Thực trạng năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Thực hiện chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội và Chính phủ, NHNN đã tiến hành tổng kết tình hình thực hiện hai Luật ngân hàng hiện hành, hoàn thiện đề cương chi tiết và hoàn thành dự thảo lần 2 Luật NHNN và đang tiến hành dự thảo Luật các TCTD. Dự án Luật giám sát an toàn hoạt động ngân hàng đang được dự thảo đề cương; Dự án Luật bảo hiểm tiền gửi cũng đã được triển khai xây dựng. NHNN đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý trên các lĩnh vực hoạt động ngân hàng và sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống ngân hàng trong tiến trình hội nhập quốc tế. Công tác rà soát và kiểm tra văn bản của NHNN đã dần đi vào nề nếp. Công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng cũng như các lĩnh vực kinh tế xã hội khác đã được quan tâm thực hiện. 3.2.1.6 Hiện đại hoá ngân hàng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt

doc37 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 946 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo ra các công cụ TT mới, làm tăng tính tiện ích cho các khách hàng của mình thông qua việc giúp cho KH có nhiều cơ hội lựa chọn hơn các công cụ TT phù hợp; điều này đồng thời cũng đem lại lợi ích lớn cho xã hội. Thứ ba, hoạt động của NHTW giúp tạo lập môi trường vĩ mô ổn định lành mạnh, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội lẫn đối ngoại của đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thứ tư, hoạt động của hệ thống ngân hàng giúp đất nước hội nhập kinh tế quốc tế nhanh chóng hiệu quả. 3.Các dịch vụ ngân hàng Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và các doanh nghiệp.Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác đinh các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu ,thực hiện các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu thực hiện các dịch vụ đó một các có hiệu quả. 3.1.Mua bán ngoại tệ Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên đuợc thực hiện là trao đổi mua bán ngoại tệ -một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ .Trong thị trường tài chính ngày nay,mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thưch hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao. 3.2.Nhận tiền gửi Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao ,do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền .Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh tóan và tiết kiệm của khách hàng )Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kểt hoàn trả đúng hạn.Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi ,các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dung trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tam thời để kinh doanh. 3.3.Cho vay 3.3.1.Cho vay thương mại Ngay ở thời kỳ đầu ,các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tìên trước ).Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua ),giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doạnh. 3.3.2.Cho vay tiêu dùng Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình bởi họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao.Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng .Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai ,tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. 3.3.3.tài trợ cho dự án Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn,các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao .Mặc dù rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao song lãi lại lớn .Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất. 3.4.Bảo quản vật có giá Các ngân hàng thực hịên việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản .Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành).Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận ,nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền –dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành .Lợi ích cuả việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng . Đó là hình thức đầu tiên giấy bạc ngân hàng .Ngày nay ,vật có gía được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả chi phí bảo quản. 3.5 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Khi doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng ,họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ.Thanh toán qua ngân hàng sẽ mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt ,tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết dấy chi trả cho khách (còn gọi là séc ), khách hàng mang giấy ngân hàng sẽ nhận được tiền .Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn ,nhanh chóng chính xác ,tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân .Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin ,nhiều thể thức thanh toán được phat triển như Uỷ nhiệm thu,Uỷ nhiệm chi,nhờ thu,L/C,thanh toán bằng điện thẻ 3.6 Quản lý ngân quỹ Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân .Nhờ đó ,ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng .Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân ,nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ,trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiên mặt để thanh toán. 3.7 Tài trợ các hoạt động của chính phủ Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính Phủ.Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ,chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản vay của ngân hàng .trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho chính phủ vì rủi ro cao.Chính phủ thường dung một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay cảu những ngân hàng lớn .Khi ngân hàng trung ương thành lập ,chính phủ thường dùng mộ số đặc quyền trao đổi lấy các khoản tín dung lớn.Ngày nay ,chính phủ giành quyền cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính scáh của chính phủ và tài trợ cho chính phủ.Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiêng gửi mà ngân hàng huy động được,hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doạnh nghiệp của Chính phủ. 3.8.Bảo lãnh Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng,nên ngânh àng có uy tín trong boả lãnh cho khách hàng.Trong những năm gần đây ,nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng ngày càng đa dạng và phát triển mạnh.Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết vị ,phát hành chứng khoán ,vay vốn của tổ chức tín dụng khác 3.9.Cho thuê thiết bị trung và dài hạn(leasing ) Nhằm để bán được các thiết bị , đặc biệt là cá thiết bị có gía trị lớn ,nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị .Cuối hợp đồng thuê,khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua )Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị,máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua ,trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê.Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê.Do vậy,cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. 3.10.Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính,các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính.Vì vậy ,nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã chờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ ,uỷ thác phát hành ,uỷ thác đầu tưThậm chí ,các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc , quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản,bảo quản các tài sản có giá.Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính 3.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán ,cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu ,trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.Trong một vài trường hợp ,các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán. 3.12.Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Từ nhiều năm nay,các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng điều đó bảo đảm việc hoàn trả cho trường hợp khách hàng bị chết ,bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động ,mất khả năng thanh toán 3.1. Cung cấp các dịch vụ đại lý Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi.Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn )cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ ,phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi ,làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ 2.2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO 2.2.1 Tình hình chung 2.2.1.1 về số lượng các NH Theo thống kê, tính đến năm 2005 hệ thống NH có NHNN gồm trụ sở chính tại NH trung ương ,64chi nhánh tỉnh,thành phố,văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh,8 đơn vị sự nghiệp, 4 doanh nghiệp trực thuộc, 5 NHTM Nhà nước,NH chính sách xã hội,NHTM cổ phần đô thị,11 NHTMCP nông thôn, quỹ tín dụng TW và 24 chi nhánh,909 quỹ tín dụng cơ sở,4 NH liên doanh với nước ngoài, 28 chi nhánh NH nước ngoài, 5 Công ty tài chính và 9 Công ty cho thuê tài chính; bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bảng 2.1: Số lượng NH và mạng lưới hoạt động Loại hình NHTM Nhà nước NHTM CP Chi nhánh NHNNg NH liên doanh số lượng Mạng lưới số lượng Mạng lưới số lượng Mạng lưới số lượng Mạng lưới 30/9/200 6 568 33 370 37 37 4 13 Ghi chú: Không tính chi nhánh cấp IV và phòng giao dịch Các tư liệu thống kê trên đây cho thấy, thị trường trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng ở VN hiện nay tương đối phát triển,bao gồm cả các NH trong nước và NH nước ngoài.Với một hệ thống các NH như vậy sẽ tạo ra một sự cạnh tranh ngày càng tăng đối với các NH. 2.2.1.2 Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực NH Chúng ta đã xây dựng Luật NHNN và Luật các tổ chức Tín dụng vào cuối năm 1997 và có hiệu lực bắt đầu từ ngày 1/10/1998. Bên cạnh đó , Chính phủ , mà đại diện là NHNN, cũng đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp quy quy định hoạt động của từng lĩnh vực ngân hàng cụ thể. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh hội nhập thì hệ thống luật lệ trong kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam còn nhiều bất cập cần tiếp tục phải chỉnh sửa cho hoàn thiện. 2.2.1.3 Mức độ cạnh tranh thị trường Cho đến nay , các NHTM hoạt động tại Việt Nam gồm 4 nhóm.NHTMNN (5 NH), NH thương mại cổ phần(33 NH), NH liên doanh (4 NH), các chi nhánh NH nước ngoài (28 chi nhánh). Như vậy, chúng ta cũng có thể nhìn thấy rõ mức độ cạnh tranh giữa các NH trong nước diễn ra mạnh mẽ vì cạnh tranh là sự ganh đua giữa các đối thủ trên cơ sở tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh,các công cụ và biện pháp nhất định để giành thắng lợi tăng thu nhập tăng thị phần và quyền chi phối thị trường.Trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì các NH nước ngoài cũng tham gia vào thị trường nội địa tạo ra một sức ép và sự cạnh tranh giữa các NH trong nước và NH nước ngoài.Tuy nhiên, do năng lực cạnh tranh của các NH trong nước chưa cao còn nhiều yếu kém vì vậy mức độ cạnh tranh chưa đạt hiệu quả mong muốn , tự phát và thua thiệt về phía các NH. 2.2.1.4 Công nghệ Trong kinh doanh NH hiện đại thì công nghệ giữ vai trò có tính quyết định bởi vì các lĩnh vực dịch vụ mới đều đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin.Chính vì vậy đang đặt ra cho NH VN phải có những chiến lược cụ thể để tiếp cận với các công nghệ thông tin mới để nâng cao từng bước năng lực cạnh tranh. 2.2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của NH Việt Nam sau khi gia nhập WTO 2.2.2.1 Năng lực tài chính Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng thì vốn tự có bao gồm số thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác do NHNN quy định; nhưng ở VN, NHNN không quy định thành phần tài sản nợ này, nên thực chất vốn tự có là vốn chủ sở hữu -Nhóm NHTM Nhà nước từ năm 2000 đến nay, vốn chủ sở hữu của các NHTMNN đều tăng: + Mức tăng từ năm 2000 đến năm 2004 đã tăng gấp khoảng gần 3 lần. + Quy mô vốn chủ sở hữu bình quân một NH tăng đáng kể, gấp gần 3 lần. + Phương thức tăng vốn: Tăng do nguồn cấp phát của NN bằng trái phiếu đặc biệt.Số cấp bổ sung này tổng số trên 10.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, năng lực vốn chủ sở hữu của nhóm NH này bộc lộ khá nhiều hạn chế, làm giảm năng lực canh tranh. Cụ thể : quy mô vốn của một NHTMNN còn quá nhỏ bé, không so sánh được với các NHTM nước ngoài có chi nhánh ở VN. Triển vọng tăng vốn điều lệ của các NHTMNN là rất khó ngoại trừ việc phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các ngân hàng này. Nhóm NHTM cổ phần : Có thể nhận thấy thực trạng vốn chủ sở hữu của nhóm NH này như sau: + Vốn chủ sở hữu liên tục tăng nhưng quy mô rất nhỏ bé + Các NHTM cổ phần tăng quy mô vốn bằng chính thực lực của mình và còn nhiều khả năng tăng vốn. + Mặc dù có xu thế phát triển quy mô vốn chủ sở hữu nhưng trong giai đoạn trước mắt, năng lực tài chính chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nhóm NH liên doanh: Theo đúng tính chất pháp lý thì ở VN hiện nay có 4 NH liên doanh. Đây là ngân hàng liên doanh giữa NH nước ngoài với NHTM Việt Nam.Những NH có mức tăng vốn chủ sở hữu không lớn lắm, trên thực tế vốn tăng chủ yếu là do trượt giá vốn chủ sở hữu bằng ngoại tệ.Việc tăng vốn góp của NH liên doanh phụ thuộc vào khả năng tài chính của các NH mẹ điều này về phía VN là không lớn. Nhóm chi nhánh NH nước ngoài: Nhóm NH này có năng lực tài chính tiềm năng, là đối thủ cạnh tranh chủ yếu đối với các NHTM VN trên thị trường trong nước và quốc tế.Nhưng thị trường tài chính vẫn chưa phát triển do VN còn áp dụng giới hạn chặt chẽ với các chi nhánh NH nước ngoài. Tổng vốn điều lệ của các NHTM quốc doanh hiện mới đạt trên 21.000 tỷ đồng, dư nợ tín dụng mới xấp xỉ 55% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trên 80% của các nước trong khu vực. Bình quân mức vốn tự có của các NHTM quốc doanh khoảng từ 200 đến 250 triệu USD, chỉ bằng một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực, còn các NHTM cổ phần có mức vốn điều lệ bình quân chỉ trên dưới 500 tỷ đồng. Vốn thấp dẫn đến khả năng chống đỡ rủi ro của các ngân hàng Việt Nam còn kém, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu chỉ đạt trung bình hơn 5%, so với chuẩn mực quốc tế là lớn hơn hoặc bằng 8%. Bên cạnh đó, sản phẩm dịch vụ còn quá ít và đơn điệu, tính tiện ích chưa cao, hoạt động ngân hàng chủ yếu dựa vào “độc canh” tín dụng. Quy trình quản trị trong các tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung và của các NHTM nói riêng còn chưa phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế; tính minh bạch thấp, hệ thống thông tin điều hành và quản lý rủi ro chưa thực sự hiệu quả. Hầu hết các NHTM Việt Nam đều có mức dư nợ không sinh lời lớn hơn giới hạn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần, khả năng thanh toán bình quân chỉ mới đạt xấp xỉ 60%, tỷ lệ sinh lời bình quân trên vốn tự có (ROE) hiện chỉ là 6% so với 15% của các NHTM các nước trong khu vực. Trong khi đó, tỷ trọng đầu tư tín dụng của các TCTD phi ngân hàng như kho bạc, quỹ hỗ trợ chiếm trên 34% trên tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại nằm ngoài vòng kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Hạ tầng công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán còn lạc hậu, thậm chí có nguy cơ tụt hậu so với khu vực, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, năng lực quản lý điều hành của NHNN. Thể chế của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều bất cập, hệ thống pháp luật về ngân hàng thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với yêu cầu cải cách và lộ trình hội nhập. Việc quản trị doanh nghiệp trong các NHTM còn nhiều khiếm khuyết, nổi bật là sự chưa tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát, điều hành ngân hàng. Các NHTM Việt Nam chỉ mới dừng lại ở tầm cỡ kinh doanh ngắn hạn, chưa có lộ trình thực hiện chiến lược trung - dài hạn cũng như giải pháp phát triển đồng bộ, dẫn đến tình trạng phát triển thiếu bền vững. Theo kết quả khảo sát của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện, có 42% doanh nghiệp và 50% người dân được hỏi đều trả lời rằng khi mở cửa thị trường tài chính, họ sẽ lựa chọn vay tiền từ các ngân hàng nước ngoài chứ không phải là ngân hàng trong nước; có 50% doanh nghiệp và 62% người dân cho rằng sẽ lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền vào. Như vậy, với năng lực cạnh tranh dưới trung bình, các NHTM Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức. 2.2.2.2 Năng lực quản trị điều hành Các NHTMVN tuy cơ cấu lao động đã được cải thiện nhiều, nhưng trước yêu cầu hội nhập thì vấn đề nhân lực còn nhiều bất cập sau: + Một là : Cơ cấu lao động có trình độ cao chưa đạt mức hợp lý. + Hai là: Chính sách đãi ngộ không theo kịp các NHNN nên đã có sự dịch chuyển lao động có trình độ cao ra khỏi các NHTMNN. + Ba là: Các chương trình đào tạo, đào tạo lại lao động chưa đáp ứng ứng được yêu cầu của thực tiễn. Nguồn nhân lực ở VN rất dồi dào nhưng còn hạn chế về năng lực chuyên môn cao vì vậy NHTM của VN gặp nhiều khó khăn. Bộ máy tổ chức- mô hình quản lý. Khó khăn của các NHTMVN để mô hình quản lý và bộ máy tổ chức chủ yếu trên các mặt sau: + Mạng lưới rộng theo địa giới hành chính, không thích hợp với mô hình NHTM trong nền kinh tế thị trường. + Mô hình NH hiện đại đòi hỏi giao dịch một cửa, trong khi năng lực nhân viên chưa sẵn sàng đáp ứng . + Trụ sở chính của hầu hết các NHTM theo nghiệp vụ truyền thống,vừa chồng chéo về nghiệp vụ, nhưng lại phân tán về chức năng. Các NHLD có lợi thế cơ bản là mô hình theo cơ cấu NH mẹ - những NH đã có hàng trăm năm kinh nghiệm thông thường.Hơn nữa, tại VN các NH hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, nên chỉ chọn nơi có kinh tế thị trường thực sự phát triển để mở chi nhánh (hiện tại có 28 chi nhánh NHNN thì chỉ còn có một chi nhánh ở Vũng Tàu, còn lại 27 chi nhánh ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh). Đây là ưu thế vượt trội của nhóm NH này. Việc quản trị tài sản nợ trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều bất cập.Thể hiện: + An toàn của các NHTM VN rất thấp. + Việc quản lý vốn khả dụng của các NHTM VN chưa đúng nghĩa, chưa có một NH quản lý theo mô hình trực tuyến. + Thương hiệu sản phẩm, uy tín của NH : Hiện nay, một số NHTM bước đầu đã hình thành thương hiệu riêng về sản phẩm huy động vốn nhưng chưa thật hiệu quả.Hơn nữa, bản thân các NH chưa có chiến lược cạnh tranh mạnh mẽ cho việc huy động nguồn vốn trung dài hạn. Khả năng phối kết hợp của các NH trong nước. Trong thời gian qua tinh thần hợp tác của các NHTM trong nước không cao.Một số NH quá chú trọng đến lợi ích riêng, thiếu quan tâm cần thiết đến lợi ích của toàn hệ thống.Trong việc cung cấp các dịch vụ NH khác, đặc biệt là các dịch vụ mới ( chẳng hạn dịch vụ thẻ, dịch vụ bảo lãnh) vẫn đang xảy ra hiện tượng “mạnh ai nấy làm” và “ mỗi NH mỗi cách” mà chưa có sự đồng thuận hợp tác để đưa ra giải pháp. 2.2.2.3 Khả năng sinh lời Nếu so sánh với các NH của những nước trong khu vực thì ROE của các NHVN chênh lệch không nhiều, nhưng ROA thì chênh lẹch quá lớn.Khả năng sinh lời trên tổng tài sản có thấp cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản của các NHTMVN thấp.Mức sinh lời ROA của NHTMVN đạt thấp do các nguyên nhân chủ yếu sau đây: + Do vốn tự có của NHTM quá nhỏ đương nhiên làm giảm khả năng tăng lợi nhuận. +Tỷ lệ tài sản có không sinh lời/ tổng tài sản có quá cao nên làm giảm thu nhập của NH. + Do mức độ áp dụng công nghệ tiên tiến hạn chế, tỷ lệ giao dịch tự động còn thấp nên năng suất lao động kém. +Cơ cấu thu nhập của các NHTM còn chưa hợp lý, chỉ có khoảng 10% là từ dịch vụ.Trong khi khả năng sinh lời từ dịch vụ cao hơn nhiều so với khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng. 2.2.2.4 Khả năng Marketing của NHTM Marketing là sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Marketing đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong các doanh nghiệp nói chung và trong các NHTM nói riêng. Marketing ngân hàng thuộc nhóm Marketing kinh doanh, là lĩnh vực đặc biệt của ngành dịch vụ. Có thể hiểu: Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức quản lý của một ngân hàng để đạt được mục tiêu đặt ra là thỏa mãn tốt nhất nhu cầu về vốn, về các dịch vụ khác của ngân hàng đối với nhóm khách hàng lựa chọn bằng các chính sách, các biện pháp hướng tới mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận. Kết quả sử dụng công cụ Marketing của các NHTM Việt Nam Có thể thấy rằng trong thời gian qua, các NHTM đã rất tích cực trong việc tiến hành các hoạt động Marketing. Các chương trình khuyến mại làm thẻ, quảng cáo thương hiệu, huy động vốn với lãi suất cao, các chương trình quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng,... liên tục được áp dụng rộng rãi đã tạo tiền đề để các NHTM đạt được những kết quả nhất định và nâng cao hoạt động Marketing ngân hàng tiến dần đến thông lệ khu vực và quốc tế. Trước tiên, nói về quảng cáo, ta có thể thấy rằng: trong nền kinh tế thị trường, quảng cáo là sức mạnh đích thực. Bất cứ một sản phẩm nào dù chất lượng có tốt đến đâu cũng không chiếm lĩnh được thị trường nếu không có quảng cáo. Hiện nay, các NHTM đã tiến hành quảng cáo dưới rất nhiều hình thức như: báo, tạp chí, truyền hình, truyền thanh, băng rôn, áp phích, gửi thư trực tiếp, Internet... Do mỗi hình thức đều vươn tới các đối tượng khách hàng khác nhau nên các NHTM thường áp dụng đồng thời nhiều phương thức quảng cáo để thu hút khách hàng Thời điểm quảng cáo cũng được các NHTM chú trọng vào những ngày lễ, Tết, ngày kỷ niêm thành lập ngân hàng hay ngày khai trương Chi nhánh mới,... Sự tập trung quảng cáo vào những khoảng thời gian này của các NHTM đã thu hút được sự chú ý đặc biệt của khách hàng. Nội dung quảng cáo cũng đã bước đầu thu hút được khách hàng với những hình ảnh sản phẩm, dịch vụ mới của ngân hàng như thẻ rút tiền tự động, dịch vụ chuyển tiền nhanh, truy vấn số dư tài khoản, trả tiền điện, nước, trả lương... Chẳng hạn ngay trên chứng từ rút tiền của BIDV cũng có in quảng cáo về các dịch vụ của ngân hàng. Như vậy, các nhà quản trị của BIDV đã khai thác được lợi thế của chứng từ rút tiền, đó là nó có tính lặp đi lặp lại, chi phí thấp mà cũng gây được ấn tượng, khá hiệu quả trong chiến dịch quảng cáo. Bên cạnh đó, trong thời gian qua chúng ta đã chứng kiến sự trưởng thành của nhiều thương hiệu gắn liền với sự lớn mạnh của nhiều ngân hàng. Trước tiên phải kể đến đó là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Vietcombank. Trải qua hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành, Vietcombank đã được tạp chí The Banker thuộc tập đoàn Financial Times và tạp chí Euro Money bình chọn là ngân hàng tốt nhất Việt Nam. Dòng chữ Vietcombank màu xanh dương đã trở nên quen thuộc không chỉ với người dân Việt Nam mà còn với bạn bè quốc tế. Bên cạnh Vietcombank, chúng ta cũng thấy xuất hiện rất nhiều thương hiệu gắn với các logo quen thuộc như: BIDV, Incombank, Techcombank, Habubank, Agribank, SHB... Những logo này có thể nói là khá ấn tượng, là nét riêng của từng ngân hàng, có tính đồ họa và nghệ thuật, đã gây được ấn tượng tốt cho đông đảo khách hàng Ngoài ra, nắm bắt tâm lý người tiêu dùng, bao giờ cũng rất quan tâm tới những đợt khuyến mãi, các NHTM đã đưa ra nhiều hình thức khuyến mãi khác nhau đem lại lợi ích thiết thực và hấp dẫn khách hàng như: chiến dịch khuyến mại mở thẻ ATM tại các điểm giao dịch, áp dụng lãi suất bậc thang, tặng quà cho khách hàng trong những dịp khai trương trụ sở mới hay giới thiệu sản phẩm, dịch vụ mới... Cùng với đó, để thu hút thêm khách hàng, NHTM cũng đã cử cán bộ về các doanh nghiệp, các trường đại học giới thiệu sản phẩm, dịch vụ của mình, liên kết với các trường đại học, các cơ quan, đơn vị để đặt máy ATM tại các nơi này đồng thời miễn phí cho sinh viên và cán bộ khi lập thẻ... Bên cạnh những kết quả đạt được, Marketing ngân hàng tại Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định Ta có thể thấy rằng ở Việt Nam chưa có nhiều trường lớp đào tạo chính quy chuyên ngành Marketing. Nhìn chung, nguồn nhân lực về Marketing còn non trẻ và khan hiếm. Bên cạnh đó, các ngân hàng vẫn chưa thực sự quan tâm đúng mức tới công tác đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ chuyên sâu về Marketing. Chính điều này đã làm cho nội dung Marketing của một số Chi nhánh NHTM nghèo nàn, kém tính hấp dẫn, không có tính chuyên nghiệp, chưa thực sự mang tính hiện đại và hội nhập. Cũng cần phải nói tới những chi phí mà một NHTM được phép chi cho hoạt động Marketing. Chi phí của các NHTM cho hoạt động Marketing phải nằm trong giới hạn chi phí tiếp thị do Bộ Tài chính quy định. Thực tế tỷ lệ này là quá thấp so với thông lệ quốc tế. Trong khi đó hoạt động chi quảng cáo của một số NHTM vẫn còn mang tính chất là quan hệ với cơ quan báo chí chứ chưa hoàn toàn vì mục tiêu kinh doanh đạt hiệu quả. Một thực trạng tồn tại đó là sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động Marketing giữa Hội sở chính với các chi nhánh, và các NHTM với nhau. Chính sự chồng chéo này đôi khi không những làm giảm đáng kể hiệu quả của các hoạt động Marketing ngân hàng mà còn có sự phản tác dụng không mong muèn. 2.2.2.5 Dich vụ bán lẻ tại các NHTM Việt Nam Xuất phát từ thực trạng của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay có thể nói, một điểm yếu phổ biến và nổi bật của các NHTMVN là sự đơn điệu trong hoạt động kinh doanh. Cho đến nay, trừ Vietcombank, hoạt động của các NHTM vẫn tập trung chủ yếu vào các dịch vụ truyền thống như cho vay, bán buôn qua thị trường chứng khoán và công ty tài chính. Các hoạt động khác chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong thu nhập và lợi nhuận của NH. ở các nước phát triển, một ngân hàng hiện đại có thể cung cấp 1.000 loại sản phẩm dịch vụ cho các đối tượng khách hàng khác nhau, trong khi con số này ở Việt nam chỉ là vài chục đến ngót 100.Tỷ lệ thu nhập từ dịch vụ NH trong tổng thu nhập của các NHTM Việt Nam chỉ đạt 6-12%, ở một vài NHTM lớn tỷ lệ này có cao hơn, nhưng cũng chỉ khoảng 7-15%. Trong khi tại các nước phát triển và đang phát triển tỷ lệ này đều đạt 40-50%. Khi doanh thu của các NHTM còn dựa chủ yếu từ cho vay thì hoạt động NH còn có độ an toàn thấp, bởi hoạt động cho vay là một lĩnh vực rất nhiều rủi ro. Các sản phẩm dịch vụ mới được triển khai ở một số NHTM còn đơn điệu và chậm phát triển, đặc biệt là các dịch vụ liên quan đến hoạt động của các DN trong nền kinh tế. ở tất cả các quốc gia, hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN trong nền kinh tế luôn có mối quan hệ mật thiết với hoạt động kinh doanh của các NHTM. Thậm chí NHTM đóng vai trò như là “thủ quĩ” của các DN... Sự yếu kém trong hoạt động dịch vụ của các NH ở Việt nam chính là “thủ phạm” kéo dài tình trạng kinh tế tiền mặt ở nước ta. Là trung tâm huy động tiền gửi lớn nhất trong các trung gian tài chính, nhưng có thể nói, cho đến nay các NHTM Việt Nam vẫn chưa trở thành trung tâm huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư. ứớc tính số tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế có tới khoảng 8 tỷ USD tương đương 16% GDP. Các NH chưa cung cấp đủ các công cụ huy động tiết kiệm dài hạn. Thu hút tiền gửi dài hạn của người dân vào NH vẫn luôn là một việc khó khăn cho các NH Việt nam. Cũng vì nguồn tiền huy động của NH chỉ chủ yếu từ tiền gửi tiết kiệm, hơn nữa tiền gửi ngắn hạn của dân chúng và các DN còn chiếm tỷ trọng lớn trong tiền gửi của các NHTM, nên không thể tạo điều kiện cho NHTM quản lý tiền mặt có hiệu quả chừng nào NHTM chưa thực sự trở thành thủ quĩ của các cá nhân và DN. Trong bối cảnh đó, sự cạnh tranh thu hút tiền gửi trên một thị trường yếu sẽ càng làm tăng lãi suất chung của thị trường tài chính lên cao, gây bất lợi cho nền kinh tế và đương nhiên đến lượt nó sẽ gây bất lợi trở lại cho các NHTM. Có thể nói, hiện nay Việt Nam là quốc gia có mức lãi suất cao vào loại nhất nhì trên thế giới (xấp xỉ 11-13%/năm) nhưng nghịch lý là sức mua của đồng tiền nội tệ lại không mạnh làm cho một số công cụ dù là gián tiếp hay trực tiếp của CSTT đã và đang có xu hướng bị vô hiệu hoá. 2.2.3 Những kết quả đạt được sau một năm gia nhập Một năm đã đi qua, từ khi Việt Nam là thành viên WTO, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, vẫn còn nhiều khó khăn thách thức mà Việt Nam phải vượt qua để có thể sánh tầm với thế giới. Đối với hệ thống ngân hàng của nước ta, mặc dù trong những năm qua đã có nhiều thành tựu quan trọng trong đổi mới, đã trưởng thành và lớn mạnh hơn nhiều so với trước đây, nhưng so với thế giới, với đòi hỏi của thời đại và của sự phát triển kinh tế đất nước thì vẫn còn nhỏ bé, khiêm tốn và bất cập. Tính đến nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 37 NHTMCP, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty tài chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, hiện nay NHNN đã chấp nhận về nguyên tắc cho ra đời thêm 4 NHNN cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả là một sự trưởng thành vượt bậc. Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm và năm 2006 ước tăng khoảng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng cũng có nhiều đóng góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những năm qua. Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật đã được ban hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng đã ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế; Khuôn khổ thể chế ngày một thông thoáng và minh bạch hơn. Những phân biệt đối xử giữa loại hình tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài đã từng bước được loại bỏ; Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho vay tín dụng thương mại đã được tách bạch; Các NHTM, các tổ chức tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu quả. Thứ ba, chính sách tiền tệ (CSTT) được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành CSTT đã được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái đã được áp dụng linh hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo hướng tạo sự công bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối tượng dân cư. Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN, xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm từ gần 20% trong những năm 90 xuống còn khoảng 3,1%), đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán điện tử Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần được khắc phục để hội nhập được tốt, có khả năng cạnh tranh cao trong môi trường quốc tế. 2.2.4 Những tồn tại Như trên đã nêu, hệ thống ngân hàng có nhiều đổi mới và có những bước tiến nổi bật, nhưng để hội nhập, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập như: - Hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. - Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là khối các tổ chức tín dụng nhà nước. Nợ tồn đọng trong cho vay đầu tư xây dựng cơ bản bằng VNĐ đang ở mức cao trên tổng dư nợ. - Tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên. Mặc dù lãi suất tăng lên tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng, nhưng việc lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng thêm, và điều đó tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Trong điều kiện nói trên, một phần không nhỏ số doanh nghiệp có thể mất khả năng thanh toán và phá sản nếu không được tiếp tục vay vốn từ ngân hàng. Hậu quả là ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến nguy cơ mất vốn ngày càng lớn. - Các công cụ điều tiết chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) còn cần phải bàn và còn bất cập nên tác dụng điều tiết chưa cao. Do đó, khi lãi suất thị trường lên cao trong khi vốn khả dụng của các NHTM dư thừa, NHNN thiếu khả năng can thiệp để điều tiết mặt bằng lãi suất. - Cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tuy nhiên, tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn dài trên 1 năm tại các NHTM chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 30%, còn lại là ngắn hạn dưới 1 năm chiếm tới 70%. Trong khi đó, tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn hiện đã ở mức trên 40% và đang có sức ép tăng lên với quá trình công nghiệp hóa của đất nước. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đối với các nước đang phát triển, kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định, độ tin cậy của đồng tiền còn thấp, huy động vốn dài hạn khó khăn Chính phủ đều có chính sách cho phép sử dụng một phần vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, đồng thời áp dụng một số chính sách hỗ trợ để đảm bảo khả năng thanh toán của các ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ trên phải có một giới hạn nhất định. Việc sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống. - Hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động, đặc biệt là nguồn vốn bằng ngoại tệ còn chưa cao như mong muốn và chưa chuyển được nhiều thành vốn tín dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh. - Phần lớn vốn của các NHTM Việt Nam đều thấp nên khả năng thanh khoản và tính bền vững của hệ thống chưa được cao. Hệ thống NHTMNN chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng, sức ép cạnh tranh còn thấp. Các NHTMCP, quỹ tín dụng quá nhỏ bé và yếu kém đang là điểm dễ bị tổn thương nhất của hệ thống. Có một số công ty tài chính và quỹ tài chính được thành lập nhưng mới bắt đầu hoạt động. - Các ngân hàng chưa mở rộng và thay đổi phương thức kinh doanh; năng lực thẩm định dự án thấp. Tình trạng này một phần do thị trường tài chính chưa phát triển và các khuôn khổ pháp luật, kế toán và quản lý không đầy đủ, nhưng chủ yếu là do thiếu sự cạnh tranh, điều kiện tạo ra rất ít động lực cho các ngân hàng cải thiện chất lượng hoạt động. - Hội nhập kinh tế quốc tế đi liền với các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường tài chính, cho phép các ngân hàng quốc tế được hoạt động và đối xử bình đẳng như những ngân hàng trong nước sẽ tạo ra những sức ép lớn hơn đối với hệ thống ngân hàng trong thời gian tới. Hệ thống ngân hàng chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp. - Nhiều tổ chức tín dụng chưa xây dựng quy trình và thực hiện quản lý tập trung đối với rủi ro thanh khoản thông qua việc xây dựng phân tích kỳ hạn. Việc quản lý rủi ro thanh khoản hầu như chỉ thực hiện ở những chi nhánh đơn lẻ, do đó khi xuất hiện những biến động bất thường, một số NHTM luôn phải đối mặt với nguy cơ mất khả năng chi trả tạm thời trên toàn hệ thống. - Phần lớn các tổ chức tín dụng chưa xây dựng được quy trình tập trung tại hội sở chính đối với rủi ro về tỷ giá và kinh doanh ngoại hối; quy trình quản lý trạng thái ngoại hối chưa đáp ứng được yêu cầu nên chưa có những giải pháp hiệu quả để hạn chế tác động của những rủi ro này khi có sự biến động bất lợi về lãi suất và tỷ giá. Bên cạnh đó, một số tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối không chấp hành các giới hạn về trạng thái ngoại tệ, báo cáo thiếu trung thực, đầu cơ trong kinh doanh nhưng không kiểm soát được rủi ro tỷ giá. Vì vậy, khi phải đối mặt với sự biến động của thị trường đã gây tổn thất cho chính tổ chức tín dụng. 3.2 NHIỆM VỤ NGÂN HÀNG NĂM 2008 (SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO MỘT NĂM) 3.2.1Tình hình thực hiện nhiệm vụ 2007 Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nước ta, đánh dấu sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế- xã hội, tuy nhiên cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam. Việc triển khai các nhiệm vụ của ngành Ngân hàng năm 2007 diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế có những diễn biến phức tạp. Trên thế giới, giá dầu mỏ liên tục tăng mạnh, có thời điểm đã gần đạt mức 100 USD/thùng, giá vàng cũng liên tục tăng cao và đạt mức giá kỷ lục trong khoảng 30 năm qua. Cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp nhà ở Mỹ đã gây nhiều tác động xấu đến thị trường tài chính, tiền tệ toàn cầu, đến nay vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt. Ở trong nước, nền kinh tế cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới: nhập siêu tăng mạnh làm tăng thâm hụt cán cân vãng lai; dòng vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục từ trước đến nay, bên cạnh mặt tích cực là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cũng gây sức ép lớn đối với điều hành tỷ giá và việc kiểm soát tổng phương tiện thanh toán. Đặc biệt, do tác động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng cao so với các năm trước đây đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó, thiên tai, dịch bệnh ở nhiều vùng gây thiệt hại đáng kể cho sản xuất và đời sống... Những khó khăn, thách thức trên đây đã gây nhiều khó khăn cho công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và các ngành, các cấp. Trước những biến động phức tạp của tình hình kinh tế trong và ngoài nước, hệ thống ngân hàng đã bám sát sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ ; nỗ lực, chủ động triển khai các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành, góp phần thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2007. 3.2.1.1 Triển khai đồng bộ các giải pháp điều hành tiền tệ nhằm kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng, góp phần giảm áp lực tăng giá: Để kiểm soát mức tăng của tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng, ngay từ những tháng đầu năm 2007, NHNN đã thực hiện các giải pháp: - Duy trì ổn định các mức lãi suất chủ đạo nhằm ổn định mặt bằng lãi suất trong nước; - Điều hành linh hoạt thị trường mở với việc tăng số phiên và khối lượng giao dịch,đa dạng hoá kỳ hạn và lãi suất để hút vốn khả dụng tạm thời dôi dư của các TCTD; - Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên từ 1,5-2 lần; - Chỉ thực hiện chiết khấu và cho vay cầm cố trong trường hợp cần thiết, đồng thời tích cực thu nợ đến hạn để hút tiền về; - Điều hành tỷ giá linh hoạt, đảm bảo nguyên tắc không để tăng giá hoặc mất giá quá mức đồng Việt Nam, - Thực hiện đồng bộ các biện pháp kiểm soát tín dụng. Đặc biệt, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 18/2007/CT-TTg về một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường, NHNN đã chỉ đạo mạnh hơn, quyết liệt hơn việc triển khai các giải pháp nhằm kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ. 3.2.1.2 Tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành tỉ giá và quản lý ngoại hối: Năm 2007, cung ngoại tệ tăng mạnh chủ yếu do luồng vốn đầu tư nước ngoài tăng. NHNN đã điều hành tỉ giá đảm bảo theo nguyên tắc không để tăng giá hoặc mất giá quá mức đồng Việt Nam; thực hiện can thiệp mua ngoại tệ ở mức độ thích hợp nhằm ổn định tỉ giá, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, đảm bảo các cân đối vĩ mô của nền kinh tế. NHNN đã mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua, bán đồng USD của các tổ chức tín dụng so với tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng từ ±0,25% lên ±0,5% và lên ±0,75%; nới rộng quy định về bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại theo hướng bán cho các ngân hàng khi có trạng thái ngoại hối bằng hoặc dưới mức âm 5% thay cho mức âm 10% như trước đây. - Dự trữ ngoại hối nhà nước tăng liên tục và được quản lý an toàn hiệu quả, đáp ứng được các nhu cầu về ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế, góp phần hỗ trợ cho việc thực thi chính sách tỉ giá và điều hành chính sách tiền tệ. - Về khung pháp lý đối với hoạt động quản lý ngoại hối: NHNN đã trình và được Chính phủ phê duyệt Đề án về Lộ trình nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam, khắc phục từng bước hiện tượng đô la hoá. Các văn bản hướng dẫn Nghị định số 160/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ngoại hối đang được gấp rút xây dựng theo hướng tự do hoá hoàn toàn các giao dịch vãng lai, chú trọng giảm dần việc cấp các loại giấy phép. Nghị định mới thay thế Nghị định số 86/1999/NĐ-CP về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước đang triển khai xây dựng trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quản lý, điều hành dự trữ ngoại hối Nhà nước của các nước trên thế giới. Đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế: Năm 2007, hệ thống ngân hàng tiếp tục mở rộng cho vay đáp ứng có hiệu quả nhu cầu vốn của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế. NHNN đã kịp thời chỉ đạo việc xử lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp, hộ gia đình vay vốn bị thiệt hại do nguyên nhân khách quan như bão lụt, dịch bệnh đối với gia súc, gia cầm. 3.2.1.4 Hệ thống các TCTD Việt Nam tiếp tục được củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động a- Tiến độ cổ phần hoá các ngân hàng thương mại Nhà nước được đẩy mạnh: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các NHTM Nhà nước tích cực triển khai các bước để tiến tới phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO). Sau nhiều thời gian chuẩn bị, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) đã tổ chức thành công đợt IPO cuối tháng 12/2007. Các NHTM nhà nước khác cũng đang tích cực triển khai thực hiện công tác cổ phần hoá tại đơn vị mình theo đúng lộ trình đã đặt ra. b- Hệ thống NHTMCP có bước phát triển về nhiều mặt: - Hầu hết các Ngân hàng thương mại cổ phần đều có phương án, lộ trình tăng vốn điều lệ, nhiều ngân hàng đã gần đạt được mức vốn quy định cho năm 2010. Cùng với việc tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới hoạt động, các ngân hàng TMCP còn mở rộng các mối hợp tác, liên kết chiến lược với các đối tác trong và ngoài nước nhằm kiện toàn, củng cố công tác quản trị, kiểm soát điều hành cả về mô hình tổ chức và nhân sự. Hệ thống công nghệ và dịch vụ có nhiều tiến bộ nên hiệu quả kinh doanh của khối NHTMCP đã có bước tăng trưởng mạnh so với năm trước. - Triển khai Đề án về chủ trương và các tiêu chí thành lập ngân hàng mới tại Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, NHNN đã ban hành Quy chế cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần; thành lập Hội đồng thẩm định cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần để thẩm định hồ sơ xin thành lập. Năm 2007, đã có 4 ngân hàng thương mại cổ phần (Bảo Việt, Dầu khí, FPT và Liên Việt) được NHNN chấp thuận về nguyên tắc cấp giấy phép thành lập và hoạt động. c- Hoạt động của các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh có mức tăng trưởng ổn định và tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam. Chi nhánh các ngân hàng nước ngoài luôn tiên phong trong việc phát triển và áp dụng các công nghệ hiện đại, các sản phẩm mới tại thị trường Việt Nam. Nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã có những chiến lược mở rộng và xây dựng mạng lưới khách hàng khá tốt và đa dạng, trong năm đã chấp thuận về nguyên tắc cấp giấy phép thành lập 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. d- Các TCTD phi ngân hàng có bước cải thiện rõ rệt về năng lực tài chính thông qua việc tăng vốn điều lệ nhằm dần đáp ứng mức vốn pháp định quy định tại Nghị định số 141/2006/NĐ-CP. Hành lang pháp lý cho hoạt động của các TCTD phi ngân hàng tiếp tục được hoàn thiện với việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế cấp giấy phép tổ chức và hoạt động cho các TCTD phi ngân hàng cổ phần và sửa đổi, bổ sung thông tư hướng dẫn hoạt động mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính. Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép thành lập mới cho 2 công ty tài chính (trong đó có 1 công ty tài chính 100% vốn nước ngoài) và 1 công ty cho thuê tài chính, nâng tổng số các TCTD phi ngân hàng tại Việt Nam lên con số 21 (9 công ty tài chính và 12 công ty cho thuê tài chính). c- Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân tiếp tục được củng cố, phát triển với các chỉ tiêu cơ bản đều tăng trưởng khá so với năm 2006. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X và Nghị quyết Trung ương 5, Khoá IX về kinh tế tập thể, NHNN đã xây dựng định hướng chiến lược phát triển hệ thống QTDND giai đoạn 2006-2020 theo hướng hoàn thiện mô hình hệ thống QTDND, phát triển cả về số lượng, chất lượng lẫn quy mô hoạt động và đa dạng hoá hoạt động nghiệp vụ. 3.2.1.5 Xây dựng và hoàn thiện thể chế Thực hiện chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội và Chính phủ, NHNN đã tiến hành tổng kết tình hình thực hiện hai Luật ngân hàng hiện hành, hoàn thiện đề cương chi tiết và hoàn thành dự thảo lần 2 Luật NHNN và đang tiến hành dự thảo Luật các TCTD. Dự án Luật giám sát an toàn hoạt động ngân hàng đang được dự thảo đề cương; Dự án Luật bảo hiểm tiền gửi cũng đã được triển khai xây dựng. NHNN đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý trên các lĩnh vực hoạt động ngân hàng và sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống ngân hàng trong tiến trình hội nhập quốc tế. Công tác rà soát và kiểm tra văn bản của NHNN đã dần đi vào nề nếp. Công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng cũng như các lĩnh vực kinh tế xã hội khác đã được quan tâm thực hiện. 3.2.1.6 Hiện đại hoá ngân hàng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt - Thực hiện Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2020, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg về trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách; đồng thời, xây dựng đề cương, kế hoạch chi tiết cho từng đề án thành phần do Ngân hàng Nhà nước chủ trì và phối hợp xây dựng các đề án thành phần do các bộ, ngành khác chủ trì. Nhìn chung, việc trả lương qua tài khoản đối với cán bộ, công chức đã được triển khai mạnh mẽ tại một số nơi, một số lĩnh vực, ngành như: tài chính – ngân hàng, các khu công nghiệp, khu chế xuấtỞ một số thành phố lớn bước đầu đã triển khai thành công việc trả lương hưu qua thẻ ngân hàng. - Dự án “Hiện đại hoá Ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn II” đang được thực hiện đúng tiến độ đã cam kết với Ngân hàng Thế giới (WB). Các hệ thống thanh toán bù trừ, thanh toán nội bộ của NHTM, thanh toán song phương giữa các ngân hàng tiếp tục được nâng cấp, hoàn thiện góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. - Dịch vụ thanh toán qua ngân hàng tiếp tục phát triển mạnh, đặc biệt là các dịch vụ thanh toán có ứng dụng công nghệ cao. Nhiều ngân hàng đã phát hành các loại thẻ có độ bảo mật cao và cung cấp nhiều tiện ích đi kèm cho khách hàng. Để thúc đẩy dịch vụ thanh toán thẻ phát triển hiệu quả hơn, NHNN đã chỉ đạo khẩn trương việc triển khai Đề án xây dựng Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất (dự kiến sẽ phê duyệt và triển khai thực hiện từ đầu năm 2008). 3.2.1.7 Hoạt động Thông tin tín dụng Hoạt động thông tin tín dụng năm 2007 đã có bước phát triển khá nhanh. Các sản phẩm, dịch vụ của CIC đã trở thành kênh thông tin tin cậy, góp phần hỗ trợ công tác chỉ đạo, điều hành của NHNN và giúp các TCTD phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro, góp phần bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nghiệp vụ phân tích xếp hạng tín dụng doanh nghiệp đã có nhiều cải tiến về phương pháp, cách thức phân ngành, tính toán các chỉ số tài chính; đối tượng cung cấp thông tin được mở rộng đến các Công ty chứng khoán, các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Sản phẩm phân tích xếp hạng doanh nghiệp của CIC được các tổ chức và các nhà đầu tư đánh giá cao về chất lượng, nội dung, số lượng các đơn vị quan tâm đến sản phẩm này ngày càng tăng. 3.2.1.8 Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng NHNN đã tích cực chỉ đạo việc rà soát để sửa đổi, ban hành các văn bản pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng đảm bảo phù hợp với các cam kết khi gia nhập WTO; xây dựng Chương trình hành động của NHNN giai đoạn 2007-2012 với các nhiệm vụ và lộ trình thực hiện cụ thể. Trong quan hệ hợp tác với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, NHNN đã thực hiện tốt vai trò là đại diện của Chính phủ tại các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF/WB/ADB, MIB/MBES; tiếp tục duy trì và mở rộng mối quan hệ đối ngoại với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, các tổ chức đa phương và song phương về lĩnh vực ngân hàng. 3.2.2 Các nhiệm vụ trọng tâm (1). Hoàn thiện hệ thống thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tập trung xây dựng, hoàn thiện dự án Luật NHNN và Luật Các TCTD; xây dựng Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng, Luật Bảo hiểm tiền gửi. (2). Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả điều hành CSTT theo nguyên tắc thị trường. (3). Đáp ứng có hiệu quả các nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, đồng thời kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng. (4). Cơ cấu lại tổ chức, bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. (5). Đẩy nhanh chương trình tái cơ cấu, nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của các TCTD trong nước. (6). Đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, hệ thống thanh toán, hệ thống thông tin ngân hàng. (7). Thực hiện tốt công tác in, đúc tiền và lưu thông tiền mặt phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. (8). Củng cố, sắp xếp lại bộ máy tổ chức, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc NHNN sau khi Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định 52/2003/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN. (9). Tập trung thực hiện các nhiệm vụ về cải cách hành chính trong Chương trình hành động của NHNN thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. (10). Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các mặt hoạt động của ngành ngân hàng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6127.doc
Tài liệu liên quan