Thúc đẩy hoạt động nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO

MỤC LỤC CHƯƠNG I:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG 1 I. Sự cần thiết và vai trò của kinh doanh nhập khẩu trong nền kinh tế quốc dân. 1 1. Sự cần thiết của hoạt động kinh doanh nhập khẩu. 1 2. Khái niệm và vai trò kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp: 2 II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu hàng hoá. 4 1. Xác định nhu cầu cụ thể về hàng hóa cần nhập khẩu: 5 2. Nghiên cứu thị trường nước ngoài, chọn đối tác kinh doanh: 5 3. Tiến hành giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hóa: 5 4. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu bao gồm: 7 5. Đánh giá kết quả hoạt động nhập khẩu và tiếp tục hoạt động buông bán 7 III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu. 7 1. Các chế độ chính sách luật pháp trong nước và quốc tế. 7 2. Tỷ giá hối đoái. 8 3. Sự biến động thị trường trong nước và ngoài nước 8 4. Nền sản xuất ,kinh doanh thương mại của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. 8 5. Hệ thống tài chính ngân hàng. 9 6. Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. 10 7. Hệ thống giao thông vận tải liên lạc. 10 CHƯƠNG II:PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU TỔNG HỢP HÀ NỘI GELEXIMCO 12 I. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO 12 1. Quá trình hình thành và phát triển 12 1.1 Thông tin chung: 12 1.2 Ngành nghề kinh doanh chính: 12 1.2.1 Xuất nhập khẩu trực tiếp: 12 1.2.2 Sản xuất, đầu tư: 13 1.2.3 Đại lý, dịch vụ: 13 1.3. Giới thiệu chung về doanh nghiệp : 13 2. Hệ thống tổ chức, chức năng nhiệm vụ của các phòng ban, bộ phận trực thuộc. 18 2.1 Ban chiến lược thị trường, đầu tư, dự án : 18 2.1.1 Chức năng : 18 2.1.2 Nhiệm vụ : 19 2.2 Ban hành chính –tổ chức–nhân sự CNTT, pháp chế và đối ngoại 20 2.2.1 Chức năng : 20 2.2.2 Nhiệm vụ : 20 2.3. Ban tài chính kế toán : 24 2.3.1 Chức năng : 24 2.3.2 Nhiệm vụ : 24 2.2 Công tác kế toán: 25 2.4.2 Nhiệm vụ : 27 2.5. Chức năng nhiệm vụ các chức danh lãnh đạo và quản lý của công ty mẹ. 28 2.5.1 Chức danh tổng giám đốc : 28 2.5.2 Chức danh phó tổng giám đốc : 28 2.5.3 Trưởng ban bộ phận : 29 II. Tình hình kinh doanh nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO trong những năm gần đây: 30 1. Qúa trình nhập khẩu và một số thị trường nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO: 30 1.1. Quá trình nhập khẩu của công ty cổ phần XNK tổng hợp Hà Nội: 30 1.2. Một số thị trường mà công ty GELEXIMCO tham gia: 41 2. Kết quả hoạt động nhập khẩu của công ty GELEXIMCO 44 III. Kết luận qua phân tích hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty 46 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY GELEXIMCO. 50 I. Phương hướng và mục tiêu hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty GELEXIMCO. 50 1.Phương hướng 50 2. Mục tiêu 51 II. Một số Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh nhập khẩu Tại Công ty GELEXIMCO. 53 1. Xây dựng cơ cấu mặt hàng nhập khẩu phù hợp. 53 2. Mở rộng thị trường nhập khẩu và phát triển nguồn hàng nhập khẩu. 54 3. Tăng cường nghiên cứu thị trường trong nước, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu. 55 4. Tổ chức và thực hiện tốt các khâu kỹ thuật nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá. 56 5. Các biện pháp cạnh tranh có hiệu quả hơn. 57 6. Tổ chức tốt việc bảo quản hàng hoá ở kho 58 7. Xây dựng đội ngũ cán bộ . 59 8. Thực hiện tốt khâu bán hàng. 61 III. Một số kến nghị đề xuất . 62 1.Nâng cao hiệu quả hoạt động của khâu Maketing 62 2.Bổ sung kiến thức về công nghệ thông tin cho cán bộ công nhân viên của công ty 63 3.Nhập khẩu thiết bị toàn bộ 63

doc71 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1559 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thúc đẩy hoạt động nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội GELEXIMCO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hóa. Cán bộ kinh doanh phải căn cứ vào kết quả của quá trình nghiên cứu thị trường mà lập phương án kinh doanh, trong đó : •Đánh giá thị trường và khách hàng : có những kết luận rõ ràng về thị trường, khách hàng cả trong và ngoài nước. •Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh : trên cơ sở phân tích tình hình về nguồn hàng (số lượng, chất lượng, chủng loại...), thời cơ, thời điểm mua hàng và bán hàng và lựa chọn phương thức kinh doanh phù hợp (trực tiếp, uỷ thác nhập khẩu hay liên kết kinh doanh). • Mục tiêu phương án và sơ bộ đánh giá kết quả kinh doanh : bán được bao nhiêu hàng? Giá bao nhiêu? Đối tượng mua hàng? Các hình thức bán (bán buôn, lẻ, đại lý)? Trong thời gian bao lâu? Lợi nhuận ước tính của phương án? Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu?...đều phải được thể hiện rõ. • Biện pháp thực hiện, bao gồm các khâu: đầu tư vốn, ký kết hợp đồng mua hàng nhập khẩu và bán hàng trong nội địa, chuẩn bị và củng cố hệ thống bán hàng trong doanh nghiệp, như: các cửa hàng, phòng trưng bày, giới thiệu, các đại lý.... Bước 5 : Giao dịch đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. - Giao dịch và đàm phán: Thường tiến hành qua thư tín là chính, đôi khi qua điện thoại hay trực tiếp. Công ty rất hạn chế việc đàm phán trực tiếp vì nó rất tốn kém chỉ trừ trường hợp đối tác yêu cầu và có lời mời sang tận cơ sở kinh doanh của họ và ngược lại, đối tác yêu cầu Công ty mời họ sang thăm. Các bước giao dịch đàm phán thường có: + Hỏi giá: Thông qua thư đặt hàng, Công ty yêu cầu đối tác cho biết các điều kiện bán hàng: giá cả, thời hạn, phẩm chất, số lượng, phương thức giao hàng, thanh toán... + Hoàn giá: Mặc cả mức giá mới trên cơ sở tính toán sơ bộ các chi phí và hiệu quả kinh doanh để đưa ra mức giá có thể chấp nhận. + Chấp nhận và xác nhận: Nếu hoàn giá thành công, hai thao tác trên sẽ gộp làm một và từ đó có thể ký kết hợp đồng, thường việc này tiến hành qua Fax. - Ký kết hợp đồng nhập khẩu: bao gồm các nội dung qui định trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các qui định cho hợp đồng ngoại thương. + Số hợp đồng, ký hiệu. + Ngày tháng năm và nơi ký kết. + Tên, địa chỉ, số tel, fax, tài khoản các bên tham gia ký kết. Người đại diện. + Những căn cứ để ký kết. + Những điều khoản ký kết: • Điều khoản hàng hoá: Tên, qui cách, số lượng... • Điều khoản giao hàng: Thời gian, địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng. • Điều khoản thanh toán. • Điều khoản tranh chấp. • Điều khoản trọng tài… Là các điều khoản cơ bản trong một hợp đồng nhập khẩu hàng hoá mà Công ty phải tuân thủ. + Chữ ký và dấu xác nhận của hai bên. - Thực hiện hợp đồng: Tuỳ thuộc phương thức thanh toán trong hợp đồng nhập khẩu qui định mà các bộ phận nghiệp vụ như phòng xuất nhập khẩu và phòng kế toán - tài chính phải tiến hành các nghiệp vụ cần thiết tiếp theo, thông thường, việc thực hiện hoạt động nhập khẩu có các bước: + Trình 01 hợp đồng nhập khẩu kèm theo phương án kinh doanh, đơn xin mở L/C, hợp đồng mua bán ngoại tệ... (do ngân hàng thương mại qui định) ra ngân hàng để mở L/C hay chuẩn bị cho T.TR (Telegraphic Transfer: Điện chuyển tiền). + Nội dung L/C phải được hai bên thoả thuận từ trước trong hợp đồng nhập khẩu, nó phải phù hợp với thông lệ quốc tế và các qui định của ngân hàng. Ngân hàng mở L/C hay thanh toán T.TR sẽ có trách nhiệm báo với NH người bán để người bán nắm được tiến độ mở L/C. + Người bán gửi hàng, hoàn tất bộ chứng từ nhập hàng gửi cho người nhập khẩu, có thể bằng DHL trực tiếp cho người nhập (vận tải bằng đường bộ) hay gửi qua Ngân hàng người mua để đến người nhập khẩu nếu bằng đường biển. Người mua kiểm tra bộ chứng từ nhận hàng. Nếu thấy hợp lệ thì sẽ: • Một là cam kết thanh toán với ngân hàng là "sẽ thanh toán hợp đồng" ngoại thương trên. Ngân hàng sẽ cấp cho một bản xác nhận việc thanh toán để đi nhận hàng. (Lúc này trong hợp đồng ngoại, ở mục nội dung của L/C phải ghi thêm: có xác nhận thanh toán của ngân hàng người mua). Sau khi nhận hàng hoá xong, thường là 7 - 10 ngày, bộ chứng từ thanh toán (trong đó có hối phiếu) mới được người bán hoàn tất và gửi tới ngân hàng người mua, khi này, người bán mới phải nộp phần tiền còn thiếu của L/C. Tiếp nhận hàng kiểu thanh toán này là phổ biến và chắc chắn vì L/C chỉ được giải phóng sau khi đã có biên bản giao nhận giữa hai bên mua và bán về mọi yêu cầu của hàng hoá, hạn chế được khả năng thiếu hụt, mất mát, hư hỏng... có thể xảy ra. • Hai là nộp toàn bộ tiền còn thiếu của L/C vào ngân hàng để thanh toán nhận bộ chứng từ để tiếp nhận hàng. Bước 6 : Thanh toán trong hợp đồng nhập khẩu. - Đồng tiền thanh toán: Giống như đồng tiền tính giá, đồng tiền thanh toán phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi được trên thị trường quốc tế. - Thời hạn thanh toán: Thường hiện nay có 2 thời hạn thanh toán trong nhập khẩu: - Trả tiền ngay (L/C at Sign): Người mua thanh toán cho người bán vào khoảng thời gian chứng từ hàng hoá được chuyển sang quyền định đoạt của người mua hay là sau khi nhận hàng xong như đã nêu ở mục trên. - Trả tiền sau: Sau khi chứng từ hàng hoá chuyển sang quyền định đoạt của người mua một thời hạn nhất định trong hợp đồng (30 ngày, 60 ngày, hay 90 ngày) thì người mua mới phải thanh toán. Thời hạn này ít được dùng do qui định của NH Nhà nước không cho phép ký bảo lãnh cho các L/C hay T.TR trả chậm. * Phương thức thanh toán: Phổ biến áp dụng cho các hợp đồng nhập khẩu hàng hoá hiện nay ở Công ty GELEXIMCO có 2 dạng: - Phương thức thanh toán bằng điện chuyển tiền (TTR): người mua yêu cầu ngân hàng của mình chuyển tiền cho người bán ở một địa điểm nhất định, thường là ở thời điểm trước lúc đi nhận hàng. - Phương thức tín dụng chứng từ: Phổ biến trong các giao dịch mua hàng nhập khẩu hiện nay và tuy có rất nhiều loại nhưng thông thường chỉ sử dụng thư tín dụng không huỷ ngang thanh toán ngay, và L/C tuần hoàn (trong các giao dịch thường xuyên có kỳ hạn nhất định) và L/C giáp lưng (trong các hợp đồng tạm nhập tái xuất hoặc chuyển khẩu). Bước 7 : Tổ chức bán hàng. Có nhiều hình thức bán đang thực hiện ở Công ty GELEXIMCO. - Bán buôn: Bán với số lượng lớn cho các nhà sản xuất, các cửa hàng, các thương nhân bán lẻ. Thường áp dụng cho các hợp đồng nhập khẩu với số lượng lớn và hàng hoá là những vật tư nguyên liệu cho sản xuất do các cán bộ nghiệp vụ của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu thực hiện bằng các hợp đồng cung ứng nội địa. - Bán lẻ: bán tới tận tay người tiêu dùng, sản xuất thông qua hệ thống các cửa hàng của Công ty như cửa hàng bán kim khí, cửa hàng bán rượu, cửa hàng bán hoá chất... - Bán qua địa lý: Thông thường kèm theo các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu là một số tổ chức, cá nhân làm đại lý bán hàng. Giá bán do Công ty qui định và họ hưởng phần trăm hoa hồng đại lý trên số lượng hàng hoá bán ra. Hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu ở Công ty GELEXIMCO đã lớn dần theo thời gian kể từ khi thành lập tới nay và tuân thủ theo các qui định về tổ chức và quản lý của Nhà nước cũng như các văn bản pháp qui của các Bộ, Ngành có liên quan trong lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu. Cho đến nay, có thể nói doanh nghiệp đã đứng vững và tồn tại được trong nền kinh doanh thị trường. 1.2. Một số thị trường mà công ty GELEXIMCO tham gia: Khi mới thành lập công ty gặp phải rất nhiều khó khăn nhưng bằng sự nỗ lực của ban giám đốc và toàn bộ cán bộ công ty, đến nay công ty đã tìm kiếm nhiều bạn hàng như: Nhật Bản, Singapore, Đức, Thái Lan…và một số nước khác. Nhằm khẳng định vị trí của mình trên thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, cong ty rất chú trọng đến việc tìm kiếm bạn hàng. Dưới đây là một số đối tác, bạn hàng trong nước và ngoài nước của công ty Tên đối tác Thị trường Công ty Phú Thái Hà Nội Công ty Tân Cương Hà Nội Đại lý tại Tràng Thi, Tràng Tiền Hà Nội Siêu thị BigC, Vincom, Fivimart… Hà Nội Itochu Nhật Bản Nisshoiwai Nhật Bản Venture International Singapore Traders Ple.Ltd Singapore Chushing Co.Ltd Thái Lan Bảng 1: Cơ cấu thị trường nhập khẩu đối với mặt hàng máy móc thiết bị (đơn vị:%) Thị trường 2004 2005 2006 2007 Nhật Bản 60,55 61,24 55,78 40,75 Đức 14.06 13.89 24,56 40,59 Đài Loan 8.54 9.08 6,15 4,83 Hàn Quốc 10,34 12,21 12,80 11,18 Nước khác 6.51 3.58 0,71 2,56 (Nguồn: Báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 2004, 2005, 2006, 2007) Qua bảng có thể thấy trong suốt 4 năm qua, đối với mặt hàng máy móc thiết bị, với nền tảng khoa học kỹ thuật hiện đại của Nhật Bản đã sản xuất được những loại máy móc trang thiết bị hiện đại, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi khắt khe của nền sản xuất trong thời kỳ công nghệ hiện nay. Với thị trường Việt Nam nói chung và với công ty GELEXIMCO nói riêng Nhật Bản là một thị trường lớn và tương đối ổn định, những năm đầu Nhật Bản luôn là thị trường nhập khẩu máy móc thiết bị lớn nhất của công ty (năm 2004 là 60,55% thị trường, năm 2005 tỷ lệ này là 61,24%...theo Bảng 1) nhưng một vài năm trở lại đây (2006, 2007) đối với mặt hàng máy móc thiết bị Nhật Bản chịu sự cạnh tranh gay gắt của Đức, năm 2007 Đức đã bằng với Nhật Bản trong quan hệ nhập khẩu với công ty, do công nghệ sản xuất các loại máy móc thiết bị của Đức trong những năm gần đây đã có những bước phát triển vượt bậc. Bảng 2: Cơ cấu nhập khẩu đối với mặt hàng nguyên nhiên vật liệu (đơn vị:%) Thị trường 2004 2005 2006 2007 Hàn Quốc 34,25 30,18 60,35 71,38 Nhật 42,38 43,44 20,94 10,23 Singapore 12,96 14,24 9,46 8,52 Nước khác 10,41 12,14 9,25 9,87 (nguồn báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 2004, 2005,2006, 2007) Theo bảng 2 đối với mặt hàng điện tiêu dùng, từ năm 2004, 2005 Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn và ổn định nhất của công ty do các mặt hàng tiêu dùng sản xuất tại Nhật Bản có chất lượng cao, rất có uy tín tại thị trường Việt Nam, nhưng đến năm 2006 và 2007 nhờ kỹ thuật công nghệ phát triển, hàng điện tiêu dùng ở một số nước khác cũng có chất lượng không kém các sản phẩm được sản xuất tại Nhật Bản mặt khác lại có giá thành rẻ hơn nên đã dần dần chiếm lĩnh được thị trường Việt Nam đặc biệt là Hàn Quốc. Năm 2006 công ty đã nhập khẩu hàng điện tiêu dùng từ Hàn Quốc chiếm tới 60,35% và năm 2007 tỷ lệ này đã là 71,38%. Bảng 3: Cơ cấu thị trường nhập khẩu đối với mặt hàng phương tiện vận chuyển(đơn vị: %) Thị trường 2004 2005 2006 2007 Nhật Bản 40,35 42,34 38,27 40,39 Hàn Quốc 18,48 23,58 30,46 31,56 Đài Loan 10,89 12,92 17,97 18,04 Nước khác 9,62 5,32 3.04 2,15 (nguồn: Báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 2004, 2005,2006,2007) Qua bảng 3 ta thấy rõ được sự ổn định của Nhật Bản trong việc cung cấp các phương tiện vận chuyển cho công ty GELEXIMCO(năm 2004 là 40,35%, năm 2005 là 42,34%, năm 2006 là 38,27% và năm 2007 40,39%). Tring nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt Hàn Quốc cũng đang dần nâng cao được tỷ lệ cung cấp phương tiện vận chuyển cho công ty với chất lượng hàng hóa cao, giá thành thấp(năm 2006 là 30,46% và năm 2007 là 31,56%) Bảng 4: Cơ cấu thị trường nhập khẩu đối với các hàng hóa khác của công ty (đơn vị: %) Thị trường 2004 2005 2006 2007 Thái Lan 15,25 20,97 54,73 66,15 Trung Quốc 12,94 Nga 29,78 5 Hàn Quốc 30,06 29,54 Đức 10,78 Nước khác 44,19 61,09 15,21 4,31 (nguồn: Báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 2004, 2005, 2006, 2007) Qua bảng 5 ta thấy rõ các mặt hàng của Thái Lan có sự phát triển nhanh và lớn nhất trong quan hệ nhập khẩu với công ty. Năm 2004 Thái Lan chỉ chiếm 15,25% thị trường nhập khẩu của công ty nhưng đến năm 2007 tăng lên đến 66,15 vượt lên trên tất cả các nước khác để chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu thị trường nhập khẩu của công ty. Cùng với Thái Lan, Hàn Quốc cũng có sự tăng trưởng trong quan hệ xuất nhập khẩu với công ty. Tuy mới chỉ tham gia trong 2 năm nhưng đã chiếm được tỷ lệ cao năm 2006 chiếm 30,06%, năm 2007 là 29,54%. 2. Kết quả hoạt động nhập khẩu của công ty GELEXIMCO Hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm qua đã ngày càng được củng cố và phát triển do sự nỗ lực đoàn kết của Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty, đồng thời với sự giúp đỡ của các Công ty, nhất là các bạn hàng đã được tiếp cận và có mối quan hệ thương mại. So với những năm trước, tình hình tài chính của Công ty hiện nay đã khả quan hơn rất nhiều. Ngay từ khi mới đi vào hoạt động, do tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân thiếu thị trường, thiếu đối tác để quan hệ mua bán, dịch vụ cũng như vốn kinh doanh ít ỏi làm cho hoạt động của Công ty trong những năm đầu vô cùng khó khăn tuy rằng có một số ưu điểm nổi bật là chưa từng bị thua lỗ. Hoạt động cầm chừng, kinh doanh kiểu làm ăn nhỏ, cò con và phần nhiều là nhập uỷ thác với chút phí đủ nuôi quân, với một số lượng ít ỏi .Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, ban lãnh đạo Công ty đã kịp thời nhìn nhận, nghiêm túc phân tích nguyên nhân của những thuận lợi, khó khăn, mạnh dạn xây dựng các phương án sản xuất, kinh doanh, bổ sung thêm nguồn nhân lực bên cạnh việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố kỹ thuật, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau và hợp tác chặt chẽ để thực hiện các hợp đồng kinh tế. Hình 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu những năm gần đây(đơn vị: Triệu USD) (nguồn: Báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 2004, 2005, 2006, 2007) Từ bảng trên ta thấy kim ngạch nhập khẩu tăng lên rất nhanh, năm 2004 kim ngạch nhập khẩu là 21.843.254,8 USD thì năm 2007 là 50.343.185,9 USD tăng tới 130,5%. Nhìn vào bảng tổng kết kim ngạch nhập khẩu thấy năm 2006 kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh nhất(từ 36.277.854,6USD lên 50.343.185,9USD tăng 38,77%) điều này phản ánh dung lượng trong nước ngày càng tăng một cách thực sự. Bảng 5: Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng thép (đơn vị: 1 USD). Thị trường Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Đài Loan 458.720,5 527.347,2 542.048,3 561.924,6 Đức 7.423,2 10.325,1 16.687,2 14.292,8 Nhật Bản 539.658,9 564.712,8 620.927,3 734.876 Hàn Quốc 1.203.835,2 1.402.289,8 1.503.223,3 1.729.258,4 Nước khác 5.342,8 6.238,2 7.344,9 2.723,6 (Nguồn báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 2004, 2005, 2006, 2007) Xem xét bảng trên ta có thể thấy rõ được kim ngạch nhập khẩu thép tăng dần, năm 2004 tổng kim ngạch nhập khẩu thép là 2.214.980,6USD đến năm 2007 tổng kim ngạch nhập khẩu là 3.040.351.8USD. Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao nhất năm 2004 là 1.203.835,2 đến năm 2007 là 1.729.258,4 và rất ổn định. Thị trường Nhật Bản cũng đang lớn mạnh dần lên với kim ngạch nhập khẩu năm 2004 là 539.658,9, năm 2007 là 734.876. Bảng 6: Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng ôtô (đơn vị: 1USD). Thị trường Năm2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Nhật Bản 9.448.595,1 12.486.589,2 18.394.465,4 22.495.485,9 Hàn Quốc 2.068.598,6 2.345.784,7 2.926.458,4 6.440.304,8 Đài Loan 1.345.834,5 1.547.583,6 1.829.430,8 2.349.495,4 Nước khác 694.239,5 835.459,3 924.358,6 1.324.393,5 (Nguồn báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 2004, 2005, 2006, 2007) Qua bảng 6 ta thấy, kim ngạch nhâp khẩu ôtô con của công ty là rất cao. Nhật Bản vẫn là thị trường mà công ty nhập khẩu nhiều nhất với kim ngạch vượt trội so với các thị trường khác(năm 2004 là 9.448.595,1 chiếm 69,7%, năm 2007 là 22.495.485,9 chiếm 69%). Bảng 7: Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng vải, may mặc (đơn vị:1USD) Thị trường Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Đài Loan 845.724,8 1.294.483,9 1.533.481,4 2.256.693,5 Thái Lan 734.235,6 866.976,4 1.535.639,3 2.823.298,2 Singapore 31.249,3 29.459,4 33.681,6 32.595,1 Nước khác 124.384,4 137.395,2 172.871,9 194.498,2 (Nguồn báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 2004, 2005, 2006, 2007) Từ bảng trên ta thấy 2 thị trường có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất là Đài Loan với kim ngạch nhập khẩu năm 2007 là 2.256.639,5USD và Thái Lan với kim ngạch nhập khẩu năm 2007 là 2.823.298,2USD. Hai thị trường này chiếm phần lớn thị trường nhập khẩu mặt hàng vải, may mặc của công ty. Bảng 8: Kim ngạch nhập khẩu đối với các hàng hóa khác của công ty (đơn vị: 1USD) Thị trường Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Thái Lan 1.554.834,3 2.248.458,9 3.082.729,8 5.284.921,8 Đức 724.328.5 587.319,2 385.958,7 498.384,3 Hàn Quốc 138.347.9 183.384,3 98.728,2 294.582,5 Nhật Bản 329.547.4 298.234,7 145.584,3 118.482,4 Singapore 592.395.2 782.329,4 812.723,4 994.324,7 Trung Quốc 482.332,8 1.233.346,4 1.349.231,5 1.892.276,3 Nga 298.448,5 239.429,8 134.485,8 124.473,2 Nước khác 215.186,8 1.245.327,2 228.185,1 175900,7 (Nguồn: Báo cáo thực hiện xuất nhập khẩu năm 2004, 2005, 2006, 2007) Qua bảng 8 ta thấy, đối với các mặt hàng khác Thái lan chiếm tỷ lệ lớn, kim ngạch nhập khẩu của năm 2004 là 1.55.834,3USD đến năm 2007 là 5.284.921,8USD. Cùng với Thái Lan, Trung Quốc cũng có sự tăng trưởng trong quan hệ nhập khẩu với công ty kim ngạch nhập khẩu năm 2004 là 482.332,8USD đến năm 2007 là 1.892.276,3USD. III. Kết luận qua phân tích hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty Thành tựu: Khi mới thành lập Công ty còn gặp rất nhiều khó khăn về vốn, thị trường và đối tác trong quan hệ mua bán hàng hoá cũng như tổ chức bộ máy mới chưa đồng bộ, ăn khớp ... vì thế, dù đã chính thức đi vào hoạt động, song Công ty mới chỉ triển khai được một phần rất nhỏ các lĩnh vực trong đăng ký kinh doanh với 3,4 phòng chức năng. Hiệu quả kinh doanh của Công ty cũng như quy mô lúc này còn rất nhỏ, giao nộp ngân sách không đáng kể. Đến năm 2004, tình hình hoạt động kinh doanh thương mại của Công ty bắt đầu có những chuyển biến tốt đẹp trước hết bằng vào những việc củng cố tổ chức bộ máy, hình thành các bộ phận, các phòng ban chức năng, các đơn vị trực thuộc ... dần dần đi vào nề nếp và đạt hiệu quả, lợi nhuận tăng dần năm sau cao hơn năm trước. Quy mô Công ty ngày một lớn mạnh cả về cơ sở vật chất lẫn số lượng cán bộ công nhân viên trải trên địa bàn rộng khắp toàn quốc, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao và có niềm tin vào doanh nghiệp. Trong điều kiện thị trường trong nước và khu vực có nhiều biến động, Công ty với lợi thế của một doanh nghiệp nhỏ và vừa, vẫn đứng vững được trên một số thị trường và một số ngành hàng, đảm bảo việc làm ổn định và đời sống hàng ngày cho CBCNV. Đây là điều đáng tự hào trong giai đoạn hiện nay khi mà rất nhiều doanh nghiệp lớn của ngành, của Bộ công nghiệp đang lâm vào tình trạng bế tắc theo đánh giá tổng kết cuối năm 2006 .Để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty, chúng ta sẽ đi đánh giá về mặt kinh tế và về mặt xã hội. Bên cạnh đó, Công ty luôn tìm kiếm thị trường mới trên cơ sở giũ vững các thị trường truyền thống của mình, hiện nay Công ty đã và đang xâm nhập vào các thị trường mới như Hồng Kông, Italia, Canada... Về mặt xã hội, Công ty là nơi bố trí, sắp xếp công ăn việc làm cho một số người trong Ngành và Bộ công nghiệp sau khi sát nhập các Bộ trước đây Đối với nhà nước, thông qua hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước tăng trưởng dần dần qua từng năm, Công ty đã góp phần cùng các đơn vị kinh tế khác góp sức vào công cuộc cải cách kinh tế thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Khó khăn Mặc dù Công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng bên cạnh đó vẫn còn có những khó khăn, yếu kém tồn tại ở Công ty mà chúng ta cần phân tích sau đây. Thứ nhất về định hướng kinh doanh.Việc xác định, lựa chọn bạn hàng, mặt hàng kinh doanh là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp hiện nay, vấn đề không chỉ ở mặt lý thuyết về chu kỳ kinh doanh, chu kỳ sống của sản phẩm.. mà là ở chỗ thực tiễn thị trườnghiện nay vô cùng phức tạp và sôi động. Do sự bung ra ồ ạt của các đơn vị kinh doanh trên mọi thành phần kinh tế. Thị trường kinh doanh xuất nhập khẩu vốn đã khó kiểm soát thì nay lại càng khó hơn nên không ít khó khăn cho nền kinh tế. Tình trạng dư cung một số hàng hoá làm ảnh hưởng tới đầu tư và sản xuất, tất yếu dẫn đến sự sụt giảm về cầu. Thứ hai, về thị trường. Do ảnh hưởng của các yếu tố môi trường một số thị trường của công ty bị ảnh hưởng, làm mất một số đối tác, mất nguồn cung ứng một số loại vật tư kỹ thuật. Tuy đã cố gắng mở mang, thâm nhập thị trường mới nhưng công ty chưa có được một hệ thống thị trường vững chắc với dung lượng lớn kể cả trong lẫn ngoài nước. Cạnh tranh gay gắt giữa các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia thị trường, nạn buôn lậu và trốn thuế nhiều… gây nên một sự bất ổn định trong việc mở mang và chiếm lĩnh thị trường. Thứ ba là nguồn nhân lực. Cũng cùng một căn bệnh chung của nguồn lao động nước nhà, nguồn nhân lực của Công ty,một số ít được đào tạo một cách chính qui cơ bản nhưng vẫn chưa thực sự phát huy hết khả năng của mình,chưa được trang bị những kiến thức về công nghệ mới(ứng dụng của tin học,sử dụng máy tính trong điều hành,hoạt động kinh doanh…),một số khác còn chưa được đào tạo cơ bản, toàn diện kể cả cán bộ quản lý đến các chuyên viên chấp hành. Tóm lại, để đạt được những kết quả đáng phấn khởi trong các năm qua, Công ty đã không ngừng phát huy những nỗ lực của tập thể lãnh đạo và khả năng làm việc của mỗi thành viên trong nội bộ doanh nghiệp đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của Bộ, Ngành, các đơn vị có liên quan ... để dần dần đứng vững và phát triển, tự khẳng định mình trong cơ chế thị trường hiện nay. 3. Nguyên nhân. Những khó khăn và tồn tại mà Công ty đã, đang và sẽ cố gắng khắc phục là do 2 nhóm nguyên nhân chính: a. Nhóm những nguyên nhân khách quan Thuộc về nhóm nguyên nhân này là các yếu tố tiêu cực do cơ chế thị trường mang lại nhất là ở giai đoạn khởi đầu như ở nước ta hiện nay: cái mới chưa định hình hẳn, cái cũ chưa thực sự mất đi, cạnh tranh thiếu lành mạnh với kiểu mua bán chụp giật. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp quy cũng như các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước chưa thực sự hoàn chỉnh (thay đổi,bổ sung, ban hành ... liên miên) gây nên không ít xáo trộn trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại... b. Nhóm nguyên nhân chủ quan Do yếu kém trong khâu cán bộ quản lý, trong lĩnh vực lựa chọn chiến lược kinh doanh, nghiệp vụ chuyên môn chưa thích ứng với cơ chế thị trường, chuyển hướng kinh doanh khi thị trường có biến động còn chậm, cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn vốn còn hạn chế. Bên cạnh đó, tình hình cạnh tranh trên thị trường ngày càng diễn ra gay gắt, sự liên doanh, liên kết giữa các bạn hàng cung cấp nguồn hàng cho Công ty và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khác trên thị trường đang là những đối thủ cạnh tranh lớn của Công ty. Như vậy Công ty cần phải có những biện pháp hợp lý để đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu, tăng kim ngạch nhập khẩu trong những năm tới để duy trì vị trí của Công ty trên thương trường, chiến thắng được cạnh tranh. CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY GELEXIMCO. I. Phương hướng và mục tiêu hoạt động nhập khẩu của Công ty GELEXIMCO. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thương mại nói chung và Công ty GELEXIMCO nói riêng muốn tồn tại và phát triển chỉ có một con đường duy nhất: Mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng lợi nhuận bằng cách phát huy không ngừng những thành tựu đã đạt được đồng thời khắc phục những yếu kém, tồn tại, khó khăn đã từng gặp - Đây chính là mục tiêu có ý nghĩa sống còn đối với Công ty muốn vươn lên trong nền kinh tế đầy gay go phức tạp để tự khẳng định được mình. 1.Phương hướng Trong những năm qua, từ thực tiễn hoạt động kinh doanh, Công ty đã đề ra phương hướng nhiệm vụ đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nhập khẩu của mình trong thời gian tới như sau : Thứ nhất, tăng cường công tác bán hàng, đảm bảo hệ thống cửa hàng, kho bãi có đội ngũ nhân viên bán hàng tận tình, có nghiệp vụ cao, thái độ phục vụ tận tình không những chỉ làm nhiệm vụ bán hàng mà còn có tác động lôi kéo khách hàng về với mình bằng chính sách ưu đ•i về giá cả, phần trăm hoa hồng thưởng lại khách hàng, giảm giá nếu thanh toán ngay tạo mối quan hệ tốt đẹp hơn nữa với các đối tác mua hàng. Thứ hai, Công ty đã xây dựng chiến lược lâu dài về hoạt động kinh doanh nhập khẩu, song song với việc phát huy cao nhất các nguồn lực hiện có, Công ty cố gắng tăng cường nguồn lực từ bên ngoài, thu hút được vốn đầu tư bằng liên kết liên doanh với các đơn vị trong và ngoài nước ngoài.Điều đó sẽ góp phần cải thiện vấn đề khó khăn về vốn kinh doanh hiện nay . 2. Mục tiêu Tuỳ từng thời điểm cụ thể của quá trình hoạt động kinh doanh mà mục tiêu của doanh nghiệp có thể thay đổi, khi thì là sự an toàn, lúc thì là vì lợi nhuận, lúc này là thị trường, khi khác là thế lực, uy tín... người làm quản lý của doanh nghiệp phải có những sách lược mềm dẻo phù hợp với các mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, trên thực tế khó có thể có doanh nghiệp nào đạt được cùng lúc các mục tiêu mong muốn : Nếu đã chủ trương ''an toàn'' là chính thì ''mục tiêu '', ''lợi nhuận'' sẽ bị xếp đằng sau bởi lẽ một phương án kinh doanh chắc ăn, an toàn thì độ rủi ro sẽ thấp nhưng độ may mắn cũng sẽ thấp... vì vậy, chỉ có thể lựa chọn một số mục tiêu cơ bản và và trong quá trình hoạt động cố gắng đến mức tối đa trong việc dung hoà các mục tiêu đó. Xuất phát từ nhận thức và lý luận kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, ban lãnh đạo Công ty GELEXIMCO đề ra 3 mục tiêu cơ bản để định hướng, dẫn dắt mọi hoạt động kinh doanh, trong đó có kinh doanh nhập khẩu hàng hoá , của Công ty trong thời gian tới và những năm tiếp theo-đó là Thứ nhất: tìm được công việc có ích cho xã hội và cho nền kinh tế trên cơ sở chấp nhận nghiêm túc các qui định chính sách của Nhà nước thực chất của mục tiêu này chính là quan điểm định hướng khánh hàng lấy việc thảo mãn nhu cầu của khách hàng, của sản xuất và tiêu dùng trong xã hội một cách tối đa để dẫn dắt toàn bộ hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty. Thông qua việc đáp ứng và thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu này, Công ty sẽ tạo được công ăn việc làm cho người lao động một trong các mục tiêu chiến lược của Đảng và của Nhà nước ta cả trước mắt lẫn lâu dài. Có công ăn việc làm, có thu nhập..., tất yếu sẽ kéo theo việc làm lợi cho nhà ngân sách Nhà nước thông qua các khoản thuế giao nộp, làm lợi cho xã hội và cho nền kinh tế nói chung và Bộ, Ngành, địa phương nói riêng. Mức giao nộp năng ngân sách ngày càng tăng qua từng năm hoạt động kinh doanh nhập khẩu đã minh chứng cho điều đó. Thứ hai: Xây dựng Công ty ngày càng lớn mạnh để trụ lại trong kinh doanh và xây dựng được các chiến lược phát triển kinh doanh đúng đắn -Tổ chức bộ máy nhân sự là yếu tố quyết định thành công của một tổ chức. Bên cạnh việc mở mang thêm các lĩnh vực và ngành hàng kinh doanh mới, tổ chức các bộ phận mới là việc ban hành qui chế phù hợp, bố trí nhân sự đúng người đúng việc. - Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, khách hàng, tìm kiếm đối tác tiêu thụ và nguồn hàng... xây dựng chiến lược kinh doanh nhập khẩu cho từng giai đoạn, đặc biệt chú trọng và ưu tiên việc nhập khẩu các loại vật tư nguyên liệu phục vụ cho sản xuất và các loại hàng hoá, thiết bị có công nghệ cao mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu thông qua việc nắm vững các chính sách, văn bản pháp qui điều hành về nhập khẩu hàng hoá của Nhà nước và các Bộ, Ngành có liên quan. Phát triển, mở rộng... phải đi kèm với quản lý chặt chẽ và chọn lọc kỹ càng. Quán triệt nguyên tắc này thì mục tiêu những năm tới của Công ty mới thực hiện được. Thứ ba: là phải thu được lợi nhuận để tồn tại và phát triển. Thước đo cuối cùng của hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty nói riêng chính là lợi nhuận, phải coi lợi nhuận như là một đối tượng được tìm kiếm và theo đuổi. ý nghĩa sống còn của nó đã được Ban lãnh đạo Công ty quán triệt tới từng thành viên trong doanh nghiệp, đặc biệt là các chuyên viên kinh doanh hàng nhập khẩu. Chính vì vậy, Công ty đã tiến hành khoán quản đến từng bộ phận, ngoài việc tư trang trải mọi chi phí cho hoạt động của mình, hàng năm phải nộp lợi nhuận lên cấp trên theo những mức nhất định phụ thuộc vào quy mô và loại hình kinh doanh của bộ phận đó. Đây chính là cơ sở, là tiêu thức để đánh giá phẩm chất, năng lực của những người làm công tác kinh doanh. II. Một số Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh nhập khẩu Tại Công ty GELEXIMCO. Kinh doanh trong cơ chế thị trường đầy phức tạp và rủi ro, tuy rất khó khăn gian khổ nhưng có mặt tốt của nó là, như một quy luật chọn lọc, những nhà doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh đúng đắn, tổ chức bộ máy phù hợp, nắm bắt được cơ hội kinh doanh và thực hiện kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương tốt... doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và ngược lại. Trên cơ sở phương hướng và mục tiêu mà Công ty đã đề ra và căn cứ vào các khó khăn mà Công ty đã và đang gặp phải, sau đây là một số biện pháp để thúc đẩy hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty. 1. Xây dựng cơ cấu mặt hàng nhập khẩu phù hợp. Trong tình hình hiện nay, việc nhập khẩu hàng hoá phục vụ tiêu dùng không còn khả năng phát triển được nữa mà phải giảm dần vì sản xuất trong nước đã gần như thay thế được hàng tiêu dùng ngoại nhập. Ngược lại trước yêu cầu của công nghiệp hoá và hiện đại hoá, sản xuất trong nước đòi hỏi phải nhập khẩu rất nhiều vật tư, máy móc, thiết bị cần thiết có chất lượng cao, kỹ thuật tiên tiến mà trong nước không có khả năng tự cung cấp. Mặt hàng nhập khẩu của Công ty cần phải được xây dựng một cách phù hợp về cơ cấu với nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Mặt hàng được chú trọng nhất là nguyên liệu, vật tư, kỹ thuật cho sản xuất hàng công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và nguyên liệu cung cấp cho các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những ngành kinh tế đang phát triển mạnh và có nhu cầu về nguyên liệu, vật tư, thiết bị kỹ thuật lớn phục vụ cho việc phát triển đồng bộ và hiện đại hoá các ngành sản xuất trong nước, hiện tại và tương lai. Điều chủ yếu là phải lựa chọn những mặt hàng khác nhau với xu hướng biến động khác nhau để lập kế hoạch mặt hàng. Trong quá trình thực hiện các kế hoạch kinh doanh, nhiều khi mặt hàng nhập khẩu thay đổi không đúng với kế hoạch, do nhu cầu mới nảy sinh trên thị trường thay đổi tuỳ thuộc vào các đơn vị đặt hàng. Nếu Công ty nhạy bén, nhanh chóng nắm bắt được cơ hội đó thì có thể tăng thêm khối lượng và giá trị hàng nhập khẩu. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, tìm kiếm được một chỗ đứng trong hàng ngũ những người cung ứng cho các doanh nghiệp sản xuất là cả một nghệ thuật. Công ty đã thực sự đầu tư thời gian, công sức và kể cả vật chất cho việc tìm kiếm bạn hàng. Hiện nay Công ty đã là nguồn cung ứng chính cho một vài doanh nghiệp sản xuất. Trong thời gian tới, cần phải củng cố và mở rộng hơn nữa, đó cũng là một nội dung của chiến lược phát triển Công ty trong năm 2008. 2. Mở rộng thị trường nhập khẩu và phát triển nguồn hàng nhập khẩu. Có được một nguồn hàng nhập khẩu tốt có thể coi như một nửa thành công của hoạt động nhập khẩu. Việc nắm bắt được các nguồn hàng nhập sẽ tạo điều kiện nhập khẩu với giá rẻ, phẩm chất phù hợp mà đặc biệt quan trọng là chớp được thời cơ trong kinh doanh khi nhận biết được nhu cầu của thị trường trong nước, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường nước ta có rất nhiều đơn vị tham gia vào hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Việc thu thập và xử lý thông tin, nghiên cứu thị trường ngoài nước, có thể lấy thông tin từ : - Các tài liệu liên quan, các tạp chí thương mại quốc tế ngoại thương, các bản tin giá cả do Bộ công nghiệp, ngân hàng, tổng cục thống kê cung cấp; thăm dò tin tức ở các đối thủ cạnh tranh, các bạn hàng đã giao dịch. - Cử người sang các nước có hàng bán để nghiên cứu hoặc nắm bắt thông tin qua nhân viên, cán bộ của hãng cung cấp khi họ sang giao dịch trực tiếp với Công ty. - Không nên quá tin vào các lời quảng cáo, giới thiệu vì độ chính xác, tin cậy của những thông tin này không cao. - Tăng cường tận dụng vai trò của Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam và các đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài trong vấn đề xúc tiến thương mại. 3. Tăng cường nghiên cứu thị trường trong nước, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu. Nghiên cứu thị trường có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế, giúp cho các nhà sản xuất kinh doanh định hướng được sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Nó là tiền đề cho việc tổ chức hoạt động nhập khẩu. Vì suy đến cùng, hoạt động này có tiến hành được hay không là do thị trường quyết định. Công ty GELEXIMCO ra đời khi mà nền kinh tế đất nước đã có sự chuyển hướng rõ rệt, nó khác hẳn với thời trước: Khi thành lập một doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh thương mại thì điều đó đồng nghĩa với một lương vốn Nhà nước cấp, một số thị trường Nhà nước lo, một kế hoạch sản xuất kinh doanh được chỉ định... còn sau đó - Công ty phải tự tìm kiếm đối tác, bạn hàng và thị trường, nguồn hàng. Qua mấy năm hoạt động, Công ty đã tích cực triển khai và thực hiện công tác nghiên cứu thị trường, tiến hành đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh nhằm mục tiêu mở rộng hoạt động thu lợi nhuận. Tuy nhiên kết quả này cũng vẫn còn rất khiêm tốn bởi thị trường của Công ty còn ít, dung lượng nhỏ cũng như số lượng các chủng loại hàng hoá kinh doanh còn nghèo nàn, khối lượng mỗi lần nhập còn rất ít. Vì thế trong thời gian tới, Công ty còn phải đổi mới công tác này để tìm kiếm cho được thị trường tiêu thụ các sản phẩm nhập khẩu có dung lượng lớn hơn, tăng số lượng lưu chuyển hàng hoá và hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. Muốn mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu, Công ty phải thực hiện những bước sau : Nắm bắt chính xác nhu cầu thị trường trong nước về mặt hàng nhập khẩu cụ thể. Trong kinh doanh nhập khẩu không thể tách rời mặt hàng với thị trường, đó là hai mặt của một vấn đề. Hàng hoá nhập khẩu phải phù hợp với sản xuất và tiêu dùng trong nước ; hàng hoá nhập khẩu nếu chậm tiêu thụ hoặc không tiêu thụ được sẽ dẫn đến ứ đọng vốn rất lớn, dẫn đến thất bại trong kinh doanh. Trong quá trình nghiên cứu thị trường, Công ty phải xác định rõ thị trường trọng điểm và thời cơ hấp dẫn, đối với Công ty là thị trường hàng nguyên liệu, vật tư, thiết bị cho công nghiệp, nông nghiệp và làm hàng xuất khẩu, xác định được đối thủ cạnh tranh, nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng kịp thời. Hiện nay mặt hàng nhập khẩu chủ đạo của Công ty vẫn chỉ là hàng kim khí,điện máy. Công ty sẽ phát triển thêm nguồn tiêu thụ các thiết bị sản xuất các dây truyền sản xuất công nghệ cao,đồng thời cũng hạn chế đi một số mặt hàng mà trong nước đã sản xuất được đồng thời cũng là thứ hàng mà nhà nước không khuyến khích nhập khẩu (ví dụ như thép các loại…) Vì thế trong thời gian tới, Công ty đã có kế hoạch tăng cường tiếp thị vào thị trường nguyên liệu phục vụ sản xuất, coi đó là chiến lược phát triển lâu dài, đồng thời tích cực tìm kiếm bạn hàng nước ngoài và ngay tại thời điểm đầu năm 2008 này đã có những dấu hiệu đáng phấn khởi về lĩnh vực xuất khẩu. 4. Tổ chức và thực hiện tốt các khâu kỹ thuật nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá. Trước tiên là phải thực hiện chặt chẽ các nội dung của kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương ngay từ khi tiến hành giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng mua bán, các điều khoản thoả thuận về hàng hoá, giao nhận, vận chuyển, thanh toán, thưởng phạt, ... cần phải được đề cập một cách rõ ràng, thận trọng và đúng với qui định về các văn bản pháp quy của nhà nước và cơ quan quản lý chuyên ngành. Chính vì thế, một trong các nhiệm vụ của Phòng xuất nhập khẩu là phải cập nhật đầy đủ các văn bản, Nghị định, hướng dẫn, thông tư, sách điều hành... chính xác và kịp thời với vai trò giống như một bộ phận pháp chế trong doanh nghiệp. Sau đó phải tổ chức tốt công tác nhập hàng từ việc chuẩn bị thật đầy đủ hồ sơ ban đầu cho đến quá trình tiếp nhận vận tải hàng hoá về kho Công ty, vì hình thức nhập hàng của Công ty tương đối đa dạng, khi thì DAF Hữu Nghị, CPT Yên Viên, ICD Gia Thuỵ, CIF Hải Phòng hay thành phố Hồ Chí Minh... nên các hình thức và cước phí vận tải cũng rất phong phú buộc các chuyên viên làm công tác giao nhận phải có nhiều mối quan hệ với các nghiệp vụ vận tải.... Cuối cùng là việc giao nhận hàng hoá. Công việc này đòi hỏi phải tiến hành đúng như điều khoản qui định trong hợp đồng, tránh tình trạng hàng hoá hư hỏng, mất mát, thiếu vỡ... vì biên bản giao nhận (Cargo Receipt) là một trong các chứng từ có giá trị khi thanh toán qua ngân hàng. Việc thanh toán phải đúng kỳ hạn vì một mặt giữ chữ tín với khách hàng, mặt khác có thể tránh được rủi ro về sự biến động tỷ giá và những lúc thị trường ngoại tệ không ổn định vì dù ít hay nhiều, yếu tố trên cũng có tác động đến giá cả, và qua đó, lợi nhuận của các thương vụ như các yếu tố khác trong quá trình giao nhận như cước phí vận tải nội địa, tiền lưu kho bãi tại cảng hoặc bãi đỗ xe tại cửa khẩu, tiền phí lưu container tại kho cảng. 5. Các biện pháp cạnh tranh có hiệu quả hơn. Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp dù muốn hay không cũng phải đương đầu với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác. Chỉ có chấp nhận cạnh tranh và tìm ra những chính sách để thích ứng với những biến động quá phức tạp của thị trường thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển. ở nước ta, khi các thành phần tham gia vào các mặt hoạt động kinh doanh của nền kinh tế quốc dân thì cạnh tranh xuất hiện. Cạnh tranh là tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường, chiến lược cạnh tranh có thể dẫn đến thành công hay thất bại của Công ty. Vì vậy, muốn đứng vững trong cạnh tranh, cùng với các chính sách bổ sung khác, Công ty nên xây dựng một chiến lược cạnh tranh năng động. Khi xây dựng một chiến lược Công ty phải đảm bảo thích nghi môi trường bên trong với môi trường bên ngoài, thích nghi với khách hàng, đối thủ cạnh tranh và điều kiện cạnh tranh, điều kiện vật chất, khoa học kỹ thuật. Công ty có thể sử dụng ba loại vũ khí cạnh tranh là giá cả, chất lượng và dịch vụ. Ngoài ra Công ty phải có được các thông tin về đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu xem đối thủ cạnh tranh đang kinh doanh mặt hàng gì ? So sánh mặt hàng kinh doanh của họ với mặt hàng kinh doanh của Công ty về chủng loại, về thời gian,... Tìm hiểu về kế hoạch kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, chính sách giá cả của họ như thế nào ? Phương pháp phân phối hàng ra thị trường, vấn đề tiêu thụ hàng ra thị trường như thế nào? Phải luôn tìm hiểu những lợi thế, những điểm yếu của họ để từ đó đưa ra được chiến lược kinh doanh đúng đắn nhằm chiến thắng đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó Công ty cũng cần có mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh để phân chia thị trường, nhằm khai thác triệt để mọi ưu thế của Công ty. 6. Tổ chức tốt việc bảo quản hàng hoá ở kho Bảo quản hàng hoá ở kho là điều kiện quan trọng có tác dụng trực tiếp đến hoạt động xuất bán, cố gắng không để xảy ra mất mát, hao hụt, suy giảm về chất lượng hàng hoá nhất là nhóm hàng thuộc danh mục hàng tiêu dùng góp phần hạ thấp chi phí kho một cách gián tiếp sẽ giảm chi phí lưu thông. Để bảo quản hàng hoá ở kho thật tốt thì phải tuân thủ các nguyên tắc tiếp nhận: + Tất cả các hàng hoá nhập kho phải có đầy đủ các chứng từ hợp lệ. Tuỳ theo từng nguồn nhập khác nhau, ngoài phiếu nhập kho còn phải có các chứng từ cần thiết khác như hợp đồng kinh tế, phiếu xuất, hoá đơn, tờ khai hải quan... theo qui định hiện hành. + Tất cả các loại hàng hoá nhập kho đều phải được kiểm nhận, kiểm nghiệm và ngay từ khâu này, nếu phát hiện có sự sai khác, hao hụt, mất mát, phải lập biên bản với sự chứng kiến của các bên hữu quan để tiện cho việc qui trách nhiệm sau này. + Sau khi tiếp nhận hàng hoá cán bộ nhân viên làm công tác bảo quản hàng hoá ở kho phải tiến hành các nghiệp vụ bảo quản kết hợp với kĩ thuật bảo quản sao cho hàng hoá luôn được bảo toàn về mặt giá trị và thuận tiện cho công tác xuất hàng. 7. Xây dựng đội ngũ cán bộ . Tổ chức bộ máy hoạt động kinh doanh gọn nhẹ, năng động hiệu quả với một đội ngũ cán bộ, người lao động có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm là một yếu tố tiên quyết đối với sự thành công và phát triển của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Tuyển chọn, bố trí đúng người, đúng việc trên cơ sở xuất phát từ lợi ích chung của toàn doanh nghiệp. Công ty phải có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho phù hợp để có thể thu hút đào tạo được nhiều cán bộ có đủ khả năng làm việc cho Công ty, cụ thể : + Có chế độ trả lương đãi ngộ thoả đáng, đảm bảo moị chính sách mà quyền lợi của người lao động đồng thời không ngừng cải thiện môi trường, điều kiện làm việc. + Tổ chức đạo tạo, nâng cao tay nghề trình độ chuyên môn cho người lao động thông qua việc gửi đi đào tạo theo các chương trình, chỉ tiêu kế hoạch hàng năm. + Tổ chức học tập trao đổi ý kiến tiếp thu kinh nghiệm trong đội ngũ người lao động. Tổ chức thi tuyển, thu hút được lao động có trình độ, năng động sáng tạo,... Bên cạnh đó cần có quy chế hoạt động, chế độ thưởng phạt rõ ràng. Trước đây (về mặt lý thuyết) mọi người thường coi trọng lợi ích tập thể, lợi ích toàn xã hội mà rất ít quan tâm đến lợi ích cá nhân, thậm chí còn định kiến với lợi ích cá nhân. Đó là quan điểm tốt, nhưng chưa đủ, bởi lẽ nó không khuyến khích được người lao động vì để tồn tại và cống hiến con người phải được thoả mãn ngày càng cao các nhu cầu vật chất. Nếu doanh nghiệp kinh doanh thương mại không quan tâm tới lợi ích vật chất của các thành viên trong đơn vị thì sẽ ảnh hưởng đến tâm lý và vô tình làm thui chột tài năng và sự nhiệt tình của họ. Đã có một thời gian dài tư tưởng cân bằng trong sản xuất kinh doanh, trong phân phối... đã làm cho năng suất lao động cũng như năng lực sáng tạo trong mỗi thành viên xã hội bị kìm hãm, vì vậy trong nền kinh tế thị trường với hoạt động kinh doanh dịch vụ của mình, Công ty phải có biện pháp sử dụng đòn bẩy kinh tế để khuyến khích người lao động hăng hái làm việc, thưởng bằng vật chất đối với các cá nhân có thành tích có hiệu suất kinh doanh cao đồng thời gắn trách nhiệm vật chất đối với cá nhân nào vi phạm nguyên tắc, làm việc thiếu hiệu quả bằng các biện pháp : - Thưởng phần trăm theo doanh số bán hàng. - Trích thưởng một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng lợi nhuận của thương vụ . Điều này đã được thể hiện trong quy chế hoạt động của Công ty hiện nay. - Khoán kinh doanh (cả chi phí, quỹ lương, lợi nhuận) đến từng bộ phận trong Công ty và cho phép các đơn vị được chi trả lương vượt mức mặt bằng chung của Công ty nếu đơn vị đó có lợi nhuận (theo quy chế hiên nay, mức cho phép tới 50% mặt bằng chung). Bên cạnh việc khuyến khích vật chất, Công ty cũng cần phải huy động tinh thần CBCNV của Công ty, sử dụng nghệ thuật về quản trị nhân sự để tạo động lực về mặt tinh thần cho cán bộ. -Việc sử dụng lao động không chỉ dừng lại ở chỗ khai thác tối đa năng lực của con người mà còn cần phải chú ý tới các yếu tố tâm sinh lý chi phối thái độ của người lao động trong quá trình làm việc. Do đó ban lãnh đạo Công ty cần phải tạo ra một điều kiện làm việc thuận lợi, tạo không khí phấn khởi, thoải mái tại cơ quan, cụ thể: - Hoàn thiện công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc theo yêu cầu cụ thể của từng công việc. - Tạo bầu không khí dân chủ tương trợ thân ái và hợp tác trong cơ quan. Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa ban lãnh đạo với người lao động, giữa người lao động với nhau để ai cũng có thể phát huy hết mọi khả năng. - Xây dựng các hình thức khuyến khích về mặt tinh thần thông qua các danh hiệu thi đua, bình chọn theo niên độ: 6 tháng, 1 năm và các hình thức khen thưởng.. 8. Thực hiện tốt khâu bán hàng. Việc tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu là một khâu vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu vì suy cho cùng, mọi bước của phương án kinh doanh đều thực hiện tốt mà khâu bán hàng bị trục trặc thì coi như thương vụ bị thất bại. Nhiệm vụ này đối với Công ty GELEXIMCO không thuộc của riêng ai và riêng cho bất cứ bộ phận nào - nó phải là nhiệm vụ chung cho mọi người làm nhiệm vụ khai thác kinh doanh hàng nhập khẩu và thường nó là điều kiện bắt buộc phải thể hiện trong mỗi phương án kinh doanh khi trả lời các nội dung: Bán cho ai trong nội địa? Hình thức bán? Bán buôn hay bán lẻ? Bán đại lý? Bán chịu? Trong thời hạn bao lâu hay bán thanh tóan ngay? Như thế có nghĩa là ngay từ khi lập chiến lược kinh doanh, kế hoạch và phương án kinh doanh thì bộ phận hay cá nhân người lập đã phải thể hiện mọi nội dung cần thiết và các hình thức bán. Trên thực tế có nhiều loại hình bán hàng nhập khẩu để đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu nhằm tăng nhanh vòng quay vốn, Công ty chú trọng hình thức bán buôn cho các hộ tiêu thụ lớn như các nhà máy, các xí nghiệp sản xuất... đối với các loại vật tư nguyên liệu bằng các hợp đồng tiêu thụ sẽ được ký từ trước hay đồng thời với việc ký hợp đồng nhập khẩu. Mặt khác, đẩy mạnh việc mở rộng mạng lưới đại lý, các cửa hàng bán lẻ nhằm cung ứng đến tận tay người tiêu dùng, sản xuất với phương châm " khách hàng là người nuôi sống doanh nghiệp ". Đầu tư sửa chữa, nâng cấp các cửa hàng trên các thị trường, đảm bảo phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Công ty cũng rất quan tâm tới đội ngũ cộng tác viên trong hoạt động kinh doanh, những người này với một khoản thù lao hay hoa hồng nhất định được hưởng đã và đang đóng góp cho Công ty một lượng doanh số hàng hoá đáng kể. Do đó, trong những năm qua, hầu như tại Công ty không có sự tồn đọng hàng hoá, chi phí lưu kho được giảm tối thiểu, vòng quay vốn lưu động được rút ngắn... góp phần giảm chi phí lưu thông rất nhiều. Thậm chí có những lô hàng Công ty bán ngay tại cảng dỡ hàng hoặc biên giới. Còn nếu như hàng về đến Hà Nội thì thường được giải toả rất nhanh với các hợp đồng cung ứng hay tiêu thụ đã ký từ trước. III. Một số kiến nghị đề xuất . 1.Nâng cao hiệu quả hoạt động của khâu Maketing Trong thời kỳ mới, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với những qui luật cạnh tranh khắc nghiệt của nó,để có thể tồn tại và phát triển ngoài việc duy trì tốt quan hệ với những bạn hàng truyền thống,công ty còn phải năng động trong việc mở rộng,tìm kiếm những bạn hàng mới.Để làm tốt điều này bộ phận Maketing của Công ty cần phải thực hiện một số biện pháp sau: -Lập ra một danh sách”Khách hàng tiềm năng”căn cứ vào khả năng tài chính,vốn ,lĩnh vực kinh doanh,tiềm lực phát triển...từ đó có những biện pháp tiếp cận như: tổ chức các buổi giới thiệu (hoặc tài liệu) về công ty,sản phẩm...trong đó nêu rõ những thuận lợi và những ưu đãi khi cộng tác với công ty ...dần dần thu hút khách hàng về với công ty -Phải có một khoản kinh phí nhất định dành cho việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như:phát thanh truyền hình,báo chí và các mạng máy tính như Internet... 2.Bổ sung kiến thức về công nghệ thông tin cho cán bộ công nhân viên của công ty Trong một tương lai không xa khi mà xu thế toàn cầu hoá ngày một rõ nét ,“Thương mại điện tử”sẽ có một vai trò chủ đạo trong các hoạt động kinh doanh.Doanh nghiệp nào không tham gia vào quá trình này sẽ đồng nghĩa với việc tự loại mình ra khỏi thương trường.Để chuẩn bị tốt cho việc hoà nhập với quá trình này(Thương mại điện tử) công ty cần phải tiến hành một số hoạt động cụ thể sau: -Về nhân sự,nên có tối thiểu một kỹ sư trong lĩnh vực công nghệ thông tin chịu trách nhiệm trong việc chuẩn bị các điều kiện vật chất kỹ thuật sẵn sàng tham gia vào một thời kỳ kinh doanh mới của “Thương mại điện tử” -Trước mắt,cần mở một khoá đào tạo ngắn hạn trang bị cho cán bộ công nhân viên những kiến thức cơ bản về các ứng dụng của máy tính trong các lĩnh vực quản lý,kế toán,kiểm tra chất lượng hàng hoá ...để đáp ứng được yêu cầu của thương trường trong thời kỳ mới . 3.Nhập khẩu thiết bị toàn bộ Trong cơ cấu nhập khẩu những năm gần đây của công ty,đối với mặt hàng máy móc thiết bị chỉ có các thiét bị máy móc đơn chiếc,công ty chưa tham gia vào thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ,trong khi nhu cầu về thiết bị toàn bộ là rất lớn do những nguyên nhân sau -Nước ta vừa trải qua chiến tranh,đang trong quá trình xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ,do đó rất cần nhập các thiết bị toàn bộ để phục vụ chủ chương hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước -Mặc dù khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng nhưng lại tuân theo qui luật phát triển không đều do đó việc sản xuất những thiết bị tiên tiến hiện đại chỉ tập trung ở một số nước công nghiệp phát triển,chúng ta muốn có các thiết bị này bắt bựôc phải thông qua con đường nhập khẩu -Trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế gay gắt,sự thay đổi thiết bị,kể cả thiết bị toàn bộ diễn ra rất nhanh chóng,để theo được xu thế phát triển của thế giới chúng ta cần phải nhập khẩu thiết bị toàn bộ để đổi mới trang thiết bị cho nền sản suất trong nước Nhu cầu về thiết bị toàn bộ thì nhiều nhưng số lượng các doanh nghiệp nhập khẩu loại thiết bị này lại rất ít.Mặt khác GELEXIMCO với uy tín đã xây dựng được trong nhiều năm qua,chắc chắn khi tham gia vào thị trường này sẽ được khách hàng chấp nhận.Vì những nguyên nhân trên việc công ty tham gia vào thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ là hợp lý và cần thiết,không những đem lại hiệu quả kinh tế cho công ty mà còn góp phần vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. KẾT LUẬN Đất nước ta đang ở trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và bắt đầu phát triển. Lĩnh vực kinh tế thương mại quốc tế đã góp phần không nhỏ và quá trình thúc đẩy sản xuất trong nước, ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Tuy vậy trong cơ chế thị trường, kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và đặc biệt là hoạt động nhập khẩu không thể nào tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải cùng nhà nước, các cơ quan chức năng cùng cố gắng và nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy sản xuất trong nước và lưu thông hàng hóa phát triển, đưa đất nước tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong những năm qua, công ty GELEXIMCO đã đạt được những tiến bộ đáng khích lệ, đóng góp một phần không nhỏ vào kết quả chung của ngành thương mại và lĩnh vực sẳn xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu đã cung cấp hàng hóa cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, so với những yêu cầu và đòi hỏi rất lớn trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế thì những thành tích đó còn khiêm tốn. Qua thời gian thực tập ở công ty tôi đã tập trung nghiên cứu hoạt động nhập khẩu, một trong những lĩnh vực hoạt động chính của công ty. Từ thực trạng của hoạt động này tôi xin đề nghị một số kiến nghị giải pháp nhằm góp phần giải quyết những hạn chế và tồn tại trước mắt. Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu có hạn, tài liệu còn thiếu, nên sự thiếu sót là không thể tránh khỏi, tác giả rất mong được sự quan tâm và giúp đỡ của các thầy cô giáo, sự đóng góp ý kiến của các bạn có quan tâm. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 217.DOC
Tài liệu liên quan