Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội’MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương I: Cơ sở khoa học của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 1 Những vấn đề chung về đất nông nghiệp 3 1.1 Khái niệm đất nông nghiệp 3 1.2 Đặc điểm đất nông nghiệp 5 1.2.2. Tính sở hữu và sử dụng 6 1.2.3. Đất nông nghiệp có tính đa dạng và phong phú 8 1.3 Phân loại đất nông nghiệp 9 2. Vai trò đất nông nghiệp 11 2.1. Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế 11 2.2.Việc sử dụng đất nông nghiệp là một trong những yếu tố quyết định đến bảo vệ môi trường sinh thái của cuộc sống 12 2.3. Đất nông nghiệp là nguồn cung cho các mục đích sử dụng 13 3. Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp 15 3.1 Khái niệm quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp 15 3.2 Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 18 4 Những quy định pháp lý về công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, 20 4.1 Nội dung công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 20 4.2 Phân cấp bộ máy quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp 38 5. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp 40 5.1. Điều kiện tự nhiên, 40 5. 2. Điều kiện kinh tế xã hội: 41 5.3.Yếu tố khoa học và công nghệ công nghệ ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp 43 Chương II: Thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội 46 1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Thanh Trì ảnh hưởng đến quản lý sử dụng đất nông nghiệp. 46 1.1 Điều kiện tự nhiên; 46 1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội 47 1.2.1 Dân số nguồn lao động. 47 1.2.2 Văn hoá: 48 1.2.3 Điều kiện cơ sở hạ tầng. 48 1.2.4 Điều kiện kinh tế: 50 1.3. Đánh giá ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện tới công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp. 53 2 Hiện trạng công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của huyện Thanh Trì thành phố Hà Nội. 55 2.1 Về ban hành các văn bản hướng dẫn quản lý sử dụng đất nông nghiệp. 55 2.2. Hiện trạng đo đạc, khảo sát, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp. 57 2.3. Hiện trạng về lập quy hoạch và thực hiện quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – thành phố Hà Nội 60 2.4 Hiện trạng về giao đất, cho thuê đất nông nghiệp, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, 63 2.5 Thực trạng thực hiện công cụ tài chính trong quản lý đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì thành phố Hà Nội. 68 2.4 Thống kê, kiểm kê đất nông nghiệp trên địa bàn 70 2.5 Hiện trạng công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo vi phạm về đất nông nghiệp. 72 3. Đánh giá những thành tựu và hạn chế của công tác quản lý nhà nước về đât nông nghiệp của huyện Thanh Trì 73 3.1. Kết quả đạt được 73 3.2. Tồn tại 74 3.3 Nguyên nhân 75 Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì – thành phố Hà Nội 77 1. Phương hướng quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp 77 2. Giải pháp 79 2.1 Giải pháp chung 79 2.2 Giải pháp cụ thể 79 PHẦN III: KẾT LUẬN 81

doc86 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2371 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong cuộc sống của con người từ xa xưa cho tới nay, không ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của đất đai. Đất đai là điều kiện tiên quyết không thể thiếu của bất kỳ nên kinh tế nào, ngay cả những nước phát triển đời sống kinh tế chủ yếu là sản xuất công nghiệp - dịch vụ, cho đến những nước đang phát triển nền kinh tế chủ yếu sản xuất nông nghiệp. Nước ta sau hơn 20 năm đổi mới đã có những thành tựu vượt bậc nhưng hiện vẫn đang là một nước nông nghiệp. Vì vậy đất nông nghiệp đối với nước ta càng có ý nghĩa hơn. Huyện Thanh Trì thuộc thành phố Hà Nội là một huyện ngoại thành thành phố Hà Nội. Nằm giữa ngã ba đường là cầu nối quan trọng giữa thủ đô Hà Nội và các tỉnh thành lân cận như: Hà Tây, Hà Nam, Nam Định…Do đó huyện có vại trò to lớn đối với sự phát triển của thủ đô, Tuy là một huyện thuộc thành phố Hà Nội nhưng huyện Thanh Trì vẫn là một huyện sản xuất nông nghiệp, cơ cấu kinh tế đang trên bước đường chuyển mình chưa hình thành cơ cấu triệt để cho nền sản xuất. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp và đảm bảo các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp là vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế huyện, mà cụ thể là quản lý và sử dụng đất nông nghiệp trên toàn huyện. Đứng trước xu thế công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đô thị hoá diễn ra ngày càng nhanh, ngày càng mạnh. Đất nông nghiệp đang đứng trước nguy cơ thu hẹp dần diện tích, do đó để có được hiệu suất sử dụng đất nông nghiệp ngày càng cao và hợp lý, đòi hỏi công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp ngày càng phải hoàn thiện, chặt chẽ hơn nữa. Đối với huyện Thanh Trì, số lượng lao động làm trong ngành nông nghiệp chiếm đa số( 68,9%), diện tích đất nông nghiệp chiếm trên 53,6 % (thống kê năm 2005) qua đây để thấy được vai trò của đất nông nghiệp với toàn huyện và có nhận định đúng đắn hơn về công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của huyện Thanh Trì.Qua thời gian thực tập tại Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thanh Trì, nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp em đã lựa chọn đề tài “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội’’ làm chuyền đề tốt nghiệp. Đây là một nội dung trong 12 nội dung của công tác quản lý nhà nước về đất đai. Việc lựa chọn đề tài này nhằm mục đích củng cố thêm kiến thức đã được học, bổ sung, mở rộng các lý thuyết đã được học, hệ thống hóa được các lý luận và áp dụng lý luận vào thực tiễn. Dựa vào quá trình thực tập để tìm hiểu sâu về tình hình sử dụng đất nông nghiệp và công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của huyện Thanh Trì. Từ đó, đưa ra được các kiến nghị, với các cấp, các ngành, địa phương nhằm nâng cao chất lượng của công tác quản lý về đất nông nghiệp trên địa bàn. Chuyên đề thực tập tốt nghiệp là sản phẩm của sự nghiên cứu thực tiễn của địa phương và nghiên cứu tổng hợp về lý thuyết. Trong chuyên đề đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: phương pháp tổng hợp, phương pháp điều tra, phương pháp phân tích… Kết cấu của chuyên đề ngòai lới nói đầu và kết luận, chuyền đề gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp Chương II: Thực trạng quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội Do trình độ và thời gian hạn hẹp, nên chuyên đề không thể tránh khỏi. những sai sót, em rất mong nhận được những lời nhận xét và góp ý cho chuyên đề hoàn thiện hơn. Trong thời gian qua, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ của phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thanh Trì – Hà Nội, các cô giáo, thầy giáo, đặc biệt là cô giáo Vũ Thị Thảo đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I: Cơ sở khoa học của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 1 Những vấn đề chung về đất nông nghiệp 1.1 Khái niệm đất nông nghiệp Trước khi đi sâu tìm hiểu về đất nông nghiệp chúng ta tìm hiểu qua về sự hình thành của đất đai trên bề mặt trái đất nói chung. Đất đai được hình thành thông qua quá trình lịch sử lâu dài nhờ vào sự phong hoá đá mẹ dưới sự tác động của không khí, gió, nước, sinh vật..Sản phẩm của quá trình phong hoá đá đó là các chất vô cơ Như: N,C,S,Mg…Theo thời gian sản phẩm của quá trình phong hoá đó tích tụ thêm các chất hữu cơ từ xác của động vật, thực vật bị chết, phân, chất thải của động, thực vật (đây chính là một phần nguồn dinh dưỡng quan trọng sẽ cung cấp cho thực vật sau này)… và hình thành nên đất. Đất đai được hình thành trên bề mặt trái đất do đó đất đai là một khoảng không gian có giới hạn theo chiều thẳng đứng (gồm khí hậu, lớp đất phủ bề mặt,…); và theo chiều ngang (là sự kết hợp của thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn, thảm thực vật…). Quỹ đất đai của mỗi vùng, địa phương luôn bị giới hạn bởi địa giới hành chính của vùng, địa phương đó. Quỹ đất đai của một đất nước bị giới hạn bởi biên giới, địa giới lãnh thổ quốc gia, Và tổng quỹ đất của tòan thế giới bị giới hạn bởi bề mặt trái đất, Chính vì thế không ai có thể nói rằng đất đai là nguồn tài nguyên vô tận, không có giới hạn mà ngược lại đai có giới hạn. Con người từ thủa sơ khai, khi con người còn là con người nguyên thuỷ cuộc sống mông muội dựa hoàn toàn vào đất đai. Đất đai là nơi con người khai thác, các loài động vật, thực vật bằng cách săn bắn, hái lượm, trú ngụ… Đất nông nghiệp cung cấp cho con người nguyên thuỷ tất cả những sản phẩm cần thiết của đời sống, đời sống con người những năm nguyên thủy là đời sống cộng đồng hoạt động sản xất nông nghiệp còn rất thô sơ, và đất đai là tư liệu lao động quý giá nhất mà họ có lúc bấy giờ. Dần dần, khi cuộc sống con người ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng lên. Con người nguyên thuỷ bắt đầu có những nhận thức mới, những nhu cầu và sự thay đổi mới trong xã hội. Lúc này, chỉ dựa hoàn toàn vào thiên nhiên không có sự canh tác thôi không thể đáp ứng đựơc nhu cầu ngày một cao được nữa. Từ đó con ngươì đã biết dựa vào đất nông nghiệp để chăn nuôi,cày cấy, trồng trọt và từ đây cuộc sống con người bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ mà con người biết tự canh tác tạo ra của cải vật chất cho bản thân, hạn chế ảnh hưởng của thiên nhiên đến đời sống. Sản phẩm mà con người tạo ra ngày càng đa dạng, đầy đủ hơn, Biết khai thác sức mạnh của đât nông nghiệp đời sống con người ngày càng tăng lên nhanh chóng, kéo theo nó là sự phát triển của xã hội, nền kinh tế và nhận thức. Cho đến ngày nay, khi con người đã thoát khỏi đời sống mông muội nhưng cuộc sống con người không thể tách rời khỏi đất nông nghiệp. Dọc theo quá trình phát triển ta có thể thấy mục đích đầu tiên của con người đối với đất đai là sản xuất nông nghiệp; và bây giờ có rất nhiều ngành sản xuất mới ra đời, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, sản xuất công nghiệp nặng…Con người vẫn không rời bỏ được nền sản xuất nông nghiệp đã tồn tại từ rất lâu đời cho đến nay. Như vậy, một nguồn đất trong tổng quỹ đất của loài người là phục vụ cho mục đích trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng…Vậy quỹ đất đó được gọi là gì? Đất nông nghiệp được định nghĩa ra sao? Theo luật đất đai năm 2003: “Đất nông nghiệp là đất được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp như: Trồng trọt, chăn nuôi, làm muối, nuôi trồng thuỷ sản…,hoặc sử dụng để nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp”. Đất đai khi được sử dụng vào mục đích nông nghiệp thì được gọi là ruộng đất. Con người tác động vào đất nông nghiệp tạo ra của cải, vật chất cho đời sống. Đất nông nghiệp - ruộng đất là đối tượng lao động đồng thời là tư liệu lao động của con người. Lúc đầu, con người canh tác chỉ để đáp ứng nhu cầu của bản thân, gia đình nền kinh tế “tự cung tự cấp”. Xã hội phát triển quá trình chuyên môn hoá xảy ra, nông phẩm không đơn chỉ để phục vụ cho bản thân người sản xuất nữa. Nông phẩm là một mặt hàng quan trọng trên thị trường, mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho người sử dụng đất và cho toàn xã hội. Vì vậy, đất đai sử dụng vào sản xuất nông nghiệp – ruộng đất chiếm vị thế đáng kể đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội loài người. 1.2 Đặc điểm đất nông nghiệp Đất nông nghiệp là một bộ phận của tổng quỹ đất, Nó có đặc điểm chung của đất đai đồng thời có những đặc điểm riêng của nó. 1.2.1. Đặc tính hai mặt: Đất nông nghiệp không thể sản sinh và có khả năng tái tạo Như chúng ta đã biết về quá trình hình thành đất đai là quá trình của tự nhiên, đó là một quá trình dài, diễn ra liên tục dưới sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, không thể ngày một ngày hai mà có khi là cả hàng ngàn hàng vạn năm mới hình thành nên được đất đai trên bề mặt trái đất. Đất đai không thể di chuyển vị trí, nó có luôn luôn cố định (nó được hình thành ở đâu thì luôn ở đó, bản thân nó không thể di chuyển) đồng thời đất đai được hình thành với một số lượng hạn chế trên toàn cầu và phạm vi từng quốc gia. Tính cố định không thể di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác của đất đai đồng thời cũng quy định tính giới hạn về quy mô theo không gian (theo cả chiều rộng và chiều sâu) gắn liền với môi trường mà đất đai phải chịu chi phối (nguồn gốc hình thành,đá mẹ, các hệ sinh thái, khí hậu, chế độ mưa nắng…). Con người không thể tạo ra đất đai (đất nông nghiệp), quá trình hình thành nên đất đai là một quá trình tự nhiên qua thời một khoảng thời gian dài, năng lực của con người không đủ để tạo ra đất đai. Chính vì vậy mà ta có thể nói đất đai (đất nông nghiệp) không thể tái sinh. Tuy nhiên, con người - chủ thể hoạt động của nền kinh tế xã hội, Con người tác động vào đất đai (đất nông nghiệp) theo hai hướng khác nhau: có thể đó là tác động theo chiều hướng tích cực, có thể đó là tác động theo chiều hướng tiêu cực. Quá trình tác động theo chiều hướng tích cực sẽ góp phần rất lớn vào cải tạo và nâng cao chất lượng đất (đất nông nghiệp) khắc phục được hiện tượng hoang hoá, khôi phục độ phì nhiêu của đất nông nghiệp, tạo ra một diện tích đất nông nghiệp mới cho sản xuất,Như vậy nếu biết cách gìn giữ và sử dụng thì đất đai vẫn có thể tái tạo lại, thực tế cũng đã chứng minh điều đó, Qua đây, có thể kết luận đẩt đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng có tính hai mặt: không thể tái sinh nhưng có khả năng tái tạo, Tính hai mặt này rất quan trọng trong quá trình sử dụng đất, Một mặt, con người sử dụng đất nông nghiệp phải hết sức tiết kiệm, xem xét kỹ lưỡng, cẩn thận khi phân bố, sử dụng, chuyển mục đích sử dụng các loại đất, Một mặt, phải luôn chú ý ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tăng khả năng phục hồi sức sản xuất và tái tạo đất nông nghiệp, phục hồi đất hoang hoá đưa vào sử dụng…,Trong quá trình sử dụng con người phải luôn biết cách khai thác đât đai (đất nông nghiệp), không vắt kiệt khả năng sản xuất của đất đai (đất nông nghiệp) 1.2.2. Tính sở hữu và sử dụng Có một thời xã hội loài người không có sự phân hóa, cuộc sống bầy đàn, mọi sản vật tìm được đều là của chung của toàn cộng đồng, ngay cả đất đai. Đất đai là sở hữu chung của cả bầy đàn, cộng đồng. Cùng với sự phát triển của xã hội chế độ sở hữu và chiếm hữu đất đai cũng phát triển theo. Chế độ chiếm hữu ruộng đất đã biến quyền sở hữu đất đai từ sở hữu chung của tập thể, bầy đàn thành sở hữu tư nhân. Cùng với quá trình thương mại hoá nền nông nghiệp thì việc chia nhỏ quyền sở hữu đất đai (đất nông nghiệp) và quyền sở hữu tư nhân về đất đai cũng là một tất yếu dĩ nhiên dẫn đến quá trình bần cùng hoá nông dân những người luôn cần đến đất đai như là một tư liệu lao động, đối tượng lao động trực tiếp. Người nắm trong tay đất đai là người có nhiều quyền lợi kinh tế lớn nhất trong nền sản xuất xã hội, song song với nó người sở hữu đất đai còn nắm quyền các lực về mặt chính trị. Kẻ không có đất đai chỉ là kẻ làm thuê, làm công bị tách ra khỏi tư liệu sản xuất, mất đi tư liệu sản xuất. Và như vậy, trong xã hội xuất hiện sự tách biệt giữa người sở hữu đất đai (đất nông nghiệp) và người sử dụng đất đất đai (đất nông nghiệp), người sở hữu đất nông nghiệp giờ đây không phải là người lao động trực tiếp mà trao quyền sử dụng, lao động trực tiếp đó cho các đôi tượng khác qua các hình thức cho thuê đất, giao đất, thuê, mướn (những đối tượng này cần có tư liệu sản xuất là đất đai nhưng lại bị tách khỏi quyền sở hữu đất)… Người sở hữu đất nông nghiệp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, là người chủ sở hữu duy nhất đất nông nghiệp được nhà nước công nhận về mặt pháp lý, nhà nước luôn bảo vệ các quyền lợi hợp pháp cho người sở hữu đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Người sở hữu đất nông nghiệp có quyền sử dụng, khai thác, mua bán, ứng dụng khoa học vào sản xuất phù hợp với chính sách và quy định của pháp luật nhà đặt ra… Ở nước ta ngay sau ngày đất nước được giải phóng năm 1945 đất nước bước đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc; và cho tới nay pháp luật nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà Nước làm đại diện chủ sở hữu”, Nhà nứơc thể hiện vai trò của mình thông qua việc Quyết định mục đích sử dụng đất Quy định hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất Quyết định giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất Định giá đất (Trích luật đất đai năm 2003) Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi có từ đất nông nghiệp thu được bằng các chính sách tài chính về đất nông nghiệp như: chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp, chính sách quy định về tiền thuê đất nông nghiệp, thuế thu nhập khi chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp… Là người đại diện chủ sở hữu đất nông nghiệp trên phạm vị cả nứơc nhưng nhà nước không phải là ngừời trực tiếp sử dụng đất nông nghiệp. Nhà nước trao quyền sử dụng đất nông nghiệp cho những người có nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp thông qua hình thức: giao đất, cho thuê đất…Người sử dụng trực tiếp đất nông nghiệp, được nhà nước ban một số quyền đối với đất nông nghiệp như: sử dụng, chiếm hữu, định đoạt nhưng các quyền mà nhà nước ban cho các các nhân, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp chỉ là các quyền hạn chế, không phải là quyền tuyệt đối hoàn toàn, người được nhà nước giao đất, cho thuê đất không có quyền định đoạt, chiếm hữu, sử dụng tối cao, những quyền này là của nhà nước. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đã tạo ra nhiều thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung và quản lý nhà nước về đất nông nghiệp nói riêng, Nhà nước có thể thu hồi, điều chỉnh, giao đất, quyết định mục đích sử dụng của đất đai sao cho phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. Khi cần thu hồi, lấy lại đất nông nghiệp nhà nước có thể bồi thường cho cá nhân, tổ chức sử dụng đất tiền bồi thường thiệt hại, nếu người sử dụng đất không chấp nhận với mức đền bù, hay vì lý do khác thì nhà nước có quyền cưỡng chế đối với trường hợp đó. 1.2.3. Đất nông nghiệp có tính đa dạng và phong phú Trên bề mặt trái đất đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng được hình thành nhờ vào quá trình phong hoá đá mẹ, đá mẹ là nguồn gốc sinh ra đất đai. Đất nông nghiệp được tạo ra mang những tính chất khác nhau phụ thuộc nhiều vào lớp đá mẹ tạo ra lớp đất nông nghiệp đó. Chính vì vậy mà chúng ta có những loại đất nông nghiệp khác nhau như: đất phù sa, đất đỏ bazan, đất sét thịt, đất cát…Thiên nhiên tạo ra rất nhiều loại đất nông nghiệp khác nhau có tính chất và đặc điểm khác nhau đặc trưng riêng của mỗi loại. Thậm chí trong một loại đất nông nghiệp đó không phải ở đâu loại đất đó cũng giống nhau, có nơi đất đó tốt hơn, có nơi lại xấu hơn, thành phần cơ giới, độ phì nhiêu của chúng là khác nhau. Ví dụ như: đất nông nghiệp do phù sa Sông Hồng thường mang tính chất cơ giới nhẹ, nhiều kiềm. Phù sa Sông Cửu Long thường mang tính chất cơ giới nặng hơn phù sa Sông Hồng, Dựa trên tính chất đặc biệt của mỗi loại đất và sự phù hợp của khí hậu, điều kiện tự nhiên của địa phương nơi đất nông nghiệp phân bố mà con người lựa chọn loại hình canh tác, cây con giống, chế độ luân canh, tưới tiêu sao cho phù hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nữa. Tính đa dạng và phong phú của đất nông nghiệp vì thế cũng mang lại nhiều lợi ích cho con người. Mỗi một địa phương một loại đất, một tính chất khác nhau lại có luồng sản phẩm khác nhau, phù hợp và như thế con người sẽ có nhiều sản phẩm nông nghiệp đa dạng và phong phú hơn. Một số vùng có thể hình thành nên nền sản xuất chuyên canh cây, con đặc sản mà không vùng nào có thể có đựoc mang lại giá trị kinh tế cao. 1.3 Phân loại đất nông nghiệp Phân loại đất nông nghiệp là một việc làm quan trọng cho công tác sản xuất, quản lý đất nông nghiệp. Dựa vào sự phân loại đó con người có thể xác định được mục tiêu sản xuất, cây con giống phù hợp, chế độ chăm sóc hợp lý,…Có rất nhiều tiêu chí khác nhau để phân chia đất nông nghiệp. Có thể phân chia đất nông nghiệp dựa vào: mục đích sử dụng, tính chất đất, độ Ph, thành phần cơ giới… Theo luật Đất đai năm 1993 thì: Đất đai được chia thành 6 loại, trong đó đất nông nghiệp gồm các loại đất sau: Đất trồng cây hàng năm: + Đất trồng lúa, trồng màu Ruộng 3 vụ Ruộng 2 vụ Ruộng 1 vụ + Đất trồng cây hàng năm khác: Đất trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày Đất trồng rau Đất trồng cây hàng năm khác Đất vườn tạp Đất trồng cây lâu năm Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: Nuôi cá Thuỷ sản khác (Trích luật đất đai năm 1993) Theo luật đất đai năm 2003 điều 13 quy định: đất đai chia làm ba nhóm nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp, nhóm đất chưa sử dụng, Trong đó đất nông nghiệp gồm có: - Đất sản xuất nông nghiệp gồm: +Đất trồng cây hàng năm: Đất trồng lúa Đồng cỏ chăn nuôi đất trồng cây hàng năm khác + Đất trồng cây lâu năm - Đất lâm nghiệp: Đất rừng sản xuất Đất rừng phòng hộ Đất rừng đặc dụng - Đất nuôi trồng thuỷ sản - Đất làm muối - Đất nông nghiệp khác theo quy định của chính phủ (Trích luật Đất đai năm 2003) Ta có thể nhận thấy sự thay đổi rất lớn giữa cách phân loại đất của luật Đất đai năm 1993 và luật Đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2003 đã quy định chi tiết và cụ thể hơn, các loại đất đã được phân chia theo đúng mục đích sử dụng. Sự thay đổi có thể thấy rõ, một số loại đất chuyên dùng và đất nông nghiệp nay chuyển sang đất phi nông nghiệp nông nghiệp. Sự đổi mới này thể hiện một tư duy mới tránh xảy ra sự trùng lặp, chồng chéo trong phân chia các loại đất như trước đây. Ngoài ra, việc phân chia đất nông nghiệp còn theo nhiều cách khác nhau, dựa trên những tiêu chí khác nhau. Ví dụ, phân chia đất nông nghiệp dựa trên đặc tính đất đai, thổ nhưỡng của đất đai. Hay ta có thể phân chia đất nông nghiệp theo phân bố vị trí địa lý, tính chất màu mỡ của đất đai, độ phì nhiêu của đất nông nghiệp…Ta có đất nông nghiệp phân bố ở đồng bằng, đất nông nghiệp phân bố ở miền trung du,…Đất nông nghiệp có tính chất màu mỡ cao, đất nông nghiệp độ phì thấp, đất nông nghiệp có tính chất màu mỡ trung bình… 2. Vai trò đất nông nghiệp 2.1. Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế - Là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được. Đất nông nghiệp là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại, là điều kiện tiên quyết không thể thiếu được cho sản xuất cơ bản. Quả thật, trong quá trình sản xuất tồn tại của con người, con người không thể tách rời đất đai. Vai trò của đất đai trong ngành trồng trọt và ngành sản xuất nông nghiệp còn được thể hiện rõ ràng hơn. Thứ nhất, đất nông nghiệp là đối tượng của sản xuất thể hiện ở chỗ người sản xuất tác động vào đất đai để sản xuất ra của cải nông nghiệp như: lương thực, thực phẩm, rau quả, động vật… Nhờ vào khoa học kỹ thuật, sự tiên tiến của công nghệ con người đã tác động làm thay đổi tính chất, độ phì của đất để phục vụ mục đích cuối cùng là sản lượng cây trồng ngày càng cao, chất lượng cây trồng ngày càng tăng lên không ngừng, khả năng chống chọi với những tác động bất lợi đến cây con nuôi trồng ngày càng lớn. Hoạt động của con người tác động vào đất có thể là trực tiếp hay gián tiếp. Con người trực tiếp tác động vào đất đai như là một tư liệu sản xuất, đối tượng sản xuất như: Cày bừa, cuốc đất, trồng trọt…Con người tác động vào đất đai gián tiếp như: sản xuất phân bón, hoá chất…ứng dụng vào đất đai. Tất cả để phục vụ cho đời sống của con người. Thứ hai, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất, từ đất nông nghiệp cây cối, động vật được trồng trọt, chăn nuôi cho ra sản phẩm. Đất nông nghiệp là nguồn cung cấp môi trường sống cho động, thực vật các nguồn khoáng sản và dinh dưỡng cho sự sống của thực vật. Trong đất nông nghiệp chứa đầy đủ thức ăn, dinh dưỡng, không khí…mà cây con trồng cần thiết cho sự sống. Chính vì vậy người sản xuất đã có trong tay một tư liệu sản xuất vô cùng quan trọng không thể thay thế được. Mặt khác, mặc dù con người đã có sự cố gắng để tạo ra sản phẩm nông nghiệp mà không cần dùng đến đất đai như: trồng cây trên nước, trồng cây bằng dung dịch dinh dưỡng…Nhưng chưa có một quốc gia nào có thể tách rời trồng trọt với đất nông nghiệp cả. Những sản phẩm tạo ra từ những thí nghiệm chỉ là một khối lượng rất nhỏ và năng suất rất thấp, Điều này càng chứng minh sự cần thiết, và tầm quan trọng của đất đai nói chung và đất nông nghiệp. Có thể khẳng định con người luôn cần đến đất nông nghiệp để sản xuất và đó là tư liệu sản xuất không thể thay thế được. 2.2.Việc sử dụng đất nông nghiệp là một trong những yếu tố quyết định đến bảo vệ môi trường sinh thái của cuộc sống Đất nông nghiệp là một trong những yếu tố cấu thành nên môi trường, gắn liền với môi trường tự nhiên và điều kiện sinh thái. Theo quy luật của mối liên hệ phổ biến thì để có được môi trường trong sạch các yếu tố trong môi trường phải được bảo vệ và trong lành, nếu không yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến yếu tố khác, một yếu tố không được bảo vệ có thể gây ảnh hưởng xấu đến các yếu tố khác và như thế môi trường sẽ bị ô nhiễm. Nếu đất nông nghiệp không có được môi trường trong sạch hiệu quả sử dụng đất nói chung sẽ giảm sút đáng kể. Chúng ta có thể thấy nếu đất đai bị ô nhiễm hậu quả tất yếu là nguồn nước bị ô nhiễm, không khí bị ô nhiễm, môi trường sống bị ô nhiễm…Con người khai thác đất đai không có ý thức thường chỉ xét đến các lợi ích trước mắt mà không thể nhìn thấy được lợi ích lâu dài. Điều này càng làm suy giảm môi trường của cuộc sống hơn. Tuy nhiên, con người có thể tác động lên đất đai theo hai mặt: một mặt tiêu cực làm đất nông nghiệp và môi trường xấu đi. Một mặt tích cực làm đất nông nghiệp và môi trường tốt lên. Con người - chủ thể của hoạt động kinh tế - xã hội hoàn toàn có thể tạo ra môi trường trong sạch cho đời sống của bản thân và cộng đồng bằng những hành vi tích cực: dùng phân bón hợp lý, không phá rừng ồ ạt, không bỏ hoang hoá, khai thác đất đai hợp lý, năng suất, hiệu quả…Những hành động này làm một trong những tác nhân quan trọng trong bảo vệ môi trường nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, môi trường trong sạch là đóng góp chung của toàn xã hội, của toàn cầu, của cả thế giới, của cả cộng đồng loài người không phải là nhiệm vụ của riêng ai. Do đó, cần có sự nỗ lực chung và một chiến lược hợp tác, giúp đỡ, làm việc có hệ thống trên tầm quốc tế. 2,3, Đất nông nghiệp là nguồn cung cho các mục đích sử dụng Như Adam Smith đã nhận định “đất, trong hầu hết các tình huống sản sinh ra một lượng lương thực nhiều hơn so với khối lượng đủ để duy trì sự sống của ngươi lao động”. Nói như vậy có nghĩa là đất nông nghiệp có thể sản sinh ra một lượng sản phẩm thừa đủ để cung cấp cho bản thân người nông dân sản xuất, một phần sản phẩm dư thừa còn lại sử dụng vào đâu? trong xã hội, quá trình trao đổi, mua bán xảy ra và sản phẩm dư thừa được người sản xuất đưa ra thị trường cung cấp cho xã hội, các cá nhân khác. Cùng với khoa học công nghệ càng phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ và kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp ngày càng nhanh và mạnh theo cả chiều sâu (khoa học và công nghệ áp dụng hiệu quả, ngày càng mạnh, càng hiện đại) và chiều rộng (khoa học công nghệ áp dụng vào hầu hết các công đoạn, các giai đoạn sử dụng đất, trên diện tích rộng, hầu khắp). Dựa trên sức sản xuất của đất nông nghiệp và khoa học công nghệ, con người có thể tạo ra một khối lượng lớn hơn nữa các sản phẩm nông nghiệp. Như vậy con người không cần phải sử dụng một diện tích quá lớn để sản xuất ra sản phẩm đầy đủ cho đời sống, họ có thể sử dụng một diện tích nhất định cũng đã đủ cung cho nhu cầu của xã hội. Diện tích đất nông nghiệp cần sử dụng cho quá trình sản xuất so với trước kia giảm xuống, Diện tích đất nông nghiệp dôi ra dùng vào đâu? Quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội, ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ ngày càng mở rộng. Nhu cầu đất đai phục vụ cho mục đích sản xuất công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên. Quá trình chuyển dịch cơ cấu đất đai cho các mục đích sử dụng của con người cũng xảy ra sao cho phù hợp. Đất nông nghiệp sẽ là nguồn cung quan trọng cho các mục đích sử dụng khác, quỹ đất nông nghiệp được cắt để phân bổ cho mục đích sử dụng khác. Đối với nước ta là một nước đang phát triển, nền kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào nền sản xuất nông nghiệp do vậy diện tích đất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn trong quỹ đất của quốc gia. Tuy có diện tích khá lớn khoảng 22 triệu Ha (năm 2004) nhưng đất nông nghiệp chưa được khai thác đúng mức, hiệu quả và năng suất còn thấp, thu nhập bình quân đầu người còn ở mức thấp so với thế giới .Vì vậy, cần thiết phải chuyển một số diện tích đất nông nghiệp sang mục đích khác nhằm mang lại hiệu quả cao hơn. Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa của đất nước, cơ cấu nền kinh tế đang chuyển đổi mạnh mẽ từng ngày, diện tích đất cần cung cấp cho mục đích xây dựng, giao thông, đất ở, đất khu công nghiệp, thương mại…gia tăng nhanh chóng. Quỹ đất nông nghiệp là một nguồn cung quan trọng cho các mục đích sử dụng đất khác cho nên một diện tích lớn đất nông nghiệp đã và sẽ được chuyển sang mục đích phi nông nghiệp đã mang lại những hiệu quả lớn lao cho đất nước. Tuy nhiên, sự chuyển đổi này cần phải có tính toán và có quy hoạch rõ ràng, thực tế và mang tính dự báo cao…Trong hệ thống các điều khoản của Pháp luật nước Việt Nam đã có những quy định chặt chẽ cho các trường hợp điều chỉnh các quỹ đất nhằm cân đối các nhu cầu và bảo đảm diện tích đất nông nghiệp cần thiết của xã hội. 3, Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp 3.1 Khái niệm quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp Như chúng ta đã biết bản chất của công tác quản lý nhà nước là sự tác động một cách có tổ chức, hệ thống nhằm mục đích điều chỉnh các hành vi của con người, tổ chức, cá nhân…bằng quyền lực của nhà nước để hướng ý chí và mục đích của họ theo mục đích chung của toàn xã hội. Nhà nước tác động lên các đối tượng thông qua công việc thiết lập các mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa con người với con người, giữa các tập thể với nhau, quan hệ giữa cá nhân với tập thể… các mối quan hệ tồn tại trong xã hội là rất nhiều, tất cả các mối quan hệ đó đều cần phải được điều chỉnh để lợi ích của người này không làm xâm phạm lợi ích của người khác, đảm bảo được lợi ích của đất nước. Trước hết nhà nước vừa là một cơ cấu có tổ chức bao gồm một hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Những tác động của nhà nước lên các đối tượng quản lý là các tác động có tổ chức chứ không phải tác động một cách đơn lẻ đến một cá nhân, chủ thể đơn giản trong xã hội. Mà sự tác động đó đặt trong hệ thống tổng hòa các mối quan hệ của xã hội bao hàm tòan bộ các cá nhân, tổ chức, thành phần kinh tế. Tính tổ chức đó đặt ra vấn đề là làm sao hình thành nên các tổ chức, bộ máy quản lý với cơ cấu và cơ chế hoạt động thích hợp. Mặt khác, các tổ chức, bộ máy đó hoạt động như thế nào? Sự phối hợp hoạt động, phân chia quyền hạn, trách nhiệm giữa các cá nhân, tổ chức như thế nào? Để bộ máy nhà nước quản lý mang lại hiệu quả tối ưu, đạt được mục tiêu đã đề ra. Đó là một vấn đề lớn đối với công tác tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước. Nhà nước còn tạo lập nên bộ máy sức mạnh về pháp luật, an ninh, bộ máy áp chế… để thực hiện công tác quản lý của mình đưa cá nhân, tổ chức vào đúng quỹ đạo, hoạt động trong khuôn khổ phục vụ lợi ích cá nhân mà lợi ích đó không gây ảnh hưởng xấu đến xã hội. Sự tồn tại của bộ máy áp chế trong cơ cấu các cơ quan chức năng quản lý là một tất yếu khách quan, đó là điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quản lý trong những trường hợp cần thiết. Quản lý nhà nước còn được thể hiện ở quan hệ chủ thể và khách thể và đối tượng quản lý. Chủ thể của sự quản lý nhà nước là bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương, tỉnh, thành, phường, xã,,, và toàn bộ các cán bộ công nhân viên chức của nhà nước làm việc trong công tác quản lý Nhà nước …Khách thể quản lý là các công dân, tổ chức, các thành phần kinh tế, xã hội… Đối tượng của công tác quản lý nhà nước là các quá trình kinh tế, các hoạt động, các mối quan hệ có liên quan. Riêng trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai chủ thể quản lý nhà nước về đất đai (cụ thể ở đây là đất nông nghiệp) thì nhà nước đóng vai trò là chủ thể quản lý, khách thể của sự quản lý là các cá nhân, tổ chức, doanh nhân, doanh nghiệp sử dụng đất nông nghiệp, có liên quan đến đất nông nghiệp…Và đối tượng của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp là những mối quan hệ phát sinh, những vướng mắc, vấn đề có liên quan đến đất nông nghiệp xảy ra trong xã hội. Cụ thể trong công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, Nhà nước có các vai trò và nhiệm vụ quan trọng sau: - Nhà nước quản lý toàn bộ quỹ đất đai (đất nông nghiệp) trên phạm vi cả nước. Như đã nói ở trên nhà nước là người đại diện chủ sở hữu đất nông nghiệp của cả nước. Đồng thời nhà nước là chủ thể quản lý của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, Chính vì vậy nhà nước phải thống nhất quản lý đất đai (đất nông nghiệp) trên phạm vi cả nước. Mục đích của việc này là mang lại lợi ích chung cho xã hội đảm bảo sử dụng đất (đất nông nghiệp) hợp lý và hiệu quả cao nhất, có tầm nhìn xa vì mục đích chung của cộng đồng. Song song với nó Nhà nước luôn có các chế tài để đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm của mình và của người sử dụng đất nông nghiệp nói riêng và đất đai nói chung. Người sử dụng đất nông nghiệp phải tuân thủ các quy định đã đặt. Nếu không chấp hành các quy định đó thì người sử dụng đất đã vi phạm pháp luật có thể bị phạt, thu hồi đất, tịch thu tài sản…Nhà nước thực hiện công tác quản lý qua những nhiệm vụ sau: - Nhà nước thông qua quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế để định hướng cho quá trình sử dụng đất. Nhà nước là người có các quyền tuyệt đối với đất đai: định đoạt, chiếm hữu… Do đó, nhà nước có quyền quyết định mục đích sử dụng, thời hạn sử dụng… của đất đai (đất nông nghiệp). Trước hết nhà nước xác định tính chất, hiện trạng, đặc tính của đất đai (đất nông nghiệp) từ đó xác định được mục đích sử dụng của các loại đất ở từng vùng, địa phương, nhu cầu sử dụng đất của các ngành, các lĩnh vực sao cho phù hợp. Qua quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đã được thông qua nhà nước đã điều tiết các quỹ đất trong nền kinh tế, nhà nước quyết định mục đích sử dụng đất của vùng, địa phương… Người sử dụng đất tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước đã được thông qua. Mô hình chung mục đích sử dụng, cơ cấu sử dụng, diện tích của các loại đất phân bổ…được thực hiện bởi người dân nhưng người xác định là Nhà nước. Do đó, nhà nước có được chiến lược phát triển lâu dài, bền vững cho đất nước. - Công tác kiểm kê, đánh giá phân hạng đất nông nghiệp là một việc làm không thể thiếu được của công tác quản lý nhà nước về đất đai (đất nông nghiệp). Hàng năm nhà nước phải nắm bắt được cụ thể diện tích, chất lượng, mục đích sử dụng, tình trạng sử dụng của các loại đất nói chung và của đất nông nghiêp nói riêng, có như thể mới có thể tạo lập được quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp phù hợp, lâu dài, tính dự báo cao… Để có đựơc điều đó đòi hỏi công tác kiểm kê đánh giá phân hạng đất nông nghiệp phải được thực hiện triệt để, theo đúng luật, đúng kế hoạch đề ra. Công tác này không những giúp cho công tác lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (đất nông nghiệp) mà nó còn đóng góp rất lớn cho công tác quản lý tài chính về đất nông nghiệp của nhà nước ta. Tạo một nguồn thu quan trọng cho ngân sách, phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Nhà nước tính thuế đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, tiền đền bù…dựa trên khung giá đất nông nghiệp, đất nông nghiệp được chia ra nhiều loại mỗi loại có một khung giá khác nhau. Để phân chia được đất nông nghiệp thì công tác đầu tiên là phân hạng, đo đạc, đánh giá đất. Qua đây ta có thể thấy vai trò lớn của công tác đo đạc, phân hạng, đánh giá đất đai. - Đất đai là tài sản quý giá của bất kỳ một quốc gia nào. Giá trị của đất đai ngày càng lớn trên thị trường cạnh tranh, mối quan hệ đất đai ngày càng phức tạp hơn. Con người đã nhìn nhận thấy được tính quan trọng của đất đại đối với đời sống của mình. Chính vì vậy, các tranh chấp, mâu thuẫn, khiếu kiện… trong các quan hệ đất đai thường nổ ra mạnh mẽ, Trong công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, cán bộ, công nhân viên chức có thể lợi dụng quyền hạn và trách nhiệm, công cụ nhà nước để vụ lợi cho cá nhân, lợi ích của người này làm xâm hại quyền lợi, lợi ích của người khác,Chế tài Nhà nước ban hành ra để điều chỉnh, tác động vào mối quan hệ đất nông nghiệp, đảm bảo công bằng. Công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện, xử lý vi phạm trong lĩnh vực đất nông nghiệp là rất cần thiết để phát hiện, xử lý sớm các vi phạm. Trong xã hội nước ta, một thời đất đai được xem như “ vô giá” đơn giản là vì đất đai không được mua bán trên thị trường. Ngày nay, đất đai là một tài sản có giá trị lớn, được phép mua đi bán lại. Những mâu thuẫn trong mua bán, cạnh tranh, đất đai nổ ra thường xuyên. Ngòai ra còn có nhiều loại hình khác như: thế chấp đất đai, cho thuê đất đai, …Nhiều mối quan hệ nảy sinh nhiều vấn đề phát sinh cần phải điều chỉnh. Để giảm thiểu những tác hại có thể, công tác thanh tra, kiểm tra phải đặt lên hàng đầu. 3.2 Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất nông nghiệp Như đã trình bày ở trên đất nông nghiệp đóng vai trò to lớn đối với cuộc sống của con người. Xã hội ngày càng phát triển nhu cầu đất đai thay đổi theo hướng chuyển dịch của cơ cấu nền kinh tế. Vì vậy, trong tổng quỹ đất không đổi thì đất nông nghiệp có chiều hướng giảm dần diện tích do phải chuyển mục đích sử dụng sang các loại đất khác (đất dùng cho công nghiệp, đất dùng vào mục đích thương mại, đất ở…). Nói như vậy nhưng không thể phủ nhận hoàn toàn đất nông nghiệp trong đời sống của con người ngày nay. Để tồn tại con người luôn cần đến thức ăn, rau quả, củ, sản phẩm của nền nông nghiệp - những nguồn cung cấp này chỉ có thể thỏa mãn được dựa vào sức mạnh canh tác đất nông nghiệp. Dù gì đi nữa trong tổng quỹ đất của mỗi đất nước phải luôn có một quỹ đất nông nghiệp cần thiết với mục đích của sự đảm bảo một quỹ đất nông nghiệp hợp lý là bảo đảm quỹ lương thực, an ninh lương thực của quốc gia. Đứng trước sức ép của sự phát triển kinh tế, đất nông nghiệp phải có được sự quản lý và sử dụng hợp lý để không còn việc sử dụng tràn lan nếu không có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường, không những ảnh hưởng đến thế hệ này mà còn ảnh hưởng đến thế hệ sau, dẫn tới nguy cơ phá huỷ sự phát triển bền vững của thế giới. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc hàng năm có hàng vạn ha đất nông nghiệp bị hoang hoá, bị sa mạc hoá, mất tính canh tác, bị bỏ không không ai canh tác. Mỗi giây đồng hồ trôi qua có gần 20 ha bị hoang hoá, sa mạc hoá, Đây là một mối đe doạ lớn đối với quỹ đất nông nghiệp trên thế giới. Ngay ở nước ta, sau đại hội Đảng lần thứ VI (1986) Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều tư duy, phương hướng phát triển và đổi mới cho đất nước. Nước ta xác định phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tề thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sau hơn 20 năm đổi mới đất nước bước đầu đã thu được rất nhiều thắng lợi như: DGP đầu người không ngừng tăng lên, thu nhập bình quân đầu người tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 7% trở lên, thoát khỏi đói nghèo, đói ăn…Từ một đất nước đói nghèo, sống nhờ vào viện trợ của nước ngoài trở thành một đất nước xuất khẩu gạo đứng nhất nhì thế giới, lương thực không những đủ để cung cấp trong nước mà còn thoả mãn nhu cầu xuất khẩu nông phẩm. Đất nông nghiệp là một tiềm lực to lớn mang lại cho toàn dân tộc ta nhiều lợi thế phù hợp với truyền thống lao động, phong tục tập quán, trình độ phát triển… nếu biết cách khai thác và sử dụng sẽ là một tài nguyên vô giá cho sự phát triển của đất nước. Đất nước mở cửa phát triển, trong xu thế giao lưu hợp tác với các nước khác trên thế giới, nước ta đã gia nhập vào tổ chức thương mại thể giới WTO cơ hội và thách thức đang chờ đón. Vấn đề lớn của nước ta trên con đường phát triển là nguồn vốn, làm sao để thu hút được nhiêu nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Nguồn vốn đối ứng để chúng ta đưa ra thu hút đầu tư chính là đất đai, Bản thân đất đã mang lại một nguồn vốn lớn các doanh nghiệp, công ty, tổ chức ngay trên sân nhà, tạo nhiều thuận lợi cho công cuộc hội nhập, hợp tác quốc tế của nước. Các mối quan hệ liên quan đến đất đai vì vậy mà cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, không chỉ là mối quan hệ trong nước như trước kia nữa mà phát triển hơn liên quan đến cả yếu tố nước ngoài. Nhà nước chủ thể quản lý của xã hội, phải quản lý đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng một cách hợp lý, có các chế tài mới phù hợp với xu thế hội nhập để có được hiệu quả sử dụng tối ưu, lâu dài, bền vững…đảm bảo được nền độc lập dân tộc, phát triển kinh tế.Trong các chế tài quản lý Nhà nước đã có và đâng dần hoàn thiện những quy định liên quan đến yếu tố nước ngoài giúp cho quá trình hội nhập của nước ta. Thực tế cho thấy, công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng đã đạt được nhiều bước tiến đáng kể trong suốt thời gian qua. Đó là những tiền đề thuận lợi cho công cuộc cải cách hành chính, nâng cao chất lượng của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn nữa. Mong rằng trong thời gian tới Đảng và Chính phủ sẽ có phương hướng, biện pháp và hoàn thành tốt công tác quản lý của mình. 4 Những quy định pháp lý về công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, 4.1 Nội dung công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp Theo luật đất đai năm 2003 nội dung của công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung gồm có 12 nội dung. Tuy nhiên, đối với đất nông nghiệp là một bộ phận của tổng quỹ đất đai, nó mang những đặc thù riêng biệt, chính vì vậy mà nội dụng của công tác quản lý của nhà nước về đất nông nghiệp cũng có nhiều khác biệt. Công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp có thể khái quát ở các nội dung dưới đây: 4.1.1. Ban hành văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp và tổ chức thực hiện văn bản đó. Để đảm bảo được vai trò quản lý của mình, bất kỳ một nhà nước nào cũng tạo ra và thực thi một chế tài phù hợp. Những chế tài này là tiền đề, hàng lang cho lĩnh vực áp dụng. Không có một quốc gia nào có thể có được hiệu quản quản lý mà không cần đến chế tài. Ngay cả ở nước ta, hệ thống văn bản điều chỉnh các mối quan hệ đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng rất đa dạng. Đó là những công cụ để nhà nước thực hiện đuợc quyền quản lý của mình Trên cơ sở hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai 1993 được ban hành nhằm mục đích thể chế hoá các chính sách đất đai góp phần hoàn thiện chính sách đất đai, từng bước đáp ứng yêu cầu quản lý của nhà nước. Luật Đất đai cũng đã được ban hành và sửa đổi, bổ sung vào các năm 2003, 2005 sao cho hoàn thiện hơn với tình hình sử dụng đất, chế độ sở hữu của đất nước. Luật đất đai năm 2003 ra đời với nhiều nội dung mang tính chất đổi mới (ví dụ như: sự phân chia đất theo tiêu chí mục đích sử dụng) là một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của hệ thống văn bản pháp luật về đất đai.Tiếp theo đó nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện luật Đất đai năm 2003 đã được ban hành: luật, pháp lệnh,quyết định, nghị định, thông tư… để hướng dẫn, quy định cho công tác quản lý các cấp, các ngành, các vùng, các địa phương. Các hoạt động, mối quan hệ liên quan đến đất đai còn được điều tiết thông qua một loạt bộ luật khác như: Luật Dân sự, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, Luật hình sự…và các văn bản khác hướng dẫn thi hành, áp dụng luật có liên quan. 4.1.2. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp, lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp Đất đai trên bề mặt trái đất có nhiều loại, nhiều tinh chất, nhiều vùng, nhiều tính chất khác nhau chúng được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau.. Để có một cơ chế quản lý phù hợp, có được định hướng, quy hoạch và kế hoạch phù hợp với địa phương, tỉnh, thành phố, cả nước. Việc đầu tiên bắt buộc nhà nước phải nắm được các thông tin về đất đai như: Diện tích, loại đất, tình hình sử dụng, phân bố, mục đích sử dụng,… Những thông tin này sẽ đóng góp rất lớn cho công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Đối với đất nông nghiệp để quản lý được đất nông nghiệp một cách có hệ thống nhà nước cũng cần những thông tin về đất nông nghiệp: diện tích, tình trạng sử dụng, mục đích sử dụng (trồng cây ngắn ngày, dài ngày…). Từ những thông tin về đất nông nghiệp người quản lý có được kế hoạch sử dụng hợp lý và cho ra những quyết định sử dụng đứng đắn, giúp cho nền nông nghiệp của đất nước phát triển đóng góp cho sự phát triển xã hội…Trong quá trình quản lý, sau khi tìm hiểu đưa ra quyết định, song song thực hiện quyết định người quản lý phải thu thập tiếp những thông tin về đất nông nghiệp để biết được tình hình đất nông nghiệp đang diễn biến như thế nào từ đó có những điều chỉnh, sửa đổi kế hoạch, quy hoạch, pháp luật đất đai …Như vậy những đặc điểm của đất nông nghiệp là rất quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Chính vì vậy, nhà nước phải tiến hành khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp, lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp. Việc đo đạc, khảo sát, phân hạng đất nông nghiệp là một công việc hết sức khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian, kỹ thuật, chi phí, phải tiến hành trên thực địa rất vất vả,công phu, phụ thuộc vào thời tiết, địa hình…Nhà nứơc ta đã nhận thấy được vai trò quan trọng của công tác đo đạc, đánh giá , phân hạng đất đai …nên từ rất sớm đã tiến hành đo đạc bản đồ, đánh giá, phân hạng đất. Tuy có nhiều trở ngại lớn do kinh phí, công nghệ, kỹ thuật, nguồn lực,, còn yếu nhưng nhà nước ta vẫn luôn coi trọng và cố gắng làm tốt công tác trên. Nhờ vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nước ta đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật của thể giới như: hệ thống định vị GPS, hệ thống thông tin địa lý GIS, viễn thámcông nghệ kỹ thuật số, công nghệ ảnh số …chính vì vậy công tác đo đạc, phân hạng, đánh giá… đã có rất nhiều bước phát triển trong thời gian qua. Trên cơ sở bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và các thông tin thu thập được trong quá trình điều tra, khảo sát (diện tích, mục đích sử dụng, hiện trạng sử dụng…) các cấp có thẩm quyền thiết lập bản đồ quy hoạch, kế hoạch cho từng loại đất (đất nông nghiệp, đất công nghiệp, đất ở) trên từng phạm vị và trên toàn lãnh thổ, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch chung. - Việc đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp phải dựa vào cơ sở khoa học, Tuân thủ các căn cứ để phân hạng đất nông nghiệp như: chất đất, vị trí, địa hình, điều kiện khí hậu, thành phần cơ giới của đất… Công tác đánh giá, điều tra, đo đạc, lập bản đồ hiện trạng, phân hạng đất nông nghiệp là một công tác rất quan trọng. Đó là cơ sở tiên quyết đầu tiên đáp ứng cho công tác quản lý nhà nứơc về đất nông nghiệp, cho công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất…căn cứ để xác định tiền thuê đất, tiền sử dụng đất,thuế chuyển quyền sử dụng đất…Thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước, tạo nguồn thu cho ngân sách. 4.1.3. Lập, quản lý và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp Bất kể quốc gia nào cũng cần có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Đứng trên cương vị là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Nhà nước là người tiến hành lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho các vùng, lãnh thổ, ngành… Xét trên phạm vi quy hoạch thì quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp có thể được lập cho một huyện, thành phố, vùng, cả nước. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được quy định rất rõ và cụ thể trong luật đất đai năm 2003 từ điều 21 đến điều 30. Điều 21 quy định về nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, điều 23 quy định về nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 22 Căn cứ lập quy hoạch , kế hoạch sử dụng đất. Điều 24 quy định về kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Điều 25 quy định thẩm quyền lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất Nội dung của quy hoạch sử dụng đất: + Điều tra, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và hiện trạng sử dụng đất, đánh giá tiềm năng đất đai + Xác định phương hướng mục tiêu sử dụng đất trong kỳ quy hoạch, + Xác định diên tích các loại đất phân bổ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, + Xác định các biện pháp sử dụng và bảo vệ, cải tạo đất, môi trường + Xác định diện tích đất phải thu hồi đề thực hiện các công trình, dự án. + Giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất Nội dung Kế hoạch sử dụng đất gồm có 6 nôi dung: + Phân tích đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất kỳ trước + Kế hoạch chuyển diện tích đất chuyên trồng lúa nước và đất có rừng sang sử dụng vào mục đích khác, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất trong đất nông nghiệp + Kế hoạch thu hồi diện tích các loại đất để phân bổ cho nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp dịch vụ, phát triểndô thị, khu dân cư nông thôn, quốc phòng, anh ninh. + Kế hoạch khai hoang mở rộng diện tích đất để sử dụng vào các mục đích + Cụ thể hoá kế hoạch sử dụng đất năm năm đến từng năm. + Giải pháp tổ chức thực hiện kế hoạch sử dụng đất. (Trích luật Đất đai năm 2003) Thông thường quy hoạch sử dụng đất được lập cho thời gian dài (kỳ quy hoạch sử dụng đất là 10 năm). Quy hoạch sử dụng đất mang tính khả biến (có thể thay đổi, không cố định). Trong xu thế xã hội luôn luôn biến đổi, trong xã hội luôn luôn vận động theo quy luật phát triển, các hoạt động diễn ra không ngừng chính vì vậy mà nhu cầu sử dụng đất cho các ngành, các lĩnh vực, các địa phương có sự thay đổi thường xuyên. Đối với đất nông nghiệp cũng vậy. Chính vì lý do đó mà quy hoạch sử dụng đất mang tính khả biến, nó phải được điều chỉnh, sửa đổi phù hợp với nhu cầu đất nước, sự phát triển của xã hội. Kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp được lập theo kỳ kế hoạch, và phải dựa trên quy hoạch sử dụng đất đã được ban hành, phù hợp với sự phát triển khoa học công nghệ…Trong quá trình thực hiện kế hoạch sử dụng đất nếu cần phải đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương thì phải tiến hành chỉnh sửa sao cho phù hợp. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói chung và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp nói riêng có vai trò quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Thông qua quy hoạch, kế hoạch nhà nước sẽ điều chỉnh, phân bổ, xác định, thay đổi mục đích sử dụng ngắn hạn hay dài hạn, xác định cơ cấu các loại đất cho các vùng đất, vùng lãnh thổ, quyết định phân bổ, thu hồi các loại đất …Quy hoạch, kế hoạch phải được lập một cách có khoa học, hệ thống, phải sát với thực tế. Việc điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải tuân theo quy định của luật pháp. 4.1.4. Công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp. - Công tác giao đất, cho thuê đất “ Giao đất là việc nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất” “Cho thuê đất là việc nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất” Việc giao đất, cho thuê đất là một công việc cụ thể hoá của nhà nước về trao quyền sử dụng đất cho người dân, người dân là người sử dụng trực tiếp, họ là người khai thác đất đai. Nhiệm vụ của người dân được giao đất, cho thuê đất trước hết là sử dụng đất đúng mục đích, đúng thời hạn sử dụng và thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ tài chính với các cơ quan chức năng. Việc giao đất, cho thuê đất phải căn cứ vào: + Quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn + Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất,cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất ( theo điều 31 luật Đất đai năm 2003) Việc giao đất cho các hộ gia đình, các cá nhân, tổ chức sử dụng lâu dài hoặc có thời hạn. Giao đất có thu tiền sử dụng đất và giao đất không thu tiền sử dụng đất Theo điều 33 luật Đất đai năm 2003 những trường hợp sau được giao đất nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất: + Hộ gia đình cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, làm muối được giao đất nông nghiệp trong hạn mức quy định + Tổ chức sử dụng đất vào mục đích nghiên cứu, thí nghiệm, thực nghiệm vê nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối, + Đơn vị vũ trang nhân dân được nhà nước giao đất để sản xuất nông nghiệp,lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối hoặc kết hợp với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. + Người sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng + Cộng đồng dân cư sử dụng đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp được giao có thu tiền sử dụng đất cho trường hợp: “tổ chức kinh tế được giao đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối. (Trích luật Đất Đai năm 2003) Ngoài việc quy định việc giao đất có thu tiền sử dụng đất, không thu tiền sử dụng đất…Nhà nước còn quy định về thời hạn giao đất mà người được giao được quyền sử dụng đất. Đất nông nghiệp được giao lâu dài trong những trường hợp sau: + Đất rừng phòng hộ, đất rừng dặc dụng + Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng (đất được giao cho cộng đồng dân cư sử dụng để bảo tồn bản sắc dân tộc gắn liền với phong tục, tập quán của dân tộc thiểu số) ► Còn một số loại đất nông nghiệp khác được giao sử dụng có thời hạn: + Đất trồng cây hàng năm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16987.DOC