Thanh toán tiền thi hành án - Một số vướng mắc và kiến nghị

Với các quy định trên tác giả cho rằng khi thanh toán tiền thi hành án, Chấp hành viên phải xác định những người được thi hành án của tất cả các bản án, quyết định đang do các cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp tổ chức thi hành trước thời điểm có quyết định cưỡng chế thi hành án. Như vậy, khi thu được tiền của người phải thi hành án mà số tiền không đủ để thanh toán cho các nghĩa vụ của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải xác định những người được thi hành án ở những bản án, quyết định đang do chính cơ quan mình tổ chức thi hành án và những người được thi hành án ở các bản án, quyết định đang do các cơ quan thi hành án dân sự khác trực tiếp tổ chức thi hành án trước thời điểm có quyết định cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên, với thực tiễn quản lý công tác thi hành án dân sự hiện tại trường hợp người phải thi hành án không hợp tác với Chấp hành viên thì việc xác định người phải thi hành án hiện đang phải thi hành cho bao nhiêu người, số tiền là bao nhiêu thì cũng là việc khó khăn đối với các Chấp hành viên. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong mọi bản án, quyết định thì tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai nhưng chi thanh toán cho những người được thi hành án trong các bản án, quyết định đang do các cơ quan thi hành án khác nhau tổ chức thi hành án mà Chấp hành viên biết được.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 173 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thanh toán tiền thi hành án - Một số vướng mắc và kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 37 THANH TOÁN TIỀN THI HÀNH ÁN - MỘT SỐ VƯỚNG MẮC VÀ KIẾN NGHỊ Nguyễn Thị Phíp1 Tóm tắt: Trước tình hình khiếu nại, tố cáo về hoạt động thi hành án dân sự có chiều hướng gia tăng và phức tạp. Một trong các giải pháp nhằm hạn chế việc khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự chính là việc hoàn thiện các quy định pháp luật và kịp thời hướng dẫn các vướng mắc của các cơ quan thi hành án dân sự. Với sự sửa đổi, bổ sung Điều 47 Luật thi hành án dân sự năm 2008 về thanh toán tiền thi hành án đã có nhiều quan điểm giải quyết khác nhau. Để thống nhất cách hiểu và áp dụng các quy định về thanh toán tiền thi hành án theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2014. Tác giả đã đưa ra các quan điểm giải quyết khác nhau từ một vụ việc thực tế, từ đó đưa ra những vướng mắc và những kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về thi hành án dân sự. Từ khóa: Thanh toán tiền thi hành án dân sự; vướng mắc trong hoạt động thanh toán tiền thi hành án dân sự. Nhận bài: 05/10/2017; Hoàn thành biên tập:15/11/2017; Duyệt đăng:28/11/2017. Abstract: Since the activity of denunciations and complaints in civil judgment execution is increasing and complicated, one of the solutions to limit that is finalizing legal regulations and timely providing support to civil judgment executing agencies in handling difficulties. There are different solutions upon the amendment, supplement of Article 47 of the Law on Civil Judgement execution 2008 on Judgement execution fee payment. To unify the understanding and applying regulations on Judgement execution fee payment under the Law amending, supplying the Law on Civil Judgement execution 2014, the author brings forward different viewpoints from an actual case to point out difficulties and make suggestions to finalize legal regulations on civil judgement execution. Keywords: payment of civil judgement fee; difficulties in payment of civil judgement fee Date of receipt:05/10/2017; Date of revision: 15/11/2017; Date of approval:28/11/2017. Vụ việc Nguyễn Văn Đ, hiện đang phải thi hành án 02 bản án của Tòa án nhân dân ở hai địa phương khác nhau, cụ thể như sau. Vụ việc thi hành án thứ nhất: Tại bản án dân sự phúc thẩm số 89/2016/DS-PT ngày 11/4/2016 của Tòa án nhân dân thành phố B xét xử phúc thẩm bản án dân sự sơ thẩm số 05/2016/DS-ST ngày 04/01/2016 của Tòa án nhân dân quận 3 thành phố B đã tuyên: Buộc ông Nguyễn Văn Đ phải trả cho ngân hàng S số tiền là 2,5 tỷ đồng và khoản lãi chậm thi hành án, kể từ ngày ngân hàng S có đơn yêu cầu thi hành án. Nếu ông Đ không trả sẽ phát mại tài sản thế chấp là nhà, đất của ông Đ tọa lạc tại số 14 đường X, phường 2, quận 3, thành phố B để thi hành án. Bản án này đang do Chấp hành viên V, Chi cục Thi hành án dân sự quận 3 tổ chức thi hành. Quá trình tổ chức thi hành án của Chi cục Thi hành án dân sự quận 3 như sau: Ngày 10/5/2016, Chi cục thi hành án dân sự quận 3 ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án của ngân hàng S đúng quy định pháp luật. Ngày 24/5/2016, do ông Đ không tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên đã tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của ông Đ được biết hiện ông Đ có 02 nhà, đất gồm: 01 nhà, đất tọa lạc tại số 14 đường X, phường 2, quận 3, thành phố B (là tài sản thế chấp) có giá trị khoảng 02 tỷ đồng và 01 nhà, đất tọa lạc tại tổ 10, xã An Nghĩa, huyện X, tỉnh Y. có giá trị khoảng 01 tỷ 1 Thạc sỹ, Phó Trưởng Khoa Đào tạo các chức danh thi hành án dân sự, Học viện Tư pháp. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 38 đồng. Chi cục thi hành án quận 3 đã ủy quyền cho Chi cục thi hành án huyện X tiến hành xác minh về nhà đất tại tổ 10, xã An Nghĩa, huyện X, tỉnh Y. Tại biên bản xác minh ngày 01/6/2016 của Chấp hành viên T, chi cục Thi hành án dân sự huyện X, tỉnh Y có nội dung: Nhà đất tại tổ 10 xã An Nghĩa, huyện X, tỉnh Y. hiện đang do ông Đ đứng tên quyền sở hữu, sử dụng, nhà đất này không bị cầm cố, thế chấp và không có tranh chấp”. Ngày 13/6/2016, Chấp hành viên V đã ra quyết định kê biên, xử lý nhà, đất thế chấp của Đ và đã thẩm định giá với giá là 02 tỷ đồng. Sau khi thẩm định giá nhà, đất thế chấp của ông Đ, do giá trị nhà, đất thế chấp không đủ để thi hành án cho Ngân hàng S, ngày 13/7/2016, Chấp hành viên V đã gửi văn bản đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện X, tỉnh Y yêu cầu Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện X, tỉnh Y không được chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng nhà, đất của ông Đ tọa lạc tại tổ 10, xã An Nghĩa, huyện X, tỉnh Y để tiếp tục thi hành nghĩa vụ của ông Đ phải trả cho ngân hàng S số tiền là 2,5 tỷ và khoản lãi chậm thi hành án theo bản án số 89/2016/DS-PT ngày 11/4/2016 của Tòa án nhân dân thành phố B. Vụ việc thi hành án thứ hai: Tại bản án dân sự số 122/2016/DS-ST ngày 06/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Y tuyên buộc ông Nguyễn Văn Đ phải trả cho ông Huỳnh Thanh Nam số tiền là 500 triệu đồng, bà Vũ Thị Thơm số tiền là 400 triệu đồng, ông Vũ Văn Hồng số tiền 100 triệu đồng và khoản lãi chậm thi hành án. Ngày 06/6/2016, Chi cục thi hành án dân sự huyện X, tỉnh Y đã ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án của ông Nam, bà Thơm theo đúng quy định pháp luật và giao cho Chấp hành viên tổ chức thi hành. Hiện tại ông Hồng chưa yêu cầu thi hành án. Hết thời gian tự nguyện thi hành án do ông Đ không tự nguyện thi hành án, ngày 15/6/2016, Chấp hành viên đã tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của ông Đ được biết hiện ông Đ đang sở hữu, sử dụng 01 nhà đất tại tổ 10, xã An Nghĩa, huyện X, tỉnh Y và 01 nhà, đất tọa lạc tại số 14 đường X, phường 2, quận 3, thành phố B (là tài sản thế chấp hiện đang do chi cục Thi hành án dân sự quận 3, thành phố B kê biên, định giá bán đấu giá nhưng chưa bán được). Ngoài ra, ông Đ không còn tài sản nào khác. Ngày 20/6/2016, Chấp hành viên đã ra quyết định kê biên, xử lý nhà, đất của ông Đ tại tổ 10, xã An Nghĩa, huyện X, tỉnh Y. để thi hành án và đã thẩm định giá, bán đấu giá nhà, đất trên với số tiền thu được là 900 triệu đồng. Ngày 03/10/2016, Chi cục thi hành án dân sự huyện X đã tổ chức giao nhà, đất cho người mua tài sản đấu giá. Được biết, tại thời điểm này nhà, đất số 14 đường X, phường 2, quận 3, thành phố B chi cục Thi hành án dân sự quận 3 chưa bán được. Hiện nhà, đất này đã giảm giá trị nhà đất còn là 1.780.000.0000 đồng. Vấn đề đặt ra, chi cục Thi hành án dân sự huyện X sẽ thực hiện việc thanh toán như thế nào đối với số tiền thu được là 900 triệu đồng. Về vấn đề này hiện có hai quan điểm giải quyết như sau: Quan điểm thứ nhất: Số tiền 900 triệu đồng sẽ trừ vào các chi phí thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự. Số tiền còn lại sẽ chia theo tỷ lệ cho ông Nam, bà Thơm và ông Hồng. Sau đó, Chấp hành viên sẽ thông báo cho ông Nam, bà Thơm đến nhận tiền thi hành án theo tỷ lệ mà họ được nhận. Số tiền còn lại (phần của ông Hồng) sẽ được gửi vào ngân hàng theo loại tiền gửi kỳ hạn 01 tháng, đồng thời sẽ thông báo và ấn định thời hạn không quá 01 tháng cho ông Hồng về quyền yêu cầu thi hành án. Trường hợp trong thời hạn trên ông Hồng làm đơn yêu cầu thi hành án thì Chấp hành viên sẽ làm thủ tục chi trả tiền cho ông Hồng. Trường hợp hết thời hạn thông báo trên mà cơ quan thi hành án không nhận được yêu cầu thi hành án của ông Hồng thì số tiền đã gửi và số tiền lãi từ số tiền gửi sẽ thanh toán tiếp cho ông Nam và bà Thơm theo tỷ lệ. Số tiền còn lại (nếu còn) sẽ thanh toán cho Ngân hàng S là người được thi hành án theo bản án phúc thẩm số 89/2016/DS-PT ngày 11/4/2016 đang do Chi cục Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 39 thi hành án dân sự quận 3, thành phố B tổ chức thi hành. Sau khi chi trả cho Ngân hàng S mà vẫn còn tiền thì số tiền còn lại sẽ trả lại cho ông Đ. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 và khoản 1 Điều 49 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự và khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự. Quan điểm thứ hai: Số tiền 900 triệu đồng thu được sau khi trừ các chi phí thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự, Chấp hành viên sẽ chia theo tỷ lệ cho ông Nam, bà Thơm, ông Hồng và Ngân hàng S. Vì lúc này ngân hàng S cũng là người được thi hành án theo bản án phúc thẩm số 89/2016/DS-PT ngày 11/4/2016 nhưng đang do cơ quan thi hành án dân sự khác (quận 3) tổ chức thi hành. Sau đó, Chấp hành viên sẽ thông báo cho ông Nam, bà Thơm và Ngân hàng S đến nhận tiền thi hành án theo tỷ lệ mà họ được nhận. Số tiền còn lại gửi vào ngân hàng theo loại tiền gửi kỳ hạn 01 tháng, đồng thời sẽ thông báo và ấn định thời hạn không quá 01 tháng cho ông Hồng về quyền yêu cầu thi hành án. Trường hợp trong thời hạn trên ông Hồng làm đơn yêu cầu thi hành án thì Chấp hành viên sẽ làm thủ tục chi trả tiền cho ông Hồng. Trường hợp hết thời hạn thông báo trên mà cơ quan thi hành án không nhận được yêu cầu thi hành án của ông Hồng thì số tiền đã gửi và số tiền lãi từ số tiền gửi Chấp hành viên sẽ thanh toán tiếp cho ông Nam và bà Thơm và Ngân hàng S theo tỷ lệ. Đồng thời khi Chi cục thi hành án dân sự quận 3, thành phố B mà thu được tiền từ việc bán đấu giá tài sản thế chấp sau khi đã ưu tiên thanh toán cho ngân hàng S. Số tiền còn lại sẽ được thanh toán cho ông Nam, bà Thơm và ông Hồng theo tỷ lệ. Trường hợp nhà, đất của ông Đ không phải là tài sản thế chấp cho ngân hàng S thì toàn bộ số tiền thu được sau khi trừ các chi phí về thi hành án theo khoản 1 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự sẽ được thanh toán theo tỷ lệ cho Ngân hàng S, ông Nam, bà Thơm và ông Hồng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 và khoản 1 Điều 49 Nghị định 62/2015/ NĐ-CP ngày 18/7/2015 và khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP- TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016. Bình luận Như vậy, cùng cơ sở pháp luật (03 điều luật) cùng một chủ thể áp dụng (Chấp hành viên) lại có hai cách hiểu và áp dụng khác nhau. Hai quan điểm này tác giả cho rằng đều đúng nhưng chưa thấu tình, đạt lý. Tác giả xin phân tích lý do dẫn đến hai quan điểm giải quyết khác nhau trên cùng một cơ sở pháp luật như sau: Tại khoản 2 Điểu 6 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC quy định “Trường hợp thực hiện theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự và khoản 1 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ- CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự xác định rõ những bản án, quyết định đang trực tiếp tổ chức thi hành có trước thời điểm có quyết định cưỡng chế thi hành án mà có nhiều người được thi hành án để xác định người đã yêu cầu thi hành án, người chưa yêu cầu thi hành án; số tiền được thanh toán của người đã yêu cầu thi hành án và của người chưa yêu cầu thi hành án theo các bản án, quyết định đó. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được tiền, cơ quan thi hành án dân sự chi trả cho người đã yêu cầu thi hành án số tiền theo tỷ lệ mà họ được nhận, đồng thời thông báo cho những người được thi hành án chưa yêu cầu thi hành bản án, quyết định đó về quyền yêu cầu thi hành án. Việc thông báo được thực hiện theo địa chỉ có tại bản án, quyết định qua dịch vụ bưu chính bằng thư bảo đảm. Trong thời hạn đã ấn định mà tiếp tục nhận được yêu cầu thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án theo quy HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 40 định và chi trả cho họ số tiền đã gửi, tiền lãi theo tỷ lệ đã được xác định. Số tiền của những người không yêu cầu thi hành án còn lại được thanh toán tiếp cho những người đã có yêu cầu thi hành bản án, quyết định đó tính đến thời điểm hết thời hạn thông báo. Số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán.” Mặt khác, tại mục 12 Công văn số 1103/TC THADS.NV1 ngày 30/3/2017 của Tổng cục Thi hành án dân sự hướng dẫn một số vấn đề về nghiệp vụ thi hành án dân sự đã hướng dẫn về việc xác định người được thi hành án theo đó người được thi hành án trước thời điểm có quyết định cưỡng chế được xác định còn bao gồm cả những người được thi hành án trong các bản án, quyết định đang do cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp tổ chức thi hành các khoản chủ động thi hành án. Từ những quy định trên tác giả xin bình luận về các quan điểm giải quyết trên như sau: Thứ nhất, những người đồng ý với quan điểm thứ nhất, họ cho rằng khi xác định những người được thi hành án trong các bản án, quyết định có trước thời điểm có quyết định cưỡng chế là những bản án, quyết định đang do chính cơ quan thi hành án dân sự của mình (nghĩa là chỉ trong một cơ quan thi hành án dân sự) đang trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo yêu cầu và các bản án, quyết định đang thi hành án khoản chủ động. Vì vậy, họ xác định những người được thi hành án trước khi có quyết định cưỡng chế thi hành án chỉ gồm ông Nam, bà Thơm và ông Hồng. Còn bản án phúc thẩm số 89/2016/DS-PT ngày 11/4/2016 của Tòa án nhân dân thành phố B mặc dù là bản án có trước thời điểm ra quyết định cưỡng chế nhưng lại đang do cơ quan thi hành án dân sự khác (Quận 3) tổ chức thi hành và ngân hàng S sẽ không được xác định là người được thi hành án đang do cơ quan thi hành án trực tiếp tổ chức thi hành. Vì vậy, ngân hàng S sẽ không được thanh toán trong khoản tiền thu được 900 triệu đồng của Chi cục thi hành án dân sự huyện X, tỉnh Y. Mặt khác, họ cho rằng Chấp hành viên không có trách nhiệm phải biết hoặc rất khó biết những người được thi hành án trước thời điểm có quyết định cưỡng chế đang do các cơ quan thi hành án dân sự khác tổ chức thi hành. Vì vậy, họ hiểu cụm từ “Bản án, quyết định đang trực tiếp tổ chức thi hành án” là những bản án, quyết định đang do chính cơ quan họ tổ chức thi hành kể cả các bản án, quyết định mà họ đang tổ chức thi hành khoản chủ động như hướng dẫn tại Công văn 1103/TCTHADS-NV1 của Tổng cục thi hành án dân sự ngày 30/3/2017 chứ không phải các bản án, quyết định đang do cơ quan thi hành án dân sự khác tổ chức thi hành. Thứ hai, những người đồng ý với quan điểm thứ hai lại cho rằng những bản án, quyết định đang trực tiếp tổ chức thi hành án phải bao gồm tất cả các bản án, quyết định có trước thời điểm ra quyết định cưỡng chế và đang do các cơ quan thi hành án dân sự khác nhau tổ chức thi hành. Vì vậy, trong tình huống trên phải xác định cả hai bản án: Bản án dân sự sơ thẩm số 122/2016/DS- ST ngày 06/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Y và bản án phúc thẩm số 89/2016/DS- PT ngày 11/4/2016 của Tòa án nhân dân thành phố B là những bản án đang trực tiếp tổ chức thi hành. Vì vậy, họ xác định những người được thi hành án trước thời điểm có quyết định cưỡng chế phải gồm ông Nam, bà Thơm, ông Hồng và ngân hàng S. Quan điểm của tác giả, nếu thanh toán tiền theo quan điểm thứ nhất thì sẽ thuận lợi cho các cơ quan thi hành án dân sự là chỉ thanh toán cho những người được thi hành án trong các bản án, quyết định đang do chính cơ quan mình trực tiếp tổ chức thi hành mà không phải biết hoặc xem xét những bản án, quyết định đang do các cơ quan thi hành án dân sự khác tổ chức thi hành. Mặt khác, họ cho rằng các Chấp hành viên khi tổ chức thi hành án không buộc phải biết hoặc rất khó biết được việc người phải thi hành án đang phải thi hành những bản án, quyết định nào? Cho những ai? và đây là một việc vô cùng khó khăn và không thể biết được nên chỉ cần xác định những người được thi hành án trong các bản án, quyết định đang do chính cơ Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 41 quan mình trực tiếp tổ chức thi hành án là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn. Với cách hiểu và thực hiện theo quan điểm thứ nhất, tác giả cũng chưa thực sự đồng tình vì điều luật chỉ đề cấp đến các bản án, quyết định đang do cơ quan thi hành án trực tiếp tổ chức thi hành án chứ không đề cập rõ là đang do cơ quan thi hành án nào trực tiếp tổ chức thi hành. Theo đó, những bản án, quyết định đang do cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp tổ chức thi hành phải bao gồm tất cả các bản án, quyết định đang do các cơ quan thi hành án dân sự khác nhau trực tiếp tổ chức thi hành chứ không chỉ là do một cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp tổ chức thi hành. Mặt khác, nếu thanh toán tiền theo quan điểm thứ nhất phần nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức là người được thi hành án trong các bản án, quyết định đang do các cơ quan thi hành án dân sự khác tổ chức thi hành. Mặt khác, việc xác định người phải thi hành án hiện đang phải thi hành án những bản án, quyết định nào và cho những ai là việc làm không quá khó khăn, việc xác định này chỉ cần thông qua chính người phải thi hành án là sẽ biết được. Hơn nữa, hiện nay cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự cũng đang từng bước hoàn thiện việc quản lý các vụ việc thi hành án trong phạm vi toàn quốc bằng hệ thống điện tử. Từ đó, các Chấp hành viên sẽ dễ dàng tra cứu các bản án, quyết định đang do các cơ quan thi hành án dân sự khác nhau tổ chức thi hành trên phạm vi toàn quốc. Như vậy, việc tra cứu các thông tin về người phải thi hành, người được thi hành án sẽ rất thuận lợi cho các Chấp hành viên nói riêng và các cơ quan thi hành án dân sự nói chung. Kiến nghị Với các quy định trên tác giả cho rằng khi thanh toán tiền thi hành án, Chấp hành viên phải xác định những người được thi hành án của tất cả các bản án, quyết định đang do các cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp tổ chức thi hành trước thời điểm có quyết định cưỡng chế thi hành án. Như vậy, khi thu được tiền của người phải thi hành án mà số tiền không đủ để thanh toán cho các nghĩa vụ của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải xác định những người được thi hành án ở những bản án, quyết định đang do chính cơ quan mình tổ chức thi hành án và những người được thi hành án ở các bản án, quyết định đang do các cơ quan thi hành án dân sự khác trực tiếp tổ chức thi hành án trước thời điểm có quyết định cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên, với thực tiễn quản lý công tác thi hành án dân sự hiện tại trường hợp người phải thi hành án không hợp tác với Chấp hành viên thì việc xác định người phải thi hành án hiện đang phải thi hành cho bao nhiêu người, số tiền là bao nhiêu thì cũng là việc khó khăn đối với các Chấp hành viên. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong mọi bản án, quyết định thì tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai nhưng chi thanh toán cho những người được thi hành án trong các bản án, quyết định đang do các cơ quan thi hành án khác nhau tổ chức thi hành án mà Chấp hành viên biết được. Với phân tích trên, để các cơ quan thi hành án dân sự nói chung và các Chấp hành viên nói riêng áp dụng một các thống nhất về việc thanh toán tiền thi hành án trong trường hợp một người phải thi hành án cho nhiều người trong các bản án, quyết định theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 47 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014, và Điều 49 Nghị định 62/2015/NĐ-CP và Điều 6 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP- TANDTC-VKSNDTC thì cần sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể về cụm từ “đang trực tiếp thi hành” trong khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT- BTP-TANDTC-VKSNDTC là những bản án do một cơ quan thi hành án dân sự đang trực tiếp tổ chức thi hành hay do các cơ quan thi hành án dân sự khác nhau đang trực tiếp tổ chức thi hành. Đồng thời kiến nghị các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự sớm hoàn thiện việc quản lý công tác thi hành án dân sự nói chung, các hồ sơ thi hành án của các Chấp hành viên nói riêng trong phạm vi toàn quốc bằng hệ thống điện tử./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthanh_toan_tien_thi_hanh_an_mot_so_vuong_mac_va_kien_nghi.pdf