Thực trạng và đánh giá về chuyển dịch cơ cấu đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2007

LỜI MỞ ĐẦU Đối với bất kỳ một nền kinh tế nào, để tạo ra tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững đếu phải có sự đầu tư đúng hướng; trong đó, cơ cấu đầu tư phải phù hợp và phục vụ cho chiến lược về cơ cấu kinh tế. Do đó, cần phải có một cơ cấu đầu tư hợp lý, cơ cấu đó phải khai thác được lợi thế so sánh, đáp ứng được những yêu cầu thị trường chung cho cả nước, phát huy nội lực và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Trong thời gian qua, tại các kỳ họp quốc hội, Đảng và Nhà nước ta cũng đã và đang đề ra nhiệm vụ: Để đảm bảo thắng lợi nhiệm vụ phát triển của đất nước cần có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư một cách hợp lý đó là: Chuyển dịch cơ cấu đầu tư gắn với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước; trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng bậc nhất của tích luỹ nội bộ kinh tế, chúng ta phải coi vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng, kết hợp hai nguồn lực này trong một thể thống nhất để đầu tư phát triển; đó còn là sự chuyển đổi cơ cấu đầu tư cần đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng, bên cạnh việc hình thành nên những vùng kinh tế trọng điểm cần có sự quan tâm đến những vùng sâu, vùng xa, vùng còn khó khăn. Trên thực tế, cơ cấu đầu tư của nước ta trong những năm gần đây đã có sự dịch chuyển khả quan, đáp ứng được những yêu cầu và mục tiêu trên. Tuy nhiên bên cạnh đó, cơ cấu đầu tư hiện nay cũng còn thể hiện nhiều mặt hạn chế, bất cập. Do đó, việc nghiên cứu cơ cấu đầu tư, sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư, và từ những thực trạng về cơ cấu đầu tư của Việt Nam thời gian qua từ đó có thể đưa ra những giải pháp để cơ cấu đầu tư dịch chuyển theo hướng hợp lý là đúng đắn và cần thiết. Nhóm chúng em xin được chân thành cảm ơn thầy giáo Từ Quang Phương đã giúp chúng em hoàn thành đề án này

doc47 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1736 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và đánh giá về chuyển dịch cơ cấu đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
úng ta vẫn còn thấp đặc biệt có thể thấy rõ nhất trong một số ngành, một số lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế…hay việc đầu tư cho các vùng sâu, vùng xa, vùng chậm phát triển chúng ta đang gặp rất nhiều khó khăn do số lượng vốn thì có hạn, lại phải chú trọng đầu tư cho các vùng trọng điểm, các mục tiêu kinh tế quan trọng. Nhiều công trình, nhiều dự án đang thi công phải nằm chờ vì thiếu vốn. Có một thực tế đang diễn ra là ngân sách của Nhà nước và nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng có giới hạn. Các nhà phân tích ước tính "lỗ hổng tài chính" cho đầu tư cơ sở hạ tầng vào khoảng 2.5 tỷ USD một năm. Lỗ hổng này có thể được giải quyết phần nào nếu khu vực tư nhân tham gia nhiều hơn vào cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng cũng như các dịch vụ liên quan. Trong khi đó, một tình hình chung diễn ra phổ biến hiện nay là sự thiếu kinh nghiệm thực tế và thiếu quy định của Nhà nước điều chỉnh việc đầu tư tư nhân tham gia vào dịch vụ cơ sở hạ tầng. Hay trong lĩnh vực công nghiệp, tổng nhu cầu vốn cho công nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 khoảng 900 nghìn tỷ đồng, chiếm 40% tổng nhu cầu xã hội. Trong khi đó, số vốn huy động từ ngân sách chỉ chiếm 7% và phần còn lại phải do doanh nghiệp tự tìm kiếm. Để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 9%, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự kiến, năm 2008 cần phải huy động vốn cho đầu tư phát triển khoảng 554,000 tỷ đồng, tăng 19.6% so với ước thực hiện năm 2007 và bằng 41.5% GDP. Trong khi ngân sách chỉ có khả năng đáp ứng 17.5% tổng nguồn vốn thì "gánh nặng" đầu tư sẽ được trông chờ từ các nguồn khác, nguồn vốn từ tư nhân, dân cư và của nước ngoài. * Chính sách huy động các nguồn vốn thiếu đồng bộ chưa mang tính khuyến khích, hấp dẫn cao, thiếu tính năng động sáng tạo. Mặc dù, trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách ưu đãi, nhiều kêu gọi đối với các nguồn đầu tư ở khu vực dân cư, tư nhân. Tuy vậy, điều đó dường như là chưa đủ. Tỷ lệ cơ cấu đầu tư của khu vực này vẫn còn hạn chế so với khu vực có vốn đầu tư của Nhà nước .Thực tiễn thế giới và Việt Nam trong những năm đổi mới đã cho thấy sức sống kỳ diệu của khu vực kinh tế tư nhân. Sau bao nhiêu năm bị kỳ thị, bị coi là đối tượng cải tạo nhằm xoá bỏ khu vực này trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, nhưng chỉ cần Nhà nước có chủ trương chấp nhận sự tồn tại của nó thì khu vực này sẽ huy động được nguồn lực rất lớn từ dân, góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và giải quyết các vấn đề xã hội khác. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, do ảnh hưởng của quá trình lịch sử, khu vực này ở Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé, năng lực cạnh tranh yếu. Việc tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng ưu đãi của chính phủ vẫn là rất khó khăn với các doanh nghiệp tư nhân. Việc đầu tư vào khu vực kinh tế Nhà nước đã lấn át khu vực tư nhân. Đó là chưa kể một khối lượng vốn, tài sản cố định lớn và đất đai… thì khu vực Nhà nước vẫn có ưu thế hơn. Nghiên cứu của ADB cho thấy, vốn tư nhân hiện đang tham gia rất khiêm tốn vào cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng tại VN. 12 năm qua, chỉ có 18 hợp đồng Xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT) hoặc hợp đồng Hợp tác kinh doanh (BCC) được VN thực hiện với các đối tác tư nhân nước ngoài, chiếm khoảng 15% tổng số vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Hầu hết đều tập trung vào lĩnh vực năng lượng hoặc viễn thông. Cũng theo ADB, lý do của sự thiếu vắng này là Chính phủ có thái độ không nhất quán về đầu tư tư nhân và kỳ vọng không thực tế vào hiệu quả khu vực kinh tế này mang lại. Cụ thể như việc sử dụng bảo lãnh của Chính phủ không rõ ràng, trong nhiều lĩnh vực thời hạn chuyển giao các dự án BOT không được xác định, vai trò tương quan còn chênh nhau giữa luật pháp VN và quốc tế khi giải quyết tranh chấp... Trong thời gian tới, để thúc đẩy sự tham gia của khối tư nhân đầu tư hạ tầng cơ sở, VN phải tạo ra các dự án thí điểm để rút kinh nghiệm, đa dạng hơn các hình thức quan hệ đối tác công cộng - tư nhân (PPP), thay vì chỉ có các hình thức dự án BOT hoặc BCC như hiện nay.   Hay như tình trạng giải ngân rất chậm chạp nguồn vốn ODA hiện nay, có rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng một trong các nguyên nhân đó cũng là do các chính sách huy động vốn ở nước ta còn nhiều bất cập, thiếu tính năng động, sáng tạo.Các văn bản pháp quy hiện hành của Việt Nam về quản lý đầu tư, xây dựng và đấu thầu, quản lý và sử dụng vốn ODA vẫn còn nhiều quy định chưa nhất quán, mấu thuẫn với nhau. Quy trình, thủ tục của nhà tài trợ và Việt Nam còn thiếu hài hoà, gây trở ngại cho các đơn vị thực hiện. Quá trình thực hiện và chuẩn bị dự án còn rất chậm, cùng với đó là năng lực quản lý, thực hiện dự án của ta có nhiều yếu kém, nhất là cấp địa phương. * Năng lực các cấp bộ, ngành, địa phương còn hạn chế, ỷ lại vào ngân sách nhà nước. Trong khi, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn rất hạn hẹp, lại bị co kéo bởi nhiều nhu cầu cấp bách, nên có nhiều hạn chế trong việc bố trí cơ cấu đầu tư, chuyển đổi cơ cấu đầu tư. Các Bộ, các địa phương chưa quan tâm đến việc tạo thêm các nguồn vốn khác để cải thiện cơ cấu đầu tư, còn trông chờ, ỷ lại nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Đơn cử như trong lĩnh vực y tế, theo ước tính của ngành Y tế, trong giai đoạn 2008 - 2010 nhu cầu vốn đầu tư, nâng cấp các cơ sở y tế tuyến địa phương trên cả nước là hơn 10.000 tỷ đồng/năm, trong đó vốn ngân sách Trung ương phải đảm nhận tới 60-70%, song việc huy động 30% vốn còn lại từ ngân sách địa phương, nguồn xã hội hóa cũng đang gặp nhiều khó khăn. Trong năm 2007 vừa qua, vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Trung ương là 6.020 tỷ đồng nhưng tỷ trọng đầu tư của 16/64 tỉnh, thành phố chỉ đạt dưới 5% (4-5 tỷ đồng) tổng chi ngân sách địa phương, hầu hết những tỉnh, thành phố còn lại chỉ đáp ứng 15-20 tỷ đồng vốn dành cho cả hệ thống y tế. Có thể thấy tâm lý trông chờ, ỷ lại, chờ Nhà nước cấp rót vốn vẫn là tâm lý hiện hữu ở nhiều địa phương hiện nay. 2.5.1.2 Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa cao, còn dàn trải, lãng phí và thất thoát lớn trong đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là nguồn vốn ngân sách Nhà Nước. Trong nhiều năm qua, chỉ số ICOR (hệ số hiệu quả vốn đầu tư phát triển toàn xã hội) được tính bằng cách chia vốn đầu tư phát triển trong năm cho lượng GDP tăng lên so với năm trước tính bằng giá thực tế ở nước ta rất cao: Giai đoạn 1990 – 2000 là 4,1; giai đoạn 2001 – 2005 là 5. Có thể lý giải thực trạng này ở 2 nguyên nhân chủ yếu: Thứ nhất, những năm đầu thập kỷ 90, ngoài yếu tố vốn đầu tư còn có yếu tố đổi mới cơ chế thúc đẩy tăng năng suất lao động làm cho tăng trưởng kinh tế đòi hỏi một lượng vốn đầu tư ít hơn. Đến nay các yếu tố đổi mới về cơ chế đã được khai thác ở mức cao nên để tăng trưởng kinh tế phải đầu tư vốn nhiều hơn. Thứ hai, do hiệu quả đầu tư và sử dụng vốn đầu tư còn thấp xảy ra từ Trung ương đến địa phương, ở các bộ, ngành, các DNNN, trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư với các biểu hiện sau: Trước hết ở chất lượng quy hoạch còn nhiều bất cập, chưa gắn kết chặt chẽ quy hoạch phát triển ngành với vùng, địa phương. Quy hoạch không sát thực tế, chồng chéo, thiếu tầm nhìn chiến lược, chưa chú trọng thỏa đáng yếu tố môi trường. Trong lĩnh vực công nghiệp, quy hoạch ngành không ăn khớp, chồng chéo với quy hoạch vùng, địa phương, nhiều nơi không có quy hoạch vẫn quyết định đầu tư dự án. Quy hoạch phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở các địa phương thì tràn lan, thiếu cân đối; Các bộ, ngành không có sự phối hợp trong quy hoạch tổng thể, thực hiện các dự án chưa quan tâm đến bảo vệ môi trường. Quy hoạch đô thị, khu dân cư, khu du lịch, hệ thống bệnh viện… còn nhiều bất cập. Đầu tư dàn trải, tiến độ thi công hầu hết các dự án đều chậm trễ, kéo dài, quản lý đất đai kém, đền bù giải phóng mặt bằng chậm, công trình dở dang làm cho vốn đầu tư bị “chôn” nhiều, chậm thu hồi trong khi lãi suất tiền vay chồng tiếp lên vốn vay. Số dự án tăng nhanh hàng năm không tương xứng với tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư. Nhiều dự án không đủ thủ tục cũng được ghi vốn hoặc ngược lại không có vốn cũng triển khai, dẫn đến tình trạng nhiều công trình kéo dài do thiếu vốn. Ở nhiều địa phương, số vốn bố trí cho các dự án nhỏ, không đủ và không khớp giữa kế hoạch đầu tư và kế hoạch vốn. Hàng nghìn dự án phải chi bổ sung từ 300 – 500 triệu đồng. Chưa kể, trong 5 năm (2001–2005) có tới 2095 dự án thiếu thủ tục đầu tư vẫn quyết định thực hiện, có 61% đến 70.6% dự án do chậm ứng vốn và năng lực tài chính của nhà thầu hạn chế nên công trình đầu tư dở dang, chậm đưa vào sản xuất, gây lãng phí rất lớn. Việc phân bổ vốn còn mang nặng tính bao cấp, ưu đãi, tràn lan dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, đầu tư theo phong trào, đầu tư tự phát. Hoạt động đầu tư tại các tỉnh thành không tính toán kỹ giữa nguyên liệu, sản xuất và tiêu thụ mà bài học từ các nhà máy mía trong thời gian qua đường là ví dụ cụ thể. Đầu tư vào “vỏ” là nhà cửa, văn phòng nhiều hơn là đầu tư vào “ruột” là thiết bị công nghệ. Kết quả, giá trị khấu hao cao nhưng giá trị tài sản lại nhỏ nói cách khác bị lỗ trước khi đưa vào sản xuất kinh doanh. Tình trạng khép kín trong đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn nhà nước, việc tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh tại các bộ, các ngành, các địa phương chưa rõ ràng, rành mạch. Như vậy sẽ tạo rào cản đối với các thành phần kinh tế khác nhau tham gia đầu tư, hạn chế tính minh bạch và công khai trong hoạt động đầu tư. Từ đó nẩy sinh tiêu cực và là nguồn gốc phát sinh thất thoát và lãng phí trong đầu tư từ nguồn vốn nhà nước. Tình trạng thất thoát vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong thời gian qua là hết sức phổ biến và nghiêm trọng. Đánh giá của Bộ KH & ĐT, hàng năm con số thất thoát trong đầu tư tính chung lên đến 30% tổng số vốn đầu tư, cá biệt có những nơi lượng vốn bị thất thoát nên đến 50%. Điều này cũng có thể thấy qua chỉ số ICOR. Nếu hệ số ICOR của toàn xã hội là 5 thì hệ số này ở khu vực Nhà nước là 7.3. Nhiều DNNN hoạt động kém hiệu quả. Tình trạng tham nhũng diễn ra trầm trọng tại khu vực kinh t ế Nhà nước, đặc biệt là những nơi nguồn vốn Nhà nước bao cấp và quản lý lỏng lẻo mà vụ PMU18 vừa qua là một điển hình. Ngoài ra, cho đến nay, các chính sách của Nhà nước trong việc quản lý hoạt động đầu tư còn lỏng lẻo. Chúng ta chưa có một chế tài quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc phê duyệt, quản lý các hoạt động đầu tư dẫn đến việc đưa ra các quyết định sai, thất thoát tới hàng chục tỷ đồng mà không quy được trách nhiệm cho ai. Các văn bản đưa ra còn rất chung chung, chưa cụ thể do đó việc quản lý đồng vốn khó đạt hiệu quả được. 2.5.2.3   Cơ cấu đầu tư theo ngành, vùng chưa dịch chuyển mạnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh từng ngành và từng vùng, chưa tạo ra được cơ cấu kinh tế có khả năng khai thác các thế mạnh trong từng ngành và từng vùng phát triển.    Trong những năm gần đây, hiệu quả vốn đầu tư có xu hướng giảm sút không chỉ ở cấp toàn nền kinh tế mà cả ở cấp ngành và cơ sở. Một trong những nguyên nhân là cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Về nông nghiệp chúng ta chú trọng vào thuỷ lợi (chiếm hơn 70% vốn đầu tư của ngành) và một số yếu tố khác nhằm đạt mục tiêu tăng sản lượng lương thực, ít chú ý đầu tư nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp như khoa học công nghệ, giống cây con công nghệ chế biến nông sản, mạng lưới cơ sở hạ tầng nông nghiệp. Chủ trương chung là công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, nhưng thực tế chưa đầu tư đúng mức theo hướng này. Chậm đầu tư để phát triển các ngành nghề ở nông thôn, chưa có biện pháp hữu hiệu để phát triển khu vực kinh tế trang trại và xây dựng hợp tác xã kiểu mới. Về công nghiệp tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp còn thấp, chỉ trên dưới 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chưa đủ để phát triển ngành. Cơ cấu đầu tư của các ngành công nghiệp cũng như tỷ trọng vốn tham gia của các thành phần kinh tế chưa thực sự hướng tới một nền kinh tế thị trường, mang tính cạnh tranh quyết liệt. Trình độ công nghệ nói chung là lạc hậu. Hầu hết các cơ sở công nghiệp địa phương đều nằm trong tình trạng máy móc thiết bị cũ kỹ, công nghệ lỗi thời. Hiện tượng đầu tư theo phong trào hoặc theo lợi nhuận trước mắt rất phổ biến và kéo dài làm giảm hiệu quả đầu tư, gây khó khăn cho nền kinh tế trong việc xử lý hậu quả. Do dự báo không chính xác, đã quá chú trọng vào việc đầu tư để tăng công suất sản xuất mà không chú ý đến đầu ra sản phẩm nên đã dẫn đến việc đầu tư tập trung vào một số ngành, làm cho một số sản phẩm cung vượt quá cầu có khả năng thanh toán, điển hình là sản xuất sắt thép, xi măng, lắp ráp ô tô, rượu bia, chế biến đường ăn... Chưa chú trọng đầu tư phát triển ngành cơ khí, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp chế tạo, đặc biệt là chế tạo máy công cụ, máy nông nghiệp, máy chế biến nông sản. Về dịch vụ: khu vực dịch vụ trong thời gian qua tuy được đầu tư khá, tuy vậy tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong cơ cấu GDP dịch chuyển còn rất chậm. Môi trường đầu tư vào một số lĩnh vực dịch vụ còn gặp nhiều bất cập. Dịch vụ vận tải phát triển còn chậm. Các dịch vụ về tài chính, giao dịch bất động sản, chứng khoán, tư vấn pháp luật và kỹ thuật, dịch vụ khoa học công nghệ tuy có bước phát triển khá nhưng đang còn phải gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ CÓ MỘT CƠ CẤU ĐẦU TƯ HỢP LÝ HƠN 3.1 Định hướng về phát triển cơ cấu đầu tư theo hướng ngày càng hợp lý hơn 3.1.1 Định hướng về cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hợp lý Để phù hợp với tình hinh kinh tế, thể chế chính trị, cũng như con đường phát triển bền vững mà Việt Nam đã lựa chon thì một cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hợp lý đã được định hướng như sau “Cơ cấu phản ánh khả năng huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, phản ánh khả năng sử dụng hiệu quả cao mọi nguồn vốn đầu tư, là cơ cấu thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng của nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, tăng tỷ trọng nguồn vốn tín dụng ưu đãi và nguồn vốn của khu vực dân doanh” Một nguyên tắc mà chúng ta thường xuyên nhắc tới là “ Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng”. Trong quá trình phát triển kinh tế, nguồn vốn trong nước có một số ưu thế như sự ổn định, bền vững, giảm thiểu được những biến động của thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường tài chính và tiền tệ. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nguồn vốn nước ngoài có tầm quan trọng tương quan cơ cấu cụ thể. Còn trong dài hạn, vài năm tới thì FDI, FII sẽ giúp chúng ta tận dụng tối đa lợi thế so sánh của mình để tăng trưởng nhanh. Một nghiên cứu dự báo cũng cho rằng: Năm 2010, vốn ngân sách nhà nước sẽ đạt 21-22% trong tổng GDP. Nguồn vốn này sẽ có xu hướng giảm tỷ trọng của nó, nhưng tất nhiên là tăng trong giá trị tuyệt đối. Trong khi vốn đầu tư toàn xã hội đạt 40% GDP. Nguồn vốn FDI và đặc biệt là FII sẽ bùng nổ rất nhanh khi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào ổn định. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn mà Việt Nam định hướng là hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của mình, cơ cấu này đang chuyển dịch theo hướng như vậy .Nhưng điều quan trọng là các định hướng cho những việc phải làm để thu hút nhanh và sử dụng vốn có hiệu quả. Điều này thể hiện mặt chất trong cơ cấu đầu tư. 3.1.2 Định hướng về cơ cấu đầu tư hợp lý Một cơ cấu vốn đầu tư hợp lý là cơ cấu mà vốn được ưu tiên cho bộ phận quan trọng nhất, phù hợp với nhu cầu cũng như sự hạn chế của số liệu đầu tư. Cơ cấu hợp lý cần hướng tới trong thời gian tới là: 50-55% vốn đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh 3-10% cho phát triển nguồn nhân lực 25-36% cho phát triển đường giao thong- vận tải 3.1.3 Định hướng về cơ cấu đầu tư theo ngành, lĩnh vực hợp lý 3.1.3.1 Định hướng chung ( Xét cơ cấu đầu tư theo 3 nhóm ngành) Cơ cấu theo ngành hợp lý phải phù hợp với cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy cơ cấu đầu tư theo ngành được định hướng theo mục tiêu thăngs lợi quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch sâu sắc toàn diện cơ cấu nền kinh tế tử nông nghiệp sang công nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ, đạt tăng trưởng kinh tế cao và nâng cao đời sống của nhân dân.Cơ cấu ngành trong GDP 2010 cần hướng tới: Khu vực nông nghiệp 15-16% Khu vực công nghiệp-xây dựng 43-44% Khu vực dịch vụ 40-41% 3.1.3.2 Định hướng phát triển ngành công nghiệp-xây dựng - Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu như điện tử-tin học, sản phẩm cơ khí, may mặc-da giầy và chế biến thuỷ sản. - Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, cơ khí, hoá chất cơ bản, vật liệu xây dựng, những bước đi này cần phù hợp với điều kiện vốn, công nghệ, thị trường. - Đẩy mạnh phát triển ngành công nghệ cao, vật liệu mới. Trong đó IT phải là ngành mũi nhọn, kéo theo những ngành khác phát triển. - Phát triển sản xuất rộng khắp các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ trong lĩnh vực công nghiệp, chế tạo. Sử dụng các công nghệ thu hút nhiều lao động, giải quyết vấn đề nhu cầu của thị trường. - Cụ thể đối với một số lĩnh vực công nghiệp-xây dựng sau, cần phải được định hướng đúng đắn. * Công nghiệp điện: Đầu tư hinh thành đồng bộ hệ thống lưới truyền tải quốc gia. Cải tạo hệ thống tải điện để giảm tổn thất điện năng. * Công nghiệp xi măng, vật liệu xây dựng: Đầu tư đẩy mạnh tiến độ thi công các công trình, dự án xi măng như ở Hải Phòng và Hạ Long, để đưa vào khai thác trong những năm tớí. Đầu tư phát triển sản xuất các ngành sản xuất vật liệu xây dựng,gạch, chế biến đá, nội thất có thể nhân rộng nhiều cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, đáp ứng nhu cầu thị trường * Ngành cơ khí: Đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị, hiện đại hoá một số khâu then chốt trong ngành cơ khí. Chúng ta cần khoảng 40% nhu cầu chế tạo thiết bị cho nền kinh tế, đồng thời chúng ta cũng cần đầu tư cho việc tăng năng lực sản xuất sản phẩm cơ khí phục vụ cho nông lâm, ngư nghiệp.Trong định hướng phát triển nông nghiệp đồng bằng sông cửu long, đến 2010 phải cơ giới hoá 70% đồng ruộng, trong khi đó năm 2007, con số này chỉ dừng lại ở 20%. Rõ rang là rất khó thực hiện mục tiêu khi chưa có sự hỗ trợ tích cực của ngành cơ khí chế tạo * Công nghiệp dệt may: Đầu tư theo chiếu sâu, đổi mới, hiện đaị hoá trang thiết bị. Đầu tư mới các cụm công nghiệp dệt may tại các khu công nghiệp như Phố Nối –Hưng Yên, thưo hướng đồng bộ hoá từ các khâu kéo sợi, in, nhuộm, hoàn tất. * Công nghiệp chế biến nông sản: Đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu, chú trọng vào chất lượng sản phẩm để đáp ứng cạnh tranh tiêu thụ trng thị truờng trong nước và xuất khẩu. Nông sản có lợi thế vô cùng lớn đối với việc xuất khẩu của Việt Nam, chúng ta tận dụng được nhân công rẻ, ưu đãi của thiên nhiên, do vậy ngành này cần được quan tâm một cách đúng đắn. - Tăng cường hợp tác lien ngành, đưa công nghiệp- xây dựng hội nhập với khu vực và quốc tế, trước hết là thu hút vốn, thu hút đầu tư. Mục tiêu được đưa ra là đưa nhịp độ tăng trưởng giá trị gia tăng của công nghiệp-xây dựng đạt 10-10,5%/năm trong 10 năm tới. 3.1.3.3 Định hướng phát triển khu vực dịch vụ - Phấn đấu để tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức tăng GDP, đạt trung bình 8%/ năm. Đến 2010 chiếm 42-43% GDP chiếm 26-27% tổng số lao động xã hội - Có 5 vấn đề chính trong mục này, đó là : Thương mại, vận tải, bưu chinh-viễn thông, du lịch và dịch vụ tài chính-tiền tệ. * Thương mại: Đầu tư hình thành các trung tâm thương mại lớn, các chợ nông thôn đặc biệt là khu vực miền núi, bảo đảm cung cấp một số sản phẩm thiết yếu cho vùng sâu-xa, hải đảo. Phát triển thương mại điện tử, các hiệp hội, mở rộng thị trường cho chỗ đứng của sản phẩm made in Việt Nam. * Vận tải: Đầu tư phát triển nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hang hóa, hành khách ngày càng hiện đại, an toàn. Dành thị phần lớn cho doanh nghiệp vận tải trong nước đặc biệt là hang không và hang thuỷ. Một chủ trương mới của Hà Nội gần đây là 2010 sẽ miễn phí toàn bộ vé xe bus trong thành phố. Động thái này chứng tỏ chính phủ rất chú trọng đầu tư vào giao thông vận tải, một vấn đê muôn thủa nhức nhối. * Bưu chính-viễn thông: Đầu tư theo chiều rộng, chiều sâu, hiện đại hoá dịch vụ viễn thong, phổ cập điện thoại, internet. * Du lịch: Đầu tư phát triển để du lịch trở thành ngành mũi nhọn, khai thác tối đa lợi thế về điều kiện tự nhiên, truyền thống văn hoá, lịch sử. * Dịch vụ tài chính-tiền tệ : Đây có thể nói là trái timc của ngành kinh tế. Việc đầu tư cho ngành dịch vụ cao cấp này cẩn phải thật nhanh. Định hướng phát triển là đi thẳng vào công nghệ hiện đại, áp dụng quy chế quốc tế. Từng bước hình thành trung tâm tài chính lớn, ngang tầm khu vực. 3.1.3.4 Định hướng phát triển ngành nông lâm, thuỷ sản -Phấn đầu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân đạt 4-4,5%. Đến 2010 phấn đấu tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 40 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đạt 16-17%. Thuỷ sản đạt 3-3,5 triệu tấn. Tỷ trọng ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp lên 25%. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt 9-10 tỷ $. Trong đó thuỷ sản đạt 3,5 tỷ $. -Đầu tư phát triển theo hướng hinh thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn, phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái cho từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, lao động. -Tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông nghiệp, nông thôn. -Quy hoạch sản xuất lương thực phù hợp với khả năng và nhu cầu tiêu thụ. Năng suất đi đôi với chất lượng. -Đầu tư để xây dựng cơ chế bảo hiểm nông sản, chủ động bù đắp thiệt hại khi bị thiên tai, hay gía cả biến động -Đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu khoa học, giống, khoa học, khuyến nông, khuyến ngư -Đầu tư phát triển rừng nguyên liệu, hướng vào khai thác có hiệu quả vùng đồi, ven biển. DANH MỤC LĨNH VỰC ĐẶC BIỆT ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ I. Sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin; cơ khí chế tạo 1. Sản xuất vật liệu composit, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm. 2. Sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại đặc biệt, sắt xốp, phôi thép. 3. Đầu tư xây dựng cơ sở sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió, khí sinh vật, địa nhiệt, thủy triều. 4. Sản xuất thiết bị y tế trong công nghệ phân tích và công nghệ chiết xuất trong y học; dụng cụ chỉnh hình, xe, dụng cụ chuyên dùng cho người tàn tật. 5. Dự án ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ sinh học để sản xuất thuốc chữa bệnh cho người đạt tiêu chuẩn GMP quốc tế; sản xuất nguyên liệu thuốc kháng sinh. 6. Sản xuất máy tính, thiết bị thông tin, viễn thông, Internet, sản phẩm công nghệ thông tin trọng điểm. 7. Sản xuất chất bán dẫn và các linh kiện điện tử kỹ thuật cao; sản xuất sản phẩm phần mềm, nội dung thông tin số; cung cấp các dịch vụ phần mềm, nghiên cứu công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin. 8. Đầu tư sản xuất, chế tạo thiết bị cơ khí chính xác; thiết bị, máy móc kiểm tra, kiểm soát an toàn quá trình sản xuất công nghiệp; rô bốt công nghiệp. II. Nuôi trồng, chế biến nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, làm muối; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới 9. Trồng, chăm sóc rừng. 10. Nuôi trồng nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản trên đất hoang hoá, vùng nước chưa được khai thác. 11. Đánh bắt hải sản ở vùng biển xa bờ. 12. Sản xuất giống mới, nhân và lai tạo giống cây trồng và vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao. 13. Sản xuất, khai thác, tinh chế muối. III. Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại; bảo vệ môi trường sinh thái; nghiên cứu, phát triển và ươm tạo công nghệ cao 14. ứng dụng công nghệ cao; ứng dụng công nghệ mới chưa được áp dụng tại Việt Nam; ứng dụng công nghệ sinh học. 15. Xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường; sản xuất thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, thiết bị quan trắc và phân tích môi trường. 16. Thu gom, xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải. 17. Nghiên cứu, phát triển và ươm tạo công nghệ cao. IV. Sử dụng nhiều lao động 18. Dự án sử dụng thường xuyên từ 5.000 lao động trở lên. V. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng và các dự án quan trọng 19. Đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án quan trọng do Thủ tướng Chính phủ quyết định. VI. Phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục và thể thao 20. Đầu tư xây dựng cơ sở cai nghiện ma túy, cai nghiện thuốc lá. 21. Thành lập cơ sở thực hiện vệ sinh phòng chống dịch bệnh. 22. Thành lập trung tâm lão khoa, hoạt động cứu trợ tập trung, chăm sóc người tàn tật, trẻ mồ côi. 23. Xây dựng trung tâm đào tạo, huấn luyện thể thao thành tích cao, thể thao cho người tàn tật, cơ sở thể thao có thiết bị, phương tiện luyện tập và thi đấu đáp ứng yêu cầu tổ chức các giải thi đấu quốc tế. VII. Những lĩnh vực sản xuất, dịch vụ khác 24. Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) chiếm 25% doanh thu trở lên. 25. Dịch vụ cứu hộ trên biển. 26. Đầu tư xây dựng chung cư cho công nhân làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; đầu tư xây dựng ký túc xá sinh viên và xây dựng nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội. 3.1.4 Định hướng đầu tư theo vùng, lãnh thổ. - Các vùng, khu vực đều phát huy lợi thế để phát triển, tạo nên thế mạnh của mình theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Ở nước ta, Các vùng kinh tế gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa phương, các đô thị, các địa bàn, lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền đang được xây dựng và hình thành từng bước. Các vùng kinh tế trọng điểm đóng góp khoảng 50% giá trị GDP cả nước. 75-80% giá trị gia tăng công nghiệp và 60-65% giá trị gia tăng khu vực dịch vụ. Do vậy sẽ gấp thiết hình thành mạnh mẽ các vùng kinh tế trọng điểm, đóng vai trò đầu tàu cho sự tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo điều kiện, và đầu tư thích đáng cho vùng nông thôn, vùng nhiều khó khăn, và vùng biên giới hải đảo. - Thu hút vốn đầu tư FDI vào những khu vực khác, ngoài vùng phát triển, đặc biệt là vùng núi, vùng nông thôn. Tăng vốn đầu tư ngân sách nhà nước cho các vùng khó khăn, Cụ thể cơ cấu đầu tư theo một số vùng chính như sau: Khu vực đô thị: Phát triển kinh tế trí thức, đầu tư mạnh cho công nghiệp, dịch vụ, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, tạo vành đai nông nghiệp xung quanh các thành phố lớn. Cần ưu tiên đầu tư các trung tâm tài chính, ngân hàng lớn. Khu vực nông thôn: Phát triển mạnh nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa, cây rau, quả, chăn nuôi, thủy sản và ứng dụng phổ biến các tiến bộ khoa học, công nghệ trong sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm. Hoàn thành điện khí hóa và thực hiện cơ giới hóa ở những khâu cần thiết. Nâng cao nhanh thu nhập trên một đơn vị diện tích nông nghiệp. Chuyển nhiều lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Phát triển mạnh tiểu, thủ công nghiệp, các làng nghề, mạng lưới công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và các dịch vụ Khu vực trung du và miền núi: Từ trước đến nay, khu vực này ít đựợc đầu tư thích đáng, nếu không có chính sách hỗ trợ phát triển đúng đắn, thì khu vực này sẽ tụt hậu khá xa so với cả nước. Nhà nước khuyến khích, tiếp tục ưu đãi và đặc biệt ưu đãi cho những dự án đầu tư vào các vùng trên. Định hướng vĩ mô cho các vùng núi và trung du là những ngành có sẵn ưu thế địa hình, như trồng cây công nghiệp, kinh tế trang trại, du lịch sinh thái và phát triển rừng. Khu vực biển và hải đảo: Đầu tư tổng hợp kinh tế biển, du lịch, đóng tàu, dầu khí. Với hơn 1 triệu km2 thềm lục địa, chúng ta hoàn toàn có khả năng lấy lợi thế của vùng biển thành vùng phát triển cao và từ đó sẽ thúc đẩy các vùng khá. Trong 10 năm tới, phát triển từng vùng lớn tập trung vào những định hướng quan trọng như sau: (1) Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, đưa nhiều lao động nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ và đi lập nghiệp nơi khác. Phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng. Cùng với lương thực, đưa vụ đông thành một thế mạnh, hình thành các vùng chuyên canh rau, cây ăn quả, thịt, hoa; mở rộng nuôi, trồng thủy sản. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến và cơ khí phục vụ nông nghiệp, các cụm, điểm công nghiệp, dịch vụ và làng nghề ở nông thôn. Trong vùng kinh tế trọng điểm, phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, công nghiệp xuất khẩu, công nghiệp điện tử, thông tin và một số cơ sở cơ khí đóng tàu, luyện kim, phân bón; các dịch vụ có hàm lượng tri thức cao; các trung tâm mạnh của vùng và cả nước về đào tạo, khoa học và công nghệ, thương mại, y tế, văn hóa, du lịch. Hoàn thiện và nâng cấp kết cấu hạ tầng, trước hết là các tuyến trục quốc lộ, các cảng khu vực Hải Phòng, Cái Lân, các sân bay. (2) Miền Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Hình thành và phát huy vai trò các trung tâm thương mại, xuất khẩu, viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, khoa học và công nghệ, văn hóa, đào tạo đối với khu vực phía Nam và cả nước. Đẩy mạnh công nghiệp khai thác dầu khí; sản xuất điện, phân bón và hóa chất từ dầu khí. Hoàn chỉnh và nâng cấp các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Mở mang công nghiệp ở các tỉnh, không tập trung quá mức vào các đô thị lớn. Phát triển mạnh cây công nghiệp (cao su, cà phê, điều, mía đường, bông...), cây ăn quả, chăn nuôi công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, hình thành các vùng chuyên canh tập trung gắn với công nghiệp chế biến, tạo điều kiện thu hút thêm lao động từ đồng bằng sông Cửu Long. Nâng cấp các tuyến quốc lộ nối với các vùng và quốc tế; nâng cấp và xây dựng mới một số cảng biển, sân bay. Xây dựng đô thị trên các trục phát triển gắn với khu công nghiệp. Giải quyết tốt hệ thống giao thông đô thị, cấp và thoát nước, khắc phục ô nhiễm môi trường. (3) Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung Phát huy thế mạnh kinh tế biển, khai thác có hiệu quả các tuyến đường trục Bắc - Nam, các tuyến đường ngang, các tuyến đường xuyên á , các cảng biển. Hình thành các khu công nghiệp ven biển, các khu công nghiệp - thương mại tổng hợp và phát triển kinh tế trên các cửa khẩu và hành lang dọc các tuyến đường. Phát triển các ngành công nghiệp lọc, hóa dầu, vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến và chế tạo khác, các loại hình dịch vụ. Xây dựng theo quy hoạch một số cảng nước sâu, với tiến độ hợp lý. Đẩy nhanh việc xây dựng khu kinh tế Dung Quất - Chu Lai. Phát triển thế mạnh du lịch biển và ven biển, gắn liền với các khu di tích, danh lam thắng cảnh của cả vùng, đặc biệt là trên tuyến Huế - Đà Nẵng - Hội An - Nha Trang. Phát triển nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, tăng nhanh sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, kết hợp với công nghiệp chế biến, đẩy mạnh trồng rừng. Có giải pháp hạn chế tác hại của thiên tai lũ lụt, hạn hán nặng, kết hợp với bố trí lại sản xuất và dân cư. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường toàn dải ven biển. Khai thác có hiệu quả vùng đất phía Tây, chú ý xây dựng các hồ chứa nước chống lũ và làm thủy điện. Từng bước tạo điều kiện để vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ liên kết với Tây Nguyên tham gia có hiệu quả việc hợp tác kinh tế với Lào, Campuchia, nhất là các tỉnh biên giới. (4) Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc và Đông Bắc) Phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, cây đặc sản, chăn nuôi đại gia súc gắn với chế biến. Tạo các vùng rừng phòng hộ đầu nguồn sông Đà, rừng nguyên liệu công nghiệp, gỗ trụ mỏ. Xúc tiến nghiên cứu và xây dựng thủy điện Sơn La. Phát triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nông sản, lâm sản, chú trọng chế biến xuất khẩu. Hình thành một số cơ sở công nghiệp lớn theo tuyến đường 18 gắn với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Phát triển nhanh các loại dịch vụ, chú trọng thương mại. Nâng cấp các tuyến đường trục từ Hà Nội đi các tỉnh biên giới, hoàn thành các tuyến đường vành đai biên giới và các đường nhánh. Phát triển thủy lợi nhỏ gắn với thủy điện nhỏ, giải quyết việc cấp nước sinh hoạt và điện cho đồng bào vùng cao. Phát triển các đô thị trung tâm, các đô thị gắn với khu công nghiệp. Nâng cấp các cửa khẩu biên giới và phát triển kinh tế cửa khẩu. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, định canh, định cư vững chắc, ổn định và cải thiện đời sống cho đồng bào dân tộc. (5)Tây Nguyên Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng của cả nước cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh, có lợi thế để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp sản xuất hàng hóa lớn kết hợp với công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp năng lượng và công nghiệp khai thác khoáng sản. Có chiến lược và quy hoạch xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng, an ninh, tiến tới thành vùng kinh tế động lực. Phát triển nhanh theo hướng thâm canh là chính đối với các cây công nghiệp gắn với thị trường xuất khẩu (cà phê, cao su, chè, bông...), chăn nuôi đại gia súc, trồng và bảo vệ rừng, cây dược liệu, cây đặc sản và công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Phát triển thủy điện lớn và vừa, các hồ chứa nước cho thủy lợi. Khai thác và chế biến quặng bôxít. Phát triển công nghiệp giấy. Nâng cấp, khai thác tốt các tuyến đường trục và đường ngang nối xuống vùng Duyên hải. Phát triển sự hợp tác liên kết kinh tế - thương mại - dịch vụ với các nước láng giềng Lào, Campuchia. Có chính sách thu hút vốn đầu tư, bố trí dân cư và lao động theo quy hoạch, nâng cao dân trí và trình độ công nghệ. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, thật sự cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào dân tộc. (6) Đồng bằng sông Cửu Long Tiếp tục phát huy vai trò của vùng lúa và nông sản, thủy sản xuất khẩu lớn nhất cả nước; đẩy mạnh sản xuất và nâng cao chất lượng lương thực, rau quả, chăn nuôi, thủy sản hàng hóa. Phát triển công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các ngành, nghề tiểu, thủ công nghiệp và các dịch vụ. Triển khai xây dựng các cụm công nghiệp sử dụng khí Tây Nam. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ. Hoàn chỉnh mạng lưới đường bộ và mạng giao thông thủy. Nâng cấp và mở rộng quốc lộ 1A, mở thêm một số tuyến trục để phát triển giao thông phía Tây Nam. Nâng cấp các quốc lộ đến các tỉnh lỵ. Xây dựng cầu qua sông Hậu và có đủ cầu trên các tuyến này. Phát triển mạng đường liên huyện và giao thông nông thôn, xây cầu kiên cố thay cầu khỉ. Hoàn chỉnh các cảng sông, nâng cấp các sân bay. Quy hoạch và xây dựng khu dân cư, kết cấu hạ tầng phù hợp với điều kiện chống lũ hàng năm và ngăn mặn. 3.2 Giải pháp điều chỉnh cơ cấu đầu tư ngày càng hợp lý hơn 3.2.1 Nâng cao chất lượng quy hoạch, chính sách và quản lý đầu tư của chính phủ, địa phương. -Các quy hoạch tổng thể phát triển vùng, kế hoạch đầu tư có ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu đầu tư phát triển. Bởi vì các quy hoạch, kế hoạch này chính là định hướng cho hoạt động đầu tư của các đơn vị. Để chuyển dịch tốt, cần nâng cao chất lượng việc quy hoạch, lập kế hoạch -Tất cả các quy hoạch phải có tầm nhìn dài hạn, ưu tiên cho ngành cụ thể và phải tranh thủ sự giám sát của nhân dân. Các nội dung an ninh quốc phòng cần phải được giữ bí mật, nhưng những quy hoạch kinh tế, xã hội cần phải công khai hóa. -Việc quy hoạch, lập chính sách, luật, không thể chung chung, nhất định phải có mục tiêu cụ thể, có định lượng về chỉ tiêu, các con số. Nguyên tắc quản lý này luôn đúng đắn cho mọi trường hợp, ở tầm vĩ mô thì không thể thiếu sót được. -Công tác dự báo và nghiên cứu cung- cầu thị trường trong nước và quốc tế phải thật sự chủ động, bền vững. Khắc phục tình trạng phát triển chồng chéo và mâu thuẫn giữa các ngành, vùng. Điều đó sẽ cản trở sự phát triển rất nhiều. -Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu đầu tư, chính sách đầu tư , luật đầu tư cần cởi mở và thông thoáng hơn. Như thế mới kích thích các nhà đầu tư an tâm bỏ vốn, và mạnh dạn đầu tư vào những ngành quan trọng hơn. -Các tỉnh, thành phố có quyền cấp giấy chứng nhận đầu tư, quản lý đầu tư. Điều này phát huy tính sáng tạo, năng lực chủ động của địa phương cơ sở, nhưng kèm theo đó, phải quy trách nhiệm rõ ràng, rành mạch, đồng thời phải có ủy ban kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện kế hoạch. -Các địa phương phải có trách nhiệm hướng dẫn doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cho địa phương mình. -Rất nhiều vấn đề liên quan đên đầu tư cho một nước đang phát triển như Việt Nam. Việc đầu tư cần tránh dàn trải, tham lam cho quá nhiều mục tiêu. Chính sách đưa ra cần nêu rõ mục tiêu trước nhất, mục tiêu cụ thể cho từng ngành, vùng, không thể đưa ra quá nhiều cùng một thời điểm, như thế dẫn đến sự chồng chéo, lan man. 3.2.2. Một số giải pháp cụ thể 3.2.2.1 Giải pháp điều chỉnh mạnh cơ cấu theo ngành Việc thực hiện các dự án đầu tư của các ngành trong cả nước sẽ thúc đẩy việc khai thác các nguồn lực để hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý giữa các vùng miền. Điều này thể hiện rõ sức lan tỏa mạnh mẽ tới cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ từ các dự án đầu tư lớn theo ngành.Cụ thể cho các ngành như sau * Công nghiệp-xây dựng : Phải ưu tiên cho các ngành và các lĩnh vực mũi nhọn, đó là điện, viễn thông, chế tạo vật liệu, công nghệ thông tin, may mặc và thủy sản. Trước tiên phải hình thành và hoàn thiện các khu công nghiệp, khu chế xuất, cũng phải nhấn mạnh rằng, các khu công nghiệp này nên cố gắng hết sức để đặt ở những vùng đất xấu, dành phần đất tốt cho sản xuất nông nghiệp. -Các ngành công nghệ cao, cơ khí, công nghiệp nặng đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước lại dành cho kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển văn hoá, giáo dục. Nguồn vốn trong nước lại ở trong tình trạng thiếu và yếu. Những ngành kể trên lại không hấp dẫn vốn đầu tư nước ngoài do quay vòng vốn chậm, đòi hỏi vốn lớn. Do vậy chính sách thu hút vốn vẫn là giải pháp hàng đầu mà chúng ta vẫn thường phải nhắc tới. Hơn thế nữa, vốn dân cư là nguồn vốn khá lớn mà chúng ta chưa tận dụng hết khả năng của mình. -Ngành chế biến thuỷ sản: Tận dụng lợi thế từ thiên nhiên, nguồn lao động rẻ, nguồn vốn đầu tư lại không lớn. Điều cần nên làm ngay lúc này là đầu tư theo chiều rộng các mô hình chế biến hàng thuỷ sản, phục vụ mục tiêu xuất khẩu, cùng với đó, bộ thuỷ sản phải tăng cường công tác dự báo thị trường quốc tế hàng nông sản, ban hành các chuẩn mực chất lượng nghiêm khắc cho từng loại mặt hàng. Chúng ta cũng cần có chiến lược xây dựng thương hiệu cho hàng thuỷ sản, có như vậy giá trị gia tăng do ngành này tạo ra sẽ là rất lớn. -Ngành dệt may: Đặc thù của ngành này là cần nhiều nhân công, khâu việc làm sẽ được giải quyết đáng kể nếu các các doanh nghiệp về dệt may được nhân rộng hơn nữa. Trung Quốc cũng khá giống Việt Nam ở nhiều điểm, nhưng giá cả của họ rẻ hơn của chúng ta rất nhiều. Hàng dệt may của họ có lợi thế do họ trồng sẵn được bông, và tự sản xuất hoá chất nhuộm cho mình. Chúng ta không thể bắt chước họ, trồng bông để phục vụ tốt hơn cho ngành dệt may, vì đơn giản, trồng bông không có lợi thế hơn các loại cây khác, nhưng việc sản xuất hoá chất nhuộm, các loại vải nilon, nhân tạo là hoàn toàn có thể. Đó tạm thời là những nguyên nhân chủ quan, còn nguyên nhân khách quan như việc hàng dệt may Trung Quốc bị cắt giảm ở Hoa Kỳ, chúng ta cần tận dụng càng nhanh càng tốt. * Ngành dịch vụ: - Trước tiên là đầu tư phát triển những ngành có sức cạnh tranh cao, đặc biệt là du lịch. Khai thác ưu thế mà thiên nhiên ban tặng, hơn nữa vốn đầu tư lại không cao. Do vậy cần tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng, giao thông, điện nước…để gián tiếp tạo điều kiện cho du lịch phát triển. -Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế tham gia bình đẳng trên thị trường dịch vụ. -Đầu tư lớn cho các ngành dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao như ngân hàng, tài chính, chứng khoán, bảo hiểm. Đây là những ngành có giá trị gia tăng rất lớn, vì vậy có nhiều nhà đầu tư nước ngoài để mắt tới là điều dễ hiểu. Chúng ta nên mạnh dạn hơn trong khung luật, bớt đi các rào cản để nhà đầu tư nước ngoài tham gia mạnh hơn vào khu vực này. Có thể đây là vấn đề nhạy cảm đối với một nước XHCN như Việt Nam, để khắc phục điều đó mà vẫn đảm bảo cho tăng trưởng nhanh, trước hêt các doanh nghiệp, tập đoàn, ngân hàng trong nước phải cố gắng vươn lên rất nhiều. Có thêm sự xuất hiện của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này thì doanh nghiêp Việt Nam càng có sự tiếp thu kinh nghiệm, càng phải làm việc chuyên nghiệp hơn. Dù sao lợi thế sân nhà, am hiểu dân mình, cũng sẽ giúp cho doanh nghiệp Việt Nam tự tin hơn, và chúng ta có quyền được tin tưởng. -Một khu vực dịch vụ nữa là dịch vụ công cộng. Dịch vụ này liên quan đến trực tiếp đời sống của nhân dân và là yếu tố quan trọng để ổn định xã hội. Việc chuyển đổi phương thức cung ứng dịch vụ này cần phải đồng bộ, có lộ trình cụ thể. Như đã nói ở trên, nguồn vốn của chúng ta rất hạn chế, do vậy không thể tham lam đầu tư cho tất cả mọi thứ, mặc dù tất cả đều quan trọng * Ngành nông nghiệp -Nông nghiệp gắn với những người nghèo nhất của đất nước, thành phần này lại cũng đông nhất trong tổng số dân(60%). Do vậy các giải pháp điều chỉnh cần hết sức chú trọng -Nâng cao năng lực quản lý của bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các cấp cơ sở hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Thu hút nhân tài cho ngành nông nghiệp, có thể các chuyển dịch trong cơ cấu đầu tư của ngành này mới thật sự hiệu quả. -Trước hết, tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống thuỷ lợi, máy móc cho khu vực nông nghiệp.Việc này phải thực hiện mạnh mẽ, sau đó là hình thành nên các vùng chuyên canh sản xuất chất lượng cao về lương thực, nông sản, vật nuôi có đủ điều kiện xuất khẩu. - Tập quán sản xuất nông nghiệp của nông dân còn lạc hậu, để đầu tư hiệu quả hơn, phải thay đổi cách làm nông của họ. Chúng ta cần đầu tư vùng trồng lúa lớn, khắc phục tình trạng ruộng đất mạnh mún. Và vùng trồng trọt lớn còn dễ dàng áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật như phân bón hay máy cơ giới. -Như chúng ta đã chứng kiến, trong năm 2007, và sẽ tiếp tục trong năm 2008, giá lương thực thực phẩm tăng cao chưa từng thâý. Điều này sẽ làm chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp mạnh, mà không phải do tác động của chính sách vĩ mô nào. Bộ nông nghiệp cần làm tốt công tác dự báo cung cầu thị trường, cũng như chính sách hỗ trợ nông dân khi giá thay đổi hay do ảnh hưởng nặng nề của thời tiết. -Chuyển bớt lao động ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều đó phải có hỗ trợ liên ngành trong việc đào tạo của ngành công nghiệp, dịch vụ. Đồng thời phát triển các làng nghề thủ công ở nông thôn, tranh thủ thời kỳ nông nhàn để sản xuất những sản phẩm mỹ nghệ, thủ công, tạo ra giá trị cao và xuất khẩu. -Tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp, chú trọng về chất lượng, các yêu cầu về chất lượng cũng phải để người nông dân nắm rõ, có như vậy sản xuất mới hiệu quả và gia tăng giá trị cho sản phẩm nông nghiệp. -Tiếp tục thu hút FDI trong ngành nông nghiệp. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thu hút FDI đạt hiệu quả thấp, trong đó nguyên nhân chính là ngành NN&PTNT còn thiếu năng lực quản lý, thiếu cung cấp các dịch vụ thông tin cần thiết cho những đối tác đầu tư và thương mại của ngành. Bên cạnh đó, tính rủi ro của các dự án FDI nông nghiệp rất lớn, do phụ thuộc vào thiên nhiên của từng khu vực nông thôn và cơ sở hạ tầng nông thôn yếu kém, kỹ năng lao động thấp. Ngoài ra, việc triển khai các thủ tục hành chính vẫn còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế và chính sách. Giải pháp trước tiên là tháo gỡ những hạn chế trên. Ngành nông nghiệp cần có đề xuất các dự án FDI của từng ngành, nêu rõ những ưu đãi, hỗ trợ, đồng thời có cơ quan chuyên theo dõi, và giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện và xúc tiến đầu tư FDI. Bên cạnh các lĩnh vực thu hồi vốn nhanh như sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc, giống cây trồng và vật nuôi, FDI nên phát triển cho các lĩnh vực công nghệ sinh học, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi mới, trồng chế biến các loại rau, quả xuất khẩu bằng công nghệ kỹ thuật cao để mặt hàng nông sản Việt Nam có thương hiệu trên thị trường quốc tế, mang lại hiệu quả kinh tế cao, là một trong những mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Hy vọng trọng thời gian tới với sự hỗ trợ của một hệ thống cơ chế chính sách về khuyến khích FDI bao gồm các chính sách về ưu đãi vốn và tín dụng, đất đai, phát triển thị trường, hạ tầng và nguồn nhân lực…ổn định và hoàn thiện hơn. Ngành NN&PTNT cũng sẽ phát triển hệ thống quản lý và xúc tiến FDI đối với các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam cũng như các nước vùng lãnh thổ có tiềm năng đầu tư vào nông nghiệp…hướng tới mục tiêu đến năm 2010, ngành nông nghiệp có thể huy động 1,5 tỷ USD vốn thực hiện FDI. Đây cũng có thể coi là chìa khoá để giải đáp cho bài toán cơ cấu đầu tư của ngành nông nghiệp 3.2.2.2 Giải pháp điều chỉnh mạnh cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn. *Điều chỉnh từ nguồn vốn ngân sách nhà nước: - Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn rất hạn hẹp, lại bị co kéo bởi nhiều nhu cầu cấp bách, nên có nhiều hạn chế trong việc bố trí cơ cấu đầu tư, chuyển đổi cơ cấu đầu tư. Các Bộ, các địa phương chưa quan tâm đến việc tạo thêm các nguồn vốn khác để cải thiện cơ cấu đầu tư, còn trông chờ, ỷ lại nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Nguồn vốn tín dụng của Nhà nước cũng rất hạn hẹp, việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư chủ yếu là ngắn hạn, Nhà nước dùng cơ chế bù lãi suất mới có thể chuyển từ vốn vay ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn. Hàng năm cũng chỉ đáp ứng được 50%-60% nhu cầu. Vậy trước tiên là tháo gỡ hạn chế từ chính mặt chủ quan của chúng ta. Nâng cao năng lực quản lý vốn ngân sách nhà nước từ các bộ ngành, và tiếp theo là thu hút tối đa vốn, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó. -Thực hiện nguyên tắc, vốn nhà nước là tiền của dân, nên phải được đại diện của dân bàn và quyết định. Theo đó các công trình do trung ương quyết định cần phát huy vai trò của các Hội đồng nhân dân đối với việc sử dụng vốn ngân sách địa phương cho đầu tư phát triển. Công khai hoá vốn đầu tư của nhân sách nhà nước, giải pháp cho việc đầu tư không đúng chỗ và thất thoát vốn. Việc này có thể hiện bằng tích cực sự giám sát của nhân dân, công bố công khai dự án đầu tư để dân chúng đóng góp về chủ trương đầu tư, sau đó tham gia việc đấu thầu và thi công xây dựng. -Để giải quyết vấn đề nhiều công trình đầu tư theo vốn nhà nước còn quá chậm chạp, cần quy định rõ rang về tiến độ, thời gian thực hiện tuỳ từng trường hợp, và nếu vi phạm vào điều này thi trách nhiệm phải như thế nào. -Thu hút vốn ODA, quan trọng hơn là sử dụng vốn này sao cho thật sự hiệu quả. Công tác giải ngân phải gấp rút, nhưng phải hiệu quả, chứ không phải chi tiền một cách vô tội vạ. Những khuyến nghị cụ thể được đưa ra, như: xây dựng hoàn thiện môi trường pháp lý cho việc vận động, thực hiện nguồn vốn ODA; hoàn thiện hệ thống quản lý, giám sát thực hiện nguồn vốn ODA; Thu hút vốn ODA tập trung theo định hướng vào lĩnh vực cụ thể, tránh dàn trải theo lối tư duy “hoa thơm mọi người cùng ngửi” * Nguồn vốn trong nước từ khu vực dân cư -Tạo điều kiện để khu vực dân cư cùng với nhà nước bỏ vốn đầu tư các dự án lớn, công trình quan trọng, các dự án thu hút đông lao động tại chỗ, các dự án phát triển ngành nghề nông thôn, dự án cơ sở hạ tầng nông thôn, nhằm thu hút tối đa nguồn vốn trong khu vực dân cư. -Tạo điều kiện thuận lợi, không phân biệt đối xử cả về thủ tục hành chính và cả tâm lý cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển theo đúng chủ trương “được tự do kinh doanh trong tất cả lĩnh vực ngành nghề mà nhà nước không cấm”. * Nguồn vốn đầu từ nước ngoài -Nguồn vốn FDI có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình CNH, HDH, chuyển dịch cơ cấu đầu tư và tăng trưởng nhanh cho nước nhận vốn -Ban hành các cơ chế, chính sách, biện pháp cải tiến các thủ tục, tháo gỡ các khó khăn, ách tắc, theo hướng cởi mở thông thoáng để giảm thiểu những cản trở, tăng khả năng thu hút nguồn vốn bên ngoài -Công bố các danh mục, công trình đầu tư, định hướng phát triển đầu tư để các nhà đầu tư nắm rõ, lựa chọn. -Trong thời gian tới, trước nguy cơ khủng hoảng của nền kinh tế thế giới, nguồn vốn trực tiếp nước ngoài FDI sẽ có nguy cơ chững lại. Trong thời gian đó chúng ta cần tranh thủ tháo gỡ tất cả những hạn chế trong khung luật của chúng ta, tạo điều kiện tốt để phát triển cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại và theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng chiến lược cạnh tranh nâng cao sức hấp dẫn đầu tư của Việt Nam so với các nước trong khu vực như Malaysia, Indonesia, Trung Quốc. -Tạo thuận lợi để phát triển mạnh mẽ hơn nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài FII, đây là kênh thu hút vốn tiềm năng nhất hiện nay mà chúng ta cần nỗ lực tập trung nắm bắt. 3.2.2.3 Giải pháp điều chỉnh mạnh cơ cấu theo vùng, lãnh thổ - Xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực cho các các vùng lân cận phát triển. Những dự án đầu tư lớn thuộc ngành thường được đầu tư cho những vùng này, nhưng sức lan tỏa của nó tới các vùng khó khăn xung quanh là rất lớn, nó tạo ra những ngành công nghiệp phụ trợ, tạo ra nhu cầu cần nguồn cung nguyên vật liệu, và điều này gián tiếp khắc phục tình trạng vốn đầu tư thường khá thờ ơ với những vùng còn khó khăn. - Công tác quy hoạch vùng phải diễn ra nhanh, kịp thời và chú ý tới quỹ đất cho nông nghiệp, nếu công tác quy hoạch tốt, hợp lý thì mâu thuẫn giữa các nhóm ngành sẽ dễ dàng khắc phục hơn. - Đầu tư ngân sách nhà nước cho các vùng nông thôn miền núi, nâng cao cơ sở hạ tầng của các vùng này, đặc biệt là giao thông- vận tải. Một điều khiến cho công tác này trở nên vô cùng chậm chạp là việc giải ngân của các địa phương khi được giao quyền quá bừa bãi và thất thoát lớn. Nhiều công trình xây dựng đường bỏ dở hang năm trời, vật liệu xây dựng bị thất thoát, xuống cấp. Và điều này đến từ việc quản lý lỏng lẻo, chưa rõ trách nhiệm thuộc ai, và nhân dân cũng chưa giám sát chặt chẽ. Danh mục các tài liệu kham thảo Giáo trình Kinh tế đầu tư- Đồng chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt. PGS.TS. Từ Quang Phương.- Nhà xuất bản ĐạI học Kinh tế quốc dân. Năm 2007. Đánh giá tình hình thực hiện phát triển kinh tế xã hộI 5 năm 2001- 2005- Nhà xuất bản ĐạI học Kinh tế quốc dân. Định hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế ở nước ta giai đoạn 1996- 2010. Tác giả: Lê Huy Đức, 1996. Niên giám thống kê 2006.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV1073.DOC
Tài liệu liên quan