Tài liệu ôn thi công chức năm 2011

Tài liệu ôn thi công chức năm 2011Chuyên đề 16 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ A. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ 1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN VIỆT NAM Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức nền kinh tế mà trong đó, sự vận hành của nó vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của bản thân hệ thống kinh tế thị trường, lại vừa bị chi phối bởi những nguyên tắc và những quy luật phản ánh bản chất xã hội hoá-xã hội chủ nghĩa. Do đó, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa mang tính chất chung, phổ biến đó là “tính kinh tế thị trường” vừa mang tính đặc thù đó là “tính định huớng XHCN”. 1- Kinh tế thị trường: 1.1. Đặc trưng của kinh tế thị trường a- Khái niệm kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó thị trường quyết định về sản xuất và phân phối. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế, mà trong đó, cá nhân người tiêu dùng và các nhà sản xuất-kinh doanh tác động lẫn nhau thông qua thị trường để xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Trong nền kinh tế thị trường, thị trường quyết định phân phối tài nguyên cho nền sản xuất xã hội. b- Đặc trưng của kinh tế thị trường. - Một là, quá trình lưu thông những sản phẩm vật chất và phi vật chất từ sản xuất đến tiêu dùng phải được thực hiện chủ yếu bằng phương thức mua-bán. Sở dĩ có sự luân chuyển vật chất trong nền kinh tế là do có sự phân công chuyên môn hoá trong việc sản xuất ra sản phẩm xã hội ngày càng cao, cho nên sản phẩm trước khi trở thành hữu ích trong đời sống xã hội cần được gia công qua nhiều khâu chuyển tiếp nhau. Bên cạnh đó, có những người, có những doanh nghiệp, có những ngành, những vùng sản xuất dư thừa sản phẩm này nhưng lại thiếu những sản phẩm khác, do đó giữa chúng cũng cần có sự trao đổi cho nhau. Sự luân chuyển vật chất trong quá trình sản xuất có thể được thực hiện bằng nhiều cách: Luân chuyển nội bộ, luân chuyển qua mua-bán. Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm được sản xuất ra chủ yếu để trao đổi thông qua thị trường. - Hai là: Người trao đổi hàng hoá phải có quyền tự do nhất định khi tham gia trao đổi trên thị trường ở ba mặt sau đây: + Tự do lựa chọn nội dung sản xuất và trao đổi + Từ do chọn đối tác trao đổi + Tự do thoả thuận giá cả trao đổi + Tự do cạnh tranh - Ba là: Hoạt động mua bán được thực hiện thường xuyên rộng khắp, trên cơ sở một kết cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua-bán diễn ra được thuận lợi, an toàn với một hệ thống thị trường ngày càng đầy đủ. - Bốn là: Các đối tác hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích của mình. Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế. - Năm là: Tự do cạnh tranh là thuộc tính của kinh tế thị trường, là động lực thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, có lợi cho cả người sản xuất và ngjười tiêu dùng. - Sáu là: Sự vận động của các quy luật khách quan của thị trường dẫn dắt hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, nhờ đó hình thành một trật tự nhất định của thị trường từ sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng. Một nền kinh tế có được những đặc trưng cơ bản trên đây được gọi là nền kinh tế thị trường. Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất trong từng quốc gia và sự hội nhập kinh tế mang tính toàn cầu đã tạo điều kiện và khả năng vô cùng to lớn để phát triển nền kinh tế thị trường đặt đến trình độ cao-kinh tế thị trường hiện đại. Kinh tế thị trường hiện đại là nền kinh tế có đầy đủ các đặc trưng của một nền kinh tế thị trường, đồng thời nó còn có các đặc trưng sau đây: - Một là, có sự thống nhất mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị-xã hội. - Hai là, có sự quản lý của Nhà nước, đặc trưng này mới hình thành ở các nền kinh tế thị trường trong vài thập kỷ gần đây, do nhu cầu không chỉ của Nhà nước-đại diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền, mà còn do nhu cầu của chính các thành viên, những người tham gia kinh tế thị trường. - Ba là, có sự chi phối mạnh mẽ của phân công và hợp tác quốc tế, tạo ra một nền kinh tế thị trường mang tính quốc tế. vượt ra khỏi biên giới quốc gia động và mở, tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên một chính thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận gắn bó hữu cơ với các bộ phận khác. . CHUYÊN ĐỀ 17 QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG, DỊCH VỤ CÔNG VÀ CÔNG SẢN CHƯƠNG I: QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG I- TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH CÔNG VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG 1. Bản chất của tài chính công Dừa theo một số tiêu chí nhất định, hệ thống tài chính quốc dân được phân loại thành tài chính công và tài chính tư. Tài chính công là một thuật ngữ mới xuất hiện ở Việt Nam, do đó, ít nhiều còn chưa được thống nhất về quan niệm. Nhiều quan niệm cho rằng thuật ngữ tài chính công được hiểu là sự hợp thành bởi ý nghĩa và phạm vi của hai thuật ngữ “tài chính” và “công”. Về thuật ngữ tàichính: Theo quan niệm phổ biến, tài chính có biểu hiện bên ngoài là các hiện tượng thu, chi bằng tiền; có nội dung vất chất là các nguồn tài chính, các quỹ tiền tề; có nội dung kinh tế bên trong là các quan hệ kinh tế-quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị (gọi tắt là quan hệ tài chính) nảy sinh trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ. Về thuật ngữ công hay công công: xét về ý nghĩa, thuật ngữ công có thể hiểu trên các khía cạnh: Về quan hệ sở hữu (đối với tài sản, các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ) là sở hữu công cộng; Về mục tiêu hoạt động: là vì lợi ích công cộng; Về chủ thể tiến hành hoạt động: là các chủ thể thuộc khu vực công; Về pháp luật điều chỉnh: là các luật công. Những luận giải trên đây cho phép rút ra nhận xét các đặc trưng của tài chính công là: Về mặt sở hữu: các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính công thuộc sở hữu công cộng, sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện, thường gọi là sở hữu nhà nước. Về mặt mục đích: các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính công được sử dụng vì lợi ích chung toàn xã hội, của toàn quốc và của cả cộng đồng. Về mặt chủ thể: các hoạt động thu, chi bằng tiền trong tài chính công do chủ thể thuộc khu vực công tiến hành. Về mặt pháp luật: các quan hệ tài chính chịu sự điều chỉnh bởi các “luật công”, dựa trên các quy phạm pháp luật mệnh lệnh- quyền uy. Các quan hệ tài chính công là quan hệ kinh tế nảy sinh gắn liền với công việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ công mà một bên của quan hệ là chủ thể thuộc khu vực công. Trong thực tiễn đời sống xã hội, hoạt động tài chính thể hiện ra như là các hiện tượng thu, chi bằng tiền- sự vân động của nguồn tài chính- gắn liền với việc tạo lập hoặc sử dụng quỹ tiền tệ nhất định. Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, gắn liền với sự hoạt động của các chủ thể trong lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau có các quỹ tiền tệ khác nhau được hình thành và sử dụng. Ví dụ như: Quỹ tiền tệ của hộ gia đình, quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp; quỹ tiền tệ của các tổ chức bảo hiểm tín dụng, các quỹ tiền tệ công. Gắn với chủ thể là Nhà nước, các quỹ tiền tệ công được tạo lập và sử dụng gắn liền với quyền lực kinh tế và chính trị của Nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước. Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ công chính là quá trình Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính thông qua hoạt động thu, chi bằng tiền của tài chính công. Các hoạt động thu, chi bằng tiền đó là mặt biểu hiện bên ngoài của tài chính công. Tuy vậy, cần nhận rõ rằng, quá trình diễn ra các hoạt động thu, chi bằng tiền của nhà nước tiến hành trên cơ sở các luật lệ do Nhà nước quy định đã làm nảy sinh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với chủ thể khác trong xã hội. Đó chính là các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình nhà nước tham gia phân phối và sử dụng những nguồn tài chính để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ công. Các quan hệ kinh tế đó chính là mặt bản chất bên trong của tài chính công, biểu hiện nội dung kinh tế xã hội của tài chính công. Từ những phân tích trên đây có thể có khái niệm tổng quát về tài chính công như sau: Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do Nhà nước tiến hành, nó phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ công nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của toàn xã hội. Như vậy, tài chính công là một phạm trù kinh tế gắn với thu nhập và chi tiêu của Nhà nước. Tài chính công vừa là nguồn lực để Nhà nước thực hiện các chức năng vốn có của mình, vừa là công cụ để Nhà nước chi phối, điều chỉnh các hoạt động khác của xã hội. Tài chính công là công cụ quan trọng của Nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Cơ cấu tài chính bao gồm: - Ngân sách nhà nước (trung ương và địa phương). - Tài chính các cơ quan hành chính nhà nước. - Tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước. - Các quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước.

doc78 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2328 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu ôn thi công chức năm 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Transfer – Operation). Đây là mô hình mua bán kèm theo các dịch vụ hậu mãi, cố vấn kỹ thuật công nghệ do bên mua yêu cầu. Công trình công nghiệp sau khi chuyển giao, các chuyên gia công nghệ của bên bán sẽ lưu lại giúp bên mua làm chủ công nghệ mới. - BOT (Building – Operation – Transfer). Đây là hình thức mua bán gián đoạn các công trình công nghiệp. Căn cứ vào các hợp đồng được thoả thuận trước, bên bán sau khi xây dựng nên các công trình công nghiệp hoàn chỉnh sẽ tiến hành khai thác công trình trong một khoảng thời gian nhằm thu hồi vốn và lợi nhuận. Sau khi hết thời hạn thoả thuận, bên bán sẽ chuyển giao toàn bộ công trình cho bên mua tiếp nhận, khai thác. Với những hình thức nêu trên, hình thức BOT thể hiện rất nhiều ưu điểm đối với các nước đang phát triển. Hình thức này giúp các QG tuy hạn chế về vốn nhưng vẫn có được các công trình công nghiệp phục vụ phát triển và có khoảng thời gian để chuẩn bị lao động tiếp nhận công trình. Với mô hình thuận lợi này, có thể triển khai cho các công trình phát triển cơ sở hạ tầng và cần mở rộng nghiên cứu đối tượng chủ đầu tư là doanh nghiệp trong nước đối với những công trình có quy mô vừa và nhỏ, đảm bảo lợi ích cho các bên. 2.4 Xuất nhập khẩu các dịch vụ Có rất nhiều loại dịch vụ quốc tế, trong đó phổ biến là: - Dịch vụ vận chuyển quốc tế. - Dịch vụ bảo hiểm quốc tế. - Dịch vụ du lịch quốc tế. - Dịch vụ viễn thông quốc tế. - Dịch vụ ngoại hối. - Dịch vụ xuất khẩu lao động. 3. Chức năng, nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại Kinh tế đối ngoại có các chức năng sau đây: - Làm cầu nối giữa nền kinh tế quốc dân với nền kinh tế thế giới. - Khai thác triệt để lợi thế của đất nước, xây dựng một số ngành kinh tế mũi nhọn, mở rộng xuất khẩu. - Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tối ưu. - Bù đắp sự thiếu hụt của đất nước về háng hoá, dịch vụ cho đời sống. - Bù đắp sự thiếu hụt các yếu tố của sản xuất như tri thức khoa học và công nghệ, vốn đầu tư, lao động lành nghề, nguyên vật liệu… - Hỗ trợ các quốc gia đi sâu vào chuyên môn hoá và tối ưu hoá quy mô sản xuất của các doanh nghiệp của nước mình. - Tạo ra lực lượng bè bạn quốc tế trong kinh tế nhằm tạo tiền đề thuận lợi cho việc xử lý nhiều quan hệ quốc tế khác. II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 1. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại Sự cần thiết của quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại vì các lý do đặc biệt sau đây: - Kinh tế đối ngoại có ý nghĩa toàn diện sâu sắc đối với sự phát triển tổng thể kinh tê, xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng, ngoại giao của đất nước. - Hoạt động kinh tế đối ngoại hơn mọi hoạt động kinh tế khác về mặt cần đến sự quản lý, hỗ trợ của Nhà nước, do quan hệ xã hội trong kinh tế đối ngoại vượt khỏi tầm quốc gia, là thứ quan hệ vừa rộng, vừa đầy bất trắc và phức tạp, chỉ có Nhà nước mới có đủ tư cách pháp lý và đủ khả năng giúp các doanh nhân vận động tốt trên thị trường quốc tế. 2. Phạm vi quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại 2.1 Trong lĩnh vực ngoại thương, Nhà nước phải quản lý các mặt sau đây: - Nội dung hàng hoá xuất khẩu về các mặt số lượng, chất, chủng loại. Chất lượng mọi mặt của đối tác giao dịch với các doanh nhân của nước nhà. - Lợi ích của Nhà nước phải thu được qua các hoạt động ngoại thương. 2.2 Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu tư bản và trí tuệ, Nhà nước phải quản lý các mặt sau: - Phương hướng xuất nhập khẩu tư bản và trí tuệ, định hướng cho các chủ đầu tư, các nhà hoạt động khoa học và công nghệ trong, hoặc ngoài nước đầu tư hoặc chuyển giao tri thức vào những ngành nghề, địa bàn có lợi cho đất nước. - Chất lượng đối tác mà thực chất là lựa chọn chủ đầu tư, các nhà khoa học, đáp ứng được các đòi hỏi của đất nước. - Chất lượng khoa học – công nghệ đi theo vốn đầu tư về các mặt có liên quan đến môi trường đất nước, đến sự an toàn lao động cho người lao động, đến chất lượng sản phẩm. - Các ảnh hưởng văn hoá, xã hội, phát sinh từ sự hiện diện kinh tế nước ngoài trên đất nước ta. - Các tác hại có thể xảy ra trong hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài trên đất nước nhà về mặt sử dụng lao động, tài nguyên, môi trường, an ninh chính trị, kinh tế, văn hoá, trật tự an toàn xã hội. 3. Nội dung quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại 3.1 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Về pháp luật, trong quản lý về kinh tế đối ngoại gồm có Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Thương mại nói chung, các chế định về ngoại thương nói riêng, danh mục các hàng hoá cấm xuất nhập, Luật Khoa học và Công nghệ, các Luật Thuế, các quy chế hoạt động của các khu chế xuất, đặc khu kinh tế… Pháp luật phải đồng bộ, rõ ràng và nhất quán, ít thay đổi. Phải phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm tạo nên hành lang pháp lý rõ ràng cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. Pháp luật phải được thực thi một cách nghiêm túc. Các công chức thực thi nhiệm vụ QLNN về kinh tế đối ngoại phải căn cứ vào luật pháp, không gây trở ngại cho đối tác. 3.2 Xây dựng quy hoạch đối với kinh tế đối ngoại Thông qua quy hoạch thể hiện các dự định về khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế nước ngoài, bộ phận kinh tế của nước nhà ở nước ngoài (Tư bản được xuất khẩu). Toàn bộ viễn cảnh trên phải được thể hiện thành các dự án đầu tư. Những dự án là tài liệu để thu hút gọi vốn đầu tư nước ngoài, là cơ sở để nước nhà thực hiện những công việc cần thiết cho việc tiếp nhận đầu tư từ nước ngoài. Đồng thời các dự án trên cũng là định hướng của Nhà nước để thu hút, khuyến khích đầu tư trong nước, hoặc đầu tư của chính ngân sách nhà nước. 3.3 Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ và công nhân kỹ thuật Kết cấu hạ tầng bao gồm điện, nước, giao thông vận tải, thông tin liên lach, các cơ sở phục vụ đời sống văn hoá, y tế, giáo dục, ngân hàng, thương nghiệp phải trở thành một hệ thống đồng bộ. Kết cấu hạ tầng có thể xây dựng chung cho cả quốc gia, cũng có thể đầu tư có trọng điểm, tạo thành các đặc khu kinh tế. Nhà nước có thể đầu tư trực tiếp vào kết cấu hạ tầng, hoặc mời thầu đối với các nhà đầu tư trong, ngoài nước, có sự tổ chức của Nhà nước. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật với cơ cấu thích hợp, có đủ năng lực cũng như việc chuẩn bị kết cấu hạ tầng là để tiếp ứng ngoại lực, khai thác ngoại lực, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. 3.4 Bảo đảm ổn định về chính trị, kinh tế để phát triển kinh tế đối ngoại Sự ổn định về chính trị, kinh tế thể hiện ở sự rõ ràng và nhất quán về đường lối chính trị, các đạo luật cơ bản, các quan hệ ngoại giao, các chính sách kinh tế (tỷ giá hối đoái, cán cân thương mại và thanh toán quốc tế). 3.5 Thu hút đầu tư nước ngoài - Giới thiệu các dự án đầu tư qua các cuộc hội thảo, các diễn đàn đầu tư trong và ngoài nước, các phương tiện thông tin đại chúng. - Thực hiện các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận môi trường đầu tư để họ thực hiện các nghĩa vụ của nhà đầu tư đối với nước sở tại một cách thuận lợi, nhanh chóng nhất. 3.6 Điều hành hoạt động ngoại thương, đầu tư và chuyển giao khoa học công nghệ qua các hoạt động QLNN về các mặt trên, như: - Ban bố danh mục các mặt hàng cấm xuất nhập khẩu. - Cấp phép cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. 4. Những định hướng chính trị, pháp lý cơ bản của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại 4.1 Những định hướng chính trị cơ bản của Đảng ta Quan điểm chủ đạo của chính sách kinh tế đối ngoại (KTĐN) nước ta được Đảng ta khẳng định là: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt nam muốn là bạn của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương lượng”. Từ quan điểm tổng thể chủ đạo trên, có thể nêu thành những quan điểm cụ thể sau đây: a) Coi phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan của đất nước nhằm phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. b) Trong quan hệ KTĐN phải bảo đảm độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, phát huy cao độ nội lực, dùng nội lực để thu hút ngoại lực, hướng ngoại lực phục vụ tốt mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội ta. Định hướng trên định rõ nội dung lợi ích bao gồm cả chính trị và kinh tế và định rõ biện pháp hàng đầu là phát huy nội lực. c) Khai thác có hiệu quả những lợi thế trong phân công lao động quốc tế Định hướng này đòi hỏi đạt hiệu quả cao trong khai thác lợi thế khi thực hiện sự phân công lao động quốc tế. Chỉ có như vậy mới vừa hội nhập, vừa độc lập. d) Đa phương hoá các quan hệ KTĐN Đa phương hoá là quan hệ với nhiều quốc gia trong nhiều việc, hoặc trong cùng một việc. Phải đề ra quan điểm này vì trước đây chúng ta chỉ giới hạn trong các nước XHCN. Nay theo quan điểm này, chúng ta đã và sẽ quan hệ với nhiều quốc gia có chế độ chính trị khác nhau, có thế mạnh kinh tế khác nhau. Đa phương hoá kinh tế đối ngoại là giải pháp nhiều ưu điểm. Chúng ta sẽ được tiếp xúc với nhiều nền văn minh quốc tế. Điều đó tạo ra nhiều động lực cho sự tăng trưởng và phát triển. e) Đa dạng hoá các hoạt động KTĐN Đa dạng hoá hoạt động KTĐN là mở rộng nội dung, tăng thêm nhiều hình thức kinh tế đối ngoại, từ chỗ chỉ đơn thuần là xuất nhập khẩu hàng hoá đến chỗ có cả các hoạt động xuất nhập khẩu tư bản, tri thức và dịch vụ. Trong mỗi hình thức trên lại mở rộng chủng loại cụ thể hơn nữa. f) Lấy hiệu quả làm tiêu chuẩn để đánh giá hoạt động KTĐN Quan điểm này nhấn mạnh mục đích cao nhất, mục đích cuối cùng của mở cửa về kinh tế là nhằm đạt được hiệu quả, trong đó hiệu quả bao giờ cũng phải được hiểu một cách toàn diện trên giác độ toàn xã hội và trong một tương lai dài, không thiểu cận, phiến diện. g) Đổi mới toàn diện và triệt để về QLNN đối với KTĐN theo các nguyên tắc chung của QLNN về kinh tế với tinh thần ưu tiên đổi mới QLNN đối với KTĐN, tạo sự thuận lợi tối đa cho mở cửa, thu hút tối đa ngoại lực. 4.2 Những nội dung pháp lý cơ bản của Nhà nước ta a) Những quan hệ pháp luạt quốc tế về kinh tế của Việt Nam Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã đàm phán và ký kết nhiều Hiệp định thương mại song phương với các nước trên thế giới. - Ngày 14/7/2000, Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết đã mở ra một trang mới trong quan hệ mậu dịch giữa hai nước. - Về hiệp định đa phương, chúng ta cũng đã ký hiệp định về buôn bán hàng dệt may với EU (12/1992); Hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU (7/1995); gia nhập ASEAN (7/1995) và tham gia khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Tuy vậy, Việt Nam hiện nay chưa phải là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Nước ta cũng chưa thiết lập được một hệ thống luật phù hợp với hệ thống pháp luật của WTO, như luật về quyền sở hữu trí tuệ, luật ngân hàng… - Nước ta đã tham gia Công ước Viên (1980) về mua bán hàng hoá quốc tế. Điều ước này nhằm loại bỏ những quy định khác nhau trong các hệ thống luật quốc gia về những vấn đề liên qua đến thủ tục ký kết và thực hiện hợp đồng của các bên trong mua bán quốc tế. Luật Thương mại (5/1997) cũng đã dành một số điều quy định về hợp đồng ngoại thương, nhưng cũng mới chỉ tạo ra những nguyên tắc chung nhất điều chỉnh quan hệ mua bán quốc tế mà chưa có những chế định cụ thể phù hợp đáp ứng nguyện vọng của các thương nhân Viêtn Nam có quan hệ thương mại quốc tế. Mặt khác, Pháp lệnh của Nhà nước về hợp đồng kinh tế (1989) đã bộc lộ khá nhiều điểm bất cập, mâu thuẫn, thiếu tính cập nhật để điều chỉnh các quan hệ về hợp đồng, trong đó loại hình hợp đồng mua bán hàng hoá là một chế định điển hình. - Công ước Hamburg (1978) về chuyên chở hàng hoá bằng đường biển. - Công ước Vacsava về thống nhất các quy tắc trong vận tải hàng không quốc tế (1924, được bổ sung các năm 1955, 1966 và 1975). - Quy tắc York- Anwerp 1974 (1990- 1994) quy định về tổn thất chung trong vận chuyển hàng hoá. - Công ước của Liên hợp quốc về hối phiếu đòi nợ và nhận nợ… b) Pháp luật cho lĩnh vực đầu tư - Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987) chính thức tuyên bố mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Luậnt này đã được bổ sung, sửa đổi vào các năm 1990 và 1992. Các Luật Đầu tư nước ngoài đó cùng các văn bản quy phạm pháp luật khác về cơ bản đã tạo lập được một khung pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, bảo đảm sự an toàn cho nhà đầu tư nước ngoài trong đầu tư và thực hiện quyền tự chủ kinh doanh, đồng thời bảo đảm nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹ lãnh thổ Việt Nam, tuân thủ pháp luật của Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng có lợi. - Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, 1987 đã bộc lộ những hạn chế nhất định về mặt nội dung và kỹ thuật lập pháp, tuy đã qua hai lần sửa đổi. Để khắc phục những hạn chế đó, trong điều kiện đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, ngày 12/11/1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam (Luật Đầu tư nước ngoài, 1996). - Từ năm 1997, tình hình trong nước cũng như khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi. Trong nước, nhịp thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục suy giảm. Để chặn đà suy giảm, tiến tới có sự tăng trưởng, đồng thời để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, năm 2000 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài, 2000) đã ra đời, với 6 chương, 68 điều, nhằm: + Tháo gỡ kịp thời những khó khăn, cản trở đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp phép và đang hoạt động. + Thu hút nhiều dự án đầu tư mới, với chất lượng cao. + Xích thêm một bước giữa pháp luật đầu tư trong nước và nước ngoài để tiến tới một luật đầu tư thống nhất, thực hiện sự hội nhập quốc tế về pháp luật. - Những điểm đổi mới chủ yếu của Luật Đầu tư nước ngoài, 2000: Về hình thức đầu tư: + Mở rộng diện chủ đầu tư trong nước tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoaà tới mọi doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế. + Cho phép nhà đầu tư nước ngoài được thành lập công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. + Bổ sung quy định địa vị pháp lý và thẩm quyền của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký hợp đồng B.O.T nhằm đảm bảo hiệu lực pháp lý của loại hợp đồng này. Về tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: + Cho phép nhà đầu tư nước ngoài góp vốn bằng tiền Việt Nam có nguồn gốc hợp pháp tại Việt Nam. + Bãi bỏ yêu cầu về việc cấp chứng chỉ giám định giá trị vốn góp của tổ chức giám định độc lập. + Cho phép doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoìa tự quyết định việc chuyển nhượng vốn và phải đăng ký tại cơ quan cấp giấy phép đầu tư. + Bổ sung mới quy định về việc tổ chức tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo cách sáp nhập, chia, tách phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, 1999, có sự chuẩn thuận của cơ quan cấp giấy phép đầu tư. Doanh nghiệp liên doanh có thể chuyển đổi thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và ngược lại. + Cho phép các bên liên doanh thoả thuận các điều kiện chấm dứt hoạt động trong hợp đồng để tránh sự đơn phương đình chỉ hợp đồng. + Bổ sung quy định việc cấp giấy phép đầu tư theo phương pháp thẩm định xét duyệt cấp giấy phép nhằm cải tiến và đơn giản hoá thủ tục đầu tư. Chính phủ kiên quyết loại bỏ những quy định do các ngành, các địa phương ban hành trái với chủ trương chính sách của Chính phủ, tránh tình trạng phép vua thua lệ làng, tạo nên một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, xuyên suốt từ trung ương đến địa phương. - Luật Đầu tư trong nước và các luật khác có liên quan đến đầu tư nước ngoài. Tính đến sự tương thích đối với đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, Quốc hội nước ta đã ban bố: + Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) ngày 20/5/1998. + Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990). + Luật Doanh nghiệp (1999). + Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (1987), Bộ Luật Hàng hải (1990), Luật Hàng không dân dụng (1991), Luật Đất đai (1993), Luật Doanh nghiệp Nhà nước (1994), Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1994), Luật Khoáng sản (1996). + Quốc hội khoá 9 ngày 18/10/1995 đã thông qua Bộ Luật Dân sự đầu tiên của Việt Nam (có hiệu lực từ 1/7/1996). c) Pháp luật cho hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá - Trước khi có Luật Thương mại, Bộ Thương mại, cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động XNK đã ban hành nhiều văn bản pháp quy về quyền kinh doanh XNK, về chính sách mặt hàng (danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, nhập khẩu); danh mục hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch; danh mục hàng XNK quản lý chuyên ngành; danh mục hàng hoá có liêu quan đến cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân (xăng dầu, đường, thép, xây dựng, phân bón); quản lý nhập khẩu hàng tiêu dùng; về ký kết và quản lý hợp đồng mua bán ngoại thương, về các phương thức kinh doanh tạm nhập tái xuất, quá cảnh chuyển khẩu, hướng dẫn đặt văn phòng đại diện thường trú của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, về hoạt động XNK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…. - Luật Thương mại 1997. Đây là bộ luật đầu tiên của chế độ mới ở nước ta về lĩnh vực thương mại, gồm 6 chương, 24 mục và 264 điều, để điều chỉnh hoạt động thương mại nói chung, trong đó có thương nhân nước ngoài. d) Pháp luật cho lĩnh vực xuất nhập khẩu tri thức (cho việc sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ) Nhà nước ta đã có tương đối nhiều văn bản pháp luâậtvề lĩnh vực này, như: - Pháp lệnh Xử phạt hành chính ban hành ngày 6/7/1995: đây là văn bản pháp luật cao nhất trong hệ thống văn bản về xử phạt hành chính tại Việt Nam. Văn bản này quy định thẩm quyền của các cơ quan pháp luật, hình thức xử lý, thủ tục thực thi của các cơ quan trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm hành chính cũng như quyền khiếu nại, tố cáo của các cá nhân, tổ chức trong quá trình xử lý các vi phạm hành chính. - Nghị định số 12/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 6/3/1999 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Nghị định này quy định các hành vi vi phạm trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, các biện pháp xử phạt và thẩm quyền của các cơ quan chức năng có liên quan. - Bộ Luật Dân sự được ban haàh ngày 28 tháng 10 năm 1995 quy định về sở hữu trí tuệ (phần thứ sáu) và về sở hữu công nghiệp (chương II). Ngoài ra còn có một số văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định về sở hữu công nghiệp. Hợp đồng chuyển giao công nghệ là một phần trong Bộ luật Dân sự. - Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000 là một bước tiến quan trọng của pháp luật Việt Nam trên lĩnh vực này. - Các chế định về hợp đồng chuyển giao công nghệ: Hợp đồng chuyển giao công nghệ là văn bản pháp lý thể hiện quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm hai bên giao và nhận công nghệ và các điều kiện tương ứng, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên. Hiện nay, về việc này, pháp luật Việt Nam đã có: + Chương III phần 6 Bộ Luật Dân sự + Nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày 1/7/1998. + Thông tư 3055/TT-SHCN ngày 31/12/1996, quy định về hợp đồng Li-xăng. Về hình thức, tất cả các hợp đồng chuyển giao công nghệ giữa chủ thể Việt Nam và chủ thể nước ngoài đều phải được lập thành văn bản và đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Riêng các hợp đồng sau đây cần phải được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt trước khi đăng ký: + Hợp đồng có sự tham gia của doanh nghiệp có Nhà nước góp vốn. + Hợp đồng chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài. + Hợp đồng có sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và có giá trị trên 30.000 USD. - Các chế định về hợp đồng Li-xăng: Hợp đồng Li-xăng là một dạng đặc thù của hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong đó đối tượng của hợp đồng là các sáng chế, phải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá… Vì chủ sở hữu các tài sản trên có độc quyền cho, hoặc không cho người khác sử dụng trí tuệ của mình, nên việc sử dụng chúng phải được phép của chủ sở hữu. Phép đó chính là hợp đồng. Theo luật Việt Nam, mọi hợp đồng Li-xăng phải được đăng ký tại Cục Sở hữu công nghiệp, riêng một số hợp đồng sau đây cần phải được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt trước khi đăng ký: + Hợp đồng có sự tham gia của doanh nghiệp có Nhà nước góp vốn. + Hợp đồng Li-xăng có bên giao là Việt Nam, bên nhận là nước ngoài. Hợp đồng Li-xăng có hiệu lực từ thời điểm phê duyệt, đăng ký. Ngoài các hình thức hợp đồng như trên, còn có các hợp đồng tư vấn công nghệ, như tư vấn cải cách hành chính, tư vấn đầu tư… Các hợp đồng này có thể được coi như hợp đồng dịch vụ, song nếu trong hợp đồng có chuyển giao kiến thức nhằm đạt được một số hiệu quả nhất định, các hợp đồng đó cũng được coi là hợp đồng chuyển giao công nghệ. Hợp đồng chuyển giao công nghệ có thể tồn tại độc lập, hay cũng có thể được tiến hành trong khuôn khổ một dự án đầu tư, theo đó, một bên đóng góp vốn vào công ty liên doanh hay hợp đồng hợp tác kinh doanh, gọi là hợp đồng liên doanh hay hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong các hợp đồng này, một bên đóng góp công nghệ để được chia lợi nhuận từ dự án đầu tư. Theo luật Việt Nam, tỷ lệ góp vốn bằng công nghệ trong hợp đồng liên doanh tối đa không quá 30% vốn pháp định của một dự án. Như vậy, tính đến nay, Nhà nước ta có tương đối đầy đủ các văn bản pháp luật về sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên còn ít nội dung về các biện pháp xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Ngoài ra trong pháp luật dân sự, hình sự chưa thể hiện cụ thể việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Điều đó làm giảm khả năng thực thi cũng như độ tin cậy của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam. e) Định hướng tăng cường pháp luật về kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong tương lai - Tiếp tục bổ sung sự thiếu hụt về pháp luật cho lĩnh vực kinh tế đối ngoại, một lĩnh vực rộng lớn và nhạy cảm. - Nâng cao chất lượng pháp luật hiện có, tăng cường tính tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật của các nước trong cộng đồng khu vực và thế giới. Chẳng hạn, cần tăng cường pháp luật sở hữu công nghiệp và quyền tác giả đã thể hiện trong việc quy định tại Bộ Luật Dân sự. Tuy nhiên, xét về chi tiết, còn xuất hiện những sai sót cần phải sửa đổi. Ví dụ: quy định sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, những phạm trù đơn nhâấ như phạm vi bảo hộ, quyền sở hữu trong Bộ Luật Dân sự có thể gây nên nhầm lẫn trong cách hiểu của những người sử dụng quyền sở hữu công nghiệp ít kinh nghiệm. Một ví dụ khác, tại Điều 14 Nghị định 63/CP quy định quyền nộp đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ đã gộp việc giải thích các điều kiện khác nhau cho tất cả các đối tượng sở hữu dưới một mục đơn nhất. Điều này dẫn đến kết quả là một người chỉ quan tâm đến một đối tượng vẫn phải tìm hiểu tất cả đề tìm ra quy định mà họ cần. Sự hạn chế nói trên đang làm giảm những nỗ lực tăng cường nhận thức và hiểu biết về quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam. Nó cũng gây ảnh hưởng cho việc tìm hiểu pháp luật Việt Nam ở nước ngoài, cho các nhà đầu tư và đối tác thương mại tiềm năng. Do đó, việc ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến từng đối tượng sở hữu công nghiệp và quyền tác giả riêng biệt, theo tiêu chuẩn quốc tế vẫn thường làm là đề xuất cần được xem xét khẩn cấp và nghiêm túc. Mặt khác, Nhà nước cần tăng cường quản lý việc cung cấp thông tin về sở hữu công nghiệp, vừa bảo đảm bí mật quốc gia, vừa tránh các thông tin thất thiệt, gây tổn thất cho người sử dụng. Nhu cầu cung cấp thông tin cho các nhà khoa học, cá nhân, các công ty…. rất lớn. Do đó, hoạt động sở hữu công nghiệp cần được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đặc biệt là Cục Sở hữu công nghiệp chú trọng: + Tổ chức các cuộc tuyên truyền, hội thoả dưới hình thức đào tạo nội bộ cho các Viện nghiên cứu và công ty, doanh nghiệp. + Tổ chức các khoá học ngắn ngày cho các trường đại học về những vấn đề cơ bản và thực tế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. + Cục Sở hữu công nghiệp cần tiến hành một cách có hệ thống các cuộc tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. + Cần phải thành lập một trung tâm về quyền sở hữu công nghiệp cho các nhà công nghiệp mang tính chất tư vấn, trực thuộc Cục Sở hữu công nghiệp để hỗ trợ các vấn đề về kỹ thuật và pháp lý, chiến lược về quyền sở hữu công nghiệp, đàm phán Li-xăng và hợp đồng, quy định về vốn và xây dựng kế hoạch làm việc cho các doanh nghiệp muốn tạo lập công việc kiểu dáng trên cơ sở công nghệ của chính họ. - Tăng cường tính nghiêm minh của việc tuân thủ pháp luật đã có. - Thực thi có hiệu quả các chương trình kinh tế đối ngoại, trong đó có việc thiết lập các quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ, khôi phục và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại truyền thống với một số quốc gia đã có từ lâu. Ngày 14/7/2000, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký Hiệp định Thương mại Viêt-Mỹ. Theo Hiệp định, hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ được hưởng quy chế tối huệ quốc (Most Favoured Nation, MFN hay Normal Trade Relations, NTR) và được hưởng các quyền lợi như hàng hoá của Mỹ ở trong nước (National Treatment). Hàng hoá và đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam cũng sẽ được hưởng quy chế MFN. Hiệp định dành riêng chương III quy định về quyền sở hữu trí tuệ, có nội dung chủ yếu như: Các bên dành cho nhau quy chế Tối huệ quốc và Đãi ngộ quốc gia. Hiệp định quy định chi tiết tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu và các quyền tối thiểu đối với bản quyền tác giả (đặc biệt là phần mềm máy tính), nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, thiết kế vi mạch, bí mật thương mại, và phương pháp thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Hiệp định cũng quy định cụ thể các biện pháp thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới, bao gồm việc bắt giữ hành vi xâm phạm tại cửa khẩu (không quá 10 ngày, khi gia hạn phải có lệnh của cơ quan thẩm quyền), kê khai đăng ký đối tượng sở hữu trí tuệ tại cửa khẩu hải quan dễ bảo vệ, theo dõi. Để thực thi hiệp định Thương mại Việt - Mỹ cũng như đáp ứng yêu cầu của công cuộc hội nhập, Việt Nam cần đặt ra một lộ trình để tham gia các Công ước về sở hữu trí tuệ như Công ước Berne, Công ước Geneva về quyền kế cận, Công ước UPOV về giống thực vật, Công ước Brussels về tín hiệu phát sóng thu qua vệ tinh. Việc Việt Nam đề đơn gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế WTO cũng có nghĩa là phải xây dựng khung pháp luật về sở hữu trí tuệ theo quy định của thoả ước TRIPS. D. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ I. DỰ ÁN ĐẦU TƯ 1. Một số khái niệm cơ bản về dự án đầu tư 1.1. Khái niệm đầu tư Đầu tư là việc sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành một số hay nhiều hoạt động nào đó trong một khoảng thời gian tương đối dài, nhằm đem lại hiệu quả tài chính và hiệu quả Kinh tế - xã hội. Trong khái niệm này, các nguồn lực để đầu tư có thể là tiền mặt, là tài nguyên, là công nghệ hay sức lao động … Biểu hiện bằng giá trị của tất cả các nguồn lực mà người đầu tư phải ứng trước đó để tổ chức quá trình đầu tư, được gọi là vốn đầu tư. Hiệu quả do hoạt động đầu tư mang lại được biểu hiện trên hai mặt: hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế - xã hội. Hiệu quả tài chính là khoản lợi nhuận mà hoạt động đầu tư mang lại cho bản thân nhà đầu tư; còn hiệu quả kinh tế - xã hội được thể hiện thông qua những lợi ích kinh tế mà hoạt động đầu tư mang lại cho xã hội và cộng đồng (như tạo việc làm và thu nhập cho người lao động; đóng góp vào ngân sách nhà nước…) Một đặc điểm khác nữa của hoạt động đầu tư, đó là thời gian thực hiện tương đối dài, thường từ 2 năm trở lên, có thể đến 50 năm nhưng tối đa không quá 70 năm. Những hoạt động kinh tế ngắn hạn trong vòng một năm tài chính không được gọi là hoạt động đầu tư (chẳng hạn hoạt động mua nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất…). 1.2 Khái niệm về dự án (DA) Dự án là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra trong một khoảng thời gian nhất định. Không phải dự án nào cũng là một dự án đầu tư. Một dự án đầu tư phải đề cập đến việc bỏ vốn. Đây chính là đặc trưng điển hình làm nên sắc thaá đầu tư của một dự án đầu tư. 1.3 Khái niệm dự án đầu tư Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. Dự án đầu tư không phải là một dự định đầu tư bởi có tính cụ thể và mục tiêu xác định. Dự án đầu tư cũng không giống với dự báo, vì người đầu tư phải lập dự án dựa trên những dự báo khoa học chính xác. Đồng thời, dự án cũng không phải là một cơ hội đầu tư mặc dù cơ hội đầu tư là điểm khởi đầu của quá trình lập dự án; mà người đầu tư phải thực hiện những công việc cần thiết để biến cơ hội đầu tư thành hiện thực. 2. Phân loại dự án đầu tư 2.1 Phân theo lĩnh vực hoạt động của dự án đầu tư - Dự án đầu tư sản xuất kinh doanh là những dự án mà mục tiêu cuối cùng là tạo ra những sản phẩm hoặc dịch vụ để tiêu thụ, đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. - Dự án đầu tư xây dựng công trình là những dự án được thực hiện để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng (như làm đường, xây cầu, cảng biển…) không liên quan đến giai đoạn sản xuất. Việc thực hiện các dự án này nhằm mục đích bao trùm là đem lại lợi ích kinh tế - xã hội cho cộng đồng và cho toàn xã hội. 2.2 Phân theo tính chất của hoạt động đầu tư - Dự án đầu tư mới là những dự án đầu tư để xây dựng mới các công trình, nhà máy, thành lập mới các công ty, mở các cửa hàng mới, dịch vụ mới. Đặc điểm của đầu tư mới là không phải trên cơ sở của những cái hiện có phát triển lên. - Dự án đầu tư theo chiều rộng là những dự án nhằm mở rộng những cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có để làm tăng quy mô sản xuất mà không làm tăng trình độ tiên tiến về khoa học, công nghệ của cơ sở đó. Dự án đầu tư theo chiều rộng thường gắn liền với việc mở rộng quy mô xí nghiệp và do đó không có xây dựng cơ bản. 2.3 Phân theo chủ thể đầu tư - Dự án đần tư nhà nước là các dự án mà chủ đầu tư chính là Nhà nước; nguồn vốn đầu tư có thể lấy từ ngân sách nhà nước; vốn tín dụng của Nhà nước; vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước hoặc vốn vay, việc trợ của nước ngoài (ODA). - Dự án đầu tư tư nhân là những dự án mà chủ đầu tư của các dự án đó là các doanh nhân trong nước hoặc nước ngoài. Loại dự án này bao gồm dự án đầu tư trong nước và dự án đầu tư nước ngoài (dự án FDI). - Dự án đầu tư hỗn hợp là những dự án sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau; kết hợp cả vốn nhà nước và vốn của tư nhân. 2.4 Phân theo quy mô và tính chất của dự án đầu tư Theo tiêu chí này, các dự án đầu tư nhà nước được chia thành 4 nhóm sau: - Dự án quan trọng quốc gia là những dự án có quy mô vốn đàu tư từ 10.000 tỷ đồng trở lên hoặc những dự án phải di dân tái định cư từ 20.000 người trở lên… (chẳng hạn, dự án xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất; dự án đường Hồ Chí Minh; dự án xây dựng Nhà máy thủy điện Sơn La). - Dự án nhóm A. - Dự án nhóm B. - Dự án nhóm C. Việc phân loại dự án theo các nhóm A, B và C là tuỳ thuộc vào quy mô vốn đầu tư do Nhà nước quy định cho từng thời kỳ. Lĩnh vực đầu tư Nhóm A Nhóm B Nhóm C 1. Dự án đầu tư thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật quốc gia; có ý nghĩa chính trị-xã hội quan trọng Không kể mức vốn 2. Dự án đầu tư sản xuất chất độc hại, chất nổ; dự án đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp. Không kể mức vốn 3. Dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng sản, xây dựng khu nhà ở. Vốn đầu tư trên 600 tỷ đồng Vốn đầu tư từ 30 đến 600 tỷ đồng Vốn đầu tư dưới 30 tỷ đồng 4. Dự án đầu tư trong lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông (cầu cảng, sân bay, đường sắt, đường bộ…), cấp thoát nước, hạ tầng kỹ thuật, sản xuất thiết bị thông tin điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, cơ khí, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông. Vốn đầu tư trên 400 tỷ đồng Vốn đầu tư từ 20 đến 400 tỷ đồng Vốn đầu tư dưới 20 tỷ đồng 5. Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị mới, dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông lâm thủy sản. Vốn đầu tư trên 300 tỷ đồng Vốn đầu tư từ 15 đến 300 tỷ đồng Vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng 6. Dự án y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học Vốn đầu tư trên 200 tỷ đồng Vốn đầu tư từ 7 đến 200 tỷ đồng Vốn đầu tư dưới 7 tỷ đồng (Theo Nghị định 16/NĐ-CP ban hành tháng 2 năm 2005) Đối với các dự án đầu tư tư nhân, theo quy định mới nhất của Luật Đầu tư, 2005, được phân chia thành 3 mức cũng theo tiêu chí về quy mô vốn đầu tư và tính chất của dự án: - Dự án có vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng. - Dự án có vốn đầu tư từ 15 tỷ đến dưới 300 tỷ đồng. - Dự án có vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng trở lên, hoặc dự án đầu tư vào lĩnh vực đầu tư có điều kiện. 2.5 Phân theo mức độ chi tiết của nội dung dự án - Báo cáo đầu tư (trước đây gọi là Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi): là loại dự án đề cập một cách sơ bộ và mang tính chất thăm dò các vấn đề của đầu tư như: quy mô đầu tư, hình thức đầu tư, địa điểm xây dựng, công nghệ, kỹ thuật, phương án huy động vốn… Những vấn đề này được đưa ra chưa phải đã được nghiên cứu cụ thể, chi tiết, chắc chắn, mà để nhằm mục đích tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản lý về tính khả thi của dự án đầu tư. - Dự án đầu tư (trước đây gọi là Báo cáo nghiên cứu khả thi hay Luận chứng kinh tế- kỹ thuật): loại dự án này thực chất là một bản báo cáo đầy đủ, chi tiết, cụ thể những nội dung cần có cho hoạt động đầu tư. Khác với báo cáo đầu tư, các nội dung đưa ra trong dự án đầu tư không chỉ dừng lại ở mức độ sơ bộ, dự kiến, mà phải có căn cứ rõ ràng, thuyết phục; phải mang tính hợp lý và hiện thực; phải thể hiện được tính khả thi của dự án đầu tư. Nói cách khác, loại dự án này được lập ra không phải nhằm mục đích thăm dò, tham khảo mà là để chứng minh, khẳng định một cách chắc chắn khả năng có thể thực hiện được của dự án đầu tư. 3. Vai trò, tác dụng của dự án đầu tư Cho dù chủ đầu tư là nhà nước hay công dân, khi thực hiện bất kỳ một hoạt động đầu tư nào cũng cần phải có dự án. Sở dĩ như vậy là vì dự án có vai trò, tác dụng như sau: 3.1 Dự án giúp chủ đầu tư kiểm tra tính cần thiết, tính khả thi của hoạt động đầu tư. Từ đó chủ đầu tư hạn chế bị thất bại, tránh bị tổn thất hoặc kết quả không như mong muốn. Dự án là cơ sở để nhà đầu tư, thực hiện đầu tư, kiểm tra và đánh giá kết quả đầu tư. 3.2 Dự án giúp chủ đầu tư tổ chức quá trình đầu tư, phối hợp hoạt động của nhiều người, nhiều bộ phận tham gia vào quá trình này. Dự án có vai trò như kịch bản cho một bộ phim. Nhà đầu tư căn cứ vào đó để phân vai, các diễn viên căn cứ vào đó để diễn xuất. 3.3 Đối với nhà nước, dự án là cơ sở để các cơ quan QLNN quản lý hoạt động đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Thông qua dự án đầu tư, Nhà nước nắm được quy mô, chất lượng của hoạt động đầu tư để từ đó ra quyết định cấp phép đầu tư. 4. Các bộ phận chủ yếu của một đầu tư Dự án đầu tư được lập ra cho nhiều lĩnh vực khác nhau nên không có một mẫu chung cho mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, ở dạng chung nhất, dự án thường gồm các bộ phận sau đây: 4.1 Thuyết minh về lý do đầu tư, sự cần thiết phải có dự án đầu tư 4.2 Hình thức đầu tư, địa điểm thực hiện dự án 4.3 Phần dự án, tức là sau khi hoàn thành giai đoạn xây dựng cơ bản của dự án đầu tư, công trình phải được tạo ra (vật chất hoá các nguồn vốn đầu tư). 4.4 Bảng tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư (thời gian, lượng vốn, điểm hoà vốn…) 4.5 Các phương án thực hiện dự án: giải pháp về vốn, lao động, chuyên gia, cán bộ quản lý dự án, về thiết bị kỹ thuật và công nghệ… Các phương án về nguồn vốn (xác định rõ nguồn vốn, khả năng tài chính, nhu cầu vốn theo tiến độ…); phương án kiến trúc (giải pháp xây dựng, thiết kế sơ bộ công trình); phương án kỹ thuật công nghệ; phương án về môi trường và xã hội; phương án quản lý, khai thác dự án và sử dụng lao động; phương án giải phóng mặt bằng, kế hoạch tái định cư (nếu có). 4.6 Tiến độ triển khai dự án: các mốc thời gian chính thực hiện đầu tư, kế hoạch đấu thầu, thời gian khởi công, thời gian hoàn thành đưa công trình vào khai thác, sử dụng. 5. Các bước của quy trình soạn thảo dự án đầu tư 5.1 Nghiên cứu cơ hội đầu tư, hình thành sáng kiến đầu tư Thực chất đây là giai đoạn nhà đầu tư tiến hành nghiên cứu thị trường, nghiên cứu môi trường đầu tư…. để tìm kiếm lĩnh vực đầu tư thích hợp. Trong giai đoạn này, nhà đầu tư có rất nhiều cơ hội đầu tư, có thể có nhiều hướng bỏ vốn, nhưng nhà đầu tư cần chọn hướng nào phù hợp nhất, thuận lợi nhất cho mình được gọi là sáng kiến đầu tư. Khi đã lựa chọn được sáng kiến đầu tư, nhà đầu tư sẽ chuyển sang giai đoạn nghiên cứu kiền khả thi. 5.2 Nghiên cứu tiền khả thi Đây là bước nhà đầu tư nghiên cứu sơ bộ các nội dung của hoạt động đầu tư: sự cần thiết đầu tư, quy mô, hình thức đầu tư, công nghệ, kỹ thuật. Tuy nhiên, bước nghiên cứu này mới chỉ dừng lại mức sơ bộ, khái quát, dự kiến, chưa tính toán một cách cụ thể và chi tiết. Chẳng hạn, dự kiến quy mô, hình thức đầu tư, dự kiến khu vực, địa điểm xây dựng, phân tích sơ bộ công nghệ, kỹ thuật, tính toán sơ bộ hiệu quả của đầu tư. Những nghiên cứu đó chưa thể làm cơ sở để quyết định thực thi. Kết quả của bước này là báo cáo nghiên cứu tiền khả thi (nay gọi là báo cáo đầu tư). Tuy nhiên không phải mọi dự án đầu tư đều phải trải qua bước NCTKT. Chỉ dự án có quy mô đầu tư lớn, thời gian đầu tư dài, độ phức tạp cao, chứa đựng nhiều yều tố bất định. Bởi những dự án này nếu không nghiên cứu tiền khả thi mà đi ngay vào nghiên cứu chi tiết, cụ thể sẽ dễ gặp thất bại và tổn phí rất lớn. 5.3 Nghiên cứu khả thi Sơ với bước NCTKT, các nội dung được nghiên cứu ở bước này đầy đủ, chính xác, toàn diện hơn rất nhiều. Mọi vấn đề được đưa ra ở bước này đều phải có căn cứ, các giải pháp được đề cập phải mang tính hợp lý, thực tế, phải khẳng định chắc chắn tính khả thi của dự án. Kết quả bước nghiên cứu này gọi là báo cáo nghiên cứu khả thi (nay gọi là dự án đầu tư). Dựa trên các kết quả tính toán này, chủ đầu tư mới có thể thực hiện dự án thành công. 6. Chu kỳ thực hiện dự án đầu tư Trong giai đoạn này chủ đầu tư cần giải quyết các công việc sau: Nghiên cứu sự cần thiết phải đầu tư, quy mô đầu tư. Tiếp xúc, thăm dò thị trường trong nước, ngoài nước để tìm nguồn cung ứng vật tư, thiết bị; tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Xem xét khả năng huy động các nguồn vốn và lựa chọn hình thức đầu tư. Lựa chọn địa điểm đầu tư. Lập dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư. Giai đoạn này kết thúc khi chủ đầu tư nhận được văn bản quyết định đầu tư nếu là dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước, hoặc văn bản Giấy chứng nhận đầu tư (trước đây gọi là Giấy phép đầu tư) nếu là dự án đầu tư của các thành phần kinh tế khác. 6.2 Giai đoạn thực hiện đầu tư Giai đoạn này bao gồm các công việc sau đây: Xin cấp đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước. Chuẩn bị mặt bằng xây dựng, giải phóng mặt bằng (nếu có). Chọn đơn vị tư vấn khảo sát thiết kế. Thẩm định thiết kế. Đấu thầu lựa chọn nhà cung ứng thiết bị hoặc lựa chọn đơn vị thi công xây lắp Xin giấy phép xây dựng, giấy phép khai thác tài nguyên (nếu có). Ký các hợp đồng thực hiện dự án với nhà thầu. Thi công xây lắp công trình. Nghiệm thu công trình. 6.3. Giai đoạn vận hành, khai thác dự án Giai đoạn này bao gồm các công việc sau: Bàn giao công trình xây dựng. Bảo hành công trình. Vận hành dự án, đưa công trình vào sản xuất kinh doanh. II. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với đầu tư và dự án đầu tư Sự cần thiết của QLNN đối với các dự án đầu tư tư nhân Nhà nước phải quản lý các dự án đầu tư tư nhân, vì các dự án đó nếu được thực hiện sẽ có ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng, lợi ích nhà nước. - Đầu tư của dự án. Đầu ra của ác dự án đầu tư là sản phẩm, dịch vụ và chất thải các loại. Với đầu ra là chất thải như rác thải, nước thải, tiếng ồn…nếu không có biện pháp xử lý sẽ có hại cho cộng đồng, tác động xấu đến môi trường. Ngay cả những sản phẩm, hoặc dịch vụ được tạo ra từ dự án, không phải đều có lợi cho cộng đồng, mà có thể có những sản phẩm hoặc dịch vụ gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người, vi phạm đạo đức… Do đó, ở cả mặt nàu của đầu ra, Nhà nước cũng phải quản lý. - Đầu vào của dự án. Đó là các yếu tố được sử dụng trong quá trình xây dựng và vận hành dự án, như tài nguyên, lao động, máy móc, thiết bị và công nghệ… Việc sử dụng các đầu vào đó của chủ dự án đôi khi gây ảnh hưởng đến cộng đồng về nhiều mặt như lãn phí tài nguyên, bóc lột người lao động, sử dụng công nghệ đã hết khấu hao… nên Nhà nước phải quản lý để định hướng cho các chủ đầu tư, khi sử dụng các yếu tố đầu vào phải tuân theo các tiêu chuẩn, quy định của nhà nước. - Các nội dung khác của dự án đầu tư như: Quy mô đầu tư, địa điểm phân bố công trình, kết cấu kiến trúc công trình (độ cao, hình khối, mầu sắc, phản quang, …), do đều có ý nghĩa về mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh… rất sâu sắc, nên nhà nước cần phải quản lý xem xét kỹ trước khi cho phép đầu tư. 1.2 Sự cần thiết khách quan của QLNN đối với các dự án quốc gia Sở dĩ nhà nước phải quản lý các dự án nhà nước là vì đó là vống của nhà nước bỏ ra hoặc vốn tín dụng của nhà nước, hoặc vống viện trợ do nhà nước đứng ra tiếp nhận và sử dụng. Đối với mọi dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước đều thành lập Ban quản lý dự án (BQLDA) thay mặt chủ đầu tư trực tiếp quản lý sử dụng vốn của nhà nước. Tuy vậy, hoạt động quản lý của các Ban QLDA chỉ giới hạn trọng phạm vi quản trị dự án, chứ không phải là hoạt động QLNN đối với các dự án nhà nước. Các Ban QLDA vẫn phải chịu sự QLNN của tất cả các cơ quan quản lý khác vì hai lý do: - Ban QLDA thực hiện trách nhiệm với tư cách chủ đầu tư. Họ là người đại diện cho nhà nước về mặt vốn đầu tư, có nhiệm vụ làm cho vốn đó sớm biến thành mục tiêu đầu tư. Như vậy, các ảnh hưởng khác của dự án như tác động của môi trường, an ninh quốc phòng, trình độ công ghệ… họ không có trách nhiệm và không đủ khả năng để quan tâm đến. Nếu không có sự QLNN đối với các Ban QLDA này, các DA nhà nước trong khi theo đuổi các mục đích chuyên ngành có thể làm tổn hại quốc gia ở các mặt mà họ không lường hết hoặc không quan tâm. - Mặt khác, bản thân các Ban QLDA cũng có thể không thực hiện trọn vẹn trách nhiệm đại diện sở hữu vốn, từ đó sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả, thậm chí tham ô, chiếm đoạt vốn của nhà nước 2. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư 2.1 Đối với các loại dự án nói chung, QLNN có chức năng: - Ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực gây ra bởi đầu ra của các dự án. - Ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực do việc sử dụng đầu vào của các chủ dự án không đứng trên lợi ích toàn diện, lâu dài của đất nước. - Ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực khác mà có thể gây ra như các công trình xây dựng được tạo ra bởi dự án cảnh quan, thuần phong, mỹ tục, an ninh quốc gia. 2.2. Riêng đối với các dự án nhà nước, QLNN có thêm chức năng sau: - Hỗ trợ các ban QLDA thực hiện đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người đại diện sở hữu nhà nước trong các dự án. - Kiểm tra, kiểm soát ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực trong việc sử dụng vốn nhà nước nhằm tránh thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nước. 3. Biện pháp quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư Nhà nước thực hiện QLNN đối với các dự án bằng cách sau đây: 3.1. Thực hiện chế độ cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án Biện pháp này được áp dụng đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn của tư nhân trong cả nước và ngoài nước. Các nhà đầu tư trước khi triển khai, thực hiện các hoạt động đầu tư phải tiến hành các thủ tục đầu tư theo quy định của nhà nước để được cấp giấy chứng nhận đầu tư . Mục đich của biện pháp này là để Nhà nước kiểm soát các hoạt động của các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế ngay từ khi các hoạt động này còng thể hiện trên giấy tờ. Từ đó, các cơ quan nhà nước quản lý đầu tư có thể kịp thời điều chỉnh, sửa chữa những sai lầm, sai phạm hướng tới các mục tiêu kinh tế - xã hội. - Không cần đăng ký đầu tư: áp dụng đối với những dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng. Những dự án này chủ đầu tư không cần phải xin Giấy chứng nhận đầu tư. - Đăng ký đầu tư: áp dụng đối với những dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng đến dưới 300 tỷ đồng; những dự án đầu tư FDI có vốn đầu tư dưới 300 tỷ đồng. Theo quy trình này, chủ đầu tư không cần trình bản dự án đầu tư (giải trình kinh tế - kỹ thuật) cho cơ quan quản lý đầu tư của nhà nước mà chỉ cần lập hồ sơ hợp lệ, theo mẫu và sẽ được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. - Thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư: Áp dụng đói với nhứng dự án ( cả trong nước và nước ngoài) có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng trở lên hoặc những dự án đầu tư vào các lĩnh vực có điều kiện như an ninh quốc phòng, văn hoá thông tin, giải trí, bất động sản, khai thác tài nguyên, tài chính ngân hàng… Đối với những dự án này, chủ đầu tư phải trình bản Dự án đầu tư lên cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư để thẩm tra, xem xét, sau một thời gian quy định, nếu các cơ quan này đồng ý sẽ cấp giấy chứng nhận đầu tư. 3.2. Thực hiện chế độ phê duyệt nhiều bước Biện pháp này áp dụng đối với dự án sử dụng vốn nhà nước, các cơ quan đầu tư phê duyệt dự án theo nhiều bước để ra quyết định đầu tư (không phải cấp GCNĐT) Phê duyệt theo nhiều bước là phê duyệt nhiều lần cho một dự án, trong đó ở mỗi lần phê duyệt, DA phải được chuẩn bị ở mức cao hơn, cụ thể, chính xác hơn lần trước. Có ba bước phê duyệt sau đây: - Phê duyệt chủ trương đầu tư: Nội dung được xem xét ở bước này là sự cần thiết, tính cấp thiết phải đầu tư. Quyết định quản lý của Nhà nước sau bước này là cho phép đầu tư về mặt chủ trương. - Phê duyệt nghiên cứu tiền khả thi (hay còn gọi là báo cáo đầu tư): Nội dung xem xét ở bước này là báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. Kết luận ở bước này là cho phép (chủ đầu tư tiếp tục tiến hành) nghiên cứu khả thi. - Phê duyệt nghiên cứu khả thi (hay còn gọi là DAĐT): Tại bước này, nội dung xem xét báo cáo nghiên cứu khả thi, đó là báo cáo chi tiết nghiên cứu các khía cạnh kinh tế, kỹ thuật, tài chính, môi trường, xã hội và thương mại của dự án. Kết luận ở bước này là cho phép thực thi DA; tức là DA được phép chuyển sang giai đoạn thực hiện đầu tư. - Chế độ phê duyệt một lần, theo đó, chủ đầu tư phải trình dự án khả thi ngay trong lần duyệt đầu. - Chế độ phê duyệ hai lần, theo đó chủ đầu tư trình dự án: + Báo cáo tiền khả thi (BCĐT) trong lần một. +Báo cáo khả thi (DAĐT) trong lần hai. - Chế độ phê duyệt ba lần đó là: chủ trương đầu tư, tiền khả thi và khả thi… Sở di nhà nước áp dụng biện pháp trên trong QLNN về DAĐT là để: - Buộc các chủ đầu tư với tư cách đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước phải thận trọng trong công việc chuẩn bị đầu tư. Do đó, khi các dự định đầu tư không quan trọng, không phức tạp, vốn đầu tư lớn, Nhà nước không yêu cầu phê duyệ nhiều lần là để giảm bớt thủ tục hành chính phiền hà cho các chủ đầu tư, đồng thời tiết kiệm lãng phí vốn nhà nước. Còn đối với các dự án quan trọng đối với nền kinh tế, Nhà nước yêu cầu phê duyệt nhiều lần để đảm bảo độ thận trọng khi ra quyết định đầu tư, đảm bảo cao nhất khả năng thành công của dự án. 3.3 Thực hiện chế độ phân loại dự án để ấn định chế độ phê duyệt Phân loại dự án để thẩm định chế độ phê duyệt là việc phân chia dự án thành các loại, tuỳ theo quy mô của vốn đầu tư, tầm quan trọng của từng dự án, theo đó mỗi loại dự án được phê duyệt theo một số lần nhất định. Dự án quốc gia áp dụng chế độ phê duyệt 3 lần; dự án nhóm A áp dụng chế độ phê duyệt 2 lần; dự án nhóm B, C áp dụng chế độ phê duyệt 1 lần. 3.4. Thực hiện chế độ phân loại dự án để phân cấp quyết định đầu tư Phân loại dự án để phân cấp phê duyệt là phân chia dự án thành các loại, theo đó mỗi loại được phê duyệt tại một cấp trong hệ thống tổ chức quản lý nhà nước. Cũng tương tự như biện pháp trên, tiêu chí để phân loại dụ án trong biện pháp này cũng căn cứ vào quy mô tính chất của dự án. Theo đó dự án sử dụng vốn nhà nước cũng được phân chia thành 4 nhóm tương tự: Dự án quan trọng quốc gia: Thủ tướng chính phủ ra quyết định đầu tư Dự án A, B, C: Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh (NĐ 16CP/2005). Dự án B, C có thể phân cấp QĐ ĐT cho cơ quan cấp dưới trực tiếp, chẳng hạn hội đồng quản trị Tổng công ty, Tổng cục trưởng, Chủ tịch UBND cấp huyện, xã. 3.5. Thực hiện chế độ đầu thầu bắt buộc Biện pháp này được thực hiện đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước, DAĐT sử dụng vốn hỗn hợp trong đó vốn nhà nước chiếm từ 30% trở lên. Theo biện pháp này, việc tuyển chọn đơn vị thi công trong các dự án sử dụng vốn nhà nước phải theo phương thức đấu thầu. Sở dĩ Nhà nước quy định bắt buộc đấu thầu nhằm mục đích tuyển chọn được nhà thầu có trình độ, năng lực công nghệ tốt nhất để xây dựng công trình đạt chất lượng và tiết kiệm vốn đầu tư, chống lãng phí thất thoát vốn của Nhà nước. Theo quy định của Luật Đấu thầu, 2005, có 3 hình thức đấu thầu để tuyển chọn nhà thầu: - Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham dự. Trước khi phát hành hồ sơ mời thầu, chủ đầu tư phải thông báo công khai các thông tin về đấu thầu, đồng thời có thể đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng để tạo thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân có quan tâm. - Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà chủ đầu tư chỉ mời một số nhà thầu có đủ khả năng lực và kinh nghiệm tham gia đấu thầu (tối thiểu 5 nhà thầu). Hình thức này chỉ được áp dụng đối với những gói thầu theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài, hoặc những gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng. - Chỉ định thầu là hình thức lựa chọn trực tiếp nhà thầu để tiến hành thi công xây dựng công trình. Do không có tính cạnh tranh, công bằng và minh bạch nên chỉ định thầu chỉ được phép áp dụng trong những trường hợp đặc biệt như sụ cố do thiên tai, địch hoạ cần chỉ định nhà thầu để khắc phục ngay; gói thầu thuộc bí mật quốc gia; hay những gói thầu xây lắp có giá trị dưới 1 tỷ đồng. Đối với mỗi gói thầu chỉ được tiến hành đấu thầu 1 lần.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQLNNv7873 KT chuyn2737873 16.doc
  • docQLNNv7873KT chuyn273787117.doc
  • docTL on thi cong chuc ve QLNNok.doc
Tài liệu liên quan