Thực trạng phát triển thị trường lao động ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Thực trạng phát triển thị trường lao động ở việt nam trong giai đoạn hiện nayMỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU A THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 1. Khái niệm 2. Các nhân tố tác động tới cung lao động 2.1 Sự phát triển dân số và cung lao động 2.2 Cung thời gian lao động : 3. Cầu lao động và các nhân tố ảnh hưởng đến cầu lao động 3.1 Cầu lao động ngắn hạn : 3.2 Cầu lao động dài hạn : B. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. Thực trạng về cung lao động : 1.1.Cung lao động xét từ giác độ số lượng a. Dân số và lực lượng lao động : b. Tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động : c. Tỷ lệ nữ trong lực lượng lao động : 1.2. Cung lao động xét từ giác độ chất lượng : a. Trình độ học vấn của người lao động : b.Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng : c. Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam : d. Kỷ luật lao động của người lao động : 2. Thực trạng về cầu lao động : 2.1 Thực trạng về cầu lao động : 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu lao động : 3. Các giải pháp, giải quyết cung cầu trên thị trường lao động Việt Nam : C. LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU LÀM GIA TĂNG TỶ LỆ THẤT NGHIỆP VÀ SỰ KHÔNG HIỆU QUẢ : 1. Luật tiền lương tối thiểu : 2. Chính sách tiền lương tối thiểu tại Việt Nam : 2.1 Chính sách tiền lương tối thiểu tại Việt Nam : 2.2 Ưu nhược điểm của chính sách tiền lương tại Việt Nam : 2.3 Giải pháp cho chính sách tiền lương tối thiểu ở nước ta : KẾT LUẬN

doc32 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2701 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng phát triển thị trường lao động ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á cả tăng ( hoặc giảm ) sẽ làm cho cầu về lao động giảm và ngược lại ( tức là cầu về sức lao động tỷ lệ nghịch với giá cả sức lao động). Bởi vậy, nếu vẽ trên đồ thị ( hình 1) đường cầu là đường AB. Tại mỗi điểm trên đường cầu này sẽ ứng với mỗi lượng tiền lương nhất định và số lượng sức lao động nhất định. Ví dụ tại A có mức giá là J1; số lượng sức lao động tương ứng là Q1; Tại điểm B với mức giá là J2; số lượng sức lao động tương ứng là Q2 và J1> J2 nên Q2> Q1. Cung lao động : là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận được ở mỗi mức giá nhất định. Cũng giống như cầu và lượng cầu. Cung lao động mô tả toàn bộ hành vi của người đi làm thuê khi thỏa thuận ở các mức giá đặt ra. Cung lao động có quan hệ tỷ lệ thuận với giá cả sức lao động, khi tiền lương tăng, lượng cung lao động sẽ tăng. Trên đồ thị hình 1 biễu diễn đường cung là CD. Tại điểm C với mức giá J3 lượng cung sức lao động là Q3. Tại điểm D với mức giá J4 lượng cung sức lao động là Q4 và do giá J4> J3 nên Q4> Q3. Điểm cân bằng : E là điểm gặp nhau của đường cung và đường cầu. Tại đó lượng cầu bằng lượng cung ( tức Q0 ) mức giá J0 gọi là mức giá cân bằng. 2. Các nhân tố tác động tới cung lao động Cung trên thị trường lao động phụ thuộc vào tổng số lao động có thể cung cấp. Tổng số lao động này phụ thuộc vào quy mô dân số tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động, độ dài của thời gian làm việc và chất lượng của lực lượng lao động. Sau đây chúng ta xem xét mộ t số trong các nhân tố trên. 2.1 Sự phát triển dân số và cung lao động Dân số là cơ sở hình thành nguồn nhân lực. Quy mô nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô dân số và quy mô dân số tại thời kỳ nào đó lại phụ thuộc vào sự tăng tự nhiên (số sinh trừ đi số chết) và tăng, giảm cơ học. Quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số nhanh sẽ báo hiệu quy mô lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh của nguồn nhân lực trong tương lai. Cung sức lao động là bộ phận sức lao động được đưa ra trên thị trường nó phụ thuộc không chỉ vào quy mô và tốc độ tăng của nguồn nhân lực, nó còn phụ thuộc vào số người (tỷ lệ) tham gia của lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động được tính bằng cách so sánh lực lượng lao động thực tế với lực lượng lao động tiềm năng. Lực lượng lao động thực tế là bộ phận dân cư trong tuổi lao động, có khả năng lao động hiện đang làm việc trong các ngành của nền kinh tế quốc dân và những người chưa có việc làm nhưng đang đi tìm việc làm. Lực lượng lao động tiềm năng là khả năng lao động của xã hội tức là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động ( nguồn nhân lực có sẳn trong dân số hoặc là dân số hoạt động ) ( Labor foree participation rate LFPR). Lực lượng lao động thực tế LFPR = ---------------------------------- x 100 Lực lượng lao động tiềm năng Tỷ lệ tham gia có thể được xác định tương tự cho các nhóm trong dân số khác nhau : nam, nữ, nữ có gia đình….. Rõ ràng tỷ lệ này cao ( tiến dần đến 100%) khi lực lượng lao động trên thị trường tăng lên và khai thác được triệt để tiềm năng về nguồn lực con người cho sự phát triển kinh tế – xã hội. 2.2 Cung thời gian lao động : Quỹ thời gian của con người là có hạn, mỗi người phải lựa chọn để sử dụng quỹ thời gian đó một cách hợp lý nhất. Do nhiều nguyên nhân, mỗi người có cách lựa chọn khác nhau song thực tế có mấy loại : Tăng thời gian làm việc, giảm thời gian nghỉ ngơi. Đây là những người ham công việc hoặc có nhu cầu thu nhập cải thiện mức sống. Tăng thời gian nghỉ ngơi, giảm thời gian làm việc : đó là đối với người có thu nhập cao hoặc do tuổi cao. Lựa chọn thời gian làm việc và nghỉ ngơi hợp lý vừa đảm bảo thu nhập, vừa thỏa mãn được nhu cầu vui chơi, giải trí. Thứ hai, nhân tố khách quan đó là giới hạn thu nhập trên thị trường lao động. Ta xét nhân tố chủ quan : sở thích của cá nhân. Một điều hết sức rõ là xem xét mối quan hệ giữa thu nhập, thời gian làm việc và giải trí ta thấy : thu nhập tỷ lệ thuận với thời gian làm việc và tỷ lệ nghịch với thời gian giải trí. Để mô tả mối quan hệ giữa thu nhập và thời gian giải trí, người ta dùng khái niệm đường bàng quan. Đường bàng quan thể hiện những kết hợp khác nhau của thu nhập thực tế và thời gian giải trí mà nó đưa lại cho cá nhân người lao động ( đường S trên đồ thị hình 2 ) . Với một điểm bất kỳ trên đường bàng quan thể hiện một cách kết hợp giữa thu nhập và giải trí tức là đạt được độ thỏa dụng nhất định. Tất cả mọi điểm trên đường bàng quan đều có độ thỏa dụng như nhau. 32 16 48 0 4 8 12 16 20 24 Thu nhập N Tg giải trí 24 20 16 12 8 4 0 Tg làm việc Hình 2 Ta xét nhân tố khách quan : sự ràng buộc về khả năng thu nhập trên thị trường lao động. Bản thân mỗi người chịu sự giới hạn bởi lượng tiền mà anh ta có và tiền lương trên thị trường là cho trước và không thay đổi. Để mô tả khả năng này người ta dùng đường ngân sách. Đường ngân sách thể hiện khả năng thu nhập của người lao động trong mối quan hệ với thời gian làm việc và nghỉ ngơi ( chúng ta giả định rằng người lao động chỉ có thất nghiệp duy nhất từ thị trường lao động. Trên đồ thị hình 2, đường N là đường ngân sách. Sự kết hợp tối ưu giữa ưa thích cá nhân ( chủ quan ) được biểu hiện trên đường bàng quan với các thông tin trên thị trường mang tính khách quan được biểu hiện trên đường ngân sách là độ thỏa dụng tối ưu. Và vị trí tối ưu đó là điểm tiếp xúc giữa đường ngân sách và đường bàng quan ( điểm I) Ảnh hưởng của hai nhân tố là thu nhập và thay thế tới sự lựa chọn của người lao động. Do ảnh hưởng của thu nhập : do tăng mức lương dẫn đến tăng thu nhập, người lao động có thể dùng số thu nhập tăng thêm đó để mua hàng hóa nào đó để thỏa mãn nhu cầu, ở đây là giải trí ( cũng là một loại hàng hóa ) do đó dẫn đến giảm thời gian làm việc . Do ảnh hưởng của thay thế : Khi mức lương tăng dẫn đến thời gian muốn làm việc tăng. Khi mức lương tăng, giá tương đối của thời gian giải trí là được thay thế, tức là làm tăng chi phí cơ hội của thời gian giải trí. Điều đó có nghĩa là khi mức lương tăng, thời gian giải trí đắt hơn, vì vậy sẽ tăng thời gian làm việc. 3. Cầu lao động và các nhân tố ảnh hưởng đến cầu lao động : Như trên đã trình bày, cầu lao động là cầu dẫn xuất, có nghĩa là lượng cầu về một loại lao động nào đó sẽ dựa trên 2 cơ sở : Năng suất lao động để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ. Giá trị thị trường của các loại hàng hóa, dịch vụ đó. Như vậy, việc xác định cầu lao động dựa trên hiệu suất biên của lao động và giá trị ( giá cả ) của hàng hóa, dịch vụ. 3.1 Cầu lao động ngắn hạn : Sự phát triển sản xuất có thể mô tả dưới dạng hàm sản xuất. Hàm sản xuất là mối quan hệ tương quan giữa khối lượng các đầu vào và đầu ra của sản xuất. Các giả định : Quá trình sản xuất chỉ bao gồm 2 yếu tố đầu vào : vốn (K) và lao động (L). Chỉ có một loại lao động. Trong thời gian ngắn thì có ít nhất một đầu vào được cố định ( ở đây là k : máy móc thiết bị và công cụ khác ) còn trong thời gian dài thì các yếu tố đều thay đổi. TP SR = f(L,K) Trong đó : TP SR = tổng sản phẩm của hãng trong ngắn hạn. Từ hàm sản xuất trong ngắn hạn ta thấy có thể thay đổi mức độ sử dụng yếu tố sản xuất của nó bằng cách chuyển từ kỹ thuật sản xuất này sang một kỹ thuật sản xuất khác. Nếu xem xét về nhu cầu lao động ta thấy khi tăng lao động đến một mức độ nào đó thì quy luật năng suất biên giảm dần bắt đầu hoạt động, Do đó, nhu cầu thuê nhân công của hãng là hãy mở rộng ( hay thu hẹp) mức thuê nhân công nếu như sản phẩm giá trị biên của lao động lớn hơn ( hoặc nhỏ hơn ) tiền công của người công nhân thuê thêm. Trong điều kiện lao động có thể dễ dàng điều chỉnh được thì nhu cầu về lao động của hãng phải thỏa mãn điểu kiện . Tiền công = sản phẩm giá trị biên của lao động . Có thể biểu diễn đường cầu trên đồ thị V.3 như sau : W0 E MVPL L Giả thiết rằng quy luật năng suất biên giảm dần có hiệu lực ở mọi mức thuê nhân công. Đường sản phẩm giá trị biên của lao động (MVPL) dốc xuống. Một hãng có sức cạnh tranh có thể thuê lao động với mức tiền công không đổi là Wo bởi vì nó là người chấp nhận phương án trên thị trường lao động. Bên trái L, lợi nhuận có thể tăng do việc mở rộng thuê nhân công, bởi vì MVPL vượt quá mức tiền công, hay chi phí biên để thuê thêm nhân công. Bên phải L, có lợi hơn nếu thu hẹp việc thuê nhân công bởi vì mức tiền lương vượt quá MVPL. L là mức thuê nhân công tối đa hóa được lợi nhuận. 3.2 Cầu lao động dài hạn : Hàm sản xuất của hãng trong dài hạn được biểu diễn như sau : TPLK = f(L,k) Từ việc nghiên cứu hàm sản xuất ta thấy : trong việc sản xuất một khối lượng sản phẩm nào đó bằng kỹ thuật hiện có rẻ nhất, việc tăng giá của mỗi đơn vị sức lao động so với vốn của một đơn vị vốn sẽ đưa hãng đến chỗ chuyển sang dùng kỹ thuật nhiều vốn hơn. Ngược lại nếu vốn trở nên đắt hơn thì kỹ thuật tối thiểu hóa chi phí để sản xuất ra một mức sản lượng nào đó phải dùng sức lao động nhiều hơn. Hãng thay yếu tố sản xuất mà đã trở nên tương đối đắt đỏ bằng yếu tố khác. Mặt khác, nhu cầu về các yếu tố sản xuất phụ thuộc vào mức sản lượng và giá tương đối của chính những yếu tố sản xuất đó. Có thể minh họa ảnh hưởng của tăng tiền công đối với sản lượng ( xem hình V.4 ) W1 W2 a c b Q0 Q1 Q2 P MC1 MC2 MR Q1 Q2 Hình V.4 Hình V.5 Chi phí biên là mức tăng tổng chi phí khi sản xuất thêm một đơn vị. Doanh thu biên là mức tăng tổng doanh thu khi sản lượng tăng thêm mỗi đơn vị. Khi tất cả các nhân tố khác không thay đổi, việc giảm mức lương sẽ làm giảm giá trị biên ( từ MC1 xuống MC2 ) và làm tăng mức lợi nhuận tối đa ( MR = MC ) của sản lượng ( từ Q1 đến Q2 ). Trong trường hợp này để sản xuất thêm sản phẩm cần tuyển nhiều lao động hơn. Việc giảm mức lương từ W1 đến W2 làm tăng tương ứng lao động trong ngắn hạn ( hình V.5) từ Q0 tới Q1. Trong dài hạn hãng thay thế lao động với vốn đưa đến có sự tác động thay thế của Q1Q2. Do đó đường cầu vẽ được do sự tác động của cả hai yếu tố bằng cách nối a và c. Đường ac là đường cầu dài hạn. B. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. Thực trạng về cung lao động : Như đã biết, cung về lao động là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội tức là tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động, có năng lực lao động và cả số nhân khẩu không nằm trong độ tuổi lao động nhưng đã chính thức tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội. Bên cạnh đó, cung về lao động còn được xem xét từ giác độ chất lượng sức lao động , tức là các phẩm chất cá nhân người lao động. Trong đó, trình độ học vấn, trình độ đào tạo, các kỹ năng chuyên môn, kỷ luật lao động…là những yếu tố chính, quyết định chất lượng của loại hàng hóa đặc biệt này. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét yếu tố cung trên thị trường lao động Việt Nam từ những khía cạnh này. 1.1.Cung lao động xét từ giác độ số lượng a. Dân số và lực lượng lao động : Theo quy định của Bộ Luật Lao Động, ở Việt Nam trong độ tuổi lao động gồm những người từ 15 đến 60 tuổi đối với nam, và từ 15 đến 55 tuổi đối với nữ. Số liệu của Bộ Lao Động – Thương Binh Và Xã Hội cho thấy, đến ngày 1 tháng 7 năm 2002, dân số Việt Nam là 79.930.000 người, số người trong độ tuổi lao động là 48.485.538 người, chiếm 60.66% tổng dân số. Trong đó, số người tham gia vào lực lượng lao động là 40.694.360 người ( tăng 2.99% so với năm 2001). Tỷ lệ tăng dân số trung bình hằng năm trong hơn một thập kỷ qua là 1.7%; mức tăng trung bình/năm của dân cư trong độ tuổi lao động ở nước ta là 2.6%. So với tốc độ tăng dân số, thì tốc độ tăng của dân số trong độ tuổi lao động cao hơn nhiều. Bảng 1 : Cơ cấu dân số chia theo độ tuổi Tổng Thành thị Nông thôn 2001 2002 2001 2002 2001 2002 Tổng số 78,700,000 79,930,000 19,880,000 60,050,000 Tỷ lệ (%) 24.87 75.13 Trong đó : Dưới tuổi lao động (người) 23,885,450 22,828,008 4,618,124 18,213,165 Tỷ lệ (%) 30.35 28.56 24.99 23.23 32.06 30.33 Trong tuổi lao động (người) 46,629,750 48,485,538 13,039,292 35,447,515 Tỷ lệ (%) 59.25 60.66 64.29 65.59 57.65 59.03 Trên tuổi lao động (người) 8,184,800 8,616,454 2,222,584 6,389,320 Tỷ lệ (%) 10.40 10.78 10.72 11.18 10.29 10.64 Nguồn : Điều tra thực trạng lao động - việc làm, Bộ LĐTB-XH,01/07/2002 Những con số kể trên cho thấy tốc độ tăng nguồn lao động là lớn, kể cả so với một số nước Đông Nam A có các điều kiện về dân số và mức phát triển gần với Việt Nam ( Thí dụ : mức tăng nguồn lao động trung bình năm trong cùng khoảng thời gian của Thái Lan là 2.1%, của Trung quốc là 1.5%, Hàn Quốc là 2.3%, Indonesia là 2.2%, các nước Đông A - Thái Bình Dương là 1.8%, các nước Châu Âu : 0.8%). Kết quả là mỗi năm nước ta có khoảng 1.3 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Các con số trên cho thấy, Việt Nam hiện đang có lực lượng lao động rất lớn, với tỷ lệ tăng hàng năm của số người đến tuổi lao động khá cao. Hơn nữa, nếu so với mức tăng việc làm trong cùng thời kỳ ở nước ta ( khoảng từ 1.4% đến 2% năm), thì có thể thấy rõ hiện có một bộ phận người lao động trong độ tuổi lao động không thể tìm kiếm được việc làm. b. Tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động : Do mức tăng dân số trong thập kỷ qua cao trong những năm gần đây, tỷ trọng dân số trẻ tuổi đã tăng đáng kể, và trở thành nguồn cung lao động tiềm năng của nhóm những người trong độ tuổi lao động. Theo số liệu của điều tra thực trạng lao động – việc làm năm 2002 của Bộ Lao Động – Thương Binh Xã Hội cho thấy tại thời điểm 1-7-2002, cả nước có 40.694.360 người trong độ tuổi lao động có hoạt động kinh tế thường xuyên, so với năm 2001 tăng 467.100 người (bằng 2.49%); trong đó nữ có 20.061.462 ( chiếm 49.30%), nam có 20.632.908 ( chiếm 50.7%). Bảng 2 : Cơ cấu lực lượng lao động của Việt Nam Đến ngày 01/07/2001 Đến ngày 01/07/2002 Tỷ lệ tăng (%) Tổng số (người) 39,488,900 40,694,360 2.96 Trong đó : I. Theo giới Nam (người) 19,894,538 20,632,898 3.58 Tỷ lệ (%) 50.38 50.70 Nữ (người) 19,594,362 20,061,462 2.33 Tỷ lệ (%) 4.62 49.30 II. Theo khu vực Thành thị (người) 9,183,667 9,709,967 5.42 Tỷ lệ (%) 23.26 23.86 Nông thôn (người) 30,329,793 30,984,393 2.11 Tỷ lệ (%) 76.81 76.14 Nguồn : Điều tra thực trạng lao động - việc làm, Bộ LĐTB-XH,01/07/2002 Dựa vào các số liệu hiện có, có thể thấy rằng, trong khi tỷ trọng nhóm người trong độ tuổi lao động ở nước ta tăng với tốc độ nhanh, thì tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động của dân số nhìn chung lại giảm. So sánh các số liệu cho thấy, nếu tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 1989 là 90.8% thì đến năm 2002, con số này chỉ còn 83.9% . c. Tỷ lệ nữ trong lực lượng lao động : Trong khi tỷ lệ nam giới trong lực lượng lao động ở nước hầu như tương đương với các nước trong khu vực, thì tỷ lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động lại lớn hơn hẳn. Thí dụ : nếu ở Việt Nam năm 1997-1998 tỷ lệ lao động nữ tham gia vào lực lượng lao động xã hội chiếm 79.5% thì theo số liệu của tổ chức lao động quốc tế (ILO) ở Philippin, Inđônêxia, Hàn Quốc, tỷ lệ này chỉ trên dưới 50%. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, tỷ lệ tham gia của lao động nữ vào lực lượng lao động ở mọi độ tuổi đều hầu như ngang bằng với nam giới. Tại các vùng đô thị, tỷ lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động có ít hơn so với ở các vùng ở nông thôn, nhưng vẫn cao hơn rất nhiều so với một số nước trong khu vực. 1.2. Cung lao động xét từ giác độ chất lượng : a. Trình độ học vấn của người lao động : Tỷ lệ người biết chữ trong tổng số lực lượng lao động của Việt Nam nói chung tương đối cao so với nhiều nước có mức thu nhập tương đương trên thế giới và có xu hướng tăng lên. Bảng 3 cho thấy, trình độ phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở trong lực lượng lao động của ta tương đối cao (80.31%). Tỷ lệ người mù chữ rất thấp ( 3.75% trong năm 2002) so với tỷ lệ này của Thái Lan (4%) là nước có trình độ phát triển cao hơn. Trong đó, lao động ở thành thị và lao động trẻ tuổi có tỷ lệ phổ cập giáo dục phổ thông cao hơn lao động nông thôn và lao động ở lứa tuổi lớn hơn. Bảng 3 : Cơ cấu lực lượng lao động hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo trình độ học vấn , 1-7-2002. Chưa biết chữ Chưa TN tiểu học Tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp THCS Tốt nghiệp THPT Số lao động 1,521,969 6,494,820 12,953,015 12,232,725 7,495,901 Tỷ lệ (%) 3.74 15.96 31.83 30.06 18.42 I. Theo giới tính Nữ (người) 924,833 3,480,664 6,347,447 5,837,885 3,470,633 Tỷ lệ (%) 4.61 17.35 31.64 29.10 17.30 Nam (người) 597,136 3,014,156 6,605,568 6,394,839 4,025,268 Tỷ lệ (%) 2.89 14.61 32.01 30.99 19.51 II. Theo vùng (%) ĐB Sông Hồng 0.59 5.68 19.95 49.11 24.67 Đông Bắc 7.75 12.89 28.14 32.98 18.23 Tây Bắc 18.34 20.97 29.28 16.63 14.78 Bắc Trung Bộ 2.78 10.83 27.13 40.59 18.67 Duyên hải Nam Trung bộ 2.79 17.48 38.85 24.84 15.99 Tây nguyên 9.72 17.36 32.91 23.81 16.2 Đông Nam bộ 2.06 16.19 36.39 22.37 22.98 ĐBSCL 3.34 29.54 43.12 13.42 10.58 Nguồn : Điều tra thực trạng lao động - việc làm, Bộ LĐTB-XH,01/07/2002 b.Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng : Theo kết quả điều tra lao động – việc làm của Bộ Lao Động – Thương Binh Và Xã Hội đến 1-7-2002, tính chung cả nước số người được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng (có trình độ sơ cấp hoặc có chứng chỉ nghề trở lên ) chỉ chiếm có 19.62% tổng lực lượng lao động. Riêng đối với nữ, tỷ lệ này còn thấp hơn chỉ có 15.67% . Trầm trọng hơn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn có sự chênh lệch rất lớn. Ở khu vực thành thị, tỷ lệ có trình độ chuyên môn kỹ thuật là 44.6%, nông thôn là 11.89%. Đặc biệt là ở các tỉnh miền núi, các nông-lâm trường, trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân thấp hơn nhiều so với các nơi khác. Hơn thế nữa, cơ cấu lực lượng lao động được đào tạo cũng còn nhiều bất hợp lý. Điều này có thể thấy rõ nếu đem so sánh cơ cấu đào tạo của ta với cơ cấu đào tạo ( được coi là hợp lý) của một số nước khác. Bảng 5 cho thấy, số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật còn quá thiếu so với yêu cầu. Hơn nữa, số này chủ yếu chỉ tập trung tại các thành phố và khu đô thị lớn (Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh và một số thành phố, trung tâm công nghiệp lớn khác ). Trong khi đó, ngành nông nghiệp chiếm 60.5% tổng số lực lượng lao động của cả nước, nhưng chỉ chiếm 3.85% số người được đào tạo. Bảng 5 : So sánh cơ cấu đào tạo nghề nghiệp Đại học Trung học chuyên nghiệp Công nhân kỹ thuật Cơ cấu đào tạo hợp lý 1 4 10-15 Cơ cấu của Việt Nam hiện nay 1 0.98 2.66 Nguồn : Báo cáo của Bộ LĐTBXH, 31-07-2002 c. Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam : Theo số liệu điều tra về tình trạng thể lực của lao động Việt nam năm 1996, người lao động Việt Nam có thể lực kém, thể hiện qua các chỉ số về cân nặng, chiều cao trung bình, sức bền. Cụ thể là, trong khi chiều cao trung bình của người lao động Việt Nam là 1.47m; cân nặng 34.4 kg thì các con số tương ứng của người Philippin là 1.53m, 45.5kg; người Nhật là 1.64m; 53.3kg. Số người không đủ tiêu chuẩn về cân nặng ở Việt Nam chiếm tới 48.7%. Số lượng người lớn suy dinh dưỡng là 28%, phụ nữ thiếu máu là 40% ( số liệu điều tra năm 2000 ). Các số liệu điều tra năm 2001 đối với người lao động trong một số doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thấy số người mắc bệnh nghề nghiệp chiếm 54%. d. Kỷ luật lao động của người lao động : Đại bộ phận người lao động hiện nay của ta còn chưa được đào tạo về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn trong số họ là lao động có xuất thân từ nông nghiệp hoặc nông thôn, còn mang nặng tác phong sản xuất của một nền nông nhiệp tiển nông, tuỳ tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, không có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Điều này có thể thấy rất rõ qua hiện tượng các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ), phải mất hàng tháng chỉ để đào tạo tác phong cho công nhân mới được tuyển đến làm việc tại xí nghiệp. Nhiều vụ việc đình công hoặc mâu thuẫn chủ – thợ tại các xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nguồn gốc ban đầu từ những vụ vi phạm kỷ luật lao động công nghiệp, từ ý thức kỷ luật lao động kém của bản thân người lao động. 2. Thực trạng về cầu lao động : 2.1 Thực trạng về cầu lao động : Nước ta là một nước nông nghiệp, nghèo, có dân số đông với tốc độ tăng còn cao, nguồn lao động dồi dào, năng suất lao động thấp, cung lao động luôn lớn hơn cầu lao động, bởi vậy trong nền kinh tế luôn tồn tại lực lượng lao động dư thừa dưới nhiều hình thức, tình trạng thiếu việc làm là phổ biến. Năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6.42%, còn ở nông thôn tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động chỉ là 76.58%. Đây là vấn đề cấp bách không chỉ trước mắt mà còn có nguy cơ kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội về lâu dài. Vậy cần phải có các giải pháp như thế nào để tăng cầu lao động ở nước ta. Trước hết chúng ta xem xét hiện trạng và xu hướng thay đổi việc làm trong những năm gần đây. Bảng 10 :số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên thời kỳ 1996-2002 Các tiêu chí 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 33,978 34,352 34,801 35,679 36,205 37,677 39,286 Trong đó: 1. Theo nhóm ngành : Nông lâm ngư nghiệp 23,431 22,589 23,018 22,861 22,670 22,813 23,835 Xây dựng, công nghiệp 3,698 4,170 4,049 4,425 4,744 5,428 5,942 Dịch vụ 6,849 7,593 7,734 8,382 8,791 8,426 9,509 2. Theo thành phần Kinh tế Nhà nước 2,973 3,094 3,533 3,606 3,644 3,769 4,011 Ngoài Nhà nước 31,005 31,128 31,083 31,884 32,343 33,554 34,836 Có vốn đầu tư NN - 130 184 190 218 354 439 Nguồn : Số liệu thống kê Lao động - Thương binh và Xã hội Nếu xét về tổng thể cơ cấu việc làm trong thời kỳ này thì thấy rằng: năm 1996 nếu tổng số việc làm là 100% thì các nhóm ngành sẽ là : nông, lâm, ngư nghiệp là 69%, xây dựng công nghiệp là 10.9% và dịch vụ 20.1% . Năm 2002 tỷ lệ tương ứng cho 3 nhóm ngành trên sẽ là 60.67%, 15.12% và 24.21%. Như vậy tỷ trọng việc làm trong nông, lâm, ngư đã giảm đi gần khoảng 9%, tương ứng là số việc làm tăng lên trong xây dựng, công nghiệp và dịch vụ trong thời kỳ năm 1996-2002. Đối với cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế, chúng ta thấy xu hướng trăng trong cả 3 nhóm : nhà nước, ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu so sánh về tốc độ tăng việc làm trung bình năm thì thứ tự là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhanh nhất (43%), sau đó đến nhà nước (5.35%) và ngoài nhà nước (1.64%). Điều này cũng có thể được giải thích vì kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mới được hình thành và phát triển trong vài năm nay, kinh tế ngoài quốc doanh với số lượng lao động đông đảo đang dần được chú ý khuyến khích, đặc biệt sau Đại Hội Đảng VIII, còn đối với việc làm trong thành phần kinh tế nhà nước còn nhiều bất cập về tinh giảm biên chế và đang trong quá trình cải cách hành chính và bộ máy quản lý. Khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực phi kết cấu ở thành thị, là nơi có nhiều khả năng tạo việc làm vì những ưu thế về quy mô và chi phí thấp để tạo ra một chỗ làm việc, tính chất năng động và lợi ích trực tiếp của người lao động và trình độ quản lý. Tuy nhiên, tiềm năng thu hút thêm lao động của khu vực này cũng đang đối đầu với những khó khăn trong điều kiện mở cửa và hội nhập, sản phẩm kém tính cạnh tranh do chất lượng không cao, ngoài ra môi trường kinh doanh chưa ổn định, còn nhiều rủi ro, thiếu thông tin, thiếu sự hỗ trợ, hạn chế về vốn. Đối với khu vực nhà nước tạo việc làm cũng gặp thách thức không nhỏ. Nhiệm vụ và yêu cầu cải cách bộ máy quản lý và thủ tục hành chính đòi hỏi phải tinh giản biên chế, sắp xếp lại số biên chế hiện có, hạn chế nhận thêm lao động mới. Các doanh nghiệp Nhà Nước, măc dù có nhiều khoản đầu tư và chính sách hỗ trợ, cũng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, trước yêu cầu nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh, chống độc quyền, do đó cơ hội tạo thêm việc làm là rất hạn hẹp. Hơn thế nữa tình trạng dư thừa lao động tại các doanh nghiệp nhà nước cũng đang là vấn đề đáng quan tâm với tỷ lệ lao động dôi dư năm 1999 lên tới hơn 9%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tuy có tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm khá cao, khoảng 17% song tỷ trọng trong GDP còn thấp, hơn nữa phần lớn tập trung vào những ngành công nghiệp nặng, dầu khí, bất động sản, đó là nhữnh ngành cần nhiều vốn, có hệ số bảo hộ cao, bởi vậy khả năng thu hút lao động không nhiều. Sau nữa phải kể đến chất lượng lao động của nước ta còn yếu kém, trình độ tay nghề thấp, cơ cấu ngành nghề không phù hợp với yêu cầu, tỷ lệ lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn rất cao, chiếm khoảng 90% lực lượng lao động, đặc biệt là nông thôn, vùng sâu vùng xa. 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu lao động : Lý thuyết kinh tế thị trường đã chỉ ra rằng, muốn tăng cầu lao động thì có hai cách, một là giảm tương đối tiền công và hai là khai thác các yếu tố tác động đến cầu lao động. Trước hết sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ tác động mạnh đến số lượng và chất lượng cầu lao động. Nước ta với hơn 70% lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp, nhưng đang có xu hướng giảm mặc dù còn chậm do sức ép của quy mô lớn và tốc độ gia tăng dân số còn cao.Sự chuyển dịch cơ cấu sẽ diễn ra theo hai hướng; một là, chuyển một bộ phận lao động hiện có của khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ; hai là, có thể chuyển trong nội bộ khu vực từ nông nghiệp sang ngư nghiệp, vì ngư nghiệp ở nước ta có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên và đang được khuyến khích phát triển theo hướng hàng hóa thương phẩm và khai thác thị trường xuất khẩu. Điều kiện cần để thu hút lực lượng lao động vào công nghiệp và dịch vụ là yêu cầu về trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật và tay nghề, do đó vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, sự thay đổi cơ cấu tổng sản phẩm ( GDP) cũng tác động đến cầu lao động, một khi thu nhập đầu người tăng lên làm nhu cầu thay đổi theo hướng chuyển từ các hàng hóa nông nghiệp sang các hàng hóa công nghiệp và dịch vụ, kết quả làm tăng việc làm trong các khu vực kinh tế này. Yếu tố thứ hai tác động đến việc làm là tăng trưởng kinh tế. Như đã biết hàm sản xuất được viết : Q = f(K,L), trong đó Q là sản lượng, K là vốn, L là lao động, f biểu thị công nghệ. Nếu công nghệ và giá cả là cố định thì tăng trưởng kinh tế sẽ làm tăng cầu lao động. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế thường kéo theo sự thay đổi công nghệ và sự thay đổi này thường tăng nhu cầu giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, tăng nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Yếu tố thứ ba là lựa chọn kiểu và mức độ công nghiệp hóa. Đảng và nhà nước ta xác định đường lối phát triển đất nước là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những khó khăn gặp phải là làm thế nào để công nghiệp hóa có khả năng tạo đủ việc làm cho lực lượng lao động lớn và đang tăng lên ở nước ta. Rõ ràng là phải đứng trước sự lựa chọn “ công nghệ với chi phí tối thiểu” để sử dụng lao động nhiều hơn thay vì nhập khẩu và áp dụng các công nghệ với dung lượng lớn. Bởi vậy chiến lược đặt ra là làm sao thúc đẩy các ngành công nghiệp nhỏ, cả truyền thống và hiện đại, thường có khả năng tạo việc làm nhiều hơn, khả thi hơn về vốn đối với lựa chọn công nghệ. Thứ tư là yếu tố giá cả. Đây là yếu tố ảnh hưởng gián tiếp đến việc làm. Như đã biết, mối liên hệ giữa giá cả và cầu lao động có thể được biểu diễn như sau: p*Q=W*L + r*K, trong đó p là mức giá, Q là sản lượng đầu ra, W là mức tiền công, r là lãi suất vốn. Giá cả là yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn các phương án sản xuất, tác động đến tỷ trọng lao động và vốn. Ở nước ta cũng như trong nhiều nước đang phát triển, giá cả dao động với biên độ lớn, làm sai lệch lớn so với giá trị hàng hóa, do chính sách tài chính tín dụng, ngân hàng đang chuyển đổi và hiện đại hóa. Mặt khác, nếu điều tiết tiền lương, tiền công không tốt sẽ làm biến dạng giá cả, chẳng hạn nếu tăng tiền lương ở khu vực quản lý nhà nước và hành chính sự nghiệp và vẫn giữ nguyên biên chế thì sẽ làm tăng tiền lương đối với khu vực khác. Thứ năm là yếu tố phân phối thu nhập và các hình thức tiêu dùng. Nếu các hình thức tiêu dùng như thế nào đó để có nhu cầu lớn đối với hàng hóa trong nước và các dịch vụ được tạo ra bởi các phương pháp sản xuất cần nhiều lao động, thì sẽ tăng được nhu cầu tiêu dùng, kết quả sẽ làm tăng nhu cầu lao động. Trái lại, nếu nhu cầu tiên dùng chỉ hướng tới các sản phẩm và hàng hóa nhập ngoại, được sản xuất bởi các phương pháp công nghệ cần nhiều vốn, thì dẫn đến giảm nhu cầu lao động. Các hình thức tiêu dùng tác động quan trọng đến nhu cầu lao động. Mặt khác, các nhu cầu tiêu dùng chịu tác động bởi các yếu tố khác, trong đó có các loại hình phân phối thu nhập trong xã hội. Các hộ gia đình có mức thu nhập trung bình và cao thường có xu hướng tiêu dùng thiên về các hàng hóa nhập ngoại. Đối với các gia đình nghèo có thu nhập thấp không thể tăng mức tiêu dùng, nên thường tiêu dùng các hàng hóa địa phương, do đó khuyến khích sản xuất phát triển, tăng cầu lao động, mở rộng thêm việc làm. Thứ sáu là chính sách khuyến khích tự tạo việc làm. Đây là yếu tố quan trọng đối với đặc điểm ở nước ta. Đảng và Nhà Nước khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Điều này đòi hỏi một thể chế ổn định. Tất cả các nhà đầu tư, dù lớn hay nhỏ đều đòi hỏi sự ổn định để có thể hoạch định và xúc tiến các dự án đầu tư . Sự ổn định này đòi hỏi trên hai phương diện. Một là, hệ thống luật lệ điều tiết hoạt động kinh tế tư nhân không được thay đổi thường xuyên, trừ các hành vi tháo gỡ vướng mắc và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường. Hai là, về tổng thể nền kinh tế phải ổn định. Mất ổn định kinh tế sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng, do đó cản trở tự tạo việc làm, cũng như cải thiện tiền công. Trên giác độ này, tỷ trọng nhân công phải tự tạo việc làm sẽ tăng trong thời kỳ suy thoái, vì do mất việc làm, tiền công trong khu vực hiện đại cũng bị cắt giảm. Tự tạo việc làm sẽ không có ý nghĩa nếu như không là tăng sản lượng và nâng cao mức sống. Ngoài ra Nhà nước cần có chính sách đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về vay vốn, tỷ giá hối đoái, xuất nhập khẩu, đăng ký hàng hóa, thuế….Mặt khác đồng thời với cải cách hành chính, bỏ các thủ tục phiền hà, chống hối lộ, tham nhũng, Nhà nước cần thiết phải chú ý đến các chính sách xã hội như phát triển giáo dục, đào tạo, xóa đói giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng. 3. Các giải pháp, giải quyết cung cầu trên thị trường lao động Việt Nam : Nét đặc trưng của tình hình hiện nay ở Việt Nam là : trong khi kinh tế còn nghèo, lạc hậu thì dân số, các nguồn lực lại tăng nhanh, đã tạo ra một sức ép đối với kinh tế. Đồng thời, kinh tế còn chưa đủ điều kiện để sử dụng hết và hiệu quả mọi nguồn nhân lực. Vậy phải nghiên cứu một hệ thống các giải pháp, chọn lọc và đưa vào áp dụng. Các giải pháp không nhất thiết phải cố định mà có thể thay đổi cho phù hợp với các điều kiện kinh tế – xã hội của từng thời kỳ. Dưới đây là một số giải pháp đáng chú ý nghiên cứu áp dụng: + Tìm kiếm mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế có khả năng sử dụng nhiều nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện Việt Nam. Khi nghiên cứu, lựa chọn mô hình tăng trưởng, phát triển có liên quan đến nguồn nhân lực cần xét kỹ các yếu tố sau : òVốn đầu tư và mối quan hệ của vốn đầu tư với việc thu hút nguồn nhân lực. Điều này rất rõ ràng, cần đặc biệt chú ý. Vì lẽ, không có vốn đầu tư đưa vào sản xuất, các nguồn nhân lực sẽ bị ứ đọng, không có các tiền đề vật chất để hoạt động. Vốn đầu tư nhiều, tăng nhanh chứng tỏ khả năng tái sản xuất mở rộng, khả năng tích lũy của một nền kinh tế. Nói cách khác, đó là điều kiện có tính chất quyết định để thu hút các nguồn nhân lực vào tăng trưởng. ò Kỹ thuật và công nghệ của sản xuất có liên quan đến sử dụng nhiều hay ít nhân lực. Có loại kỹ thuật, công nghệ đòi hỏi vốn cao ( hàm lượng vốn lớn ), nhưng lại chỉ sử dụng ít nhân lực (hàm lượng lao động thấp). Ngược lại, có kỹ thuật, công nghệ vốn ít nhưng sử dụng được nhiều nhân lực. Không có phương án tuyệt đối, đáp ứng được nhiều yêu cầu một lúc : vốn ít, kỹ thuật cao, sử dụng nhiều nhân lực, năng suất lao động cao. Vì thế, các nhà kinh tế phải lựa chọn để dùng phương án tối ưu. ò Giá cả nhân lực rẻ, tạo khả năng cho lợi thế cạnh tranh trên thị trường, ưu thế này rất rõ ràng đối với một số nước chậm phát triển, tạo ra thuận lợi nhất định cho việc lựa chọn mô hình, đặc biệt là mô hình tăng trưởng, phát triển theo hướng công nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên không nên tuyệt đối hóa ưu thế nhân lực rẻ trong mọi tình huống. + Tìm kiếm các chính sách tạo công ăn việc làm có hiệu quả ở trong nước và ngoài nước. + Có mục tiêu trong kế hoạch hóa sự tăng trưởng của dân số theo hướng giảm tốc độ tăng dân số hiện đang còn cao. Tuy nhiên, việc giảm dân số tác động đến các nguồn nhân lực không phải ngay trong cùng một năm. Phải sau 15 năm mới có ảnh hưởng đến các nguồn nhân lực; vì lẽ từ lúc sinh ra đến lúc bước vào độ tuổi lao động cần phải có một thời gian như vậy. Đây là một giải pháp mà hầu hết các nước chậm phát triển đều áp dụng, trong đó có cả mục đích làm giảm bớt số lượng cung về nhân lực. C. LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU LÀM GIA TĂNG TỶ LỆ THẤT NGHIỆP VÀ SỰ KHÔNG HIỆU QUẢ : 1. Luật tiền lương tối thiểu : Năm 1989, luật tiền lương tối thiểu ở Mỹ không giống như luật ở các nước phát triển khác, ấn định mức tiền lương bằng đôla thống nhất trên toàn quốc. Không có sự khác nhau trên cơ sở tuổi tác hoặc kinh nghiệm làm việc, dẫu rằng ở một vài bang, mức lương tối thiểu được quy định cao hơn mức lương tối thiểu của toàn liên bang. Ngược lại, ở hầu hết các nước Châu Âu có sự phân biệt tiền lương đối với những người trẻ tuổi. Ở Anh, mức lương tối thiểu của thanh niên chỉ bằng 30% mức lương tối thiểu của những người trưởng thành. Ở Canada, các bảng lương tối thiểu được các tỉnh đưa ra chứ không phải là chính phủ Trung ương, họ tự tính toán trên cơ sở những khác biệt giữa các vùng địa lý. Không có sự khác nhau ở Mỹ khiến chúng ta đoán trước rằng gánh nặng của những ảnh hưởng thất nghiệp của luật tiền lương tối thiểu sẽ đè lên những vùng lương thấp như những nhóm công nhân trẻ. Những ảnh hưởng tới nhóm công nhân trẻ đã được một số người nghiên cứu kiểm nghiệm. Một nghiên cứu của Y.Brozen chỉ ra rằng sự tăng liên tục của tiền lương tối thiểu hợp pháp thực tế làm tăng lên tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên. Nhưng với thời gian năng suất và lạm phát tăng lên, tiền lương cân bằng của thanh niên có xu hướng “ đuổi kịp” với mức lương tối thiểu do luật pháp quy định, cũng như làm xói mòn hiệu ứng thất nghiệp của luật tiền lương tối thiểu. Ảnh hưởng của luật tiền lương tối thiểu trong thị trường cạnh tranh được minh họa ở hình 3. Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt (L), mà giá thuê của nó là mức tiền lương (W). Tiền lương cạnh tranh cân bằng là WC và lao động LC . Bây giờ giả sử chính phủ áp đặt tiền lương tối thiểu Wo ở mức cao hơn Wc. Với mức tiền lương Wo lao động sẳn sàng được cung cấp trong thị trường là Ls, nhưng lao động được yêu cầu chỉ là Ld . Vì vậy khoảng thất nghiệp ở mức tiền lương theo luật pháp là số lượng BC hoặc Ls - Ld . Tuy nhiên, vấn đề giảm việc làm là do sàn tiền lương có mức thấp hơn một lượng FE hoặc Lc – Ld. Vì vậy tiền lương tối thiểu được ấn định trong thị trường cạnh tranh làm giảm việc làm và gây ra mức độ thất nghiệp lớn hơn, việc đưa ra mức tiền lương tối thiểu chỉ có ý nghĩa khi mức tiền lương tối thiểu cao hơn mức tiền lương cân bằng do thị trường tạo ra. Điều quan trọng là phải nhớ rằng có một bức tranh đa dạng về trình độ và kỹ năng lao động. Một số công nhân dễ dàng kiếm nhiều hơn mức tiền lương tối thiểu và một số khác lại thấp hơn. Vì vậy, chúng ta dễ thấy rằng luật tiền lương tối thiểu có ảnh hưởng hoàn toàn khác nhau đối với những ngường có mức lương cao và những người có mức lương thấp. Những lao động có trình độ lành nghề thấp ( nhận mức lương thấp ) sẽ bị ảnh hưởng, như được biểu diễn trên hình 3. Mức tiền lương của họ sẽ tăng, nhưng một số lao động đang được thuê có thể sẽ bị mất việc. Ngược lại, đối với lao động có trình độ lành nghề cao, mức tiền lương cân bằng hầu như ở trên mức tiền lương tối thiểu và sẽ chẳng có ảnh hưởng trực tiếp nào. Tác động giảm việc làm wc wo w 0 Ld Lc Ls L Khoảng thất nghiệp B F E D S Mức tiền lương Lao động Hình 3 2. Chính sách tiền lương tối thiểu tại Việt Nam : 2.1 Chính sách tiền lương tối thiểu tại Việt Nam : Quan niệm về tiền lương tối thiểu đã được chỉ rõ ở Điều 56 bộ luật lao động của nước cộng hòa XHCN Việt Nam như sau : “ Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích lũy tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác. Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng, mức lương tối thiểu ngành cho từng thời kỳ sau khi lấy ý kiến Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động. Khi chỉ số giá sinh hoạt tăng lên làm cho tiền lương thực tế của người lao động bị giảm sút, thì Chính Phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu để đảm bảo tiền lương thực tế” Mục tiêu đặt ra của chế độ tiền lương tối thiểu ban hành ngày 23 tháng 5 năm 1993 nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, trong đó có sự luân chuyển tự do của lao động và khả năng thỏa thuận của các bên liên quan : đồng thời là lưới an toàn chung cho cả xã hội, không chỉ bó hẹp trong khu vực Nhà Nước. Đây là các mục tiêu có tính khái quát của hệ thống trả công lao động. Quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền lương tối thiểu trong thời gian qua được diễn ra như sau : Đối với khu vực nhà nước, 4 phương pháp xác định mức lương tối thiểu chung là: nhu cầu tiêu dùng tối thiểu tính theo định lượng và giá bình quân chung của cả nước; mức lương tối thiểu hiện hành cộng thêm các khoản tiền tệ hóa mà Nhà Nước xóa bỏ bao cấp; kết quả điều tra tiền công và thu nhập trên thị trường ở một số vùng trong cả nước và kết quả phúc tra; từ phân tích thực trạng, cơ cấu thu nhập quốc dân sản xuất với quan hệ tiền lương bình quân dự kiến. Qua đó Quốc hội đã quyết định mức tiền lương tối thiểu chung áp dụng từ tháng 12/1993 là 120.000 đồng/tháng. Ngoài ra còn quy định 5 mức phụ cấp đắt đỏ theo vùng từ 0.1 đến 0.3 so với mức lương tối thiểu chung. Sau đó do giá cả sinh hoạt tăng lên : năm 1994 là 14.4%; năm 1995 : 12.7%; năm 1996: 4.5%; năm 1997: 3.6%; năm 1998: 9.2%; năm 1999: 0.1% và năm 2000 : 0.4% nên Chính Phủ đã điều chỉnh lại mức lương tối thiểu chung nhằm bảo đảm tiền lương tối thiểu : từ tháng 01/1997: 144.000 đồng/tháng; từ tháng 01/2000: 180.000 đồng/tháng và từ tháng 01/2001: 210.000 đồng/tháng, năm 2003 : 290.000 đồng/tháng. Trong những năm tới có thể vẫn phải tiếp tục nâng mức lương tối thiểu, chẳng hạn : năm 2005, mức lương này có thể là 320.000 đồng /tháng, năm 2006 là 360.000 đồng/tháng, năm 2007 là 400.000 đồng/tháng…. Sở dĩ phải nâng mức lương tối thiểu một các liên tục để bù sự trượt giá vào lương nhằm bảo đảm lương thực tế cho người lao động. Đối với doanh nghiệp nhà nước từ 01/01/1997, ngoài việc áp dụng mức lương tối thiểu chung, Nhà Nước cho phép điều chỉnh tăng thêm mức lương tối thiểu theo hệ số ngành và vùng để tính vào đơn giá tiền lương, cụ thể : hệ số điều chỉnh theo ngành: 0.8; 1.0 và 1.2 và hệ số điều chỉnh theo vùng : 0.1; 0.2 và 0.3. Như vậy, từ tháng 01/2001 các doanh nghiệp nhà nước tùy vào lợi nhuận và năng suất lao động được quyền lựa chọn mức lương tối thiểu trong khoảng từ 210.000 đến 525.000 đồng/tháng. Trường hợp có mức tăng lợi nhuận cao và sử dụng nhiều lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật thì mức lương tối thiểu được áp dụng đến 630.000 đồng/tháng. Đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp : theo quy định của bộ luật lao động, người sử dụng lao động không được trả lương cho người lao động thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà Nước công bố : Năm 2001 mức lương tối thiểu không được trả thấp hơn 210.000 đồng/tháng, năm 2003 : 290.000 đồng/tháng. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế tại Việt Nam: mức lương tối thiểu tính theo vùng, ngành có gốc ngoại tệ là 30-35-40-45 USD/tháng. Từ ngày 01/07/1999 quy định bằng đồng Việt Nam với các mức không thấp hơn 417.000 – 487.000 – 556.000 – 626.000 đồng/tháng. Như vậy, đến năm 2003 trong khu vực sản xuất kinh doanh có rất nhiều mức lương tối thiểu, thấp nhất là 290.000 đồng/tháng và không giới hạn mức cao nhất, trừ doanh nghiệp nhà nước. 2.2 Ưu nhược điểm của chính sách tiền lương tại Việt Nam : * Ưu điểm : Đánh giá việc thực hiện chính sách tiền lương tối thiểu trong 10 năm, từ 1993 tới nay, có thể thấy những điều chúng ta đã làm được : Một là, từng bước hoàn thiện cơ sở lý thuyết về lương tối thiểu, đã xây dựng được hệ thống khung lý thuyết tạo điều kiện cho việc xây dựng, áp dụng và quản lý lương tối thiểu ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới. Hai là, đã xây dựng được mức lương tối thiểu ngày càng khoa học qua các thời kỳ. Tiền lương tối thiểu chung, tiền lương tối thiểu theo ngành, theo vùng, lương tối thiểu cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài …Hệ thống tiền lương tối thiểu này ở chừng mực nhất định đã trở thành cơ sở cho việc hoạch định chính sách tiền lương mang đặc thù của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bước đầu làm cơ sở cho việc điều tiết quan hệ lao động trong xã hội cũng như trong tổ chức các doanh nghiệp. Ba là, hoàn thiện dần cơ chế quản lý tiền lương tối thiểu. Từ chỗ chỉ có một mức lương duy nhất, được mở rộng theo ngành, theo vùng theo khu vực, từ chỗ quy định việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu thuộc quyền của Nhà Nước đến chỗ cho phép các doanh nghiệp có thể nâng mức lương tối thiểu trong điều kiện khuôn khổ nhất định. Từ chỗ quy định mức lương tối thiểu cố định đến chỗ điều chỉnh theo sự biến động giá cả trên thị trường….. Với kết quả như trên, từng bước phát huy vai trò của tiền lương tối thiểu như là một công cụ của Nhà Nước nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, điều tiết thu nhập giữa người lao động và người sử dụng lao động, thu hút và điều tiết nguồn nhân lực giữa các ngành, các vùng…. Đã thực hiện “tiền tệ hóa” tiền lương và loại bỏ được các khoản bao cấp, phân phối ngoài tiền lương từ ngân sách nhà nước, đây là điểm thay đổi cơ bản nhất trong cải cách chính sách tiền lương năm 1993. Lần đầu tiên mức lương tối thiểu do nhà nước công bố được áp dụng trong cả khu vực nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh, làm thay đổi nội dung và bản chất của chế độ tiền lương. Việc cho phép các doanh nghiệp nhà nước ( từ năm 1997 ) được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm ngành, theo vùng so với mức lương tối thiểu chung đã thúc đẩy các doanh nghiệp sắp xếp lại tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, tính đúng chi phí tiền lương, tiết kiệm chi phí, tăng tiền lương gắn với tăng lợi nhuận, và cũng là một bước tách tiền lương khu vực sản xuất, kinh doanh tự lo nguồn trang trải với khu vực tiền lương và trợ cấp chi từ ngân sách nhà nước. * Khuyết điểm : Bên cạnh những ưu điểm, thực hiện tiền lương tối thiểu còn có một số nhược điểm. Một là, so với sức phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay có thể thấy, mức lương tối thiểu đảm bảo tái sản xuất giản đơn và một phần để tích lũy tái sản xuất mở rộng là mục tiêu khá cao nhưng thực tế đạt được còn thấp. Mặt khác, tại thời điểm thiết kế, tiền lương tối thiểu mới được xem xét chủ yếu từ khu vực Nhà nước chi từ ngân sách, chưa có sự liên kết của khu vực này với khu vực khác, những nơi thể hiện rõ sự vận hành của cơ chế thị trường, đặc biệt là quan hệ cung – cầu lao động. Vì vậy nhìn chung tác dụng của mức lương tối thiểu còn hạn chế. Hai là, phương pháp xác định mức lương tối thiểu là kết quả bình quân của 4 cách tiếp can, nên đã “bình quân hóa” cả 3 yếu tố trong lương là giá cả sinh hoạt, nhu cầu và tập quán tiêu dùng theo vùng và chênh lệch tiền công theo vùng đã hình thành trên thị trường lao động. Ba là, việc quy định mức lương tối thiểu chung chỉ có ý nghĩa đối với việc trả lương từ ngân sách nhà nước với việc đóng và hưởng bảo hiểm xã hội, không có tác dụng trong việc hình thành đúng chi phí tiền lương trong sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào năng suất lao động và lợi nhuận của doanh nghiệp chứ không phụ thuộc vào nguồn ngân sách. Bốn là, mức lương tối thiểu ngay từ khi mới đặt ra so với nhu cầu của người lao động, yêu cầu công việc phải đảm bảo hoặc năng suất lao động là không tương xứng, là quá thấp, không đủ chi cho nhu cầu thiết yếu của bản thân người lao động và tiền lương không phải là nguồn thu nhập chính. Việc quy định mức lương tối thiểu phụ thuộc vào khả năng ngân sách nhà nước, chưa tôn trọng thực tế mức tiền công đã hình thành trên thị trường và các kết quả nghiên cứu khoa học. Năm là, việc duy trì quá lâu mức tiền lương tối thiểu được ấn định thấp (120.000 đồng/tháng từ năm 1993 đến 1996 và 144.000 đồng/tháng từ 1997 đến hết năm 1999 ) trong khi chỉ số giá sinh hoạt tăng đã làm mất tác dụng tích cực của chế độ tiền lương, phát sinh mâu thuẫn khó lý giải là trong thời gian dài nền kinh tế liên tục tăng trưởng (8-9%/năm) nhưng tiền lương thực tế lại giảm sút. Vì vậy, trong thực tế khu vực Nhà Nước không có ai xếp và hưởng mức lương tối thiểu. Sáu là, chưa phân biệt sự khác nhau giữa tiền lương tối thiểu của các doanh nghiệp (yếu tố trong chi phí sản xuất, phân phối lần đầu phụ thuộc vào năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp) với tiền lương tối thiểu của cán bộ, công chức ( phân phối lại hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng cân đối ngân sách ) nên đã đồng nhất ( áp dụng thống nhất) mức lương tối thiểu của cán bộ, công chức với các đối tượng hưởng lương khác nhau trong quan hệ lao động theo cơ chế thị trường. Bảy là, chưa làm rõ những căn cứ, điều kiện trong việc xây dựng và áp dụng tiền lương tối thiểu chung, vùng, ngành; mức lương tối thiểu tháng, ngày, giờ và mức lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế ( phương pháp xác định không thống nhất giữa doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Tám là, việc điều chỉnh tăng mức tiền lương tối thiểu thường là do “ áp lực “ xã hội và vẫn bị coi là gánh nặng của ngân sách nhà nước. Hễ nói đến tăng tiền lương là nói đến cân đối ngân sách, dẫn đến duy trì mức lương tối thiểu thấp, không thực hiện đúng tiến trình cải cách đặt ra; trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội, tiền lương không được coi là là động lực phát huy hiệu quả sản xuất, tăng năng suất lao động, không gắn với hiệu quả sản xuất công việc và không kích thích người lao động gắn bó với nghề nghiệp của mình. Quan điểm “ngân sách “ bao trùm cả khu vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đã biến tiền lương thành yếu tố đơn thuần của phạm trù phân phối, tách rời các căn cứ của nó là trình độ phát triển sản xuất, năng suất lao động, các lợi thế cạnh tranh, làm cản trở tính linh hoạt của tiền lương trong cơ chế thị trường, không khuyến khích việc sử dụng và bố trí lao động hợp lý, tạo sự chia cắt thị trường lao động giữa các khu vực. 2.3 Giải pháp cho chính sách tiền lương tối thiểu ở nước ta : Điều tiết tiền lương, tiền công sẽ tác động đến thị trường lao động. Cải cách tiền lương đang là vấn đề thời sự hiện nay. Trước hết là tiền lương tối thiểu, nó được coi là công cụ điều tiết mạnh trong nền kinh tế thị trường. Cải cách chính sách tiền lương tối thiểu hiện nay ở nước ta nhằm phát huy vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dần mở rộng phạm vi áp dụng, xóa bỏ sự chia cắt giữa các khu vực quan hệ lao động và hưởng lương dựa trên cơ sở xác lập đúng và rõ ràng mối quan hệ giữa tiền lương tối thiểu với các hệ thống tiền lương trong các khu vực kinh tế khác nhau, giữa chính sách tiền lương tối thiểu với chính sách bảo hiểm xã hội và các chính sách xã hội khác, đảm bảo tính khả thi, khoa học trong thiết kế phương án tiền lương tối thiểu với bước đi thích hợp. Định hướng xây dựng quan hệ tiền lương cần đáp ứng các yêu cầu đảm bảo ổn định chính trị, xã hội và kinh tế, tăng cường vai trò của Nhà Nước trong quản lý biên chế và quỹ tiền lương chi từ ngân sách, phải bảo đảm thu nhập hợp lý giữa các khu vực và khuyến khích người lao động tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc gắn với cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực của bộ máy hành chính.  KẾT LUẬN Phát triển thị trường lao động đã và đang là vấn đề bức xúc trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là một trong những vấn đề phức tạp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đảng và Nhà Nước ta đã khẳng định sự tồn tại và phát triển thị trường lao động ở nước ta, và đặt ra nhiệm vụ xây dựng thể chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thị trường lao động định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là thị trường lao động được hình thành và phát triển trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của thị trường lao động định hướng xã hội chủ nghĩa là xây dựng quan hệ lao động mới phù hợp trên cả ba mặt : sở hữu, quản lý và phân phối. Quá trình hình thành và phát triển thị trường lao động ở Việt Nam là sự thể hiện nổ lực đổi mới của Đảng Và Nhà nước theo hướng thị trường, từ quan điểm nhận thức đến việc xây dựng hệ thống luật pháp, hoạch định chính sách và áp dụng, thực hiện trong thực tế. Một trong những vấn đề có tính nguyên tắc là làm sao phát huy được ưu thế của thị trường, coi nó là công cụ để phát triển kinh tế – xã hội, nhưng đồng thời hạn chế được sự tự phát, hậu quả tiêu cực đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKTCT (37).doc
Tài liệu liên quan