Thực trạng và giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn các đô thị

Để phục vụ cho quá trình đô thị hoá, phát triển đất nước, phục vụ đời sống nhân dân, Nhà nước đã thu hồi đất để GPMB nhằm phục vụ cho các dự án đầu tư xây dựng, các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; xây dựng trường học, bệnh viện; mở rộng, cải tạo và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, giao thông đô thị Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia, an ninh quốc phòng vì thế quyết định thu hồi đất của Nhà nước là mệnh lệnh bắt buộc người có đất bị thu hồi phải chấp hành. Nếu người sử dụng đất có đất bị thu hồi là hợp pháp thì khi bị thu hồi sẽ được bồi thường thiệt hại, hỗ trợ về đất và các tài sản trên đất. Tuy Nhà nước có chủ trương đền bù giá sát với giá thị trường nhất, thực tế cho thấy mức giá đền bù hỗ trợ này thường thấp hơn so với mức giá trên thị trường. ở nước ta Luật đất đai 2003 đã quy định “ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là người đại diện nhân dân thống nhất quản lý toàn bộ quỹ đất trên phạm vi toàn lãnh thổ”. Nên việc thu hồi đất phục vụ cho công tác GPMB sẽ ảnh hưởng không những tới lợi ích của Nhà nước mà còn ảnh hưởng tới lợi ích của các đối tượng khác có liên quan như chủ đầu tư và người có đất bị thu hồi. GPMB sẽ làm thay đổi chủ sử dụng và mục đích sử dụng (chuyển từ chủ sử dụng là hộ gia đìnhc, cá nhân sang chủ sử dụng là các tổ chức kinh tế, chủ doanh nghiệp ; chuyển từ mục đích sử dụng có hiệu quả kinh tế thấp sang mục đích sử dụng có hiệu quả kinh tế cao - đất sản xuất nông nghiệp sang xây dựng khu công nghiệp ).

doc39 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 835 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn các đô thị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho thuê, thừa kế, thế chấp Với đất bị thu hồi thì được bồi thường thiệt hại cho cả mảnh đất đó và tài sản trên đất dựa trên khung giá đất do Nhà nước quy định. Để bổ sung cho Luật đất đai năm 1993 và quy định chi tiết trong các hoạt động liên quan đến quy định bồi thường thiệt hại là các Nghị định, Thông tư đi kèm. Nghị định số 90/1994/NĐ - CP ngày 17 tháng 8 năm 1994 quy định về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Nghị định số 87/1994/NĐ - CP quy định về khung giá các loại đất. Nghị định số 22/1998/NĐ - CP thay thế Nghị định số 90/1994/NĐ - CP, Nghị định số 22 đã quy định hệ số k cùng giá đất bồi thường cho phù hợp với thực tế. Tuy nhiên Luật đất đai 1993 vẫn còn nhiều hạn chế. Việc thực hiện theo luật này và các Nghị định, Thông tư ban hành kèm theo còn gặp rất nhiều khó khăn và chưa chi tiết để người sử dụng đất dễ dàng thực hiện. Trước tình hình đó, Luật đất đai 2003 đã ra đời ngày 26 tháng 11 năm 2003 kèm theo các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thực hiện luật đất đai. Nghị định số 182/2004/NĐ - CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai (trong đó có vi phạm liên quan đến thu hồi đấtt, GPMB: cố ý gây cản trở cho việc thu hồi đất, chậm bồi thường thiệt hại). Nghị định số 188/2004/NĐ - CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất. Nghị định số 197/NĐ - CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 về bồi thường thiệt hại, hỗ trợ tái định cư thay thế Nghị định số 22. Luật đất đai 2003 đã kế thừa những quy định của Luật đất đai năm 1993, trong đó quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là người đại diện quản lý và tiếp tục quy định việc thu hồi đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế tại Điều 39 của Luật. Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để thực hiện vào các mục đích trên phải theo quy định của Chính phủ. Theo quy định của Luật đất đai năm 2003, Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất hợp pháp (có giấy chứng nhận quyền sử dụng đấtc, hoặc đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chứng minh được mảnh đất đó hợp pháp và không có tranh chấp) thì người đó đựơc bồi thường. Trừ các trường hợp được quy định tại khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 Điều 38 và các điểm b, c, d, đ khoản 1 Điều 43. Việc thu hồi đất xuất phát từ mục đích của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai – sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế, vì thế các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức phải thực hiện quyết định thu hồi đất của Nhà nước. 3. Các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong công tác GPMB. Nghị định số 197/2004/NĐ - CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, quy định cụ thể như sau: 3.1. Thẩm quyền thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: + Chính phủ tổ chức chỉ đạo việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong cả nước; kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước (tỉnh và thành phố trực thuộc trung ươngt). + UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh tổ chức việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương cấp dưới trực tiếp. + UBND xã, phường, thị trấn tổ chức chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương; chống lại, ngăn chặn hành vi sử dụng đất trái với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố. + Bộ quốc phòng, Bộ công an tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng - an ninh trình Chính phủ xét duyệt. 3.2. Thẩm quyền thực hiện công tác GPMB. + UBND các cấp phối hợp với các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức đoàn thể vận động người bị thu hồi đất tự giác thực hiện quyết định thu hồi đất, GPMB. Trường hợp đã thực hiện đúng các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, người bị thu hồi đất cố tình không thực hiện quyết định thu hồi đất thì cơ quan quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế và tổ chức thực hịên cưỡng chế theo quy định của pháp luật. + Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, UBND cấp tỉnh phân cấp hoặc uỷ quyền cho UBND cấp huyện ra quyết định cưỡng chế và thực hiện cưỡng chế. + Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, UBND cấp tỉnh giao việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho: . Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Các thành viên trực thuộc hội đồng cấp huyện bao gồm: Lãnh đạo UBND cấp huyện làm chủ tịch hội đồng; các thành viên có: đại diện của cơ quan tài chính, chủ đầu tư, đại diện cơ quan tài nguyên & môi trường, đại diện UBND cấp xã có đất bị thu hồi, đại diện của hộ gia đình bị thu hồi đất từ một đến hai người. Tuỳ tình hình từng địa phương mà hội đồng có thể có thêm các thành viên khác. . Tổ chức phát triển quỹ đất. 3.3. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại. + Người bị thu hồi đất nếu chưa đồng ý về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thì được khiếu nại theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm giải quyết khiếu nại, thời hiệu giải quyết khiếu nại thực hiện theo quy định tại Điều 138 của Luật đất đai năm 2003 và Điều 162, 163, 164 NGhị định số 181/2004/ NĐ- CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai. + Trong khi chờ giải quyết khiếu nại, người bị thu hồi đất vẫn phải chấp hành quyết định thu hồi đất, giao đất đúng kế hoạch và thời gian đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định. Như vậy thẩm quyền thực hiện công tác GPMB có sự tham gia của UBND các cấp (cấp tỉnhc, cấp huyện, cấp xã), các sở, ban, ngành (sởs, ban, ngành cấp tỉnh: Sở tài chính, Sở xây dựng, quy hoạch & kiến trúc, Sở tài nguyên & môi trường), trách nhiệm của các bộ (Bộ tài chínhB, Bộ kế hoạch & đầu tư, Bộ xây dựng, Bộ tài nguyên & môi trường), chủ đầu tư. Ngoài ra còn có đại diện của những hộ bị thu hồi đất. Việc tham gia đầy đủ của các bên trong công tác GPMB đảm bảo cho lợi ích của Nhà nước, chủ đầu tư cũng như lợi ích của người bị thu hồi đất, của cộng đồng và xã hội. III. CÁC QUY ĐỊNH ĐỀN BÙ SAU GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG. Nghị định số 197/2004/NĐ- CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ quy định việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất như sau: 1. Bồi thường thiệt hại đất. - Người bị thu hồi đất đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc bằng nhà có chênh lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thực hiện thanh toán bằng tiền. - Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả Ngân sách nhà nước. - Giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích sử dụng tại thời điểm có quyết định thu hồi đất do UBND cấp tỉnh công bố theo quy định của Chính phủ; không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng. 2. Bồi thường thiệt hại tài sản. - Chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất mà bị thiệt hại thì được bồi thường. - Chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất mà đất đó thuộc đối tượng không được bồi thường thì tuỳ từng trường hợp cụ thể được bồi thường hoặc hỗ trợ tài sản. - Nhà, công trình khác gắn liền với đất được xây dựng sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất công bố mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép xây dựng thì không được bồi thường. - Nhà, công trình khác gắn liền với đất được xây dựng sau ngày 07 tháng 7 năm 2004 mà tại thời điểm xây dựng đã trái với mục đích sử dụng đất đã được xác định trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã xét duyệt thì không được bồi thường. - Hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất có thể tháo dời và di chuyển được thì chỉ được bồi thường các chi phí tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt và thiệt hại khi tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt; mức bồi thường do UBND cấp tỉnh quy định phù hợp với pháp luật hiện hành và thực tế ở địa phương. 3. Chính sách hỗ trợ. 3.1.Hỗ trợ di chuyển. Hộ gia đình, tổ chức khi Nhà nước thu hồi đất đủ điều kiện được bồi thường thiệt hại thì khi di chuyển chỗ ở, di chuyển cơ sở được hỗ trợ cho chi phí thực tế về di chuyển, tháo dỡ và lắp đặt; mức hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định. Người bị thu hồi đất ở không còn chỗ ở khác trong thời gian tạo lập chỗ ở mới được bố trí nhà ở tạm hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà; mức hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định phù hợp với thực tế tại địa phương. 3.2. Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp được giao, được hỗ trợ ổn định đời sống. Khi Nhà nước thu hồi đất của tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh có đăng kí kinh doanh mà bị ngừng sản xuất kinh doanh được hỗ trợ ổn đinh sản xuất. Mức hỗ trợ cụ thể cho các trường hợp trên do UBND cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế ở địa phương. 3.3. Hỗ trợ chuyển đổi nhề nghiệp và tạo việc làm. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp được giao, được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người trong độ tuổi lao động; mức hỗ trợ và số lao động cụ thể được hỗ trợ do UBND cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế ở địa phương. Việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ yếu bằng hình thức cho đi học nghề tại các cơ sở dạy nghề. 3.4. Hỗ trợ cho người đang thuê nhà không thuộc sở hữu Nhà nước. Khi bị thu hồi nhà sẽ được Nhà nước hỗ trợ di chuyển, ngoài ra có thể hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân. 3.5. Hỗ trợ khi thu hồi đất công ích của xã, phường, thị trấn. Khi thu hồi đất này sẽ được hỗ trợ, mức hỗ trợ cao nhất có thể bằng mức bồi thường; mức hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định; tiền hỗ trợ được nộp vào Ngân sách nhà nước và được đưa vào dự toán ngân sách hàng năm của xã, phường, thị trấn. 3.6. Hỗ trợ khác. Căn cứ vào tình hình địa phương, chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định biện pháp hỗ trợ khác để ổn định đời sống và sản xuất cho người bị thu hồi đất. CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TẠI CÁC ĐÔ THỊ. I.TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TRÊN ĐỊA BÀN CÁC ĐÔ THỊ. 1. Những kết quả đạt được trong thời gian qua trong công tác giải phóng mặt bằng tại các đô thị. Dưới sự chỉ đạo sát sao của Đảng uỷ, HĐND, UBND các cấp, cùng sự phối hợp của các sở, ban, ngành trong thời gian qua phần lớn các dự án có sử dụng đất đã cơ bản hoàn thành xong công tác GPMB và bàn giao mặt bằng cho các chủ dự án tiến hành thi công, xây lắp công ttrình. Nhờ công tác GPMB được đẩy nhanh, cả nước đã hoàn thành xong hàng chục khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu chế xuất. Các tuyến đường giao thông được cải tạo, mở rộng và xây mới phục vụ cho nhu cầu giao thông, thương mại. Tại thành phố Hà Nội đã thực hiện xong dự án xây dựng con đường Láng - Hoà Lạc dẫn đến khu Liên hiệp Thể thao Quốc gia đã được sử dụng trong nhiều năm qua, mới đây đã hoàn thành xong dự án mở rộng nút giao thông đô thị Ngã tư Sở, Ô Chợ Dừa - Kim Liên Công tác GPMB được thực hiện tốt tạo điều kiện cho nhiều dự án lớn phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - thương mại - nông nghiệp. Xây dựng các khu công nghiệp tập trung, di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp ô nhiễm ra khỏi nội thành và khu dân cư, giải quyết việc làm cho phần lớn lao động. Cơ cấu đô thị phát triển theo hướng đồng bộ, hiện đại với nhiều nút giao thông quan trọng. Công tác tuyên truyền phổ biến tới người dân đã được thực hiện tích cực. Một số địa bàn cấp cơ sở đã có sự tham gia tuyên truyền của các tổ chức chính trị, các đoàn thể xã hội như: Mặt trận tổ quốc cấp xã, phường, thị trấn; hội cựu chiến binh, hội phụ nữ xã đã góp phần không nhỏ trong công tác GPMB. Ghi nhận sự hy sinh, tự giác, tự nguyện, những đóng góp to lớn của người dân, đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác GPMB đặc biệt cán bộ cơ sở. Các chủ dự án và chính quyền các cấp đã coi trọng công tác công bố công khai chi tiết tới các hộ gia đình trong diện bị thu hồi đất trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương. Chính sách đền bù đã thông thoáng và mềm dẻo hơn, đã có khung giá đền bù cụ thể của Nhà nước và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết việc bồi thường hợp lý và giá đền bù đối với đất, tài sản trên đất đã sát với giá thị trường hơn nhưnng cần được điều chỉnh một số bất cập. Chủ động quỹ nhà, quỹ đất, bằng nhiều nguồn lực tạo quỹ nhà ở tái định cư qua việc đặt hàng mua nhà của các dự án kinh doanh nhà ở, đầu tư ngân sách vào các dự án xây dựng nhà chung cư cung cấp cho người dân ổn định chỗ ở khi bị thu hồi đất. Chính quyền các cấp đã chú trọng điều chỉnh, bổ sung các chính sách cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tham gia dự án. Công tác giải quyết các đơn từ khiếu nại tố cáo đã giải quyết một phần nhưng cần nhanh chóng và dứt điểm hơn. Hàng năm và trước mỗi dự án đều có chương trình huấn luyện, đào tạo, nâng cao kiến thức chuyên môn cho cán bộ trực tiếp tham gia công tác GPMB. Các sai pham của cán bộ được xử lý nghiêm minh trước pháp luật (một số chủ dự án về xây dựng nhà tái định cư không đủ tiêu chuẩn chất lượng đã bị xử lým, cán bộ tham ô, tham nhũng Ngân sách nhà nước trong công tác đền bù GPMB phải đứng trước vành móng ngựa). Như vậy mặc dù Đảng và Nhà nước ta phải tập trung cho nhiều công tác khác nhau (chuẩn bị cho hội nghị APECc, cho bước đầu tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO.) nhưng vẫn đẩy mạnh công tác GPMB và thu được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên công tác GPMB vẫn còn nhiều khó khăn phức tạp, và là nhiệm vụ lâu dài cần có định hướng cụ thể trong những năm tới. 2. Những tồn tại cần khắc phục. Công tác GPMB trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận nhưng cũng còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc. Khi thực hiện công tác điều tra kê khai diện tích đất, tài sản trên đất chưa chính xác, việc xác định chủ sở hữu chưa chặt chẽ, một số trường hợp trên địa bàn còn xác định sai chủ sở hữu. Các văn bản, chính sách khi ban hành chưa chặt chẽ còn nhiều kẽ hở, từ ngữ khó hiểu, khó áp dụng ngay mà còn phải điều chỉnh nhiều. Sự điều chỉnh trong giá đền bù quá lớn hoặc chưa thực sự hợp lý với quy định của pháp luật hoặc không phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương. Chính sách hỗ trợ công trình, vật kến trúc thấp không đáp ứng được giá trị của các hộ trước đó đã bỏ tiền ra xây dựng. Công tác tuyên truyền chưa đem lại hiệu quả cao. Một số công dân không nhận giấy mời hoặc không tới dự họp, gây khó khăn cho công tác kê khai diện tích đất và tài sản trên đất. Công tác công khai công bố dự án đầu tư chưa thực hiện tốt, mới thực hiện cho có mà không chú ý tới vai trò của quần chúng nhân dân - những người bị thu hồi đất. Công tác quản lý đất đai còn lỏng lẻo, chưa xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm trong sử dụng đất, công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở còn chậm trễ. Chính sách đền bù: mức bồi thường, hình thức bồi thường còn nhiều bất cập. Một số cán bộ còn cửa quyền trong công tác quản lý đất đai, công tác GPMB, còn xuất hiện các hiện tượng mắc ngoặc, tham ô, tham nhũng Tại Thành phố Hà Nội công tác GPMB phục vụ dự án đường Kim Liên - Ô Chợ Dừa đã phải cưỡng chế đợt hai. Đợt hai đã có 12 hộ dân trong 13 hộ đã chấp thuận phương án đền bù và tự nguyện di dời; các hộ chưa chịu nhận tiền bồi thường do thắc mắc về mức hỗ trợ một phần diện tích. Như vậy đơn cử từ công tác GPMB ở nút giao thông Kim Liên - Ô Chợ Dừa đã gặp khá nhiều khăn phải dùng đến biện pháp cưỡng chế. Biện pháp cưỡng chế người dân di dời, tháo dỡ công trình, vật kiến trúc giao lại mặt bằng là điều không thể tránh khỏi.Tuy nhiên trong dự án này đã phải hai lần cưỡng chế các hộ di dời giao lại mặt bằng vẫn còn một hộ chưa chịu chấp hành lại là một điều đáng bàn cần được các cấp, các ngành xem xét lại cách quản lý và thực hiện công tác trong dự án này (Theo báo Tinh tế & đô thị ra ngày 18-9-2006). Tại thị xã Bạc Liêu còn xôn xao trong dư luận về vấn đề đền bù theo kiểu “ sống chết mặc bay”. Đó là dự án xây dựng và kinh doanh thuộc khu dân cư phường 2 - thị xã Bạc Liêu với tổng diện tích đất bị thu hồi là 54 ha đất, ảnh hưởng tới 156 hộ dân do công ty Đầu tư kinh doanh 577 thuộc tổng công ty Công trình giao thông 5 - Bộ giao thông vận tải làm chủ đầu tư. Mức bồi thường được thống nhất tuỳ theo loại đất và khung giá khác nhau (Mức bồi thường được thống nhất giữa chủ đầu tư và Chủ tịch UBND thị xãM): đất phi nông nghiệp mức đền bù là 73.000 đồng /m2, đất nông nghiệp: 44.000 đồng /m2, đất ở: 150.000 đồng /m2. Nhưng khi áp dụng người dân chỉ nhận chung một đơn giá: 18.000 đồng /m2 cho tất cả các loại đất, riêng đất nông nghiệp được nhà đầu tư “ hỗ trợ thêm” 3.000 đồng /m2 gọi là “ cho thêm” công khai phá, cải tạo Riêng đất giải quyết cho vấn đề tái định cư sau quy hoạch được nêu rõ trong phương án bồi thường: với hộ đơn lẻ được đổi một nền nhà theo quy đinh phân lô tại nơi tái định cư. Trường hợp hộ nhiều thế hệ được đổi hai nền nhà theo quy hoạch và có thể được xét theo giá không kinh doanh với hộ nghèo Nhưng các quy định chính sách đã không được nhà đầu tư thực hiện đúng mà áp dụng bán nền nhà tái định cư (với giá bằng nhauv). Ví dụ: nếu hộ có diện tích trên 1000m2 thì được mua lại nền nhà tái định cư với giá “ ưu đãi” 12 triệu đồng /m2, còn hộ có diện tích dưới 1000m2 thì giá mua sẽ là 13 triệu đồng /m2 kể cả hộ nghèo hay gia đình chính sách. Với giá đắt đỏ thế này khiến cho nhiều hộ rơi vào cảnh mất đất, mất nhà vì phần lớn là hộ nghèo. Chính quyền thị xã cũng không bảo vệ người dân lại lấy lý do để kịp giao đất cho nhà đầu tư đã “ khuyến khích” các hộ dân nhận tiền bồi thường và sớm ra khỏi vùng quy hoạch. Nhiều tháng nay hàng trăm hộ có đất bị thu hồi đã gửi đơn yêu cầu các cơ quan chức năng tỉnh giải quyết nhưng vẫn chưa được giải quyết ( Theo tin tức cuối tuần số 44 từ ngày 2/11- 8/11). Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn do tính chất phức tạp của nó. Có nhiều đơn thư khiếu nại được gửi lên các cấp chính quyền. Cũng theo thời báo tin tức cuối tuần số 43 ra ngày 1-11-2006 đưa tin hộ ông Lê Trung Hoàn trú tại 01/86 Phan Chu Trinh, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hoá có đơn thư khiếu nại chính quyền Thanh Hoá thực hiện cưỡng chế thu hối diện tích đất ở của gia đình ông không tuân thủ theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền thu hồi đất của gia đình ông thuộc UBND Thành phố nhưng đến nay không hề nhận được quyết định nào về thu hồi đất. Diện tích đất đó lại không thuộc phạm vi xây dựng quảng trường Lam Sơn. Mục đích thu hồi đất là bán để tạo kinh phí đền bù GPMB dự án xây dựng quảng trưòng Lam Sơn không đúng quy định của Luật đất đai về các trường hợp thu hồi đất. Trong khi gia đình ông đã sinh sống ổn định, có quyền sử dụng hợp pháp nhà, đất mà không bố trí tái định cư. Như vậy còn rất nhiều tồn tại, khó khăn trong công tác GPMB cần được các cấp chính quyền quan tâm, đặc biệt là công tác đền bù GPMB để giảm sự khiếu nại tố cáo xuất phát từ người bị thu hồi đất. 3.Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác giải phóng mặt bằng. Công tác GPMB trên nhiều địa bàn còn gặp khó khăn do người bị thu hồi đất chưa chịu di dời và tháo dỡ công trình để giao mặt bằng cho chủ đầu tư hoặc gửi đơn khiếu nại tố cáo tới cơ quan nhà nước cấp có thẩm quyền. Nguyên nhân chủ yếu của những vấn đề trên được xem xét trên nhiều khía cạnh. Khi thực hiện công tác kê khai phục vụ cho GPMB đã xuất hiện nguồn gốc đất của một số hộ đang sử dụng là không hợp pháp, không rõ nguồn gốc. Qua thời gian sử dụng lâu dài và cơi nới thêm và họ nhầm tưởng mảnh đất đang sử dụng hợp pháp, thực tế họ không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ chứng minh nguồn gốc hợp pháp do đó khi bị thu hồi đất GPMB mà không được bồi thường thiệt hại về đất thì cho rằng chính quyền đã làm sai. Một số mảnh đất khi bị thu hồi bồi thường xảy ra tranh chấp về ranh giới, diện tích và một số tài sản trên đất giữa các hộ giáp ranh. Một số hộ có diện tích thực tế lớn hơn diện tích trong hồ sơ địa chính nhưng khi bồi thường lại yêu cầu các cấp chính quyền phải bồi thường theo đúng diện tích thực tế; trong quá trình sử dụng các hộ gia đình đã cơi nới thêm nhưng không bị chính quyền cấp xã xử lý triệt để mà chỉ bị xử phạt hành chính. Một số hộ có công trình, vật kiến trúc, nhà ở mua qua nhiều chủ hoặc không trực tiếp sử dụng mà cho thuê lâu dài dẫn đến khi xác định chủ không chính xác. Đây chính là hậu quả của việc quản lý đất đai chưa chặt chẽ trong thời gian trước đây. Một nguyên nhân khác nữa là do công tác tuyên truyền chưa thực sự có hiệu quả. Có hộ nhất quyết không chịu giao mặt bằng cho chủ dự án là chủ các doanh nghiệp, họ chỉ sẵn sàng trả lại đất khi mảnh đất của họ thu hồi để xây dựng các công trình quốc gia. Một số hộ cho rằng các doanh nghiệp tư nhân phải bồi thường với mức giá cao hơn so với doanh ngiệp nhà nước. Trong khi đó quy định của Nhà nước là 5 thành phần kinh tế đều được hưởng chính sách đầu tư và phát triển như nhau. Dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài từ năm này qua năm khác. Một số dự án lại không được công bố công khai hoặc công bố chưa rộng rãi đến người có đất thuộc diện bị thu hồi GPMB. Một số chủ dự án cho rằng dự án đang thực hiện có quy mô nhỏ nên không cần công bố công khai chi tiết nên khi thực hiện việc thu hồi, giải toả gặp sự phản kháng từ quần chúng nhân dân do chưa công bố, công khai, giải thích rõ ràng về các văn bản, chính sách có liên quan đến GPMB cho từng hộ. Bất cập trong chính sách đền bù là nguyên nhân chính của việc khiếu nại, chậm trễ trong giao đất trả mặt bằng cho chủ dự án. Các văn bản hướng dẫn còn chưa đầy đủ, đồng bộ gây khó khăn trong việc xác định và phân loại mức bồi thường, giá bồi thường đất có những khu vực còn chưa hợp lý. Giá đất bồi thường được tính theo hạng nhưng có những hạng mức chênh lệch nhau khá lớn sẽ gây thắc mắc cho người dân. Các chính sách hỗ trợ, đền bù trên nhiều địa bàn còn áp dụng máy móc chưa có sự linh hoạt để phù hợp với từng địa phương (cần có sự điều chỉnh lợp lýc). Cần linh hoạt trong áp dụng hình thức đền bù, mức giá đền bù (chính sách về cung cấp nhà tái định cưc, nên đào tạo nghề gì cho phù hợp với những người phải thay đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất). Các chủ đầu tư vẫn chưa quan tâm đúng mức đến công tác xây dựng khu tái định cư, tiến độ xây dựng khu tái định cư rất chậm, chất lượng kém làm cho người dân hoang mang chưa chịu nhận tiền bồi thường. Việc bồi thường còn diễn ra chậm khiến người bị thu hồi đất lao đao trong việc ổn định lại cuộc sống sau khi bị thu hồi đất. Công tác giải quyết đơn từ, khiếu kiện chưa kịp thời và dứt điểm. Một số đơn từ được gửi đến nhưng không được các cấp chính quyền giải quyết hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau khi đơn từ khiếu nại, tố cáo đó có liên quan đến một số cán bộ quản lý nhà nước về đất đai. Một số đơn từ trả lời một cách chung chung thiếu thực tế, chưa được trả lời cụ thể rõ ràng. Một số dự án có sử dụng đất đã thực hiện xong công tác GPMB nhưng lại bị “ treo” gây sự nghi ngờ trong dân chúng, hoặc sau đó chia nhỏ đất để bán lấy tiền sử dụng cho mục đích đền bù và “ bỏ túi riêng” dẫn đến tình trạng thiếu tin tưởng của quần chúng nhân dân vào các cấp chính quyền, dẫn đến khiếu nại, tố cáo là tất yếu. Đạo đức của một số cán bộ trong đội ngũ cán bộ nhà nước ngày càng tha hoá, biến chất trong những năm gần đây đã được điểm mặt, chỉ tên trước công luận và pháp luật khiến cho dân chúng thiếu niềm tin vầo các nhà lãnh đạo, chưa triển khai thực hiện dự án đã bị sự phản đối đa số trong quần chúng nhân dân. Tất cả những bất cập trên đã tạo ra nhiều kẽ hở trong việc quản lý đất đai và khó khăn trong thực hiện công tác GPMB. Công tác GPMB muốn được đẩy nhanh, đảm bảo kịp tiến độ cần phải giải quyết những khó khăn trên một cách triệt để. Thực hiện công tác GPMB cần sự phối kết hợp giữa Nhà nước, chủ đầu tư và quần chúng nhân dân, đây là yêu cầu bức thiết không chỉ trong công tác này mà cần được phát huy trong nhiều lĩnh vực để đáp ứng cho sự phát triển đất nước. II. CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG. 1. Đảm bảo tiến độ nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Đảm bảo tiến độ nhanh chóng, kịp thời, chính xác là một yêu cầu quan trọng và cấp thiết của công tác bồi thường thiệt hại GPMB. Nó ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hoá. Công tác GPMB nếu đảm bảo đúng yêu cầu này sẽ đẩy nhanh tiến độ thi công công trình và đưa công trình vào sử dụng đúng thời gian và kế hoạch đã đề ra. Ngược lại, công tác GPMB lại diễn ra chậm do nhiều nguyên nhân sẽ ảnh hưởng đến tiến độ thi công công trình xây dựng, dự án đầu tư gây thiệt hại cho vốn tư nhân hoặc Ngân sách nhà nước. Công tác GPMB diễn ra nhanh chóng sẽ rút ngắn thời gian thi công. Việc thi công công trình hoàn thành vượt mức về thời gian sẽ mang lại nhiều lợi ích trong thời đại ngày nay. Ngoài ra còn phải đảm bảo yêu cầu chính xác. Người thực hiện công tác GPMB phải đúng thẩm quyền được giao, đúng đối tượng sẽ tránh được tình trạng “ trên bảo dưới không nghe “ và hạn chế được các tệ nạn tham ô, tham nhũng từ một số cán bộ thoái hoá, biến chất nhân cách. 2. Đảm bảo công khai, minh bạch và dân chủ. Đây là yêu cầu mà các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải đảm bảo khi thực hiện công tác GPMB. Công khai, dân chủ chính là công khai, phổ biến cho tất cả các đối tượng bị thu hồi đất, trong diện giải toả mặt bằng rõ các chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của dự án có liên quan. Công khai các văn bản pháp lý, các văn bản về quy mô, cơ cấu dự án, sơ đồ khu giải toả; đặc biệt là chính sách, phương án bồi thường, hỗ trợ cho các hộ gia đình có trong phương án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt biết, tạo niềm tin trong dân chúng. Dân chủ trong phương án đền bù là một yêu cầu quan trọng. Đền bù đúng đối tượng, đúng khung giá và đúng hình thức đã được quy định. Không phân biệt giữa người dân thường với những người có “ quan hệ” với các quan chức hay tự ý thêm bớt mức đền bù. Có như vậy mới tạo lòng tin cho người dân, người dân sẽ tự giác trả đất, GPMB và nhận đền bù, tránh được sự tiêu cực ở một số cán bộ - một vấn nạn ở nước ta trong công tác bồi thường thu hồi đất GPMB. 3. Đảm bảo hài hoà lợi ích các bên có liên quan. Đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên có liên quan là đảm bảo lợi ích của 3 đối tượng Nhà nước, chủ đầu tư và người dân bị thu hồi đất. Quy định quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên trong công tác GPMB. Luật đất đai 1998 quy định “ đất đai thuộc sở hữu Nhà nước”, từ quy định này chúng ta có thể thấy được lợi ích nghiêng về phía Nhà nước, lợi ích của Nhà nước đặt lên trên nhất và Nhà nước áp đặt các biện pháp bắt buộc có liên quan đến đất đai đối với người dân sử dụng đất. Tuy nhiên Luật đất đai 1993 và gần đây nhất là Luật đất đai 2003 đã ra đời và sửa đổi từ “ đất đai thuộc sở hữu Nhà nước” thành “ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý” mới thấy được hết tính đầy đủ của nó. Như vậy lợi ích của Nhà nước sẽ gắn liền với lợi ích của người dân. Nhà nước có quyền áp đặt việc thu hồi đất của người dân sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế nên người sử dụng đất bắt buộc phải tuân thủ. Nhưng khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường giá trị quyền sử dụng đất và các tài sản hợp pháp gắn kiền với đất cho người có đất bị thu hồi. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; Nhà nước đảm bảo lợi ích của nhân dân chính là đảm bảo lợi ích của mình. Chủ đầu tư khi tham gia dự án cũng có phần lợi ích trong đó, lợi ích của chủ đầu tư cũng được Nhà nước bảo đảm. Như vậy trong công tác GPMB thì lợi ích giữa Nhà nước, chủ đầu tư và người dân có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời. Đảm bảo lợi ích của người dân sẽ đảm bảo lợi ích của Nhà nước, chủ đầu tư và ngược lại. CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TRÊN ĐỊA BÀN CÁC ĐÔ THỊ. I.PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TRONG THỜI GIAN TỚI. 1. Phương hướng đổi mới công tác giải phóng mặt bằng. Hiện nay các khu đô thị thường có quy mô dân số lớn, mật độ dân số cao trong khi quỹ đất không được mở rộng (quỹ đất được giới hạn trên bề mặt trái đấtq, mỗi nước lại được khoanh định bởi các đường biên giới riêng). Do đó Nhà nước có chính sách, biện pháp để chuyển các khu công nghiệp, khu kinh tế, các công trình văn hoá, y tế, giáo dục sang các huyện ngoại thành lân cận - đó là xu hướng trong kế hoạch phát triển xây dựng thành phố (Hà Nội H). Cùng với quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ trên địa bàn Hà Nội cũng như các tỉnh thành trong cả nước, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, sự nhận thức về pháp luật ngày càng sâu rộng. Nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa nên đòi hỏi công tác GPMB phải được thực hiện theo hướng phù hợp sự phát triển kinh tế của đất nước cũng như ở từng địa bàn cụ thể. Đồng thời phải đảm bảo lợi ích của các bên có liên quan: Nhà nước, chủ đầu tư, người bị thu hồi đất. Muốn thực hiện được thì công tác GPMB nói chung và công tác GPMB tại các đô thị lớn phải thực hiện cải cách bộ máy hành chính theo hướng đồng bộ cả về con người và phương pháp. Đồng bộ và toàn diện trong hệ thống văn bản chính sách về bồi thường GPMB cũng như về trình tự, thủ tục cho phù hợp với tình hình thực tế và quan điểm của Đảng và Nhà nước. Về vấn đề con người phải nâng cao trách nhiệm, chủ động giải quyết công việc của các cán bộ quản lý địa chính nói chung, cán bộ đảm nhiệm công tác GPMB nói riêng. Thực tế trong đội ngũ cán bộ đã xuất hiện những thành phần “ đen” trong công tác GPMB. Ngoài ra chú ý công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và các chính sách có liên quan đến GPMB tới người dân. Thực hiện chấn chỉnh và tổ chức tốt công tác tiếp dân, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Có những biện pháp tích cực nhằm giảm thiểu tình trạng cưỡng chế thi hành, giải phóng nhanh, kịp thời, chính xác các vấn đề khiếu kiện của người dân. 2. Nhiệm vụ công tác giải phóng mặt bằng trong thời gian tới. Trong thời gian tới công tác GPMB vẫn được coi trọng, là nhiệm vụ trọng tâm cần được đẩy mạnh để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã - hội trong giai đoạn 2010 - 2020. Công tác GPMB trong thời gian tới được tập trung vào những vấn đề sau: - Đồng bộ về tư tưởng chính sách, về đối tượng được đền bù giữa các dự án trên địa bàn các đô thị. - Việc lãnh đạo, chỉ đạo điều hành ở các cấp phải tập trung, thống nhất, dứt điểm và có hiệu quả đối với từng dự án. Sử dụng phương pháp cưỡng chế đối với những đối tượng không chấp hành nghiêm chỉnh những quy định trong quá trình GPMB. - Thực hiện tốt công tác đền bù sau GPMB, tạo điều kiện cho người có đất bị thu hồi có điều kiện phát triển về mọi mặt tốt hơn nơi ở cũ. - Giải quyết dứt điểm và triệt để các đơn từ khiếu nại còn tồn đọng, tạo điều kiện cho công tác GPMB diễn ra thuận lợi. - Có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư tham gia các dự án cần GPMB. Phối hợp trong công tác GPMB giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với chủ đầu tư và người bị thu hồi đất. - Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ công tác thu hồi đất GPMB và công tác đền bù, tránh tình trạng để các dự án đã được phê duyệt, đã quy hoạch GPMB nhưng vẫn trong tình trạng “ treo” hoặc tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng sai với quy hoạch đã duyệt. Nhiệm vụ trong thời gian tới khá nặng nề và phức tạp do yêu cầu của sự phát triển và hậu quả để lại từ công tác GPMB trước đây thực hiện chưa tốt. Đảng và Nhà nước cần quan tâm tới vấn đề này, các cơ quan chức năng, các sở, ban, ngành cần phát huy tốt vai trò của mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao. II. GIẢI PHÁP CHO CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG. 1. Công bố, công khai chi tiết các vấn đề liên quan đến dự án (mặt bằng xây dựng, quy hoạch, chính sách đền bù, thẩm quyền của các cơ quan chức năng). Các thông tin về GPMB phải được công bố công khai cho dân cư thuộc khu dự án đó nắm rõ các thông tin có liên quan. Có thể qua các kênh phương tiện thông tin đại chúng như đài, loa phát thanh của địa phương. Khi người dân hiểu được ý nghĩa của việc thu hồi đất GPMB để xây dựng các công trình phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì họ sẽ tự nguyện giao đất cho chủ dự án. Các thông tin cần công bố công khai trước hết về nội dung của dự án bao gồm: địa điểm, vị trí, diện tích mặt bằng cần giải toả; công bố công khai quy hoạch chi tiết cho dân hiểu; thời gian tiến hành thu hồi đất cũng như khởi công công trình, diện tích mặt bằng này được sử dung cho mục đích nào (cho việc xây dựng khu công nghiệpc, cơ sở hạ tầng hay xây dựng bệnh viện, trường học); chủ dự án là ai; ai là người có thẩm quyền trong công tác thu hồi đất và tài sản trên đất. Tiếp đến là các thông tin về chính sách đền bù, hỗ trợ: mức giá đền bù, diện tích được đền bù, hình thức đền bù Tất cả đều phải công bố, công khai chi tiết đến từng hộ gia đình trong diện GPMB. Kết hợp với việc tuyên truyền, vận động, giải thích, thuyết phục, giúp người dân hiểu rõ tầm quan trọng của các công trình xây dựng có tác động cụ thể như thế nào đến cuộc sống người dân; nâng cao nhận thức, ý thức của người dân, hướng các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dự án đến lợi ích của xã hội, của cộng đồng. 2. Chính sách đền bù, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi. Quyết định thu hồi đất của Nhà nước là mệnh lệnh đối với người có đất bị thu hồi, nếu không giao đất sẽ bị cưỡng chế thực hiện. Thực tế công tác GPMB bị gián đoạn là do người dân chưa chịu giao mặt bằng cho chủ dự án vì những vướng mắc trong chính sách đền bù GPMB. Một trong những bất cập hiện nay là giá bồi thượng thiệt hại khi thu hồi đất. Việc định giá để bồi thường là hết sức cần thiết khi dự án cần GPMB có nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước hay đầu tư của doanh nghiệp. Thị trường bất động sản ở nước ta lại chưa thực sự phát triển. Sự hình thành thị trường không chính thức này dẫn đến sự thay đổi về giá rất phức tạp. Những hộ gia đình bị thu hồi đất sẽ hình thành tâm lý so sánh giá đất trên thị trường với giá đất được nhận đền bù. Mức giá bồi thường nếu thấp hơn mức giá thị trường sẽ khiến cho các đối tượng bị ảnh hưởng tới quyền lợi. Từ đó hiện tượng khiếu nại diễn ra tràn lan làm chậm tiến độ GPMB. Mặt khác một số hộ cố tình chuyển đổi mục đích sử dụng của mảnh đất sang mục đích sử dụng khác có lợi hơn cho mình khi được đền bù mặc dù đất đó đã được công bố nằm trong quy hoạch; hoặc tạo tài sản giả trên đất nhằm trục lợi. Khi không được đền bù những “mánh “ đó thì khiếu kiện, không chịu thực hiện việc di dời. Như vậy cần có khung giá đất chi tiết cho từng loại đất và tính giá trị cho các tài sản gắn liền với đất sao cho sát với giá thị trường nhất. Ngoài ra cần quản lý chặt chẽ khu đất đã nằm trong quy hoạch, giải toả. Hình thức bồi thường thiệt hại được Nhà nước áp dụng theo hai hình thức chủ yếu là bồi thường thiệt hại bằng tiền hoặc bằng đất. Với nhà ở thì các hộ gia đình được thuê, mua nhà ở theo giá ưu đãi, hoặc có hỗ trợ về di chuyển, nơi ăn chốn ở, đào tạo nghề Hiện nay các hình thức bồi thường đã mềm dẻo hơn trước rất nhiều (cho người bồi thường tự lựa chọn hình thức được đền bù trong một số trường hợpc, ưu tiên cho những người chấp hành việc giải toả ngay những vị trí nhà thuận lợi; điều chỉnh một cách hợp lý về giá bồi thường cho tình hình cụ thể ở địa phương) và tạo điều kiện cho cho người bị thu hồi đất có môi trường sống tốt hơn. 3. Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tăng cường quản lý nhà nước về đất đai. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cơ sở đầu tiên cho bồi thường GPMB, nó đảm bảo cho người có đất bị thu hồi chứng minh rằng mảnh đất đó thuộc sở hữu hợp pháp của anh ta. Hoặc một số giấy tờ pháp lý khác chứng minh họ là chủ sử dụng từ đó Nhà nước mới có căn cứ để bồi thường như: các giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan nhà nước cũ có thẩm quyền cấp, hoặc giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền đất ở được thực hiện trước ngày 15- 10- 1993 và được xác nhận không có tranh chấp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc bồi thường thiệt hại về đất và tài sản trên đất lại phụ thuộc rất nhiều vào quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản. Trong khi đó phần lớn đất đai và tài sản chưa đủ giấy tờ hợp lệ, việc quản lý hồ sơ địa chính vẫn còn bất cập do việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà còn chậm. Việc quản lý đất đai trước khi có luật đất đai 2003 còn lỏng lẻo, cơ quan quản lý nhà nước về đất đai vẫn chưa quản lý được tình hình biến động đất đai trên địa bàn của mình. Khi thực hiện công tác GPMB của nhiều dự án thấy được tình trạng đất đai và nhà ở chưa rõ nguồn gốc, mua bán chuyển nhượng trái phép dẫn tới khó khăn cho công tác kê khai và tình trạng khiếu kiện xảy ra nhiều. Vì thế áp dụng công tác cưỡng chế trong GPMB là khó tránh khỏi và chỉ là biện pháp mang tính tình thế trước mắt. Cần đẩy nhanh công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức đi đôi với việc tăng cường quản lý nhà nước về lĩnh vực đất đai tạo điều kiện cho công tác kê khai tiến hành thuận lợi. Công tác kê khai được triển khai, thực hiện một cách minh bạch, chính xác làm căn cứ lập phương án bồi thường, tránh tình trạng kê khai sai lệch số liệu làm cho việc lập phương án bồi thường phải sửa đổi nhiều lần. Cần có những biện pháp thích hợp để giải quyết các vấn đề về khiếu nại, tranh chấp đất đai đồng thời thực hiện biện pháp cưỡng chế dứt điểm đối với những hộ gia đình, cá nhân cố tình vi phạm do bị thu hồi đất nhưng không có giấy tờ hợp lệ cho mảnh đất bị thu hồi 4. Công tác tuyên truyền giáo dục. Do các văn bản chính sách pháp luật liên quan đến GPMB đã được công khai nhưng giải thích chưa rõ ràng nên người bị thu hồi đất chưa hiểu cặn kẽ dẫn đến thắc mắc, khiếu kiện. Cần chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục trong quá trình thu hồi đất GPMB. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, khuyến khích người dân, người bị thu hồi đất tham gia vào dự án. Phát huy vai trò của hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên vận động quần chúng tạo điều kiện cho công tác GPMB diễn ra thuận lợi. Tổ kê khai đăng kí nên phối hợp với tổ vận động tuyên truyền của xã, phường, thị trấn tới từng hộ gia đình để vận động, tuyên truyền, giải thích, động viên các hộ thực hiện tốt công tác GPMB, tự giác chấp hành việc dỡ bỏ công trình, vật kiến trúc và di dời để giao lại mặt bằng cho chủ đầu tư. Đối với các dự án lớn cần tiến hành điều tra, tìm hiểu kĩ các hộ gia đình trong khu vực sẽ GPMB. Có thể tổ chức buổi gặp gỡ giữa chủ dự án, các cấp ngành liên quan và nhân dân để có phương án GPMB hợp lý và hiệu quả nhất. Tạo niềm tin của quần chúng nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Giải quyết dứt điểm và kịp thời những khiếu kiện của nhân dân, xử lý nghiêm minh các trường hợp chây lỳ hoặc có ý định trục lợi khi tiến hành công tác GPMB. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, vì thế sức mạnh của Nhà nước cần được kết hợp với sức mạnh của quần chúng nhân dân sẽ tạo diều kiện thuận lợi cho công tác GPMB nói riêng và các vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia nói chung. 5. Nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, phẩm chất của cán bộ trong công tác GPMB. Công tác GPMB diễn ra ở những địa bàn có đặc điểm kinh tế, văn hoá, chính trị càng phức tạp thì việc tiến hành thu hồi và đền bù càng khó khăn, phức tạp. Không những cần sự hợp tác của nhân dân mà đòi hỏi cán bộ thực hiện công tác thu hồi và đền bù phải có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực này. Vì vậy nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý là việc hết sức cần thiết. Tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ trước khi thực hiện công tác GPMB, đặc biệt cán bộ ở cấp xã chưa có chuyên môn cao trong lĩnh vực này. Cần kết hợp các sở, ban, ngành trong công tác GPMB để có biện pháp giải toả mặt bằng hợp lý, tránh được sự xô xát, giảm thiểu được biện pháp cưỡng chế trong công tác thu hồi đất. Kết hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác định giá, lựa chọn hình thức đền bù. Phẩm chất của cán bộ trong công tác GPMB cũng là một vấn đề khó khăn. Trong đội ngũ cán bộ có một bộ phận không nhỏ gây cản trở trong công tác đền bù dẫn đến việc khiếu nại tố cáo từ các hộ gia đình có đất bị thu hồi lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có không ít cán bộ cao cấp tham ô, tham nhũng đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết của đối tượng bị thu hồi đất, cố tình không công bố công khai dự án cũng như chính sách đền bù để trục lợi cá nhân. Trong những năm qua, ở Việt Nam đã phanh phui ra các phi vụ tham ô, tham nhũng Ngân sách nhà nước của các cán bộ trong các cơ quan nhà nước. Số tiền tham nhũng là rất lớn (tới vài chục tỷ đồngt) trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo thống kê của các cơ quan ngôn luận thì các vụ tham nhũng, bớt xén có liên quan đến đất đai chiếm tỷ lệ khá cao. Chủ yếu là việc cắt xén trong các mức đền bù cho việc thu hồi đất, GPMB; sự tự ý thay đổi chính sách đền bù của cấp dưới để bỏ túi, hoặc chậm đền bù cho người dân hoặc tìm mọi cớ để không đền bù. Ngoài ra một số dự án để treo, đã GPMB nhưng không thực hiện dự án khiến dân chúng không tin tưởng. Hoặc GPMB, đầu tư cơ sở hạ tầng để bán đất đã thu hồi với giá trên trời sau đó hưởng lợiTình trạng này đã xuất hiện trong một số năm gần đây cần được Nhà nước xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng tội. Công tác đào tạo, giáo dục cán bộ cần được coi trọng (Việt Nam được coi là một trong những nước có tỷ lệ tham nhũng cao nhất thế giớiV), cán bộ trong cơ quan quản lý nhà nước nói chung, cán bộ quản lý đất đai nói riêng cần được thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng. Thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về đất đai và các chế độ chính sách có liên quan đến GPMB cho đội ngũ cán bộ chuyên trách từ huyện đến cơ sở. Nâng cao trách nhiệm của người cán bộ, có hình thức thưởng phạt nghiêm minh, xử lý thích đáng đối với những cán bộ vì lợi ích riêng mà vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Người cán bộ không những có trí, dũng mà cần phải có cả đức. Bác đã từng răn dạy người cán bộ “ cán bộ là người đầy tớ của nhân dân” nên phải hết mình vì công việc, vì nước quên mình, vì dân phục vụ. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. - Sở xây dựng, sở Tài chính - vật giá cần ban hành giá chi tiết về công trình, nhà ở, vật kiến trúc, các tài sản khác trên đất để có cơ sở áp giá bồi thường, hỗ trợ. Khi ban hành giá đề nghị kiểm tra thực tế giá khu vực tại thời điểm đền bù với gía dự định trong chính sách bồi thường, hỗ trợ. - Phân định hạng đất nông nghiệp, phi nông nghiệp để có mức giá phù hợp và cần phù hợp với giá thị trường tại thời điểm đền bù. Cần nhanh chóng áp dụng khung gía mới khi tiến hành bồi thường về đất. Thực tế cho thấy, giá bồi thường về đất căn cứ vào hệ số k theo quy đinh cũ là đã có nhiều bất cập, nảy sinh nhiều khiếu nại tố cáo của người dân. - Dựa trên yếu tố thị trường để ban hành giá tính đền bù thiệt hại là chủ trương chính sách của Nhà nước trong thời gian hiện nay vì vậy cần xây dựng hành lang pháp lý để phát triển thị truờng bất động sản chính thức và hợp pháp. Đây vốn là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển kinh tế theo thị trường, vừa đảm bảo phát triển thị trường bất động sản, đảm bảo được lợi ích của các bên tham gia thị trường và của Nhà nước. Làm cơ sở thực tế xác định giá đất, giá nhà, nâng cao vai trò quản lý đất đai cũng như bất động sản của Nhà nước. - Về chính sách hỗ trợ, tái định cư đề nghị UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện phối hợp với các sở, ban, ngành tiến hành nhanh, kịp thời để tạo điều kiện cho các hộ gia đình bị thu hồi đất, giải toả nhà có nơi ăn chốn ở ổn định. Đào tạo nghề cho những cá nhân, hộ gia đình, giải quyết lực lượng lao động dư thừa khi thu hồi đất để họ sớm tạo thu nhập, ổn đinh tâm lý. - Các cơ quan tuyên truyền phối kết hợp chặt chẽ cùng các quận, huyện làm tốt công tác tuyên truyền về chủ trương chính sách và động viên nhân dân thực hiện tốt công tác GPMB. - Đề nghị UBND cấp tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành tổ chức các buổi tập huấn để hướng dẫn cho các cán bộ cơ sở xử lý các trường hợp phức tạp về các văn bản không có hướng dẫn cụ thể hoặc do tính chất phức tạp của địa bàn GPMB. - Quy định trách nhiệm của Hội đồng GPMB và chủ đầu tư, yêu cầu chủ đầu tư báo cáo định kì bằng văn bản kết quả thực hiện (kết quả đạt đượck, những khó khăn vướng mắc..). Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác GPMB và công tác đền bù GPMB ở cấp cơ sở. - Về hệ thống GPMB ở cấp cơ sở: + Coi trọng công tác tuyên truyền, vận động nhân dân; hướng dẫn cán bộ, nhân dân khi có quyết định thu hồi đất thực hiện dự án trên địa bàn cấp xã. Cán bộ tổ công tác GPMB bám sát cơ sở để đôn đốc, hướng dẫn thực hiện công tác kê khai, công tác thu hồi đất, GPMB. + Đào tạo thêm đội ngũ cán bộ chuyên môn về kỹ thuật trong việc đo đạc, xác lập hồ sơ pháp lý về đất đai cũng như tài sản trên đất. + Cần bổ sung thêm thành viên thanh tra Nhà nước ở cấp cơ sở để kịp thời giải quyết đơn thư khiếu nại của những người có đất bị thu hồi trong dự án GPMB. + Xây dựng phương án điều chỉnh, bổ sung cần phối hợp chặt chẽ với UBND cấp xã, chủ đầu tư, tổ công tác GPMB và các phòng ban có liên quan để có phương án điều chỉnh, bổ sung hợp lý theo đúng quy định. KẾT LUẬN Để phục vụ cho quá trình đô thị hoá, phát triển đất nước, phục vụ đời sống nhân dân, Nhà nước đã thu hồi đất để GPMB nhằm phục vụ cho các dự án đầu tư xây dựng, các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; xây dựng trường học, bệnh viện; mở rộng, cải tạo và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, giao thông đô thị Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia, an ninh quốc phòng vì thế quyết định thu hồi đất của Nhà nước là mệnh lệnh bắt buộc người có đất bị thu hồi phải chấp hành. Nếu người sử dụng đất có đất bị thu hồi là hợp pháp thì khi bị thu hồi sẽ được bồi thường thiệt hại, hỗ trợ về đất và các tài sản trên đất. Tuy Nhà nước có chủ trương đền bù giá sát với giá thị trường nhất, thực tế cho thấy mức giá đền bù hỗ trợ này thường thấp hơn so với mức giá trên thị trường. ở nước ta Luật đất đai 2003 đã quy định “ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là người đại diện nhân dân thống nhất quản lý toàn bộ quỹ đất trên phạm vi toàn lãnh thổ”. Nên việc thu hồi đất phục vụ cho công tác GPMB sẽ ảnh hưởng không những tới lợi ích của Nhà nước mà còn ảnh hưởng tới lợi ích của các đối tượng khác có liên quan như chủ đầu tư và người có đất bị thu hồi. GPMB sẽ làm thay đổi chủ sử dụng và mục đích sử dụng (chuyển từ chủ sử dụng là hộ gia đìnhc, cá nhân sang chủ sử dụng là các tổ chức kinh tế, chủ doanh nghiệp; chuyển từ mục đích sử dụng có hiệu quả kinh tế thấp sang mục đích sử dụng có hiệu quả kinh tế cao - đất sản xuất nông nghiệp sang xây dựng khu công nghiệp). Vì thế công tác GPMB không phải giản đơn, đối tượng GPMB là cực kì đa dạng và phức tạp tuỳ từng dự án, từng địa bàn. Để đẩy nhanh tiến độ GPMB đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, các nhà hoạch định chính sách không ngừng hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách về quản lý và sử dụng đất đai; chú ý các chính sách liên quan đến công tác GPMB cho phù hợp với tình hình thực tiễn, đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích các bên. Đặc biệt công tác đền bù sau GPMB, bởi lẽ công tác này nếu diễn ra hợp lý, công khai, dân chủ sẽ thúc đẩy tiến độ công tác GPMB và giảm bớt sự phẫn nộ đẫn đến khiếu nại trong dân chúng. Nếu trong quá trình lập phương án bồi thường thiệt hại có sự sai lệch làm vi phạm lợi ích của người sử dụng đất hoặc chủ đầu tư hoặc Nhà nước đều làm cho công tác này bị gián đoạn. Nhưng công tác này cũng khá khó khăn và phức tạp nhất là trong việc xác định giá trị của đất đai, tài sản trên đất. Việc xác đinh giá của chúng phục thuộc vào rất nhiều yếu tố và chỉ mang tính tương đối - cần chú trọng công tác này. Qua khảo sát thực tế ta sẽ thấy được sự khác biệt giữa quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất do thực hiện GPMB gây ra với quan hệ chuyển dịch trên thị trường (một bên là người sử dụng đất với Nhà nướcm; người sử dụng đất bị cưỡng chế thi hành và phải chấp nhận mức giá đền bù Nhà nước đưa ra. Trong khi trên thị trường là quan hệ giữa người bán, người cho thuê với người mua, người thuê; mức giá hình thành trên thị trường, do sự thoả thuận giữa hai bên). Mức giá trong quan hệ chuyển nhượng do GPMB gây ra thường thấp hơn so với mức giá trên thị trường nên mức giá bồi thường cho người có đất bị thu hồi thấp. Họ không nhận tiền bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư mà làm dơn khiếu nại tố cáo tới các cơ quan chức năng dẫn đến sự gián đoạn trong công tác GPMB; trong nhiều trường hợp công tác GPMB bị gián đoạn trong khoảng thời gian khá dài. Để hạn chế và chấm dứt tình trạng này trước hết các cán bộ đảm nhiệm công tác GPMB đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao, đảm bảo tính chính xác ngay từ đầu, chặt chẽ ngay từ khâu xác lập hồ sơ, tránh tình trạng để dự án treo và thay đổi mục đích sử dụng đã công bố trong dự án, có chính sách bồi thường thoả đáng. Đã đến lúc phảỉ xã hội hoá công tác GPMB, công tác GPMB không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước mà cần có sự tham gia của cả những người có đất bị thu hồi. Có như vậy công tác GPMB sẽ được đẩy nhanh tiến độ, tạo điều kiện cho các dự án hoàn thành đúng thời hạn, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Luật đất đai năm 1988, 1993, 2003. 2. Các văn bản quy phạm pháp luật. 3.Giáo trình Kinh tế tài nguyên đất. Chủ biên: PGS.TS.Ngô Đức Cát. NXB: Nông Nghiệp - 2000 4.Thời báo Tin tức cuối tuần. 5.Thời báo Kinh tế và đô thị. 6.Tạp chí Địa chính. 7.Giáo trình Đăng Ký - Thống Kê Đất Đai. Chủ biên: PGS, TSKH.Lê Đình Thắng. Ths. Đỗ Đức Khôi. NXB: Chính Trị Quốc Gia Hà Nội - 2000. 8. 9. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0289.doc
Tài liệu liên quan