Thực trạng thực hiện thuế xuất nhập khẩu xăng dầu ở Việt Nam

Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế thì hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang bước qua hai thập kỷ của công cuộc đổi mới chính sách và cơ chế kinh tế, trong đó hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế đã trở thành một yêu cầu tất yếu, một trong những nguồn lực để thưc hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Hội nhập kinh tế đang được coi là trào lưu mới thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển tiếp cận với thị trường tiềm năng về tiền của, về công nghệ của các nước tiến nhằm đảm bảo mục tiêu cùng đạt tới lợi ích tối đa cho mỗi quốc gia, phù hợp với quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay không chỉ diễn ra ở Việt Nam, châu Á mà còn ở khắp các châu lục và bao gồm cả các nước kém phát triển. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được bắt đầu từ hội nhập kinh tế với các tổ chức khu vực đến tổ chức toàn cầu. Nước ta đã trở thành viên chính thức của ASEAN, của Diễn đàn Châu á – Thái Bình Dương (APEC) và bắt aaađầu gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mục tiêu của các tổ chức kinh tế là nhằm xây dựng một nền kinh tế đạt hiệu quả tối ưu về đầu tư, thương mại để tận dụng tối đa lợi thế so sánh của từng nước thành viên. Cơ hội có thể thu được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là rất lớn. Song những thách thức trên con đường hội nhập sẽ không đơn giản. Thuế luôn là một vấn đề quan trọng trong các hoạt động của WTO và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đàm phán của các quốc gia trong quá trình hội nhập cũng như khi đã trở thành viên chính thức của tổ chức này. Trước tình hình mới khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới đã đặt ra yêu cầu phải thực hiện cải cách chính sách thuế. Một trong những vấn đề rất quan tâm của chính phủ là cải cách thuế xuất nhập khẩu, vì thuế xuất nhập khẩu là loại thuế chịu tác động mạnh nhất trong quá trình hội nhập. Chính sách thuế quan tốt sẽ tạo điều kiện cho hoạt động thương mại và đầu tư phát triển, góp phần bảo hộ có hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cũng như giảm thiểu các tác động bất lợi đối với nền kinh tế trước sự biến động của thị trường thế giới. Để nhìn nhận rõ hơn về chính sách thuế xuất nhập khẩu tại Việt Nam trong thời kì gia nhập WTO, tôi đã chọn xăng dầu là mặt hàng để tìm hiểu về thuế xuất nhập khẩu từ đó tìm ra những bất ổn và các giải pháp để giải quyết những bất ổn đó. Đề án gồm 3 chương Chương 1: những lý luận cơ bản về thuế xuất nhập khẩu xăng dầu. Chương 2 : thực trạng thực hiện thuế xuất nhập khẩu xăng dầu ở Việt Nam. Chương 3 : đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường thuế xất nhập khẩu xăng dầu ở Việt Nam.

doc47 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2057 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng thực hiện thuế xuất nhập khẩu xăng dầu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ ngày 24/1/2009. Hầu hết các loại xăng động cơ có pha chì, không pha chì, loại cao cấp hoặc thông dụng, xăng máy bay, dung môi trắng, dung môi có hàm lượng chất thơm dưới 1%, dung môi khác, naptha, reformatic và các chế phẩm khác để pha chế xăng, dầu nhẹ, nhiên liệu động cơ tuốc bin dùng cho hàng không, dầu bôi trơn khác đều được áp dụng mức thuế chung 35%, thay cho mức cũ 40% cũ. Bộ Tài chính cho rằng, việc giảm thuế nhập khẩu xăng dầu lần này được tính toán trên cơ sở giá thế giới đang giữ ở mức ổn định. Hiện giá dầu cập cảng đang dao động trên ngưỡng 40 USD một thùng.Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 45 ngày kể từ ngày ký và áp dụng đối với các Tờ khai hải quan hàng hoá nhập khẩu đăng ký với cơ quan Hải quan kể từ ngày 24 tháng 01 năm 2009. Đây được coi là động thái hỗ trợ cho các nhà nhập khẩu trong bối cảnh giá dầu thế giới đang có xu hướng nhích dần lên. Thứ Năm, 12/2/2009 Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn vừa ký ban hành Thông tư số 30/2009/TT-BTC điều chỉnh mức thuế suất thuế nhập khẩu xăng, dầu máy bay.Theo đó, thuế suất thuế nhập khẩu mặt hàng nhiên liệu động cơ hàng không (nhiên liệu phản lực) sẽ giảm xuống mức 30%, thấp hơn 10% so với mức quy định tại Thông tư số 24/2009/TT-BTC ngày 5/2/2009 của Bộ Tài chính.Đây là mặt hàng xăng, dầu nằm trong các phân nhóm 2710.19.13.00 và 2710.19.14.00 trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Bộ Tài chính cho biết, mức thuế mới sẽ chính thức áp dụng đối với các tờ khai hải quan hàng hoá nhập khẩu đăng ký với cơ quan Hải quan kể từ ngày 16/2/2009.Như vậy, trong vòng một tháng trở lại đây, thuế nhập khẩu các mặt hàng xăng dầu đã được điều chỉnh giảm 3 lần.Hai lần trước, Bộ Tài chính đã điều chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng xăng, dầu thông thường từ mức 40% xuống 35% và từ 35% xuồng còn 25%. Sang đến ngày 19/02/2009, Bộ Tài chính vừa quyết định giảm 5% thuế nhập khẩu xăng dầu. Động thái này góp phần làm "dịu" đi việc đòi tăng giá của các doanh nghiệp. Như vậy, thuế nhập khẩu các sản phẩm xăng dầu phổ biến đã giảm xuống còn 20% thay cho mức 25%. Mức thuế mới được áp dụng từ ngày 23/2/2009. Đây là lần thứ tư, thuế nhập khẩu xăng dầu được điều chỉnh giảm và là lần thứ ba đối với các loại xăng dầu thông dụng. Trước đó, Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) đã yêu cầu các DN giữ nguyên giá bán lẻ xăng dầu hiện thời tuy Cục này cũng khẳng định với mức giá bán hiện nay, các DN đang lỗ.Cũng với quyết định giảm thuế nhập khẩu, hiện các DN cũng đã được phép không phải trích 1.000 đồng mỗi lít xăng để trả nợ tiền ngân sách đã ứng trước. Giá dầu thế giới hiện vẫn ở mức 37 USD/thùng nhưng giá xăng dầu thành phẩm nhập về đang ở mức khá cao, khoảng trên 60USD/thùng. Bộ Tài chính cho biết từ ngày 21/9/2009 Doanh nghiệp nhập xăng dầu sẽ được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi mới.Theo đó mức thuế suất thuế nhập khẩu xăng dầu, gồm cả nhiên liệu xăng dầu cho máy bay sẽ đồng loạt hưởng mức thuế suất là 20%. Đây là biện pháp giảm bớt sức ép đối với doanh nghiệp xăng dầu trong khi giá xăng dầu thành phẩm hiện nay vẫn đang khá cao. Các doanh nghiệp xăng dầu sẽ bớt được áp lực khi giá xăng dầu trên thế giới chưa có xu hướng giảm. Ngày 26/01/2010,Theo quy định mới, mức thuế nhập khẩu ưu đãi mặt hàng xăng dầu sẽ được thay đổi tương ứng theo giá dầu thô trên thị trường Singapore. Bộ Tài chính vừa có công văn số 837/BTC - CST gửi Cục Hải quan các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu, công bố các mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi mặt hàng xăng, dầu tương ứng với giá mặt hàng xăng, dầu trên thị trường thế giới. Bộ Tài chính cho biết, quy định mới này được ban hành nhằm tăng tính chủ động trong công tác quản lý, điều hành chính sách thuế đối với mặt hàng xăng, dầu. Các mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi nêu trên là một trong những căn cứ, cơ sở để Bộ Tài chính xem xét, ban hành các Thông tư hướng dẫn về mức thuế suất thuế nhập khẩu cụ thể đối với mặt hàng xăng dầu phù hợp với tình hình thực tế.Đồng thời là một trong những căn cứ để các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu chủ động xây dựng kế hoạch, phương án kinh doanh. Giá Platt's dầu thô WTI (USD/thùng) Thuế suất xăng, dầu hỏa, nhiên liệu bay (%) Diesel, Madut (%) Từ 45 đến 60 30 25 Từ 60 đến dưới 75 25 20 Từ 75 đến dưới 95 20 15 (Giá platt’s dầu thô WTI là giá bình quân trên thị trường Singapore của 30 ngày trước ngày điều chỉnh thuế suất). Trong trường hợp đặc biệt, giá thị trường trong nước và thế giới biến động bất thường (giá platt’s dầu thô WTI dưới mức 45 USD/thùng hoặc cao hơn 95 USD/thùng), thì các mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng xăng, dầu sẽ được điều hành theo quy định cụ thể của Bộ Tài chính. Trong mọi trường hợp, mức thuế nhập khẩu ưu đãi tối đa không vượt quá 40%. Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 13/2010/TT-BTC hướng dẫn việc thực hiện mức thuế suất đối với một số mặt hàng thuộc nhóm 2710 tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Theo đó, kể từ ngày 1/2/2010, Bộ Tài chính sẽ giảm thuế nhập khẩu cho một số mặt hàng xăng dầu. N hiên liệu diesel dùng cho động cơ tốc độ cao, các loại diesel và nhiên liệu đốt sẽ được điều chỉnh giảm 5% xuống còn 15%. Còn riêng đối với kerosene cũng được điều chỉnh giảm 10%, từ mức 30% xuống còn 20%. Việc giảm thuế suất một số mặt hàng xăng dầu nhập khẩu của Bộ Tài Chính là nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trước bối cảnh giá dầu thế giới đang có xu hướng ngày một tăng cao.Đây được coi là một trong những công cụ mới về thuế mà Bộ Tài chính vừa công bố nhằm giúp các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu chủ động xây dựng kế hoạch, phương án kinh doanh. Theo thông tư số 59/2010/TT-BTC do thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn ký ban hành, thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng xăng, dầu thuộc nhóm 2710 quy định tại Danh mục mức thuế suất của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi được điều chỉnh giảm.Theo đó, thuế nhập khẩu xăng giảm 3%, từ mức 20% xuống còn 17%. Cùng với xăng, thuế nhập khẩu các mặt hàng dầu hỏa, diezel có mức thuế suất mới là 10% thay vì 15% như trước.Các mức thuế mới được áp dụng đối với các Tờ khai hải quan hàng hoá nhập khẩu đăng ký với cơ quan Hải quan kể từ ngày 21/4/2010. 2.1.2.Danh mục thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng xăng dầu năm 2010. Theo thông tư số 59/2010/TT-BTC của Bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặ hàng thuộc nhóm 2710 tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Tại điều 1 của thông tư số 59/2010/TT-BTC của Bộ Tài Chính quy định: Điều chỉnh mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng xăng, dầu thuộc nhóm 2710 quy định tại Danh mục mức thuế suất của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo Danh mục mặt hàng chịu thuế ban hành kèm theo Thông tư số 13/2010/TT-BTC ngày 26/1/2010 của Bộ Tài chính thành mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi mới quy định tại Danh mục ban hành kèm theo Thông tư này. DANH MỤC THUẾ SUẤT THUẾ NHẬP KHẨU ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI  MỘT SỐ MẶT HÀNG THUỘC NHÓM 2710 (Ban hành kèm theo Thông tư số 59/2010/TT-BTC ngày 19/04/2010 của Bộ Tài chính) ------------------------------ Mã hàng Mô tả hàng hoá Thuế suất (%) 27.10 Dầu có nguồn gốc từ dầu mỏ và các loại dầu thu được từ các khoáng bi tum, trừ dầu thô; các chế phẩm chưa được chi tiết hoặc ghi ở nơi khác có chứa từ 70% khối lượng trở lên là dầu có nguồn gốc từ dầu mỏ hoặc các loại dầu thu được từ các khoáng bi tum, những loại dầu này là thành phần cơ bản của các chế phẩm đó; dầu thải. - Dầu có nguồn gốc từ dầu mỏ và các loại dầu thu được từ các khoáng bi tum (trừ dầu thô) và các chế phẩm chưa được chi tiết hoặc ghi ở nơi khác, có chứa từ 70% khối lượng trở lên là dầu có nguồn gốc từ dầu mỏ hoặc các loại dầu thu được từ các khoáng bi tum này là thành phần cơ bản của các chế phẩm đó, trừ dầu thải: 2710 11 - - Dầu nhẹ và các chế phẩm: - - - Xăng động cơ: 2710 11 11 00 - - - - Có pha chì, loại cao cấp 17 2710 11 12 00 - - - - Không pha chì, loại cao cấp 17 2710 11 13 00 - - - - Có pha chì, loại thông dụng 17 2710 11 14 00 - - - - Không pha chì, loại thông dụng 17 2710 11 15 00 - - - - Loại khác, có pha chì 17 2710 11 16 00 - - - - Loại khác, không pha chì 17 2710 11 20 00 - - - Xăng máy bay 17 2710 11 30 00 - - - Tetrapropylene 17 2710 11 40 00 - - - Dung môi trắng (white spirit) 17 2710 11 50 00 - - - Dung môi có hàm lượng cấu tử thơm thấp dưới 1% 17 2710 11 60 00 - - - Dung môi khác 17 2710 11 70 00 - - - Naphtha, reformate và các chế phẩm khác để pha chế xăng 17 2710 11 90 00 - - - Loại khác 17 2710 19 - -  Loại khác: - - - Dầu trung (có khoảng sôi trung bình) và các chế phẩm: 2710 19 13 00 - - - - Nhiên liệu động cơ tuốc bin dùng cho hàng không (nhiên liệu phản lực) có độ chớp cháy từ 23oC trở lên 17 2710 19 14 00 - - - - Nhiên liệu động cơ tuốc bin dùng cho hàng không (nhiên liệu phản lực) có độ chớp cháy dưới 23oC 17 2710 19 16 00 - - - - Kerosene 15 2710 19 19 00 - - - - Loại khác 15 2710 19 20 00 - - - - Dầu thô đã tách phần nhẹ 5 2710 19 30 00 - - - - Nguyên liệu để sản xuất than đen 5 - - - Dầu và mỡ bôi trơn: 2710 19 41 00 - - - - Dầu khoáng sản xuất dầu bôi trơn 5 2710 19 42 00 - - - - Dầu bôi trơn cho động cơ máy bay 5 2710 19 43 00 - - - - Dầu bôi trơn khác 10 2710 19 44 00 - - - - Mỡ bôi trơn 5 2710 19 50 00 - - - Dầu dùng trong bộ hãm thuỷ lực (dầu phanh) 3 2710 19 60 00 - - - Dầu biến thế và dầu dùng cho bộ phận ngắt mạch 5 - - - Dầu nhiên liệu: 2710 19 71 00 - - - - Nhiên liệu diesel dùng cho động cơ tốc độ cao 10 2710 19 72 00 - - - - Nhiên liệu diesel khác 10 2710 19 79 00 - - - - Nhiên liệu đốt khác 12 2710 19 90 - - - Loại khác 2710 19 90 10 - - - - Chất chống dính sản xuất phân bón DAP 1 2710 19 90 90 - - - -  Loại khác 5 - Dầu thải: 2710 91 00 00 - - Chứa biphenyl đã polyclo hóa (PCBs), terphenyl đã polyclo hóa (PCTs) hoặc biphenyl đã polybrom hóa (PBBs) 20 2710 99 00 00 - - Loại khác 20 2.1.3.Thủ tục hải quan đối với xuất nhập khẩu xăng dầu. Cơ sở pháp lý: Thông tư 04/2008/TT-BCT ngày 01/04/2008 hướng dẫn đăng ký kế hoạch sản xuất, chế biến,nhập khẩu nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm xăng dầu Quyết định số 01/2008/QĐ-BCT ngày 03/01/2008 Về việc ban hành Quy chế xuất khẩu xăng dầu và Quy chế kinh doanh tạm nhập tái xuất xăng dầu Quyết định số 04/2007/QĐ-BCT ngày 11/09/2007 về nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu Nghị định số 55/2007/NĐ-CP 06/04/2007 về việc Kinh doanh xăng dầu Quyết định 30/2004/QĐ-BTC ngày 06/04/2004 của BTC. Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ. Thông tư 113/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ tài chính. Thông tư 112/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ tài chính. Quyết định số 1951/QĐ-TCHQ ngày 19/12/2005 của TCHQ Điều 29, 30 Luật Hải quan. Quyết định 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/09/2003 của Thủ tướng CP. Quyết định 117/2000/QĐ-BKHCNMT ngày 26/01/2000 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Điều kiện kinh doanh nhập khẩu xăng dầu Doanh nghiệp được kinh doanh nhập khẩu xăng, dầu  phải có Giấy phép kinh doanh do Bộ Thương mại cấp và phải đáp ứng được các điều kiện qui định tại Điều 5 Quyết định 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/09/2003 của Thủ tướng Chính phủ về quy chê quản lý kinh doanh xăng dầu. Doanh nghiệp được kinh doanh tạm nhập - tái xuất  xăng, dầu  phải có Giấy phép kinh doanh do Bộ Thương mại cấp. Thủ tục hải quan đối với  nhập khẩu, tạm nhập xăng, dầu: Hồ sơ hải quan gồm có: Chứng từ phải nộp: Tờ khai hải quan: 02 bản chính; Hợp đồng mua bán: 01 bản sao; Vận tải đơn: 01 bản sao; Hóa đơn thương mại: 01 bản chính; Nộp lần đầu làm thủ tục các giấy tờ sau: Giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng, dầu do Bộ Công Thương cấp: 01 bản sao; Bản hạn mức nhập khẩu xăng, dầu tối thiểu hàng năm do Bộ Công Thương cấp: 01 bản sao; Chứng thư giám định khối lượng: 01 bản chính; Giấy thông báo kết quả hoặc Giấy đăng ký kiểm tra về chất lượng xăng, dầu nhập khẩu (đối với loại xăng, dầu thuộc danh mục kiểm tra về chất lượng): 01 bản chính. Các chứng từ là bản sao do Giám đốc hoặc người được uỷ quyền ký xác nhận, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp của chứng từ. Chứng từ xuất trình (bản  chính) khi Hải quan yêu cầu: Giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng, dầu do Bộ Công Thương cấp; Bản hạn mức nhập khẩu xăng, dầu tối thiểu hàng năm do Bộ Công Thương cấp; Hợp đồng mua bán; Vận tải đơn. Địa điểm làm thủ tục hải quan được thực hiện tại Chi cục Hải quan cửa khẩu nơi phương tiện vận chuyển xăng, dầu đến; hoặc tại Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu nơi thương nhân có hệ thống kho nội địa chứa xăng, dầu nhập khẩu, xăng dầu tái xuất. Thủ tục hải quan đối với xuất khẩu, tái xuất xăng, dầu: Hồ sơ hải quan đối với xuất khẩu xăng, dầu: Chứng từ phải nộp: Tờ khai hải quan: 02 bản chính; Hợp đồng bán hàng: 01 bản sao;  Hóa đơn thương mại: 01 bản chính; Văn bản nêu rõ nguồn hàng xuất khẩu (nguồn do thương nhân nhập khẩu hoặc mua của thương nhân đầu mối nhập khẩu hoặc lấy từ nguồn sản xuất, chế biến): 01 bản chính; Hợp đồng mua xăng, dầu nếu mua xăng, dầu của thương nhân được phép nhập khẩu xăng, dầu: 01 bản sao; Văn bản xác nhận của Bộ Công Thương về đăng ký kế hoạch sản xuất, chế biến, nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất xăng, dầu xuất khẩu: 01 bản sao; Tờ khai hải quan của lô hàng nhập khẩu: 01 bản sao; Giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng, dầu: 01 bản sao; Giấy phép xuất khẩu xăng, dầu: 01 bản chính; Chứng thư giám định về khối lượng, chủng loại (đối với trường hợp quy định tại điểm 6.2, khoản 6, Điều 3): mỗi loại 01 bản chính. Chứng từ xuất trình (bản chính) khi Hải quan yêu cầu: Tờ khai hải quan của lô hàng nhập khẩu; Hợp đồng mua xăng, dầu nếu mua xăng, dầu của thương nhân được phép nhập khẩu xăng, dầu; Văn bản đăng ký kế hoạch tiêu thụ sản phẩm xăng, dầu của thương nhân nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất, chế biến xăng, dầu nếu tiêu thụ xăng, dầu vào nội địa / xuất khẩu ra nước ngoài: bản chính để đối chiếu bản sao. Hồ sơ hải quan đối với tái xuất xăng, dầu: Chứng từ phải nộp: Tờ khai hải quan: 02 bản chính; Tờ hai hải quan của lô hàng tạm nhập: 01 bản sao; Hợp đồng bán hàng: 01 bản sao; Giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng, dầu: 01 bản sao; Đối với trường hợp bán cho tàu biển quốc tịch nước ngoài neo đậu tại  cảng biển, cảng sông quốc tế và tàu biển quốc tịch Việt Nam chạy tuyến quốc tế xuất cảnh, người khai hải quan phải nộp thêm: Giấy đăng ký kinh doanh của thương nhân kinh doanh dịch vụ cung ứng tàu biển / Giấy chứng nhận thông qua thương nhân cung ứng tàu biển làm đại lý của mình: 01 bản sao (nộp lần đầu); Đơn đặt hàng (order) của Thuyền trưởng / chủ tàu / đại lý chủ tàu: 01 bản chính hoặc bản Fax có xác nhận của Giám đốc doanh nghiệp; Chứng thư giám định về chủng loại (đối với trường hợp quy định tại điểm 6.2, khoản 6, Điều 3): 01 bản chính. Chứng từ xuất trình (bản chính) khi Hải quan yêu cầu: Tờ khai hải quan của lô hàng tạm nhập. Địa điểm làm thủ tục hải quan đối với xuất khẩu, tái xuất xăng, dầu được thực hiện tại Chi cục Hải quan cửa khẩu đã làm thủ tục nhập khẩu chính lô xăng, dầu đó; hoặc tại Chi cục Hải quan cửa khẩu xuất hoặc tại Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu nơi thương nhân có hệ thống kho nội địa chứa xăng, dầu xuất khẩu, tái xuất. Ngoài ra, Thông tư còn quy định rõ đối tương, phạm vi áp dụng; Quy định về chuyển tải, sang mạn xăng, dầu; Các quy định đặc thù đối với xăng dầu nhập khẩu, xăng dầu tạm nhập tái xuất, xăng dầu chuyển tải, sang mạn, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, chế biến xăng dầu, xác định chủng loại xăng dầu xuất khẩu, tái xuất, các trường hợp phải giám định…; Trách nhiệm của Chi cục Hải quan làm thủ tục nhập khẩu, tạm nhập hoặc xuất khẩu, tái xuất xăng dầu cũng như trách nhiệm của thương nhân… Trường hợp xăng, dầu nhập khẩu thuộc Danh mục phải kiểm tra Nhà nước về chất lượng. Đối với xăng dầu nhập khẩu: Cơ quan hải quan tiến hành giám sát việc bơm xăng, dầu lên bồn (bồn, bể rỗng) và chỉ khi có Giấy xác nhận đạt yêu cầu chất lượng thì tiến hành thông quan. Nếu bơm hàng xong mà doanh nghiệp chưa xuất trình được  Giấy xác nhận đạt yêu cầu chất lượng thì niêm phong bồn. Trường hợp doanh nghiệp không có bồn, bể rỗng mà bơm vào bồn, bể đang chứa xăng dầu cùng loại thì niêm phong toàn bộ chờ kết quả kiểm tra chất lượng. Doanh nghiệp chịu toàn bộ trách nhiệm và sẽ bị xử lý trước pháp luật nếu như xăng, dầu nhập khẩu không đạt yêu cầu về chất lượng. Đối với xăng, dầu tạm nhập - tái xuất: Việc bơm chung vào bồn, bể chứa xăng, dầu nhập kimh doanh phải đảm bảo các điều kiện sau:Xăng, dầu tạm nhập phải cùng chủng loại với xăng, dầu có sẵn trong bồn, bể chứa.Hay phải kiểm tra Nhà nước về chất lượng như đối vớ xăng dầu nhập khẩu và cũng bị xử lý nếu như có thông báo không đạt yêu cầu về chất lượng của cơ quan kiểm tra Nhà nước. 2.1.4.Quản lý nhà nước đối với xuất nhập khẩu xăng dầu. Theo Nghị định 84/2009/NĐ-CP, để sản xuất xăng dầunhằm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, thương nhân phải đáp ứng đủ 3 điều kiện:Một là, doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có đăng ký kinh doanh xăng dầu; Hai là,có cơ sở sản xuất xăng dầu theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt và được cấp có thẩm quyền cho phép đầu tư;Ba là, có phòng thử nghiệm, đo lường đủ năng lực để kiểm tra chất lượng xăng dầu sản xuất theo các quy định hiện hành. Mới đây, theo Thông tư số 26/2010/TT-BCT ngày 14/6/2010 của Bộ Công Thương vừa được ban hành, thương nhân có đủ điều kiện sản xuất xăng dầu phải đăng ký kế hoạch sản xuất, nhập khẩu nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm xăng dầu cho năm tiếp theo, trước ngày 30/10 hàng năm. Sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ của thương nhân, trong thời gian bảy ngày làm việc, Bộ Công Thương xác nhận đăng ký kế hoạch sản xuất, nhập khẩu nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm xăng dầu cho thương nhân thực hiện. Văn bản xác nhận được gửi cho Tổng cục Hải quan để làm thủ tục, kiểm soát việc nhập khẩu nguyên liệu của thương nhân và gửi cho Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng (Bộ Khoa học và Công nghệ) để kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các điều kiện của thương nhân. Trường hợp từ chối không xác nhận, Bộ Công Thương sẽ có văn bản thông báo cho thương nhân biết lý do. Quy định này cũng được áp dụng đối với thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu có nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu để pha chế xăng dầu. Số lượng nguyên liệu xăng dầu nhập khẩu để pha chế sản phẩm của thương nhân sẽ được tính trừ vào hạn mức tối thiểu nhập khẩu xăng dầu Bộ Công Thương giao hàng năm. Ngoài yêu cầu trên, Thông tư còn quy định: Thương nhân sản xuất xăng dầu có trách nhiệm báo cáo định kỳ hàng tháng về tình hình sản xuất, nhập khẩu nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm xăng dầu gửi Bộ Công Thương trước ngày 10 của tháng tiếp theo. Đối với thương nhân nhập khẩu nguyên liệu để pha chế xăng dầu, trước ngày 10 tháng đầu tiên của quý tiếp theo, cũng phải có trách nhiệm báo cáo định kỳ hàng quý về tình hình nhập khẩu nguyên liệu để pha chế xăng dầu, gửi Bộ Công Thương.  Trường hợp thương nhân không bảo đảm thực hiện đúng kế hoạch sản xuất xăng dầu đã được xác nhận đăng ký phải có văn bản báo cáo rõ lý do và đề nghị Bộ Công Thương xác nhận điều chỉnh kế hoạch sản xuất, nhập khẩu nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm xăng dầu. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/8/2010. 2.2. Đánh giá về thuế xuất nhập khẩu xăng dầu. 2.2.1. Đánh giá chung về thuế xuất nhập khẩu xăng dầu. Giá dầu thành phẩm thế giới trong thời gian gần đây diễn biến phức tạp lên xuống thất thường lên khiến các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối trong nước bị ảnh hưởng theo. Trước tình hình đó Bộ Tài chính đã quyết định thay đổi thuế nhập khẩu xăng dầu nhằm hỗ trợ giá xăng dầu nhập khẩu vào nước ta, đảm bảo cho tiêu dùng của người dân. Do sự biến động của thị trường làm cho thuế suất thuế xuất nhập khẩu xăng dầu trong những tháng đầu năm 2010 cũng đã thay đổi. Từ ngày 26/01/2010, mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi khi giá dầu thô từ 45 USD/thùng đến dưới 60 USD/thùng đối với xăng dầu hỏa nhiên liệu bay là 30%, diezen và mazut 25%. Thuế suất là 25% đối với với xăng dầu hỏa nhiên liệu bay và 20% đối với diezel, mazut khi dầu thô có giá từ 60 USD/thùng đến dưới 75 USD/thùng. Còn với mức giá dầu thô từ 75 USD/thùng đến dưới 95 USD/thùng, thuế suất sẽ là 20% đối với xăng dầu hỏa nhiên liệu bay và 15% đối với diezel, mazut. Từ ngày 1/2/2010, N hiên liệu diesel dùng cho động cơ tốc độ cao, các loại diesel và nhiên liệu đốt sẽ được điều chỉnh giảm 5% xuống còn 15%. Còn riêng đối với kerosene cũng được điều chỉnh giảm 10%, từ mức 30% xuống còn 20%. Từ ngày 21/4/2010, thuế nhập khẩu xăng giảm 3%, từ mức 20% xuống còn 17%. Cùng với xăng, thuế nhập khẩu các mặt hàng dầu hỏa, diezel có mức thuế suất mới là 10% thay vì 15% như trước 2.2.2. Những bất cập trong xuất nhập khẩu xăng dầu. Việt Nam là một thị trường chủ yếu xuất khẩu dầu thô thuộc phân kỳ giá thấp, còn nhập khẩu nhiều hàng hóa xăng dầu thuộc phân kỳ giá cao. Nên dù giá thị trường biến động theo chiều nào đều gây ra những bất lợi cho thị trường. Về xuất khẩu, Việt Nam là một thị trường xuất khẩu dầu thô, nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nguồn tài nguyên trời cho này ngỡ như vô tận nay đang có dấu hiệu cạn kiệt do khai thác qua nhiều nhưng mà hàng năm Nhà nước vẫn cứ đặt ra chỉ tiêu khai thác để tiêu dùng và xuất khẩu cao. Do đó dẫn đến nguy cơ nguồn tài ngyên này sẽ dần dần cạn kiệt. Sau khi gia nhập WTO, những vụ kiện áp dụng các biện pháp thương mại không giảm mà còn có xu hướng tăng lên, với 3 nét nổi bật: (1) Mỹ và EU - chưa công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường - kiện nhiều nhất (2) Có đến 9 mặt hàng, trong đó đặc biệt là các ba sa, tôm sú, giày mũ da... tăng trưởng xuất khẩu nhanh vào các thị trường đó bị kiện nhiều nhất.(3) Kiện chống bán phá giá là chính, song nay lại phải đối mặt với kiện về chống trợ cấp đối với mặt hàng túi nhựa xách tay vào thị trường Mỹ. Do đó các nước áp dụng hàng rào thuế quan đối với mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam gây khó khăn cho việc xuất khẩu mặt hàng này ra nước ngoài trong đó có mặt hàng dầu thô. Bên cạnh đó còn xuất hiện tình trạng buôn lậu xăng qua biên giới bằng đường bộ và đường biển, các cửa hàng xăng dầu gần biên giới hay các cá nhân vì lợi nhuận mà buôn bán lậu hàng xăng dầu qua biên giới.Điển hình là từ khu vực sông Mekong giữa Campuchia và Việt Nam tới vùng rừng núi giữa Thái Lan – Malaysia và vùng biển Indonesia, Trung Quốc – Hồng Kông..., những kẻ buôn lậu xăng dầu đang kiếm lợi bất hợp pháp hàng chục triệu USD. Giá dầu càng cao, nguồn lợi càng lớn. Xăng dầu buôn lậu dưới mọi hình thức, quy mô lớn nhỏ tùy thuộc. Nhỏ là vài chục lít xăng đựng trong thùng được chở bằng xe đạp, xe máy hoặc giấu trong thuyền. Lớn là hàng trăm lít chất trong xe tải, tàu biển. Mỗi năm Campuchia chỉ nhập khẩu khoảng 1 triệu tấn xăng dầu, nhưng số xăng dầu tịch thu được từ những kẻ buôn lậu đã lên tới 2,5 triệu tấn tính từ năm 2004 đến nay. Về hải qua, đã công khai các thủ tục hành chính và mỗi thủ tục được giản hoá. Song doanh nghiệp vẫn tốn kém tiền bạc, thời gian vào việc làm thủ tục xuất khẩu bởi đã có “luật bất thành văn”, bất cứ ai cũng phải chấp thuận khi qua cửa khẩu, hàng đến bến bãi hoặc bon bon trên đường. Nếu không nộp phí thì hàng hóa sẽ bị ứ đọng tại bến bãi đợi ngày xử lý, thế nên doanh nghiệp nộp phí để hàng hóa nhanh chóng được xuất khẩu. Việc này làm dần dần rồi cũng trở thành tiền lệ của các doanh nghiệp. . Cơ chế thì rành mạch, nhưng doanh nghiệp vẫn nơm nớp trước các mệnh lệnh hành chính như thể phanh gấp. Về nhập khẩu xăng dầu xảy ra các hiện tượng như không khai hoặc khai sai so với thực tế về tên hàng, chủng loại, số lượng, trọng lượng, chất lượng, trị giá, xuất xứ, mã số hàng hoá đối với xăng dầu nhập khẩu . Hai là không cung cấp chứng từ, tài liệu, dữ liệu điện tử liên quan đến hàng xăng dầu nhập khi cơ quan hải quan yêu cầu theo quy định của pháp luật.Ba là đánh tráo hàng hoá đã kiểm tra hải quan với hàng hoá chưa kiểm tra hải quan.Bốn là không khai hoặc khai sai hàng hoá nhập khẩu từ khu phi thuế quan vào nội địa.Năm là khẩu, nhập khẩu hàng hoá không đúng nội dung ghi trong giấy phép.Sáu là nhập khẩu hàng hoá giả mạo xuất xứ vào lãnh thổ Việt Nam. 2.2.3.Các hình thức gian lận thuế xuất nhập khẩu xăng dầu. Một vấn đề nổi bật làm giảm đáng kể số thu ngân sách là việc trốn thuế qua giá, trong đó doanh nghiệp lợi dụng chính sách hàng chuyển cửa khẩu để trốn thuế.Về cơ bản hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam được xác định giá tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT/WTO. TCHQ lập kế hoạch chỉ đạo, phát hiện các trường hợp gian lận về trị giá khai báo hải quan theo GATT, các gian lận về giá khai báo đối với các mặt hàng như ô tô, xe máy, rượu, xăng dầu nhập khẩu. Việt Nam ngày càng gia nhập sâu và đa dạng vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là việc thực hiện cắt giảm thuế theo các hiệp định khu vực khác biệt nên việc gian lận, trốn thuế là điều không thể tránh khỏi. Bắt đầu bằng việc bãi bỏ bảng giá thuế tối thiểu, tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (CEPT/AFTA) với những dòng thuế suất ưu đãi, thì bắt đầu có hiện tượng nhập hàng hóa không đủ điều kiện nhưng vẫn sử dụng chứng nhận xuất xứ ASEAN (C/O form D), thậm chí xuất hiện cả C/O giả. Theo quy định, hàng hóa có C/O form D, tức trong sản phẩm phải có chứa trên 40% hàm lượng xuất xứ từ ASEAN khi xuất khẩu vào các nước trong ASEAN sẽ được hưởng mức thuế suất là 0% hoặc 10%, 15%..., thấp hơn nhiều so với hàng ngoài ASEAN. Các trường hợp cố tình khai báo sai mã số thuế cũng rất đa dạng, lợi dụng sự phức tạp trong cơ cấu sản phẩm cũng như tên gọi, đặc biệt là những sản phẩm mới, là hỗn hợp của nhiều chất hoặc linh kiện khó có thể phân biệt bằng cảm quan. Ngoài ra còn xảy ra các hình thức gian lận thuế xuất nhập khẩu như: một là lập hồ sơ khai thuế ghi thiếu, ghi sai các chỉ tiêu trên bảng kê hoá đơn hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra hoặc trên các tài liệu khác liên quan đến nghĩa vụ thuế.Hai là lập hồ sơ khai thuế ghi thiếu, ghi sai các chỉ tiêu trên hoá đơn, hợp đồng kinh tế và chứng từ khác liên quan đến nghĩa vụ thuế.Ba là lập hồ sơ khai thuế ghi thiếu, ghi sai các chỉ tiêu trên tờ khai thuế, tờ khai quyết toán thuế.Bốn là không cung cấp được hoá đơn, chứng từ hợp pháp của lô hàng vận chuyển trong thời hạn 12 giờ, kể từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện hành vi vi phạm.Năm là không cung cấp được hoá đơn, chứng từ hợp pháp của lô hàng vận chuyển sau 24 giờ, kể từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện hành vi vi phạm, nhưng chưa ra quyết định xử phạt.Sáu là không kê khai hoặc kê khai không chính xác dẫn đến giảm số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn.Bẩy là sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được hoàn, số thuế được miễn, số thuế được giảm.Tám là lập hoá đơn bán hàng hoá sai về số lượng, giá trị để khai thuế thấp hơn thực tế.Chín là sử dụng hàng hoá được giảm thuế, miễn thuế (bao gồm cả hàng hoá thuộc diện không chịu thuế) không đúng với mục đích quy định mà không khai thuế. Bên cạnh đó còn xảy ra hiện tượng mua chuộc, hối lộ cán bộ Hải quan làm nhiệm vụ tại các cửa khẩu để nhập lậu số lượng lớn hàng hóa vào nội địa hoặc để xuất hàng ra nước ngoài. Hàng hóa xuất nhập khẩu đều được đóng gói bao bọc kín, nhất là hiện nay việc giao hàng bằng container là phổ biến, hàng hóa được kiểm hóa tại doanh nghiệp, nhiều đối tượng đã đánh tráo hàng để nhập, xuất lậu các mặt hàng bị cấm hoặc bị đánh thuế cao. Trên đường biển, các tàu biển nước ngoài vận chuyển hàng nội địa nhưng đưa lẫn nhiều hàng ngoại nhập lậu hoặc hàng khác chủng loại cho phép vào Việt Nam. Các đối tượng thay đổi bao bì, nhãn mác hàng hóa để hưởng thuế suất thấp. Ngoài ra, là hành vi lập bộ hồ sơ khai báo Hải quan giả hoặc cố ý thiếu, sai lệch một số yếu tố, ghi chung chung, không rõ ràng. Lợi dụng các chính sách pháp luật và ưu đãi về thuế của Nhà nước ta, nhiều đối tượng và doanh nghiệp đã tìm cách trốn thuế. Như lợi dụng ưu đãi về thời hạn nộp thuế, các cá nhân và tổ chức đã cố tình nợ đọng kéo dài, chây ì, chiếm dụng thuế rồi bỏ trốn hoặc chỉ thực hiện một vài hợp đồng nhập khẩu rồi giải thể doanh nghiệp hoặc chuyển sang lĩnh vực khác; Trốn thuế qua việc khai sai xuất xứ hàng hóa, xuất trình giấy xuất xứ giả, không đúng xuất xứ hàng hóa để được áp mã số thuế thấp hơn để trốn thuế XNK; Trốn thuế qua chính sách hàng đổi hàng hoặc việc kinh doanh hàng tạm nhập tái xuất, kinh doanh hàng miễn thuế, kho ngoại quan...   CHƯƠNG 3 – ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM. 3.1 Phương hướng phát triển. Nhà nước ta cần phải ngày càng tiến hành tăng cường công tác xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường, thị phần xuất khẩu cho các doanh nghiệp, đồng thời có các cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp tăng lượng hàng hoá xuất khẩu; chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện Quy chế về chương trình xúc tiến thương mại quốc gia để tiếp tục mở rộng và đẩy mạnh hoạt động thương mại, phát triển thị trường, đẩy mạnh lưu thông hàng hóa giúp cho việc xuất khẩu trong nước thuận lợi hơn. Việc tham gia vào các tổ chức thương mại giúp nước ta mở rộng quan hệ với các nước anh em, do đó thúc tiến hoạt động xuất khẩu. Việc mở rộng quan hệ giúp ta mở rộng thị trường đẩy mạnh lưu thông hàng hóa, do đó giúp cho việc giao lưu buôn bán quốc tế trở nên thuận tiện hơn giúp ta xuất khẩu mặt hàng ra thị trường thế giới. Nhà nước cũng cần tiến hành chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương liên quan rà soát lại những quy định hiện hành về xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để loại bỏ các quy định không phù hợp, bảo đảm đơn giản, thuận tiện nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp này. Trong thời gian qua, nguồn cung cấp xăng dầu cho tiêu thụ trong nước được đáp ứng từ nguồn nhập khẩu, vì vậy để thu tập trung và để tránh gian lận thương mại, nên các khoản thu của ngân sách hiện nay chủ yếu thu ở khâu nhập khẩu qua thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt (mặt hàng xăng); các khoản thu còn lại gồm thuế VAT, phí xăng, dầu, thuế thu nhập doanh nghiệp được thu ở khâu bán ra. Với cách điều hành thuế nhập khẩu hiện nay đáp ứng được yêu cầu nguồn thu ngân sách được tập trung, tận thu khi giá xăng dầu trên thị trường thế giới xuống thấp. Tuy nhiên, khi xăng dầu tiêu thụ trong nước được đáp ứng từ 2 nguồn nhập khẩu và sản xuất trong nước, nếu để thuế nhập khẩu cao (tối đa 40%) sẽ không khuyến khích nhà máy lọc dầu hạ thấp chi phí vì được bảo hộ thông qua thuế nhập khẩu cao, dễ dẫn đến nguy cơ thiếu nguồn cung do nhập khẩu không cạnh tranh được. Do đó Nhà nước ta cần thiết phải cải cách thuế nhập khẩu một cách căn bản, theo cam kết giảm thuế, thay thế bằng khoản thu mới, bù đắp phần hụt thu do giảm thu thuế nhập khẩu; lượng xăng dầu được sản xuất trong nước cần được thu tương đương với nguồn nhập khẩu để bình đẳng giữa kinh doanh xăng dầu nhập khẩu với kinh doanh xăng dầu sản xuất trong nước. Giải pháp thực hiện là chuyển phần lớn thuế nhập khẩu và toàn bộ thuế tiêu thụ đặc biệt sang thu ở khâu bán ra, cụ thể: Một là, thuế nhập khẩu: nên giữ ở tỷ lệ đủ để khuyến khích sản xuất đề nghị khung thuế nhập khẩu mới là 0% - 5% thay cho khung hiện nay 0% - 40%, phần còn lại (sau khi trừ 5%) thu ở khâu nhập khẩu, sẽ chuyển sang thu theo số tuyệt đối ở khâu bán ra và có thể gọi là “Thuế sử dụng xăng dầu”; Hai là, thuế tiêu thụ đặc biệt: đang áp dụng đối với mặt hàng xăng là 10% tính trên giá CIF có thuế nhập khẩu và cũng được thu ở khâu nhập khẩu. Thời gian tới đề nghị chuyển sang thu khâu bán ra, cũng thu theo số tuyệt đối; Ba là, phí xăng dầu không phân biệt từ nguồn sản xuất trong nước hay từ nguồn nhập khẩu, thu 100% ở khâu bán ra như hiện nay; đối tượng kê khai và nộp phí xăng dầu là các doanh nghiệp đầu mối vừa bảo đảm tập trung, dễ kiểm soát, tránh gian lận. Đồng thời, Nhà nước tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu cũng như các hộ sản xuất sử dụng nhiều xăng dầu (than, điện, xi măng, sắt thép...) có điều kiện áp dụng cơ chế “PHÒNG NGỪA RỦI RO GIÁ DẦU” thông qua phương thức mua bán xăng dầu phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm ổn định đầu vào của sản xuất, bình ổn thị trường trong nước trước biến động khó lường của giá dầu thế giới. Bên cạnh việc khuyến khích nhà máy lọc dầu trong nước, ta cấn tiến hành giải pháp khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tìm các nguyên liệu thay thế xăng dầu để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Ngoài việc khuyến khích doanh nghiệp trong nước sản xuất và xuất khẩu, Nhà nước và cơ quan hải quan cũng cần có những biện pháp để tránh tình trạng nhập siêu. Theo số liệu thống kê, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Đài Loan tháng 3/2010 đạt 566 triệu USD, tăng 37,2% so với tháng 2/2010và tăng 15,8% so với cùng tháng năm ngoái, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Đài Loan quý I/2010 đạt 1,5 tỉ USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ, chiếm 8,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của cả nước quý I/2010.trong đó xăng dầu các loại là mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Đài Loan quý I/2010, đạt 194 triệu USD, giảm 28,3% so với cùng kỳ, chiếm 13,2% trong tổng kim ngạch. Do đó mà ta cần phải có những biện pháp hạn chế nhập siêu. 3.2. Các giải pháp. 3.2.1.Các giải pháp để hạn chế những bất cập trong xuất nhập khẩu xăng dầu. Bất cập xảy ra là một điều hiển nhiên không thể tránh khỏi đối với bất cứ mặt hàng nào không chỉ có xăng dầu. Do đó cấp thiết lúc này là cần tìm ra các giải pháp để giải quyết bất cập đang xảy ra. Trước hết chúng ta cần khuyến khích xuất khẩu nhưng vẫn phải đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước. Cơ quan hải quan cần tạo thuận lợi về thủ tục hải quan và thời gian thông quan, khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện khai báo thủ tục hải quan điện tử đối với xuất khẩu hàng hóa. Tiến hành thường xuyên theo dõi, cập nhật thông tin có liên quan đến hàng hóa và doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ cho công tác quản lý rủi ro; định kỳ đánh giá hiệu quả kiểm tra thực tế hàng hóa, kịp thời điều chỉnh hoặc kiến nghị điều chỉnh tiêu chí rủi ro cho phù hợp. Chúng ta cần đầu tư vào nghiên cứu sản xuất mặt hàng thay thế xăng dầu để tiêu thụ trong nước. Việc tìm ra nguyên liệu thay thế xăng dầu sẽ làm giảm nhu cầu sử dung xăng dầu đến một mức nào đó tránh tình trạng cạn kiệt tài nguyên dầu thô sẽ không dẫn đến nhập siêu xăng dầu. Hiện nay ở nước ta, nhu cầu tiêu dùng xăng dầu và các thành phẩm từ xăng dầu khá nhiều nên không tránh khỏi tình trạng nhập khẩu nhiều để dáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước.Theo số liệu thống kê, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Đài Loan tháng 3/2010, Xăng dầu các loại là mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Đài Loan quý I/2010, đạt 194 triệu USD, giảm 28,3% so với cùng kỳ, chiếm 13,2% trong tổng kim ngạch. Do đó mà các cơ quan chức năng cần có những biện pháp để tránh khỏi tình trạng nhập siêu. Như Nhà nước cần ban hành luật về hạn ngạch, thuế quan nhằm tránh tình trạng nhập khẩu tràn lan. Có hạn ngạch với thuế quan sẽ hạn chế được tình trạng nhập khẩu nhiều, các doanh nghiệp sẽ phải có cân nhắc để đưa ra lượng nhập khẩu trước khi tiến hành nhập khẩu. Hay nhà nước cũng có thể áp dụng cấp giấy phép nhập khẩu, các doanh nghiệp trước khi nhập khẩu phải có được giấy phép đồng ý cho nhập khẩu của nhà nước. Do đó mà Nhà nước nếu thấy lượng nhập khẩu quá nhiều có thể hạn chế lượng nhập khẩu xăng dầu của các doanh nghiệp. Đồng thời Nhà nước có thể tiến hành tăng thuế nhập khẩu xăng dầu trực tiếp đánh vào hàng xăng dầu nhập khẩu nhiều để hạn chế nhập khẩu. Còn đối với cơ quan hải quan cần tiến hành thắt chặt quy trình thông quan, theo dõi doanh nghiệp tiến hành xuất nhập khẩu để có những biện pháp thắt chặt tránh tình trạng nhập khẩu nhiều. Bên cạnh đó cơ quan hải quan cần tiến hành kiểm tra chất lượng hàng xăng dầu xuất nhập khẩu tránh tình trạng nhập khẩu xăng dầu kém chất lượng qua các cửa khẩu để thu lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nước. Hải quan cần tiến hành kiểm tra xuất xứ hàng hóa tránh tình trạng khai báo sai xuất xứ hàng hóa của các doanh nghiệp để đưa các loại xăng dầu không đủ tiêu chuẩn vào tiêu thụ trong nước gây thất thu cho ngân sách của Nhà nước. Việc thông quan hàng hóa nhập khẩu theo phương thức đăng ký trước, kiểm tra sau: thực hiện theo khoản 3 Điều 11 Quyết định số 36/2010/QĐ-TTg ngày 15/4/2010 cửa Thủ tướng Chính phủ (có hiệu lực từ ngày 7/6/2010) và điểm b khoản 1 Điều 24 Thông tư số 79/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính cũng giúp hạn chế được tình trạng nhập siêu. Chúng ta cần tiến hành tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hải quan trong công tác đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, xây dựng phương án đấu tranh có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các tuyến biên giới đường biển, đường bộ, đường hàng không; trong công tác kiểm tra sau thông quan, chống gian lận thương mại, nghiên cứu xây dựng danh mục hàng hóa cần tăng cường kiểm tra thực tế, kiểm tra sau thông quan, chống gian lận thương mại về giá, thuế suất, chính sách mặt hàng theo các tiêu chí như: tên hàng, mã số, xuất xứ,… Theo Ban Chỉ đạo 127/TW, từ đầu năm 2008 đến nay do giá dầu thô thế giới liên tục tăng cao, giá xăng dầu của các nước láng giềng cũng tăng theo, trong khi giá xăng dầu của Việt Nam do thực hiện cơ chế bình ổn giá, ngân sách nhà nước đang cấp bù nên vẫn duy trì ở mức thấp, tạo ra chênh lệch khá cao so với các nước liền kề. Do vậy tình trạng xuất lậu xăng dầu lại gia tăng và diễn biến phức tạp ở khu vực biên giới phía Tây Nam như: Kiên Giang, An Giang, Long An, Tây Ninh, Đồng Tháp và có khả năng lan rộng ra khu vực khác: biên giới phía Tây, biên giới phía Bắc Trong tình hình đặc biệt như hiện nay, để ngăn chặn có hiệu quả tình trạng xuất lậu xăng dầu, tránh thất thoát cho ngân sách nhà nước, trong khi đang phải bù giá xăng dầu, chúng ta cần tiến hành yêu cầu các tỉnh có biên giới đường bộ và đường biển xây dựng kế hoạch và áp dụng ngay các biện pháp hành chính mạnh mẽ như chỉ đạo việc rà soát lại qui hoạch mạng lưới cửa hàng xăng dầu ở khu vực biên giới: đóng cửa ngay và xử lý nghiêm vi phạm đối với các cây xăng (đại lý bán lẻ xăng dầu) không đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu vĩnh viễn và đóng cửa vĩnh viễn đối với các cây xăng biên giới vi phạm về xuất lậu xăng dầu hoặc xây dựng không trong qui hoạch hoặc trái với qui hoạch; không cho lập thêm các cây xăng ở khu vực biên giới, trường hợp cần mở thêm thì phải có ý kiến chấp thuận của Bộ Công Thương và Bộ Quốc phòng. Yêu cầu cây xăng ở khu vực biên giới phải ký lại hợp đồng đại lý trực tiếp với Doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu, không ký qua Tổng đại lý,chỉ có doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu mới được phép cung ứng xăng dầu cho các cây xăng ở khu vực biên giới. Sở Công Thương phải cùng chính quyền cấp huyện, xã và các ngành có liên quan xem xét tính toán lại định lượng cung ứng đối với các cây xăng ở khu vực biên giới tối đa không vượt quá mức tiêu thụ trung bình cùng kỳ năm trước của các cây xăng nội địa không thuộc khu vực biên giới và thông báo công khai cho doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu biết để cung ứng không vượt quá định lượng đã thông báo. Việc bán lẻ xăng dầu và xuất xăng dầu ra khỏi biên giới phải theo đúng qui định: chỉ bán vào các phương tiện tiêu dùng trực tiếp, không bán vào các can nhựa và các dụng cụ chứa đựng khác; đối với các hộ sản xuất có nhu cầu lớn về xăng dầu phải ký hợp đồng mua bán và khi xuất bán phải viết hoá đơn; không bán xăng dầu theo giá bán qui định tại thị trường Việt Nam cho các phương tiện ôtô, tàu thuyền nước ngoài quá cảnh vào Việt Nam; không cho phép đưa xăng dầu ra khỏi biên giới phục vụ nội bộ đối với các doanh nghiệp đang đầu tư ở nước ngoài. Lực lượng chức năng cần kiểm soát chặt chẽ người và phương tiện ra vào biên giới, nhất là các đường mòn, lối mở. Qui định các cây xăng biên giới không được bán hàng trước 6 giờ sáng và sau 18 giờ chiều hàng ngày. Giám sát chặt chẽ các phương tiện vận tải chở xăng dầu cung ứng cho các cây xăng ở khu vực biên giới, yêu cầu tại thời điểm kiểm tra phải xuất trình hoá đơn chứng từ hợp pháp kèm theo, nếu vi phạm thì xử lý nghiêm, kể cả biện pháp xử lý tịch thu. Xử lý nghiêm những cán bộ, chiến sĩ có hành vi vi phạm: trực tiếp tham gia hoặc tiếp tay cho hoạt động buôn lậu; dung túng cho người thân (vợ, con, anh chị em ruột, bố mẹ bên vợ, bên chồng) buôn lậu hoặc tiếp tay cho hoạt động xuất lậu xăng dầu qua biên giới. Ngoài việc tăng cường các biện pháp hành chính nói trên, cần kết hợp các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, chỉ đạo cấp uỷ và chính quyền cấp cơ sở (xã, huyện biên giới) có các biện pháp thiết thực nhằm tổ chức tốt đời sống dân cư khu vực biên giới, tranh thủ sự đồng thuận của nhân dân, không buôn lậu hoặc tiếp tay cho các đối tượng buôn lậu xăng dầu qua biên giới. Bộ Công Thương chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ phối hợp với các lực lượng chức năng của các tỉnh biên giới tăng cường hoạt động kiểm tra, đôn đốc tại các địa bàn trọng điểm, giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh đối với các cây xăng ở khu vực biên giới và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu trong việc thực hiện các qui định của pháp luật nhằm ngăn chặn có hiệu quả tình trạng xuất lậu xăng dầu. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu có trách nhiệm ký hợp đồng trực tiếp về cung ứng xăng dầu cho các cây xăng khu vực biên giới theo định lượng mà Sở Công Thương đã thông báo; thường xuyên kiểm tra và chịu trách nhiệm liên đới nếu để cửa hàng xăng dầu trực thuộc và các đại lý xăng dầu thuộc hệ thống của mình ở biên giới vi phạm về xuất lậu xăng dầu. Theo các chuyên gia kinh tế, biện pháp hữu hiệu nhất để chấm dứt nạn buôn lậu xăng dầu là các Chính phủ cần bãi bỏ ngay chính sách trợ giá khiến giá xăng giữa các nước chênh lệch. Khi giá dầu thô thế giới vượt qua ngưỡng 60 USD/thùng, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc... bắt đầu bãi bỏ dần chính sách trợ giá, nhưng giá xăng dầu ở đây vẫn cao hơn so với các nước khác trong khu vực. 3.2.2. Các giải pháp chống gian lận thuế. Trước hết cần tăng cường quản lý giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu; thường xuyên cập nhật Danh mục quản lý rủi ro về giá đối với các mặt hàng thuộc Danh mục hàng hóa phải nộp thuế ngay, mặt hàng có thuế suất cao, có giá trị lớn làm cơ sở tập trung kiểm tra có trọng điểm việc khai báo trị giá tính thuế, đảm bảo việc kiểm tra, tham vấn giá, xác định trị giá tính thuế đạt hiệu quả, kịp thời ngăn chặn tình trạng gian lận trong khai báo qua giá tính thuế. Một cán bộ của ngành hải quan cho biết: thực tế thì việc chống C/O giả cũng như bác bỏ mã số hàng hóa khai sai rất phức tạp. Nguyên nhân là việc thay đổi người có thẩm quyền trong việc ký giấy C/O ở các nước thuộc khu vực ưu đãi diễn ra thường xuyên và nhiều khi, cơ quan chức năng Việt Nam lại không thể cập nhật kịp thời chữ ký. Thêm vào đó, việc kiểm tra, đối chiếu trên các bản đăng ký chữ ký trên C/O cũng khó khăn do tờ khai đã trải qua nhiều lần photo. Nhìn chung, hiện nay việc kiểm tra thông quan tùy theo đối tượng dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro chứ không thể kiểm tra 100% lô hàng, hải quan cũng dựa nhiều vào kinh nghiệm và các quy định quản lý về thương mại phổ biến để xác định nên những sai phạm vẫn có thể lọt qua cửa khẩu hải quan. Chỉ trong những trường hợp có nghi ngờ về C/O form D hàng nhập khẩu, hải quan mới kiểm tra lại dấu và chữ ký trên C/O, nếu phát hiện có gian lận, cơ quan hải quan sẽ gửi công văn sang cơ quan hải quan chịu trách nhiệm cấp C/O form D của nước xuất khẩu hàng có vấn đề để yêu cầu kiểm tra. Nếu cần, hải quan 2 nước sẽ phối hợp để xử lý hàng có C/O giả. Theo ngành hải quan, trong thời điểm hiện nay, khi công cụ hỗ trợ cho việc phát hiện việc giả C/O form D còn hạn chế, đòi hỏi hệ thống thông tin và kiến thức nghiệp vụ được bổ sung kịp thời. Đồng thời ngành hải quan cũng cần trang bị phương tiện kỹ thuật hiên đại trong các khâu kiểm tra hải quan nhằm tránh tình trạng gian lận. Các cơ quan chức năng cần thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật cũng như các chính sách về thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, phát hiện kịp thời các sơ hở, thiếu sót trong các văn bản pháp quy để chấn chỉnh, đồng thời chủ động phát hiện vi phạm, tội phạm trốn thuế xuất nhập khẩu, điều tra, xử lý nghiêm minh các cơ quan, doanh nghiệp, cá nhân vi phạm, thu hồi tiền thuế cho Nhà nước, bảo vệ kỷ cương pháp luật và hoạt động lành mạnh trong xuất nhập khẩu. Mặt khác, chính các doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam cũng cần chú ý tới vấn đề này khi tiến hành ký kết hợp đồng với các đối tác và phải hiểu rõ luật pháp vì thuế suất ưu đãi và không ưu đãi đối với các mặt hàng là rất lớn, nên rất dễ nảy sinh gian lận trong thương mại mà phần thiệt thòi bao giờ cũng nghiêng về phía doanh nghiệp nhập khẩu. Cơ quan thuế phải tập trung thanh tra, kiểm tra thuế đối với DN xuất nhập khẩu xăng dầu, kiểm tra sổ sách, chứng từ, tài liệu kê khai thuế xuất nhập khẩu của các doanh nhiệp. Cần tăng cường công tác tuyên truyền các văn bản pháp luật tới cộng đồng DN. Mặc dù doanh nghiệp nào cũng có những văn bản luật riêng, nhưng việc nghiên cứu hay không là một vấn đề. Chúng ta cần tuyên chuyền các văn bản luật tới các doanh nghiệp đồng thời có những xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi gian lận thuế. Càng phạt nặng hơn đối với các doanh nghiệp biết là vi phạm mà vẫn cứ làm. KẾT LUẬN Trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và trước những biến động khó tiên liệu của thị trường xăng dầu thế giới. Việc quản lý Nhà nước nói chung và công tác kiểm tra thanh tra của cơ quan hải quan, chi cục thuế nói riêng đối với việc thu thuế xăng dầu như là một nhu cầu tất yếu, một giải pháp có tính đột phá để thích nghi và phát triển. Từ thực tiễn thuế xuất nhập khẩu xăng dầu, tôi xin đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế những gian lân trong thuế xuất nhập khẩu xăng dầu để giúp quản lý việc thu thuế xuất nhập khẩu, tránh tình trạng tác động tiêu cực đến nguồn thu ngân sách nhà nước và dẫn đến thực hiên thành công mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. PHỤ LỤC. Petrolimex kiến nghị, Thuế nhập khẩu xăng dầu nên đánh theo số tuyệt đối thay vì theo tỷ lệ % trên giá CIF hiện nay Ông Bùi Ngọc Bảo, Tổng Giám đốc Công ty xuất nhập khẩu xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) cho rằng, khi xăng dầu tiêu thụ trong nước đã được đáp ứng từ 2 nguồn, cả nhập khẩu và sản xuất trong nước thì cách điều hành thuế xăng dầu cần phải được cải cách cho phù hợp. Trước đây, xăng dầu tiêu thụ trong nước đều phải nhập khẩu 100% từ bên ngoài. Các khoản thu cho ngân sách chủ yếu là ở khâu nhập khẩu qua thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xăng. Các khoản thuế VAT, phí xăng dầu, thuế thu nhập doanh nghiệp nằm ở khâu bán ra. Tuy nhiên, nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động đã có thể đáp ứng nguồn xăng dầu cho thị trường 30% nhu cầu. Nếu tiếp tục kéo dài phần thu thuế chủ yếu ở khâu nhập khẩu khi đã có nguồn xăng dầu trong nước thì sẽ trở nên bất cập. Từ đầu năm đến nay, mặt hàng xăng có nhiều lần điều chỉnh thuế nhập khẩu. Vì thế, Petrolimex cho rằng, nếu để thuế nhập khẩu đối với xăng dầu có mức tối đa là 40% là quá cao, có nghĩa là nhà máy lọc dầu trong nước đã được lợi nhờ bảo hộ. Như vậy, sẽ không khuyến khích các nhà máy lọc dầu trong nước hạ thấp chi phí sản xuất. Điều này dễ dẫn tới nguy cơ thiếu nguồn cung do xăng dầu nhập khẩu không cạnh tranh được với xăng dầu trong nước. Đồng thời, Petrolimex đánh giá, cách tính thuế nhập khẩu xăng dầu theo tỷ lệ % trên giá CIF hiện nay sẽ gây tác động kép tới giá bán xăng dầu trong nước do yếu tố động của giá dầu thế giới, như vậy cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu ngân sách, khó kế hoạch hoá nguồn thu. Vì thế, Tổng công ty này kiến nghị, thuế nhập khẩu xăng dầu nên giữ ở tỷ lệ đủ để khuyến khích sản xuất trong nước. Khung thuế nhập khẩu mới nên từ 0- 5% thay cho khung hiện nay là 0-40%. Phần còn lại, sau khi trừ 5% thu ở khâu nhập khẩu, nên chuyển sang thu theo số tuyệt đối ở khâu bán ra và có thể gọi là thuế sử dụng xăng dầu. Thuế tiêu thụ đặc biệt đang áp dụng với mặt hàng xăng là 10% tính trên giá CIF, đã có cả thuế nhập khẩu và cũng được thu ở khâu nhập khẩu. Petrolimex đề nghị thời gian tới, chuyển sang thu thuế này ở khâu bán ra và theo số tuyệt đối. Petrolimex cho rằng, lượng xăng dầu được sản xuất trong nước cần được thu tương đương với nguồn xăng dầu nhập khẩu để bình đẳng giữa kinh doanh xăng dầu nhập khẩu với kinh doanh xăng dầu sản xuất trong nước. Ở Việt Nam, trong cơ cấu giá bán lẻ xăng dầu, các khoản thu cho Nhà nước thường chiếm từ 30-42%, thậm chí, phần còn lại là phí kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp khoảng 4-5%. Trong đó, thuế nhập khẩu được sử dụng làm van điều tiết, điều chỉnh linh hoạt theo biến động giá thế giới nên khó mà tạo ra được môi trường ổn định cho kinh doanh của doanh nghiệp. Các khoản thu cho ngân sách Nhà nước đối với xăng dầu như trên nên tính là số tuyệt đối trên một lít/kg xăng dầu bán lẻ trong dự toán Ngân sách Nhà nuớc hàng năm. Như vậy, sẽ vừa đảm bảo ổn định nguồn thu cho Ngân sách, vừa đảm bảo cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình kinh tế hải quan 2 của nhà xuất bản trường đại học kinh tế quốc dân 2. Thông tư 93/2010/TT-BTC của Bộ Tài Chính về Hướng dẫn việc xác định các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính là hành vi buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả 3. Thông tư số 59/2010/TT-BTC của Bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặ hàng thuộc nhóm 2710 tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. 4. Diễn đàn Doanh Nghiệp 5. Báo điện tử dân trí, vietnamnet… 6. Cổng thông tin chính thức Tổng công ty xăng dầu Việt Nam 7. công văn số 7446/BTC-TCHQ của Bộ Tài chính về hướng dẫn các cục hải quan tỉnh, thành phố thực hiện các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. 8. Trang web hai quan việt nam www.customs.gov.vn MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 188.doc