vụ viễn thông, hội tụ các tiêu chuẩn quốc tế và giáo dục. Cần phải nhận thức rõ hơn đối với các nhà xuất khẩu dịch vụ, thị trường quốc tế không còn được định nghĩa địa lý theo từng quốc gia. Vị trí địa lý chính xác của một khách hàng doanh nghiệp dịch vụ ít liên quan hơn so với hàng hóa vì khách hàng doanh nghiệp dịch vụ đang làm kinh doanh ảo hạ nguồn xuống thấp hơn ở một địa điểm khác và trong mọi trường hợp, ngày càng trở nên tự do hơn. Do đó, việc mất liên kết quản lý ở các khu vực pháp lý là vấn đề nhức nhối nhất trong thương mại dịch vụ. Sự công nhận lẫn nhau về năng lực và các yêu cầu cấp phép tiếp cận với luồng dữ liệu xuyên biên giới và khả năng tương tác thông suốt giữa các khu vực pháp lý là những thứ sẽ tạo ra sự khác biệt cho khả năng cạnh tranh dịch vụ, đối với các nhà cung cấp dịch vụ lớn và nhỏ. 36 III. MÔI TRƯỜNG TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU 3.1. Thương mại hàng hóa và dịch vụ môi trường Xác định mục tiêu Nghiên cứu đã được tiến hành trong hơn hai thập kỷ để định hình một ngành hàng hóa và dịch vụ môi trường (EGS) riêng biệt. Theo ước tính của Environmental Business International, thị trường EGS toàn cầu vào khoảng 866 tỷ USD, với một số nhà phân tích dự đoán rằng nó có thể đạt tới 1,9 nghìn tỷ USD vào năm 2020. Nhìn chung, EGS bao gồm bốn loại: Hàng hóa và dịch vụ được sử dụng để phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, sản xuất năng lượng tái tạo, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên và giám sát môi trường. Tuy nhiên, việc chuyển từ các danh mục rộng này sang danh sách hàng hóa và dịch vụ được quốc tế đồng thuận vẫn phức tạp. Liệu hàng hóa và dịch vụ có thể được sử dụng cho mục đích môi trường có được tính đến nếu chúng cũng có những sử dụng ngoài lĩnh vực môi trường không? Ví dụ, vấn đề “lưỡng dụng” này phát sinh liên quan đến các máy bơm có thể được sử dụng để xử lý nước thải nhưng cũng được sử dụng trong các ngành khác. Hàng hóa và dịch vụ cung cấp các sản phẩm tương đối xanh hoặc sạch hơn so với các đối ứng chính được xử lý, khi theo các khái niệm tuyệt đối thì chúng vẫn gây ra một số tác hại môi trường ? Thủy điện có thể sạch hơn so với việc đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch, nhưng các đập có quy mô lớn có thể có tác động bất lợi đến đa dạng sinh học. Các ví dụ khác bao gồm các thiết bị hiệu quả hơn, động cơ máy bay phản lực và các điểm du lịch xanh. Việc xác định phạm vi của ngành ảnh hưởng đến GVC và quan điểm thương mại. Khi hàng hóa và dịch vụ môi trường được xác định, thì các rào cản thương mại cản trở chúng có thể được xác định chính xác và sau đó được loại bỏ, cho phép sự gia tăng dòng thương mại quốc tế dễ dàng hơn. Nhóm hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương 21 (APEC) xác định danh sách 54 hàng hóa tương đối hẹp - chủ yếu nhắm mục tiêu xử lý và theo dõi ô nhiễm - lợi ích từ mức thuế tự nguyện 5% hoặc ít hơn. Ban thư ký Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) có danh mục rộng hơn với 164 hàng hóa và dịch vụ. Vào tháng 7 năm 2014, một nhóm các thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã bắt đầu các cuộc đàm phán để loại bỏ thuế quan đối với hàng hóa môi trường. Các cuộc thảo luận được tiến hành trên cơ sở các loại hàng hóa môi trường khác nhau bao gồm: giảm ô nhiễm không khí, nước và đất; quản lý chất thải rắn và nguy hại; giảm tiếng ồn; và giám sát và đánh giá 37 chất lượng môi trường. Các nỗ lực bị đình trệ trong tháng 12 năm 2016 sau căng thẳng về những sản phẩm nào được đưa vào diện cắt giảm thuế quan. Mặc dù thuế quan đối với nhiều hàng hóa được xác định trong các danh sách khác nhau tương đối thấp, nhưng tác động “phiền toái” của nó không nên được đánh giá thấp trong thế giới chuỗi giá trị, do các thành phẩm, bộ phận và linh kiện cũng chuyển qua biên giới nhiều lần. Hơn nữa, thương mại trong các loại sản phẩm có lợi cho môi trường này có thể đại diện cho các giá trị khá lớn. Riêng xuất khẩu hàng hóa môi trường, không bao gồm dịch vụ, đã tăng từ khoảng 231 tỷ USD năm 2001 lên 656 tỷ USD năm 2012, chiếm khoảng 3,6% tổng giá trị xuất khẩu 18.346,87 tỷ USD năm 2012. Các thành viên WTO cũng chỉ ra sự tăng trưởng của những thách thức tiềm năng xung quanh thương mại EGS vượt ra ngoài phạm vi thuế quan. Mặc dù chưa hoàn hảo, nhưng các thông báo của thành viên WTO khái quát quan điểm của chính phủ về những gì cấu thành hàng hóa và dịch vụ môi trường được giao dịch. Trong số 3.400 thông báo khác nhau được các thành viên WTO đệ trình theo các hiệp định khác nhau - chẳng hạn như các biện pháp bảo vệ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại hoặc nông nghiệp trong năm 2015 - hơn 14% trong đó liên quan đến môi trường. Các tiêu chuẩn kỹ thuật theo Hiệp định Thương mại về Hàng rào Kỹ thuật của WTO (TBT) chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số các thông báo liên quan đến môi trường. Ngoài mối bận tâm với thuế quan là trở ngại chính trong thương mại EGS, các hàng rào phi thuế quan có thể cản trở hoạt động hiệu quả của chuỗi giá trị hàng hóa môi trường, đầu tư và thương mại dịch vụ môi trường. Phân tích từ năm 2017 bởi Mạng lưới Nghiên cứu và Đào tạo Châu Á Thái Bình Dương (ARTNeT) cho thấy tác động quan trọng nhất đối với thương mại hàng hóa môi trường đến từ các biện pháp phi thuế quan, khi so sánh với các biện pháp phi kỹ thuật, phi thuế quan. Hơn nữa, phân tích thấy rằng các biện pháp thuế quan không gây trở ngại đáng kể cho thương mại hàng hóa môi trường. Thương mại trong EGS tiếp tục gắn với hạn chế thương mại dịch vụ và tác động của nó đối với xuất nhập khẩu giữa các quốc gia trên tất cả các loại hàng hóa, nhưng đặc biệt là trong thương mại hàng hóa và sản phẩm môi trường. 38 Tuy nhiên, hàng rào phi thuế quan và các rào cản thương mại dịch vụ không phải luôn được nhận diện hay làm rõ, mặc dù tác động của chúng lên các chuỗi giá trị EGS. Hơn nữa, với một vài ngoại lệ, nhiều cuộc đàm phán cho đến nay đã tập trung vào thuế quan. Còn nhiều việc phải làm để xác định các trở ngại cụ thể trên các chuỗi EGS khác nhau - có thể sử dụng các loại được xác định ở trên - trong đối thoại với các công ty. Một cách tiếp cận chuỗi giá trị để mở rộng thương mại và đầu tư EGS có thể được theo đuổi bởi một nhóm các nước tham vọng. Mối liên hệ giữa các trở ngại thương mại của EGS và nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp trong các lĩnh vực liên quan cũng sẽ là cơ sở của một chương trình nghiên cứu công - tư hữu ích. Can thiệp chính sách thương mại Mặc dù các cuộc tranh luận về các danh sách EGS và các sản phẩm mục tiêu khác nhau vẫn là một vấn đề kỹ thuật quan trọng, nhưng bối cảnh đàm phán thương mại đã tiến triển, tuy chưa đạt được sự đồng thuận. Các hiệp định thương mại mới, ở một mức độ nào đó, đã có nhiều nỗ lực để giải quyết môi trường cho các chuỗi giá trị EGS và các tiêu chuẩn bền vững liên quan. Ví dụ, Hiệp định Kinh tế và Thương mại toàn diện của Liên minh Canada (CETA) không phá vỡ nền tảng mới trong EGS hoặc các tiêu chuẩn liên quan đến tính bền vững của các sản phẩm này, về cơ bản lặp lại các tham chiếu cấp cao hơn cho các thỏa thuận môi trường quốc tế liên quan đến thương mại. Tuy nhiên, CETA đã bao gồm một chương về thương mại và phát triển bền vững, cụ thể như sau: "Các Bên khẳng định rằng thương mại nên thúc đẩy phát triển bền vững. Theo đó, mỗi Bên cố gắng thúc đẩy thương mại và kinh tế các hoạt động góp phần tăng cường công tác và bảo vệ môi trường, bao gồm ... khuyến khích phát triển và sử dụng các chương trình tự nguyện liên quan đến sản xuất hàng hóa và dịch vụ bền vững như ghi nhãn sinh thái. và các chương trình thương mại công bằng." Chương môi trường của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) bao gồm các điều khoản khuyến khích sử dụng các cơ chế linh hoạt và tự nguyện, bao gồm các ưu đãi dựa trên thị trường như nhãn sinh thái, để tăng hiệu suất môi trường, so với APEC và Hiệp định Hàng hóa Môi trường (EGA) tập trung vào hàng hóa cụ thể, TPP đã coi hàng hóa và dịch vụ môi trường có tầm quan trọng như nhau và yêu cầu xem xét riêng rẽ. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình 39 Dương (CPTPP) đã thực hiện nhiều quy định về môi trường, nhưng cần tiếp tục hướng đến việc nhấn mạnh ưu tiên chung này. Ủy viên Thương mại Liên minh châu Âu (EU) Cecilia Malmström đã nhiều lần tham chiếu khả năng liên kết chính sách thương mại, các tiêu chuẩn liên quan và SDG. Trong bài phát biểu “Tương lai của chính sách thương mại EU” vào năm 2017, Ủy viên Malmström đã lưu ý: "Thương mại không chỉ là bảo vệ các tiêu chuẩn trong nước của chúng ta mà còn quảng bá chúng ở nước ngoài. Bằng cách sử dụng chính sách thương mại như một phương tiện cho các giá trị của chúng ta, chúng ta có thể định hình toàn cầu hóa, thay vì chỉ đơn thuần đề cập đến nó, hoặc để cho những người khác định hình nó cho chúng ta. Đó là về việc đảm bảo các phần khác của thế giới nắm lấy các tiêu chuẩn bảo vệ cao của chúng ta trong các lĩnh vực như an toàn cho người tiêu dùng, sức khỏe hoặc bảo vệ môi trường." EU đã huy động các chính sách thương mại và các hiệp định song phương nhằm tăng cường thị trường cho EGS trên toàn cầu và đặc biệt, với một số thị trường châu Á-Thái Bình Dương và các nền kinh tế đang phát triển. EU còn vượt ra ngoài các chính sách thương mại tập trung vào cắt giảm thuế quan và thể hiện sự hỗ trợ cụ thể cho ngành EGS và các quy định tiêu chuẩn trong các hiệp định thương mại song phương, bao gồm Singapore, Hàn Quốc và Việt Nam. Với những tiến bộ trong việc thúc đẩy EGS, vấn đề chính sách thương mại rộng lớn hơn phát sinh là nhu cầu cuối cùng để phân biệt hàng hóa xanh hoặc xanh với các hàng hóa truyền thống tương ứng khác. Bức tranh lớn ngoài chính sách thương mại Vấn đề môi trường toàn cầu đối với các chuỗi giá trị EGS không chỉ bao gồm chính sách và thực tiễn thương mại thuần túy. Nhìn chung, nhiều EGS được hình thành, thiết kế, sản xuất, tiếp thị, phân phối và tiêu thụ thông qua các chuỗi giá trị và biểu hiện tương đương và các liên kết như hàng hóa và dịch vụ chính thống. Nghiên cứu của OECD nhấn mạnh vai trò quan trọng của chính sách nội địa trong việc thúc đẩy mở rộng EGS: Các quy định ô nhiễm không khí và nước nghiêm ngặt hơn thường kích hoạt các lựa chọn công nghệ tốt nhất để đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng không khí và nước xung quanh. Một số câu lạc bộ cacbon sau Paris do 40 chính phủ lãnh đạo có khả năng thúc đẩy nhu cầu sử dụng năng lượng hiệu quả hơn và lắp đặt năng lượng tái tạo. Các dịch vụ xanh khác nhau cũng tiếp tục được quan tâm khi đối mặt với nhu cầu tiêu dùng liên kết và các yêu cầu về tính bền vững. Điều này bao gồm từ du lịch sinh thái gia tăng cho đến thúc đẩy vận chuyển hàng hóa đường bộ, hàng hải và hàng không carbon thấp, ít ô nhiễm hơn. Ví dụ, năm 2010, thông qua Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO), các nước đã nhất trí về lộ trình tự nguyện đệ trình các kế hoạch hành động quốc gia nhằm giảm lượng khí thải carbon dioxide từ vận tải hàng không quốc tế. Một phần quan trọng của sáng kiến bao gồm việc cô lập lượng khí thải cacbon, thông qua mở rộng nghiên cứu, lập bản đồ, kiểm toán và các dịch vụ môi trường khác liên quan đến các bể chứa cacbon. Đổi lại, nhiều lĩnh vực dịch vụ áp dụng các cam kết đối với cacbon thấp và không cacbon trong các hoạt động toàn cầu của họ. Các sáng kiến khí hậu cụ thể trong lĩnh vực dịch vụ tài chính cho thấy có thể có nhiều vốn đầu tư hơn trong chuỗi cung ứng năng lượng sạch. Sau khi Hiệp định Paris kết thúc, đã có sự gia tăng đáng kể trong việc "phủ xanh" các dịch vụ tài chính; nhiều sáng kiến khác nhau đã được công bố tại Hội nghị thượng đỉnh One Planet tháng 12 năm 2017 tại Paris liên quan đến các ngân hàng trung ương, ngăn chặn tài trợ khai thác dầu khí và áp dụng giá cacbon nội bộ trong Ngân hàng Thế giới. Sau khi các khuyến nghị của Nhóm công tác ổn định tài chính về Tiết lộ tài chính liên quan đến khí hậu ban hành vào giữa năm 2017, 237 công ty có tổng vốn hóa thị trường hơn 6,3 nghìn tỷ USD đã đồng ý cải thiện cách họ tiết lộ việc xác định, đánh giá và quản lý rủi ro về khí hậu của tổ chức cho các nhà đầu tư và các bên liên quan khác. Điều này xảy ra khi những nguồn phát thải cacbon lớn nhất đang được theo dõi và khoảng 400 quỹ, với tổng giá trị ước tính khoảng 50 nghìn tỷ USD, đã làm giảm khả năng tiếp cận với các đầu tư nhiên liệu hóa thạch. Thông báo tháng 11 năm 2017 do Quỹ đầu tư Na Uy Sovereign đề xuất rút khỏi tất cả các khoản đầu tư dầu khí đánh dấu sự thoái vốn lớn nhất khỏi nhiên liệu hóa thạch đến nay, trong khi danh sách 100 công ty hàng đầu thế giới có khí thải nhà kính cao nhất tập trung chủ yếu gây áp lực đối với các nhà đầu tư thông qua danh mục đầu tư sạch hơn. Những nỗ lực cụ thể đối với các công cụ tài chính xanh khác nhau cũng đã được thực hiện, từ các hợp đồng mua bán điện cho năng lượng tái tạo, các thỏa 41 thuận mua hiệu quả mới hơn cho đầu tư hiệu quả năng lượng và tăng tỷ lệ trái phiếu xanh. Kể từ lần phát hành đầu tiên một thập kỷ trước, trái phiếu xanh đã tăng gần gấp đôi sau mỗi 2 năm và có khả năng vượt 100 tỷ USD vào năm 2017. Do giá trị và phạm vi của trái phiếu xanh tăng lên, cả khu vực công và tư đều quan tâm hơn đến các tiêu chuẩn rõ ràng có thể so sánh để xác định và phân biệt chúng với các đối ứng của chúng. Nói cách khác, điều gì khiến cho một trái phiếu xanh? Điều này lặp lại các cuộc tranh luận về việc xác định hàng hóa môi trường, nhưng cũng chứng minh các tiêu chí xung quanh việc thiết lập các liên kết xanh có thể thúc đẩy nhu cầu về EGS và các tác nhân đó áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như thế nào. Sáng kiến của các công ty Ví dụ về các sáng kiến do công ty đưa ra nhấn mạnh vai trò mà các nhà sản xuất toàn cầu và các doanh nghiệp đa quốc gia (MNE) vận hành chuỗi giá trị quốc tế, các nhà cung cấp bán lẻ ở nhiều nước và tổ chức tài chính trong việc mở rộng quy mô hàng hóa và dịch vụ môi trường. Đối với nhiều công ty trong số này, các quyết định phải được thực hiện xuyên biên giới và khu vực pháp lý, hoặc trong bối cảnh của một chuỗi giá trị xanh hoặc hỗ trợ mạng lưới sản xuất EGS của mình. Các công ty tư nhân toàn cầu như Unilever, Campbell Soup Company, Coca- Cola và những công ty khác có hệ thống nội bộ để đặt ra các mục tiêu và đo lường hiệu suất hoạt động và chuỗi cung ứng trên toàn cầu của họ. Sự phụ thuộc hiện tại của Walmart vào năng lượng tái tạo cho hoạt động toàn cầu của mình là 25%, sẽ tăng lên đến 50% vào năm 2025. Apple báo cáo rằng hiện nay 100% nhu cầu điện toàn cầu của họ có nguồn gốc từ năng lượng tái tạo. Công ty cũng liệt kê lượng khí thải carbon của các nhà cung cấp chính trong chuỗi cung ứng của họ, với gần 80% trong số 30 triệu tấn lượng phát thải khí nhà kính hàng năm phần lớn là do sản xuất mạch tích hợp, nhôm và bản mạch tại Trung Quốc. Các nguồn năng lượng tái tạo được lắp đặt ở Trung Quốc cho phân khúc sản xuất của Apple được báo cáo ở mức 485 megawatt. Tuy nhiên, các công ty không tự hành động nghiêm túc một mình. Nhu cầu tiêu dùng đã góp phần thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn bền vững, ghi nhãn môi trường và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) ít nhất là ở giai đoạn tiếp thị và mua sản phẩm cuối cùng. 42 3.2. Vai trò của các tiêu chuẩn bền vững dựa trên thị trường Xuất xứ Sự phức tạp trong quy trình sản xuất liên quan đến việc quốc tế hóa chuỗi cung ứng và chiến lược tiếp thị và xây dựng thương hiệu đã làm tăng sự quan tâm đến tiêu chuẩn chứng nhận của bên thứ ba nhằm đảm bảo tính toàn vẹn của chuỗi cung ứng. Thách thức chính trong việc xác định các sản phẩm và dịch vụ bền vững là giảm thiểu một phần bằng cách sử dụng các tiêu chuẩn bền vững trong chuỗi cung ứng. Ngày nay, hơn 400 hệ thống tự nguyện liên quan đến môi trường khác nhau đang hoạt động trên khắp thế giới. Khi chúng được kết hợp với các nhãn liên quan đến xã hội khác nhau, theo một số ước tính thì con số này lên hơn 550. Mặc dù biến đổi khí hậu gần đây đã trở thành chất xúc tác chính cho hoạt động môi trường của các công ty, các hệ thống chứng nhận và nhãn mác dựa trên thị trường hoặc tự nguyện đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ để thúc đẩy một loạt các mục tiêu bền vững trong hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng, cũng như các chuỗi sản xuất hỗ trợ những hàng hóa và dịch vụ đó. Nhãn bền vững cá nhân và các hệ thống chứng nhận của bên thứ ba bao trùm toàn cảnh phát triển bền vững, bao gồm tiêu chí để thúc đẩy mục tiêu bền vững trong lâm nghiệp, nông nghiệp, thủy sản, may mặc, du lịch, kim loại và khai thác, năng lượng và các lĩnh vực khác. Một số chương trình tự nguyện đã dự đoán hành động của chính phủ sau này. Ví dụ, các công ty đã tiếp thị hàng tiêu dùng thân thiện với ôzôn trước khi các mục tiêu ràng buộc của Nghị định thư Montreal năm 1987 có hiệu lực. Mối quan tâm của người tiêu dùng về điều kiện môi trường đã trực tiếp hoặc gián tiếp đóng vai trò trong việc thúc đẩy các chương trình này. Một cuộc khảo sát gần đây về các cuộc thăm dò việc thay đổi ý kiến công chúng về các vấn đề môi trường trong vòng hai thập kỷ qua bởi Gallup cho thấy sự quan tâm của công chúng đối với việc bảo vệ môi trường ngày càng tăng lên. Các tiêu chí được sử dụng để hỗ trợ các tiêu chuẩn hoặc nhãn bền vững trong thị trường lên tới hàng nghìn, bao gồm mức cacbon thấp trong hệ thống năng lượng cho đến cấm các hoạt động nhất định ngành thủy sản, cấm các phụ gia hóa học được xác định trong các loại thực phẩm và các mục tiêu xã hội khác nhau, như bình đẳng giới, lao động trẻ em, thu nhập, nhân quyền. Một số tiêu chuẩn liên quan đến xã hội và người tiêu dùng được ghi trong các hệ thống như Hội chợ Thương mại Quốc tế 43 Xu hướng cho thấy tỷ trọng của một số mặt hàng trọng điểm được bao quát đang tăng lên, bao gồm cả các mặt hàng đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển cho sinh kế và xuất khẩu. Các Sáng kiến hàng năm về tình trạng bền vững cung cấp tổng quan về các xu hướng trong các hệ thống tự nguyện dựa trên thị trường, tập trung vào 16 đề án ghi nhãn sinh thái lớn nhất bao trùm bốn lĩnh vực: cà phê, ca cao, cọ và rừng được bảo vệ. Giá trị thương mại toàn cầu của những hàng hóa này ước tính hàng năm là 31,6 tỷ USD, chiếm 40% sản lượng cà phê thế giới, 22% tổng sản lượng cacao, 15% tổng sản lượng dầu cọ cũng như 9% diện tích rừng thế giới (dữ liệu năm 2012). Việc mở rộng thương mại dầu cọ cũng là nguyên nhân chính gây mất rừng trong các khu vực có hệ sinh thái lâm nghiệp quan trọng nhất. Các tổ chức bảo tồn lớn, những khách hàng toàn cầu và các tổ chức khác năm 2001 đã thành lập Hội nghị bàn tròn về Dầu cọ bền vững (RSPO), do Quỹ Động vật hoang dã thế giới (WWF) đứng đầu, để chuyển sang sản xuất dầu cọ bền vững. Điều này tập trung vào sản xuất mà không cần khai phá rừng, ban đầu được hỗ trợ bởi các hướng dẫn và tiêu chuẩn như đánh giá tác động môi trường. Các tiêu chuẩn bền vững chính là tiêu chuẩn về sản xuất dầu cọ bền vững RSPO và Tiêu chuẩn chứng nhận chuỗi cung ứng RSPO (SCCS). Có lẽ quan trọng nhất là quỹ đạo của các đề án này, cho thấy tốc độ tăng trưởng tổng hợp khoảng 50% trong thời gian 5 năm. Một thể loại nhánh của phát triển tổng thể này trong các tiêu chuẩn phát triển bền vững là các sáng kiến liên quan đến biển, nhằm hỗ trợ nghề cá bền vững và các mục tiêu liên quan. Từ năm 2003 đến năm 2015, tỷ lệ thủy sản bền vững được chứng nhận (cả khai thác tự nhiên và nuôi trồng thủy sản) tăng từ 0,5% đến 14% sản lượng ước tính toàn cầu, với giá trị thị trường toàn cầu hiện tại là 11,5 tỷ USD (2015). Các tiêu chuẩn cacbon thấp và không cacbon theo Hiệp định Paris cũng đang phát triển. Các nhãn hiệu mới đã tiến vào các thị trường để thúc đẩy các thuộc tính không cacbon và cacbon thấp khác nhau. Trong báo cáo được phát hành tại Hội nghị thượng đỉnh một hành tinh, Diễn đàn hàng tiêu dùng - một hiệp hội toàn cầu gồm 400 nhà bán lẻ, nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ và những người khác - báo hiệu tầm quan trọng ngày càng tăng của các giải pháp cacbon thấp trong các thành viên, bao gồm giảm phát thải cacbon trong chuỗi cung ứng toàn cầu đối với hiệu suất năng lượng và nhãn cacbon thấp hơn trong nhãn hàng tiêu dùng. 44 Sự phổ biến các tiêu chuẩn đã nảy sinh một số quan tâm liên quan đến sự đa dạng của các nền tảng, tiêu chí, chi phí và các vấn đề tiếp cận thị trường không phân biệt đối xử khác nhau. Hoạt động của Trung tâm Thương mại Quốc tế, bao gồm Bản đồ Tiêu chuẩn, cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà cung cấp ở các nước đang phát triển của các hệ thống này. Ngoài ra, Sáng kiến Phát triển Bền vững (SSI) của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển và Viện Phát triển bền vững Quốc tế, cung cấp nghiên cứu và phân tích sự gia tăng của các hệ thống này, liên quan đến việc tuân thủ tiêu chuẩn trên toàn thế giới trong sản xuất và thương mại hàng hóa bền vững. Kể từ khi bắt đầu có các tiêu chuẩn về tính bền vững, đã có những trở ngại trong việc người tiêu dùng sẵn lòng trả "giá bền vững" cho các sản phẩm hoặc dịch vụ được đánh giá là bền vững. Một vấn đề liên quan là các chi phí đối với công ty, nhất là các DNNVV, trong các hoạt động tham gia và hội họp của các chương trình thường cao. Truy xuất nguồn gốc và đo lường tác động Một thách thức quan trọng khác trong chuỗi cung ứng toàn cầu là sự phân biệt và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Một số phương pháp đang sử dụng nhiều hệ thống dữ liệu để cải thiện khả năng truy xuất bảo đảm và các hệ thống đánh giá sự phù hợp độc lập. Một phân tích độc lập gần đây cho thấy rằng hệ thống truy tìm nguồn gốc là điểm nổi bật phổ biến của hệ thống chứng nhận thủy sản, với khoảng một nửa số hệ thống yêu cầu tiêu chuẩn chuỗi lưu giữ để đảm bảo quá trình theo dõi. Các tổ chức hiện đang chuyển sang blockchain và các công nghệ khác cho dữ liệu kỹ thuật số có thể truy cập để truy xuất thông tin sản phẩm. Trong tháng 1 năm 2018, WWF đã công bố Dự án Truy xuất Chuỗi cung ứng Blockchain của mình để theo dõi tính bền vững trong chuỗi cung ứng cá ngừ từ "mồi câu", sử dụng công nghệ thông tin để truy nguyên nguồn gốc. Cuối cùng, giá trị của bất kỳ hệ thống chứng nhận nào là mức độ mà nó có tác động có thể đo lường được về chất lượng môi trường, các kết quả bảo tồn và các mục tiêu xã hội có liên quan. Chuỗi tiêu chuẩn lưu ký và công nghệ blockchain cung cấp dữ liệu truy xuất để đo lường tác động này. Tuy nhiên, một số khía cạnh về chất lượng môi trường khó đo lường hơn. Ví dụ, tránh ô nhiễm không khí hoặc phát thải khí nhà kính do các mức hiệu quả năng lượng tăng lên đòi hỏi phải thiết lập và tương phản các mức cơ sở và các giá trị kinh doanh thường lệ so với các 45 hành động đó, trên và vượt ra ngoài những quy định trong nước yêu cầu, để tính các tác động của hệ thống. Việc đo lường mức độ mà một tiêu chuẩn cụ thể đã tránh được các thiệt hại trong một hệ sinh thái hoặc đa dạng sinh học nói chung thậm chí còn khó khăn hơn. Ủy ban đánh giá tính bền vững (COSA), một tập hợp toàn cầu của các tổ chức phát triển tiến hành đo lường dựa trên khoa học về nông nghiệp bền vững, lưu ý rằng việc thiếu các tiêu chí rõ ràng và có thể so sánh làm cho đo lường tác động trong ngành đặc biệt khó khăn. Mục tiêu phát triển bền vững Các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) là một chương trình nghị sự đầy tham vọng, phổ biến và toàn diện bao gồm 17 mục tiêu và 169 đích. SDG nhận thấy sự cần thiết phải thúc đẩy một chương trình toàn diện, tích hợp không quá nhiều như một lý tưởng trừu tượng, nhưng do những bài học khó khăn từ hàng thập kỷ bắt đầu sai lầm trong các chính sách phát triển một vấn đề. Ví dụ, cam kết SDG để thúc đẩy các hệ thống nông nghiệp bền vững sẽ không đạt được trừ khi các mục tiêu liên quan như quản lý nước ngọt, bình đẳng giới, cải cách ruộng đất, quyền bản địa, thích ứng với khí hậu và tiêu thụ bền vững được cải thiện đồng thời. SDG 12 (Sản xuất và tiêu thụ có trách nhiệm) và tám mục đích có liên quan trực tiếp nhất với nhiều tiêu chuẩn bền vững và chuỗi giá trị, ví dụ khuyến khích “Các công ty, đặc biệt là các công ty lớn và xuyên quốc gia, áp dụng các thực hành bền vững và tích hợp thông tin bền vững vào chu kỳ báo cáo”. Mặc dù bản chất tổng thể của SDG dường như gây khó khăn, nhưng tính phổ quát của chúng có thể tạo ra một cơ hội quan trọng để tập trung và hội tụ các tiêu chuẩn bền vững khác nhau liên quan đến chuỗi giá trị dọc theo các nhóm chuyên đề. Một báo cáo chung của Global Compact và Global Reporting Initiative, Báo cáo kinh doanh về SDG: Phân tích các mục tiêu và mục đích, là bước đầu tiên trong việc kết nối 169 đích tạo nên SDG với tiêu chuẩn kinh doanh, hoặc trong chuỗi cung ứng hoặc các công cụ CSR. Báo cáo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường phân tích bắc cầu này. Tiêu chuẩn quan trọng hơn là cần phải tìm các lĩnh vực hội tụ thực tế giữa các tiêu chuẩn phù hợp với các đích SDG cụ thể. Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) đã ban hành một báo cáo về cách thức SDG liên quan đến loạt tiêu chuẩn ISO 26000 (Hướng dẫn Trách nhiệm xã hội) đối phó với các vấn đề 46 xã hội, bao gồm nhân quyền, việc làm, sử dụng tài nguyên bền vững và các tiêu chuẩn khác. 47 KẾT LUẬN Sau khi tăng trưởng bùng nổ trong những năm đầu thập niên 2000, GVC đã dần dần trở thành xương sống của nền kinh tế toàn cầu và thay đổi đáng kể hoạt động của nó. Sản xuất toàn cầu ngày nay trải rộng trên số lượng ngày càng tăng các công ty, các ngành công nghiệp và các quốc gia và một số nền kinh tế mới nổi đã trở thành cường quốc kinh tế nhờ GVC. Dòng chảy lớn của hàng hóa, dịch vụ, vốn, con người và công nghệ di chuyển qua biên giới trong các mạng lưới sản xuất quốc tế này đã dẫn đến sự liên kết ngày càng tăng giữa các quốc gia. Kể từ khi xuất hiện vào những năm 1980, GVC đã trở nên dài hơn và phức tạp hơn. Các công đoạn sản xuất số lượng hàng hóa ngày càng tăng - thêm nhiều sản phẩm truyền thống như hàng dệt may cũng như các sản phẩm chuyên sâu về công nghệ hơn, ví dụ: điện tử - và ngày càng nhiều dịch vụ được trải rộng trên nhiều địa điểm. Điều này đến lượt nó đã dẫn đến tăng trưởng thương mại và vận chuyển theo thời gian. Tổ chức sản xuất trong các GVC dài và phức tạp để tận dụng các yếu tố vị trí tối ưu cho các công đoạn cụ thể của sản xuất trên toàn cầu đã cho thấy lợi thế của nó đối với các công ty về năng suất, hiệu quả, quy mô nền kinh tế, v.v.. Loạt chính sách GVC đã nêu bật một số câu hỏi chính cần được kiểm tra sâu hơn trong ngữ cảnh các chuỗi giá trị cụ thể, khu vực hoặc sáng kiến công tư. Một chủ đề thống nhất ở đây là sự cần thiết phải kết hợp - có thể là một trong số các công cụ chính sách khác nhau, khu vực pháp lý khác nhau hoặc sáng kiến công và tư. Biên tập: Nguyễn Mạnh Quân Phạm Khánh Linh Trung tâm Thông tin và Thống kê KH&CN 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. OECD. The future of global value chains: business as usual or “a new normal”? 2017 2. World Economic Forum. Global Value Chain. Policy Series. Taxation report. 2018 3. World Economic Forum. Global Value Chain. Policy Series Competition report 2018 4. World Economic Forum. Global Value Chain Policy Series Introduction report 2018 5. World Economic Forum. Global Value Chain. Policy Series. Investment report 2018 6. World Economic Forum. Global Value Chain. Policy Series. Services report 2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftai_lieu_cac_chinh_sach_thuc_day_chuoi_gia_tri_toan_cau_tiep.pdf
Tài liệu liên quan