Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội

MỤC LỤC Lời nói đầu Chương I: Cơ sở lý luận chung về hiệu quả hoạt động nhập khẩu I. Lý luận chung về hiệu quả. Khái niệm Bản chất Phân loại II. Hoạt động nhập khẩu, hiệu quả nhập khẩu và sự cần thiết nâng cao hiệu quả nhập khẩu. Khái niệm, vai trò, hình thức của nhập khẩu. Khái niệm Vai trò Hình thức Hiệu quả nhập khẩu. Sù cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh III. Các nhân tố ảnh hưởng Nhân tố chủ quan Lực lượng lao động Cơ sở vật chất Trình độ quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp Cơ cấu hàng nhập khẩu và mức lưu của hàng nhập khẩu Nhân tố khách quan Môi trường chính trị, luật pháp Môi trường kinh tế Yếu tố khác IV. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Chỉ tiêu tổng quát Chỉ tiêu bộ phận Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động Chỉ tiêu đánh giá tỷ suất lợi nhuận Hiệu quả sử dụng chi phí Mức sinh lợi của một đơn vị chi phí Tỷ suất ngoại tệ với hàng nhập khẩu Doanh lợi nhập khẩu 3. Phương pháp phát triển hiệu quả hoạt động nhập khẩu Chương II: Thực trạng việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội. I. Quá trình hình thành và phát triển 1. Quá trình hình thành và phát triển 2. Mục đích, nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý 4. Phương pháp quản lý 5. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật và văn hoá trong Công ty II. Phân tích hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty 1. Kết quả kinh doanh nhập khẩu theo thị trường 2. Kết quả kinh doanh nhập khẩu theo mặt hàng 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty 4. Phân tích hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty III. Đánh giá về hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty thương mại XNK Hà Nội 1. Thành tựu 2. Tồn tại 3.Nguyên nhân của những tồn tại Chương III: Phương hướng hoạt động và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty thương mại XNK Hà Nội I. Phương hướng và mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu 1. Phương hướng 2. Mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu II. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu 1. Giảm chi phí nâng cao nhập khẩu 2. Giải pháp về vốn 3. Xác định cơ cấu mặt hàng hợp lý và đa dạng hoá hình thức nhập khẩu 4. Nâng cao nghiệp vụ nhập khẩu 5. Đẩy mạnh tiêu thu hàng nhập khẩu 6. Nâng cao nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên III. Kiến nghị 1. Với Nhà nước 2. Với Sở thương mại Hà Nội

doc97 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảm nhiều nhất là năm 2001 chỉ còn 0,0198 so với 0,053 của năm 1998. Năm 2002 công ty đã sử dụng các biện pháp để nâng hiệu quả sử dụng vốn lưu động nên hiệu quả sử dụng vốn lưu động được tăng lên mặc dù không lớn (0,025%) - Mức kinh doanh vốn lưu động: Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Mức kinh doanh vốn lưu động 5,04 3,45 3,25 1,71 3,13 Ta thấy mức kinh doanh vốn lưu động của Công ty không ổn định, các chỉ tiêu tính được cho biết năm 2001 là thấp nhất nghĩa là tỷ lệ tăng vốn lưu động cao hơn tỷ lệ tăng doanh thu, công ty đang cố gắng đạt doanh thu nhiều hơn nữa cho cân đối với các năm trước. - Vòng quay vốn lưu động. Chỉ tiêu này phản ánh trình độ quản lý hoạt động nhập khẩu của công ty, biểu thị mỗi đồng vốn lưu động bỏ vào kinh doanh có khả năng mang lại bao nhiêu đồng doanh thu, hay thể hiện số lần quay vòng của vốn lưu động để thực hiện các hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Vòng quay vốn 5,04 3,45 3,25 1,71 3,13 Như vậy năm 1998 số vòng quay đạt lớn nhất 5,040vòng tương ứng với 70 ngày cho mỗi chuyến hàng nhập khẩu nhưng những năm sau số vòng quay giảm lam cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty cũng xuống thấp theo. nguyên nhân là công ty gặp khó khăn trong việc tiêu thụ nen việc thu hồi vốn chậm nhưng các chỉ tiêu đã tính cho thấy mặc dù hiệu quả sử dụng vốn thấp nhưng vẫn đảm bảo được nguồn vốn kinh doanh, các khoản vay vẫn bảo đảm thanh toán đúng hạn với Ngân hàng. c . Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002 Doanh thu Tr.đ 59853 62343 73044 85000 184450 Lợi nhuận Tr.đ 630 711 819 986 1479 Quỹ lương 1000đ 42250 49700 64600 114330 139100 Sè lao động (Người) 65 71 76 103 107 Thu nhập 1000đ 650 700 850 1110 1300 Lợi nhuận / người (tr.đ) 9,7 10 10,7 9,57 13,82 (Nguồn: Tổng hợp số liệu của Công ty) Ta thấy chỉ tiêu lợi nhuận/người của công ty tăng lên qua các năm, tức là mức đóng góp của 1 người / lợi nhuận tăng:năm 1998 là 9,7 triệu đồng/người ,năm 2002 tăng lên 13,82 triệu đồng/người. Nguyên nhân là do trình độ của người lao động tăng, phần nào đã đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý cán bộ 4. Phân tích hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty. Về hiệu quả kinh tế - xã hội: Thời gian qua, công ty tiến hành hoạt động nhập khẩu trên cơ sở trước hết là mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cho nền kinh tế quốc dân, sau nữa là mang lại hiệu quả cho hoạt động nhập khẩu của bản thân công ty. Một hoạt động kinh doanh mà chỉ mang lại hiệu quả cho bản thân công ty mà lại ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh tế xã hội thì hoạt động kinh doanh đó không thể tồn tại và phát triển được do đất nước ta vẫn còn nghèo, khoa học kĩ thuật còn non trẻ không đáp ứng đủ những đòi hỏi của người sản xuất và tiêu dùng. Vì thế nhập khẩu hàng hoá máy móc thiết bị, hoá chất, nguyên vật liệu làm cho quá trình sản xuất diễn ra nhanh hơn, năng suất cao hơn, hàng điện tử gia dụng thì góp phần làm hiện đại hoá đời sống của nhân dân… Xuất phát từ đòi hỏi của nền kinh tế, công ty tham gia hoạt động nhập khẩu với việc đưa dạng chủng loại hàng hoá. Những mặt hàng của công ty vừa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng vừa đáp ứng được quá trình sản xuất. Có thể nói công ty đã quán triệt được đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển kinh tế xã hội. Các mặt hàng nhập khẩu của công ty không những không ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh tế xã hội mà còn có tác động tốt cho nền kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội bằng sự đóng góp nhỏ bé vào việc thúc đẩy quá trình sản xuất trong nước, tăng nguồn thu ngân sách. Ngoài ra công ty cũng góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo mức thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên của công ty. Như vậy ngoài việc tham gia vào hoạt động nhập khẩu nhằm mục tiêu tối đưa hoá lợi nhuận và mở rộng sản xuất kinh doanh, công ty còn đem lại hiệu quả cho nền kinh tế xã hội, góp phần xây dựng đất nước, đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước. III. ĐÁNH GIÁ VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI XUẤT NHẬP KHẨU HÀ NỘI 1. Thành tựu Cũng như nhiều doanh nghiệp khác của Việt Nam, Công ty Thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội được hoạt động trong môi trường chính trị ổn định dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự nhanh nhạy trong việc mở rộng hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia trên thế giới đã giúp Công ty có thêm nhiều cơ hội trong việc phát triển thị trường nhập khẩu và mở rộng mặt hàng. Sự gia nhập vào ASEAN, APEC của Việt Nam đã tạo những điều kiện tích cực trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty khi tham gia trực tiếp vào lĩnh vực này. Điều đó đã tạo ra điều kiện thuận lợi trong việc ký kết các hợp đồng nhập khẩu, tìm được nhiều thị trường có uy tín. Công ty có trụ sở tại 142 Phố Huế và hệ thống các cửa hàng nên đã tạo ra thuận lợi trong quá trình giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng và điểm tiêu thụ hàng nhập khẩu của mình. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, vốn, cán bộ… nhưng những năm qua Công ty cũng đã gặt hái được nhiều thành công, đó là: Tốc độ tăng trưởng của giá trị hợp đồng nhập khẩu không ngừng tăng và đạt ở mức cao, doanh thu nhập khẩu chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu của Công ty. Do đó, chúng tôi đã đóng góp không nhỏ vào quá trình lưu thông hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của sản xuất, tiêu dùng. Thị trường nhập khẩu không ngừng mở rộng: Công ty có quan hệ với hơn 30 nước trên thế giới thông qua các công ty có uy tín bằng việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá. Trong quá trình hợp tác Công ty luôn cố gắng duy trì và thiết lập hệ thống bạn hàng tin cậy, ổn định, tạo mối quan hệ làm ăn lâu dài. Đối với các thị trường truyền thống, Công ty sử dụng các biện pháp để duy trì mối quan hệ làm ăn như việc tiến hành khai thác thị trường theo chiều sâu. Công ty đã xây dựng được cơ cấu tổ chức kinh doanh nhập khẩu tương đối hoàn chỉnh với đội ngò cán bộ có chuyên môn và trình độ. Ngay từ khâu tuyển chọn Công ty đặt ra một số tiêu chuẩn tuyển nhân viên cũng như chính sách ưu đãi để thu hót nhiều hơn nữa đội ngò trẻ năng động, có trình độ. Với chiến lược kinh doanh kết hợp giữa chuyên môn hoá và đưa dạng hoá Công ty nhập khẩu rất nhiều hàng hoá nhằm giảm rủi ro nhưng đồng thời cũng tập trung vào một số mặt hàng tạo nên uy tín , thương hiệu của mình để nâng cao sức cạnh tranh. Với chiến lược thực hiện trong nhập khẩu hàng các chỉ tiêu tính được đều cho thấy Công ty kinh doanh có hiệu quả (tuy không cao lắm) 2. Tồn tại Trong những năm đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường Công ty gặp không Ýt khó khăn: Cơ sở vật chất quá cũ và xuống cấp nghiêm trọng và máy móc, phương tiện cũ kỹ, lạc hậu. Hơn nữa, cùng với sự xuất hiện của rất nhiều đối thủ cạnh tranh ở các ngành, các lĩnh vực mà Công ty đang hoạt động làm thị phần của Công ty giảm, sự biến động rất phức tạp của tỷ giá hối đoái và những thay đổi trong cơ chế, chính sách (xoá độc quyền trong kinh doanh xuất nhập khẩu, thay đổi thuế xuất nhập khẩu …) cũng góp phần làm giảm hiệu quả kinh doanh của Công ty. Thêm vào đó là những hạn chế của Công ty ngày càng bộc lé như nguồn vốn kinh doanh quá Ýt so với quy mô kinh doanh của Công ty, do đó hoạt động kinh doanh của Công ty chủ yếu dùa vào nguồn vốn vay của ngân hàng và trả lãi trong điều kiện tỷ lệ lợi nhuận ngày càng thấp. Trong nguồn vốn kinh doanh, vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn nên ảnh hưởng đến mức sinh lợi của vốn và vòng quay của vốn. Điều này dẫn đến Công ty luôn phải tìm mọi cách tiêu thụ hàng hoá, không để hàng tồn kho giúp tăng nhanh vòng quay vốn, vì nếu lưu kho thêm một ngày sẽ tăng thêm chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm bị đội lên, nên đôi khi Công ty rất khó chọn cho mình thời điểm bán hàng hợp lý. Chi phí cho hoạt động nhập khẩu là rất cao dẫn đến doanh thu nhập khẩu tuyệt đối giảm, lợi nhuận giảm … làm ảnh hưởng đến tổng doanh thu của Công ty đến sự phân phối lương, thưởng chế độ… Chưa có một cơ cấu mặt hàng hợp lý: hầu hết hàng hoá nhập khẩu đều xuất phát từ nhu cầu đầu tư và nhu cầu thị trường nhưng chúng lại không ổn định, nên mặt hàng nhập khẩu vì thế biến động theo nhu cầu. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng của giá trị mỗi hợp đồng nhập khẩu. Sử dụng yếu tố đầu vào chưa hiệu quả, chưa có những biện pháp cắt giảm chi phí nhập khẩu. Chưa tạo được mối quan hệ làm ăn lâu dài với bạn hàng nhập khẩu do hoạt động mang tính chất thương vô Hạn chế từ nguồn nhân lực: Với kinh nghiệm nắm bắt thực tế, trình độ xử lý các tình huống còn kém, rập khuôn và còn tình trạng người làm không đúng việc đã làm giảm năng suất lao động, từ đó làm giảm hiệu quả. Quá trình thu thập và xử lý thông tin chưa được đầu tư thoả đáng. Việc lập phương án nhập khẩu thì khâu dự báo các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu trong tương lai chưa được quan tâm nghiên cứu. Chưa có sự đồng nhất giữa từng phương án nhập khẩu với một chiến lược nhập khẩu cho cả giai đoạn. 3. Nguyên nhân của những tồn tại Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, Công ty đã trải qua nhiều thăng trầm nhưng bằng sự vận động linh hoạt, Công ty đã vượt qua những khó khăn, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại để đưa Công ty phát triển. Nguyên nhân đó là: Đầu tiên là việc để lỡ mất nhiều cơ hội kinh doanh do không chủ động được nguồn vốn, nguồn lực bên trong còn hạn chế : cơ sở vật chất của Công ty chưa đáp ứng được nhu cầu kinh doanh lâu dài khiến nó không thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng do Công ty phải đi thuê dịch vụ ở ngoài, kết quả là giá cả hàng hoá bị ảnh hưởng. Thứ hai, đó là khó khăn trong hoạt động kinh doanh của từng lĩnh vực, dưới sức Ðp của môi trường kinh doanh. Thật vậy, cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, Công ty phải đối mặt với sức Ðp cạnh tranh ngày càng lớn do sự bùng nổ các đối thủ cạnh tranh. Dưới sức Ðp đó từng lĩnh vực kinh doanh của Công ty đã không mở rộng và bị chững lại, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh chung. Trong thời gian gần đây, tuy doanh thu kinh doanh nội địa của Công ty vẫn tăng lên nhưng tổng giá trị nhập khẩu và kinh doanh của tất cả Công ty xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng tăng lên đáng kể nên tỷ lệ nhập khẩu của Công ty so với tổng giá trị nhập khẩu của Hà Nội giảm. Thiếu thông tin: tuy phòng kế hoạch thị trường có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác nhưng do mới thành lập nên việc thu thập xử lý thông tin còn yếu kém, chậm so với đối tác dẫn đến làm mất cơ hội kinh doanh. Đặc biệt trong việc tìm kiếm thông tin, do hạn chế về ngân sách nên chất lượng thông tin không cao, thông tin chủ yếu là thông tin thứ cấp, việc thu thập chủ yếu qua sách báo và một số nguồn khác nên chưa mang tính đặc biệt, độc đáo quyết định đến thành công của của một thương vụ nhập khẩu. Trình độ của cán bộ công nhân viên chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhìn vào bảng cơ cấu lao động của công ty giai đoạn 1998 –2001 thì số cán bộ công nhân viên có trình độ đại học trung cấp chiếm khoảng 35% trên tổng cán bộ công nhân viên. Đối với một công ty thương mại, hoạt động kinh doanh không sản xuất như vậy thì tỷ lệ còn thấp, chưa theo kịp được với tình hình kinh doanh hiện nay. Cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu còn bị trái ngành, trái nghề, còn mang tính ỷ lại, phong cách làm việc còn mang dấu Ên hành chính bao cấp. Đây cũng là đặc điểm chung còn tồn tại trong các doanh nghiệp nhà nước ta hiện nay. Công ty chưa quan tâm đến việc xây dựng, hoàn thiện cho việc tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu trực tiếp. Các cửa hàng kinh doanh mới chỉ tập trung ở Hà Nội, chủ yếu ở địa bàn quận Hai Bà Trưng, tuy có địa thế đẹp, gần các khu đông dân nhưng cơ sở vật chất đã cũ nên không gây được sự chú ý hay sở thích tham quan cũng như mua sắm của khách hàng. Trên đây mới chỉ là nguyên nhân chủ quan xuất phát từ bên trong Công ty nên việc khắc phục nó dễ dàng hơn các nguyên nhân từ bên ngoài hiên nay có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình kinh doanh nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Có thể kể đến nguyên nhân khách quan như: sự thay đổi trong chính sách nhập khẩu, thủ tục nhập khẩu rườm rà, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu và đặc biệt là cạnh tranh gay gắt . CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI XNK HÀ NỘI I. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TM XNK HÀ NỘI 1. Phương hướng Từ khi thành lập đến nay, Công ty đã trải qua rất nhiều bước thăng trầm trong hoạt động kinh doanh, mục tiêu và phương hướng hoạt động mà Công ty đưa ra cũng khá nhiều trong đó mục tiêu lớn nhất công ty luôn đặt ra là lợi nhuận thu được từ hoạt động XNK và hoạt động kinh doanh nội địa. Sự thành hay bại của mục tiêu này phụ thuộc vào việc nó có cụ thể linh hoạt, hợp lý, khả thi, nhất quán và hợp pháp hay không. Đánh giá mục tiêu, phương hướng và kết quả đạt được trong thời gian qua cho thấy các chỉ tiêu mà Công ty đều đạt hoặc vượt kế hoạch chứng tỏ Công ty đã có sự nghiên cứu kỹ lưỡng khi đưa ra kế hoạch và mục tiêu, những kế hoạch này đã đảm bảo sự chính xác linh hoạt, có tính khả thi, phù hợp với khả năng của mình. Tại báo cáo tổng kết cuối năm 2000, Công ty đã đề ra phương hướng hoạt động cho giai đoạn 2001-2005, nếu hoạt động kinh doanh tốt sẽ tạo đà phát triển cho những năm sau như vươn lên giành thị phần, đưa kim ngạch XNK tăng qua đó tăng lợi nhuận. Đặc biệt Công ty còn được sự chỉ đạo trực tiếp của Sở thương mại Hà Nội trong việc phát triển công nghiệp gắn kết với tiêu thụ sản phẩm, tập trung phát triển 5 ngành công nghiệp chủ lực trong đó có chế biến nông sản thực phẩm. Trước xu thế hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước với thế giới trong những năm tới, Công ty TMXNK Hà Nội không thể không chuyển dịch cơ cấu hoạt động sang hướng sản xuất hàng xuất khẩu thu ngoại tệ, tận dụng những chính sách ưu đãi của Nhà nước, phát huy nội lực, năng lực trí tuệ của toàn CBCNV trong công ty, phấn đấu sản xuất ra được sản phẩm công nghiệp mòi nhọn có chiến lược cao, có hiệu quả kinh tế lớn, tạo sự chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu sản xuất kinh doanh nhằm mục đích đưa công ty phát triển vững mạnh trong nền kinh tế nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu. Qua việc nghiên cứu nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế với lợi thế về địa lý và bằng các quan hệ xúc tiến thương mại thì việc tổ chức xây dựng nhà máy chế biến tinh bột sắn XK của công ty chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Đối với Công ty khi Dự án đi vào sản xuất ở giai đoạn I sẽ tạo được sự đột biến trong kim ngạch XK của Công ty do hàng năm xuất khẩu được khoảng 12000 tấn sản phẩm với trị giá ước tính 2 triệu USD. Sau 2 năm sản xuất tăng công suất lên 90tấn sp/ngày nâng kim ngạch XK lên 3 triệu USD và nhà máy sẽ chuyển sang sản xuất biến tính sau 4 năm hoạt động mang lại kim ngạch XK từ 7-8 triệu USD/năm, hàng năm nép ngân sách khoảng 1,5 tỷ đồng. Mặt khác tạo nguồn vốn tích luỹ để cải thiện đời sống cho CBCNV và tái đầu tư để mở rộng sản xuất theo chiều sâu sang lĩnh vực sản xuất sản phẩm sau tinh bột như: đường glucô, nha cho công nghiệp thực phẩm và y tế, tinh bột biến tính phục vụ cho công nghiệp dầu mỏ, giấy và các sản phẩm lên men khác phục vụ cho đời sống con người. Việc đầu tư của dự án phù hợp với chủ trương chính sách của ngành thương mại Hà Nội và khả năng của công ty, nó phát huy được năng lực của CBCNV, mang lại thay đổi về cơ cấu hoạt động kinh doanh theo hướng bền vững cho công ty trước những thách thức mới của nền kinh tế đất nước. 2. Mục tiêu hoạt động và nâng cao hiệu quả nhập khẩu. Tại báo cáo cuối năm 2002 Công ty đã tổng kết những việc làm được và chưa làm được đồng thời đề ra phương hướng và kế hoạch thực hiện trong những năm tới. Căn cứ vào kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch các năm qua, sự đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong sản xuất kinh doanh trong năm 2002 và căn cứ hướng dẫn của Sở Thương mại Hà Nội, Công ty phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu chung như sau: Năm 2003 Công ty phấn đấu tăng doanh thu lên 250 tỷ đồng; nép ngân sách 39 tỷ đồng; tăng kim ngạch xuất khẩu lên 100.000 USD; giám sát việc thi công xây dựng nhà máy chế biến tinh bột sắn xuất khẩu tại Hoà Bình tháng 11,12/2003 đi vào hoạt động. Với hoạt động nhập khẩu Công ty đề ra chỉ tiêu cho cả vấn đề mở rộng thị trường và cơ cấu mặt hàng nhập khẩu theo hướng có hiệu quả cao nhất. - Về thị trường nhập khẩu: Mặt hàng Công ty kinh doanh có khoảng 80%là nhập khẩu, do vậy thị trường nhập khẩu trong thời gian tới cần có những điều kiện hài hoà: + Thị trường có nguồn hàng đa dạng, có những điều kiện kết hợp với tự nhiên, tập quán sử dụng của nước ta. + Có tình hình kinh tế ổn định, phát triển khả năng ưu tiên chuyển quyền bảo hành hàng hoá cho Công ty để phục vụ người mua hàng. + Có khả năng mua hàng hoá theo nhiều phương thức khác nhau và có thuế xuất nhập khẩu không tác động tăng giá hàng nhập ảnh hưởng đến giá bán trên thị trường tiêu thụ của nhau. Từ năm 2003- 2006 là giai đoạn nước ta thực hiện xoá bỏ hàng rào thuế quan với các nước ASEAN, khả năng hàng hoá trong khối sẽ tràn ngập thị trường trong nước. Đây là điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất đồng thời sẽ tác động trực tiếp đến phạm vi, cơ cấu thị trường nhập khẩu của Công ty. Do vậy thị trường nhập khẩu của Công ty sẽ chú trọng đến các nước trong khu vực đảm bảo cho viẹc tạo nguồn hàng kinh doanh có thuận lợi và hiệu quả . Về thị trường trong nước: Định hướng và mục tiêu phát triển sẽ là: Xây dùng thêm cửa hàng ở các quận khác trong thủ đô và ở các tỉnh khác…. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực: Biên chế và cơ cấu lao động của Công ty năm 2002 là 107 người trong đó lao động gián tiếp chỉ có 37 người đây là tỷ lệ còn khiêm tốn đối với Công ty trước yêu cầu đòi hỏi trình độ ngày cao của hoạt động kinh doanh. Vì thế, Công ty đang có hướng đào tạo nâng cao trình độ cho toàn thể CNCNV, đặc biệt là cán bộ thuộc phòng nhập khẩu. - Về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu: Tăng tỷ trọng của nhóm hàng máy móc thiết bị phục vụ cho nhu cầu hiện đại hoá của các cơ quan, các doanh nghiệp. Doanh số hàng nhập khẩu năm như sau: Hàng điện tử gia dông 31000 triệu đồng, hàng máy móc thiết bị 29000 triệu đồng(12%), mặt hàng khác là 20863 triệu đồng.Tổng doanh thu nhập khẩu của năm 2003 là 80863 triệu đồng( tăng 11,43%). Để thực hiện kế hoạch trên Công ty đẩy mạnh thực hiện các công việc sau: · Sắp xếp cơ cấu tổ chức cho phù hợp, hoàn thiện cơ chế quản lý nội bộ, tập trung nghiên cứu đổi mới cơ chế giao chỉ tiêu, nhiệm vụ, cơ chế lương thưởng thi đua vật chất. · Trao quyền chủ động cho các đơn vị, các bộ phận trong việc tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời quy định chặt chẽ nghĩa vụ đóng góp tài chính của các bộ phận đối với Công ty. · Làm tốt công tác cán bộ: tuyển dụng cán bộ trẻ có năng lực trình độ hiểu nghiệp vụ có trách nhiệm cũng như có tính sáng tạo để tạo sức bật mới cho công ty, đào tạo lại nhằm tăng năng lực cho cán bộ công nhân viên. · Xóc tiến thương mại tìm kiếm thị trường mới, mặt hàng mới đối tác mới, nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu. II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI XNK HÀ NỘI Trước những thực trạng trên, trong thời gian tới để hoạt động kinh doanh nhập khẩu thực sự đạt hiệu quả cao đóng góp vào hiệu quả kinh doanh chung của Công ty, Công ty cần tổ chức phối hợp thực hiện đồng bộ một số biện pháp sau: Giảm chi phí kinh doanh nhập khẩu. Chi phí kinh doanh nhập khẩu hàng hóa là nhân tố cấu thành nên giá thành của hàng hoá, quyết định đến giá bán của hàng hoá, doanh thu và lợi nhuận thu được. Chi phí tăng cao sẽ đẩy giá bán lên cao hoặc làm giảm lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm. Theo chương II, chi phí cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty là rất lớn cho nên lợi nhuận nhập khẩu thu về là thấp không tương xứng với quy mô kinh doanh của Công ty. Do đó, tiết kiệm chi phí, cắt giảm những chi phí không cần thiết là việc làm tất yếu đối với Công ty TM XNK HN khi tham gia vào hoạt động nhập khẩu. Thông thường, khi nói đén cắt giảm chi phí đầu vào nhằm giúp doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh, người ta chỉ nghĩ đến giá điện, nước, thêu mướn mặt bằng…nhưng Ýt nghĩ tới những yếu tố khác như: bất hợp lý về thuế và chi phí khác doanh ngiệp phải gánh chịu. Vì vậy, trong quá trình kinh doanh Công ty luôn phải tìm cách giảm tối đa chi phí có thể bằng cách đến từng khâu của hoạt động kinh doanh nhập khẩu và xem xét xem chi phí nào là chưa hợp lý qua đó tìm ra nguyên nhân làm tăng chi phí để có biện pháp khắc phục kịp thời. Mặt khác, phải cải tiến các công đoạn trong quá trình kinh doanh nhập khẩu để giảm chi phí định mức. Ngoài giá vốn hàng hoá cấu thành nên chi phí nhập khẩu thì còn nhiều loại chi phí khác cũng góp phần làm tăng chi phí nhập khẩu của doanh nghiệp lên cao hơn như: mức khấu hao tài sản cố định, thuế nhập khẩu, tiền công tiền lương, lệ phí hải quan, phí thuê tàu, phí bảo hiểm, chi phí quản lý, trả lãi vay Ngân hàng, phí bốc dỡ, vận chuyển và bảo quản hàng hoá, phí giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng…Mỗi loại chi phí này có đặc điểm riêng nên biện pháp tốt nhất để giảm chi phí là giảm ở từng khâu, từng loại chi phí cấu thành chi phí nhập khẩu, các biện pháp có thể thực hiện là: - Bè trí và tổ chức khâu vận chuyển, bảo quản hàng hoá một cách khoa học, chặt chẽ để giảm chi phí vận chuyển và tránh những tổn thất không đáng có. Vì trong kinh doanh ngoại thương, giao nhận và vận chuyển hàng hoá ngày càng có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến phạm vi buôn bán, đến mặt hàng, đến khối lượng và kim ngạch của các quốc gia cũng như ở doanh nghiệp. Cơ cấu cấu thành của hàng hoá nhập khẩu gồm giá gốc (cost) + chi phí vận chuyển (freight) + chi phí khác. Thông thường chi phí vận chuyển chiếm trung bình 10% giá FOB hoặc 9% giá CIF của hàng hoá. Như vậy, nếu giảm được chi phí vận chuyển sẽ giảm được chi phí lưu thông góp phần duy trì hoạt động kinh doanh, đồng thời tăng lợi nhuận trước sự cạnh tranh quyết liệt của thương trường. - Tính toán lượng hàng nhập khẩu tối ưu, phù hợp với mức chi phí hợp lý tránh hiện tượng thừa quá nhiều là ứ đọng vốn, hàng xuống cấp tăng chi phí bảo quản. - Xây dựng hệ thống kho tàng, cửa hàng thuận tiện cho quá trình vận chuyển, tiêu thụ hàng hoá tránh vận chuyển và thuê kho nhiều lần làm tăng chi phí lưu thông, giảm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. - Hoàn thiện quy trình nhập khẩu hàng hoá để tăng mức lưu chuyển thông qua đó giảm chi phí, nâng cao hiệu quả nhập khẩu. - Thực hiện khoán từng khâu trong hoạt động nhập khẩu đến từng người đồng thời tiến tới cắt bỏ những chi phí không hợp lý mang tính chất phô trương trong quá trình nhập khẩu. 2. Giải pháp về vốn 2.1 Những biện pháp giải quyết vấn đề thiếu vốn Mặc dù hàng năm Công ty đều có bổ xung đáng kể cả về vốn lưu động và vốn cố định nhằm nâng cao khả năng thanh toán, khả năng tự chủ trong kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên, cũng có lúc Công ty vẫn chưa hoàn toàn đảm bảo được khả năng thanh toán buộc phải bán gấp vật tư, hàng hoá, tài sản để có tiền thanh toán. Cách làm này không chỉ hạn chế hoạt động kinh doanh nhập khẩu mà còn bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Công ty cũng nhận định được rằng không thể dự hoàn toàn vào nguồn vốn vay của Ngân hàng để kinh doanh vì lãi suất cao, đồng thời phải chịu nhiều chi phí về thủ tục pháp lý để vay vốn, các quy định về thế chấp, định mức vay, như thế sẽ làm giảm lợi nhuận của Công ty. Để giải quyết vấn đề thiếu vốn trong hoạt động nhập khẩu Công ty có thể sử dụng các biện pháp sau: - Huy động vốn từ phần lợi nhuận để lại, các khoản tiền mặt tạm thời chưa dùng đến như: quỹ khấu hao, quỹ tiền lương chưa đến kỳ thanh toán. - Nguồn vốn vay của Ngân hàng có thể giúp Công ty thực hiện các hợp đồng đòi hỏi vốn lớn, đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn nhưng cần hạn chế cách này vì những bất lợi đã nêu ở trên. -Thực hiện liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Với hình thức này Công ty vừa hạn chế được rủi ro về vốn vừa giảm được lượng vốn đầu tư vào kinh doanh. - Phát hành cổ phiếu, trái phiếu: hình thức này vừa tạo được vốn vừa khuyến khích người lao động phát huy hết năng lực của mình vì lợi Ých Công ty gắn liền với lợi Ých thiết thực của họ nhưng để thực hiện được hình thức này cần có sự đồng tình của cơ quan chức năng có liên quan. 2.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là yếu tố về giá trị nó chỉ phát huy được tác dụng khi được bảo toàn và tăng lên sau mỗi chu kì kinh doanh, nếu vốn không được bảo toàn và tăng lên sau mỗi chu kì hoạt động nghĩa là vốn đã bị thiệt hại. Sự thiệt hại về vốn kéo dài sẽ dẫn tới doanh nghiệp bị phá sản tức là vốn kinh doanh đã bị sử dụng một cách lãng phí, không hiệu quả mà chủ yếu là vốn lưu động Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là việc sử dụng tiết kiệm vốn lưu động trong quá trình kinh doanh, nếu Công ty tăng nhanh được quá trình luân chuyển vốn thì chỉ cần số lượng vốn như cũ nhưng vẫn thực hiện được nhiều hợp đồng hơn. Việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả là giải pháp quan trọng trong việc giải quyết tình trạng thiếu vốn hiện nay trong Công ty. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động: - Lập kế hoạch vốn lưu động định mức Nhiệm vụ cơ bản được đặt ra cho Công ty là với khối lượng hàng hoá kinh doanh theo kế hoạch được dự tính theo nhu cầu thị trường thì làm thế nào để có được một tỉ lệ đúng đắn giữa vốn lưu động so với kết quả kinh doanh. Điều này có nghĩa là làm thế nào để tăng cường hiệu quả của vốn lưu động bỏ ra, muốn vậy Công ty phải xác định nhu cầu vốn một cách đúng đắn và hợp lý. Nhu cầu về vốn lưu động đòi hỏi phải đủ để đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh được tiến hành một cách liên tục, nhưng đồng thời phải thực hiện chế độ tiết kiệm hợp lý, có như vậy mới thúc đẩy Công ty ra sức cải tiến phương thức kinh doanh, tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, củng cố chế độ hạch toán kinh doanh, đảm bảo việc quản lý chặt chẽ số vốn bỏ ra. Nếu như vốn kinh doanh xác định quá thấp sẽ gây khó khăn cho tính liên tục của quá trình luân chuyển vốn trong kinh doanh. Thiếu vốn gây ra nhiều tổn thất như việc kinh doanh bị chậm trễ, không đáp ứng được nhu cầu khách hàng, không đủ tiền thanh toán kịp thời với người bán, dẫn đến mất uy tín và không giữ được khách hàng. Những khó khăn về tài chính chỉ có thể giải quyết bằng cách vay đột xuất với những điều kiện nặng nề về lãi suất, nếu trả quá hạn sẽ phải trả lợi tức tiền vay cao làm cho lợi nhuận của Công ty giảm sút. Mặt khác, nếu nhu cầu vốn lưu động được xác định quá cao lại gây tác hại cho bản thân Công ty, gây nên tình trạng ứ đọng vật tư, lãng phí vốn và phát sinh nhiều chi phí không hợp lý làm giá thành tăng, lợi nhuận giảm. - Xây dựng cơ cấu vốn hợp lý Hiệu quả của vốn không chỉ phụ thuộc vào khối lượng vốn đưa vào mà còn phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu của lượng vốn đó. Với cùng một lượng vốn như nhau, đơn vị nào xây dựng được cơ cấu vốn hợp lý đơn vị đó sẽ có lợi nhuận trên một đồng vốn cao hơn, lúc này sẽ phát huy tối đa tác dụng của vốn trong kinh doanh. Muốn xây dựng được cơ cấu vốn hợp lý, Công ty phải tính toán cụ thể số ngày dự trữ, giảm khối lượng dự trữ xuống mức tối thiểu, tránh ứ đọng vốn, tăng nhanh vòng quay vốn. - Tăng nhanh vòng quay vốn lưu động Đẩy nhanh được vòng quay của vốn lưu động sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tốc độ nhanh hay chậm phụ thuộc chặt chẽ vào công tác thu mua và tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Để tạo điều kiện cho công tác thu mua được tiến hành thuận lợi và chủ động thì cần củng cố, nâng cao chất lượng công tác, xây dựng kế hoạch thu mua và tiêu thụ một cách thống nhất và đồng bộ. Kế hoạch tiêu thụ sẽ là cơ sở để xác định khối lượng, chủng loại, chất lượng hàng hoá và tiến độ thu mua. Sự thống nhất giữa hai bộ phận này có tác dụng thúc đẩy, tăng nhanh vòng quay vốn, giảm lượng vốn ứ đọng. Dùa vào kế hoạch chung Công ty sẽ chủ động lập kế hoạch nhập khẩu cho từng thời kỳ, từng địa điểm, xác định rõ khối lượng, chủng loại, chất lượng và giá cả có thể chấp nhận được. Song song với kế hoạch đó Công ty cũng cần chú trọng tính toán khối lượng vốn cần thiết cho nhập khẩu trong những thời kỳ cao điểm để kế hoạch mang tính khả thi, đảm bảo đúng yêu cầu về mặt thời gian. Đối với kế hoạch tiêu thụ, Công ty cần bám sát thị trường, theo dõi tình hình thay đổi nhu cầu, giá cả để có những dự báo chính xác về nhu cầu thị trường. Cán bộ quản lý cần phải tìm hiểu cặn kẽ những thông tin trên thị trường để lập kế hoạch nhằm nâng cao hiệu quả cho việc sử dụng vốn. Tuy nhiên, kế hoạch dù tốt đến đâu nếu như khâu tổ chức thực hiện không được chu đáo, kỹ càng và linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế thì kế hoạch này không có ý nghĩa. Vì thế, Công ty cần tổ chức tốt hơn nữa công tác thu mua, vận chuyển, bảo quản, tiêu thụ nhằm làm giảm chi phí và tỉ lệ hao hụt, đồng thời đảm bảo đúng yêu cầu về số lượng và tiến độ. Muốn vậy, Công ty cần lùa chọn, bố trí cán bộ, nhân viên trực tiếp làm công tác này phải là người có tinh thần trách nhiệm cao cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết cho họ, quy định rõ trách nhiệm quyền hạn cũng như quyền lợi của họ nhằm khuyến khích động viên họ hoàn thành tốt công việc được giao. Nếu làm tốt công tác này thì sẽ khắc phục nhược điểm trong nghiệp vụ nhập khẩu và là đòn bẩy quan trọng góp phần củng cố, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Tăng cường công tác quản lý tài chính Chức năng giám đốc tài chính của Công ty hiện nay là do kế toán trưởng và phòng tài vụ đảm nhiệm. Tình hình quản lý sử dụng vốn trong thời gian qua với những tồn tại nêu trên cho thấy việc giám đốc tài chính cần phải được tăng cường, củng cố để sử dụng vốn có hiệu quả là rất cần thiết. -Tăng cường giám đốc tài chính đối với vốn lưu động trong các khâu dự trữ, lưu thông nhằm hạn chế những bất hợp lý trong cơ cấu vốn và dự trữ tài sản lưu động. Muốn vậy, phải nắm vững kế hoạch kinh doanh, thúc đẩy thu mua, ký kết hợp đồng, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn. -Tăng cường sự phối hợp giữa phòng tài vụ với các phòng kinh doanh để lập kế hoạch thu mua, tiêu thụ hàng hoá, giải quyết hàng hoá tồn kho để đạt được khả năng thanh toán tốt. -Tăng cường khâu thanh toán để thu tiền về nhanh chóng, kịp thời, tránh tình trạng công nợ dây dưa kéo dài. Các nghiệp vụ phản ánh tình hình tài chính phải ghi chép đầy đủ, kịp thời, chính xác cho mỗi niên độ kế toán. 3. Xác định cơ cấu mặt hàng hợp lý Hiện nay, nền sản xuất trong nước phát triển khá mạnh mẽ, các doanh nghiệp trong nước đã và đang từng bước đổi mới quy mô kỹ thuật, nâng cao năng suất chất lượng hàng hoá của mình nên sản phẩm sản xuất ra ngày càng tốt hơn với mẫu mã đẹp và khá phong phó. Xu thế người tiêu dùng đã chuyển dần hướng sang sử dụng hàng nội địa, trào lưu chuộng hàng ngoại giảm dần trong những năm tới. Mặt khác, hiện nay Nhà nước luôn có chính sách hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng để khuyến khích sản xuất trong nước. Vì thế mặc dù kim ngạch và doanh thu nhập khẩu của Công ty khá lớn nhưng cũng sẽ gặp phải khó khăn, khó hoàn thành kế hoạch nếu như không xác định được cơ cấu nhập khẩu hợp lý cũng như sự thay đổi về nhu cầu của mỗi sản phẩm. Việc đa dạng hoá mặt hàng giúp Công ty đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu thị trường đồng thời nâng cao được tên tuổi, địa vị, uy tín của Công ty. Tuy vậy, với mặt hàng được coi là truyền thống cần có sự đổi mới, nắm bắt tình hình, đón trước nhu cầu thị trường để đảm bảo viẹc nhập khẩu được liên tục, tránh việc để mất thị trường vào đối thủ cạnh tranh. Đa dạng hoá mặt hàng cũng đồng nghĩa với việc tìm kiếm thời cơ hấp dẫn trong kinh doanh. Như vậy, việc điều chỉnh cơ cấu mặt hàng không những đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế mà còn giúp Công ty ổn định và phát triển. Cho đến nay, Công ty mới chỉ đơn thuần thực hiện hình thức nhập khẩu trực tiếp mà không triển khai các hình thức nhập khẩu khác. Trong thời gian tới nếu Công ty đa dạng hoá các hình thức nhập khẩu có nghĩa là tận dụng được hết các tiềm năng của mình , phân tán rủi ro cho các hình thức còn lại. Đặc biệt hình thức nhập khẩu uỷ thác đang được áp dụng phổ biến ở nước ta bởi những ưu điểm của nó như: Gia tăng nguồn thu mà không phải bỏ ra một đồng vốn nào kể cả mức phí giao dịch trong khi mức phí uỷ thác là 0,5% - 1% tổng giá trị lô hàng. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức này cần phải chú ý đến mặt hàng nhập khẩu tức là chỉ nhập những mặt hàng có trong giấy phép nhập khẩu, không nên nhập hàng hoá mà Công ty đang nhập theo hình thức trực tiếp. Vì như thế sẽ mất thị trường tiêu thụ tạo ra nhiều đối thủ cạnh tranh mới. 4. Nâng cao nghiệp vụ nhập khẩu 4.1 Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì thế, nghiên cứu thị trường có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong công tác XNK hàng hoá của mỗi quốc gia và mỗi doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng phải diễn ra trên cơ sở nghiên cứu thị trường đặc biệt đối với hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra trên phạm vi quốc tế thì việc nghiên cứu thị trường ngoài nước là rất quan trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả của Công ty. Mục đích chủ yếu của nghiên cứu thị trường là nắm bắt, thu thập thông tin về sản phẩm, thị hiếu, tính năng sản phẩm, đối thủ cạnh tranh…liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là những tiền đề quan trọng đảm bảo cho các hoạt động của Công ty diễn ra đạt được hiệu quả cao nhất. Trên cơ sở những thông tin đó, Công ty sẽ chọn lọc những thông tin cần thiết để xây dựng các chiến lược, kế hoạch, phương án kinh doanh nhằm cung ứng hay bán hàng hoá trên thị trường. Hiện nay, không chỉ có Công ty TM XNK Hà Nội gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin về đối tác cũng như các quy tắc trong kinh doanh quốc tế mà đây còn khó khăn chung của tất cả doanh nghiệp. Do nguồn lực về vốn và con người còn hạn chế nên việc mở rộng thị trường phải có sự lùa chọn kỹ càng. Trên cơ sở lùa chọn thị trường phải tiến tới lùa chọn đối tác kinh doanh. Để hiểu được đối tác phải điều tra thu thập thông tin về đối tác như quá trình phát triển, lĩnh vực hoạt động kinh doanh, khả năng tài chính, cơ cấu tổ chức, điểm mạnh và điểm yếu của họ…Các thông tin này có thể tìm hiểu trực tiếp thông qua văn phòng đại diện của các Công ty nước ngoài tại Việt Nam. Việc tìm hiểu kỹ các đối tác nước ngoài sẽ giúp cho Công ty tránh được những rủi ro trong quá trình kinh doanh có thể gặp phải. - Mở rộng thị trường nhập khẩu: Để hoạt động kinh doanh nhập khẩu diễn ra trong điều kiện thuận lợi ngoài việc nghiên cứu kỹ thị trường trong nước thì Công ty cần phải có nhiều nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thời gian qua Công ty mới chỉ quan hệ với một số thị trường Châu á như Nhật Bản, Thái Lan, Singapore và khối EU thì có Anh, Pháp. Trong những năm tới vấn đề mở rộng quan hệ với thị trường khu vực Bắc Mỹ, đặc biệt là Mỹ từ khi ký Hiệp định thương mại Việt Mỹ nếu không sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh trên thị trường này. Ngoài ra, Trung Quốc là nước có nhiều hàng hoá có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam, nhất là những người có thu nhập thấp và trung bình. Đây là những bạn hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Công ty để thực hiện tốt chiến lược kết hợp giữa đa dạng hoá và chuyên môn hoá hàng nhập khẩu. 4.2 Xây dựng và lùa chọn chiến lược kinh doanh phù hợp Hoạt động trong cơ chế thị trường với mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dùng cho mình một chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp, kết hợp chặt chẽ với mục tiêu ngắn, trung và dài hạn, giảm sự phụ thuộcvào sự biến động của thị trường đồng thời thích ứng nhanh với bất kỳ sự biến động của môi trường kinh doanh. Bất kỳ hoạt động kinh doanh nào trên thị trường đều phải được tính toán trên nhiều phương diện, nên để được hiệu quả cao nhất đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tận dụng hết thời cơ mà thị trường tạo ra trong khả năng cụ thể của mình. Do vậy doanh nghiệp cần xây dựng, lùa chọn chiến lược kinh doanh phù hợp và phù hợp với đặc điểm về thị trường, các khả năng về tài chính, vốn, nhân lực của mình. Đối với Công ty, kết quả hoạt động nghiên cứu thị trường là cơ sở ban đầu để xây dựng kế hoạch kinh doanh. Trong thời gian tới, Công ty nên hiệu chỉnh lại tỷ trọng kim ngạch của các mặt hàng nhập khẩu, kết hợp giữa chiến lược đa dạng hoá và chiến lược chuyên môn hoá trong phạm vi kinh doanh của mình. Để đảm bảo phục vụ đủ và đúng nhu cầu thị trường, nhu cầu các ngành sản xuất trong nước đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu Công ty cần hoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch nhập khẩu theo quy trình: - Xây dựng chiến lược nhập khẩu - Lùa chọn phương thức giao dịch - Xác đinh tỷ suất ngoại tệ đối với hàng nhập khẩu - Xác định khối lượng nhập khẩu tối ưu Khi xây dựng kế hoạch nhập khẩu Công ty cần tuân thủ chặt chẽ quy trình trên để có thể đưa ra một kế hoạch phù hợp, chính xác nhất và tránh tình trạng thực hiện các thương vụ mang tính chụp giật. 4.3 Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng. Giao dịch đàm phán là bước đầu tiên tiến tới ký kết hợp đồng nhập khẩu, sự thành công trong đàm phán quyết định đến kết quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty. Đối với khách hàng ở các thị trường khác nhau cần phải xác định phương thức đàm phán khác nhau nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Do đó, công việc đàm phán đòi hỏi phải được tiến hành bởi những cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả năng giao tiếp và đạo đức trong kinh doanh. Trước khi đàm phán phải có sự chuẩn bị đầy đủ các thông tin có liên quan đến việc ký hợp đồng, tìm hiểu kỹ các điểm mạnh, điểm yếu của đối tác khi bước vào bàn đàm phán vì hợp đồng nhập khẩu là loại hợp đồng phức tạp, nhiều điều khoản bắt buộc, dễ xảy ra tranh chấp… Trong quá trình ký kết hợp đồng Công ty cần lưu ý quy định rõ các loại chứng từ cần thiết vì chúng là kết quả của việc xác nhận các bước thực hiện hợp đồng như các loại chứng từ để thanh toán, giải quyết khiếu nại và tranh chấp. Mặt khác, trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng phải chú ý về điều kiện giao hàng của đối tác, điều kiện thanh toán an toàn nhất. Thực hiện hợp đồng kinh doanh nhập khẩu là một quá trình có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh bỏi nó quyết định trực tiếp chi phí của hoạt động nhập khẩu, ảnh hưởng đến uy tín của Công ty và quan hệ với bạn hàng ở các nước. Bất kỳ một sai sót nào xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng đều có thể không mang lai hiệu quả, gây tỏn thất về mặt kinh tế như làm chậm tiến độ hợp đồng, giảm chất lượng hàng hoá hoặc xảy ra tranh chấp. Vì vậy, tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu đòi hỏi phải tiến hành chu đáo, có bài bản trên cơ sở tiết kiệm chi phí để đạt được mục tiêu lợi nhuận cao. 5. Đẩy mạnh tiêu thụ hàng nhập khẩu Quá trình kinh doanh nhập khẩu hàng hoá chỉ được hoàn thành khi được tiêu thụ trên thị trường nên bán hàng là khâu cuối cùng có ý nghĩa quyết định đến doanh thu và lợi nhuận của Công ty. Muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thì Công ty phải thực hiện tốt khâu bán hàng để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, thu hồi vốn nhanh và tăng nhanh vòng quay của vốn. Các biện pháp có thể thực hiện: - Xác định giá bán hợp lý: Vì giá bán có tác động lớn đến hàng hoá bán ra đặc biệt là các mặt hàng quan trọng có tính chiến lược, chỉ một sự thay đổi nhỏ về giá là có thể dẫn đến sự thay đổi lớn về số lượng bán ra. Hiện nay đang xuất hiện ngày một nhiều Công ty có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp. Do đó, giá cả được hình thành tự do trên thị trường, Công ty không được phép tự nâng giá bán trong nước để thu lợi nhuận cao. Vì thế, khi xác định giá bán Công ty cần phải căn cứ vào giá cả thị trường và chiến lược kinh doanh của mình để đưa ra mức giá phù hợp. - Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến bán hàng: Để củng cố vị trí uy tín và hình ảnh của mình trên thị trường trong xu thế cạnh tranh gay gắt và thị phần của Công ty có xu hướng giảm thì ngoài việc xác định mức giá bán hợp lý Công ty cần phải sử dụng các hình thức xúc tiến để mang lại hiệu quả cao như: quảng cáo, khuyến mại, giảm giá… - Đầu tư xây dựng hệ thống cửa hàng hiện đại, tăng cường mạng lưới bán hàng tại các điểm bán hàng qua đó xây dựng niềm tin của khách hàng đối với Công ty, nâng cao công tác tiếp thị góp phần nâng cao hiệu quả bán hàng. 6. Nâng cao nghiệp vụ của đội ngò cán bộ công nhân viên. Xuất phát từ chủ trương hội nhập và toàn cầu hoá, yếu tố con người càng trở nên quan trọng. Do vậy, công tác đào tạo đội ngò cán bộ có đủ năng lực trình độ nhằm đáp ứng đòi hỏi của công cuộc CNH - HĐH đất nước là chiến lược và nhiệm vụ hàng đầu. Hiện nay, CBCNV của Công ty đa số còn trẻ cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề nên kinh nghiệm cũng còn một số hạn chế khi tiến hành hoạt động nhập khẩu. Vì thế, điều đầu tiên là phải nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương cho đội ngò cán bộ thông qua hình thức bồi dưỡng, đào tạo lại và tuyển dụng mới, sau đó cần xây dựng nhiệm vụ cho từng phòng XNK trong công tác hướng dẫn, cập nhật đầy đủ các văn bản, nghị định một cách kịp thời. Để làm được điều này Công ty cần có những biện pháp sau: - Thường xuyên gửi các cán bộ, nhân viên trẻ có năng lực đi học tập nghiên cứu ở các líp đào tạo cán bộ kinh doanh trong và ngoài nước. - Đào tạo chuyên môn cho đội ngò mới vào nghề,giúp họ nâng cao được trình độ nghiệp vụ nhập khẩu từ công tác chuẩn bị hồ sơ ban đầu đến thực hiên tốt nghiệp vụ giao nhận hàng hoá. III. KIẾN NGHỊ 1. Với Nhà nước Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước các hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng đều nằm dưới sự kiểm soát và hướng dẫn của Nhà nước. Vì thế, bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của Công ty trong việc hoàn thiện các công tác nghiệp vụ có liên quan đến hoạt động nhập khẩu để đạt được hiệu quả nhất định thì đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng là Nhà nước tạo ra một hành lang pháp lý hoàn thiện và môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thông qua cơ chế chính sách quản lý và điều tiết nhằm nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp. - Xây dựng chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu là cần có vốn lớn và phải vay vốn Ngân hàng là điều không thể tránh khỏi. Giữa Ngân hàng và doanh nghiệp có mối liên hệ mật thiết với nhau: Ngân hàng cần cho vay để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình còn doanh nghiệp cần có vốn để đáp ứng nhu cầu về vốn cho mỗi lô hàng của mình nhưng thực tế giữa họ còn rất nhiều trở ngại đó là thủ tục cho vay còn rất phức tạp và còn thiếu tính linh động. Doanh nghiệp mất khá nhiều thời gian để vay được vốn làm cho doanh nghiệp có thể bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Vậy đề nghị nhà nước xem xét nhanh chóng đưa ra các biện pháp để cải cách hoạt động của Ngân hàng đặc biệt là thủ tục cho vay vốn cần phải hợp lý hơn dùa trên những khả năng hiện có của doanh nghiệp đồng thời Ngân hàng nên mở rộng các hình thức cho vay để các doanh nghiệp có thêm cơ hội để lùa chọn. Ngoài ra, Nhà nước cần xây dựng một hệ thống thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu như hỗ trợ thông tin qua mang Inter net, thúc đẩy doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử … Đối với doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp như Công ty TN XNK Hà Nội thì mức thuế nhập khẩu thường phải chịu là 15-35%, thuế VAT là 10%, điều này đã làm nâng giá bán của hàng hoá nhập khẩu và làm ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy trong thời gian tới Nhà nước cần có sự điều chỉnh để giảm mức thuế nhập khẩu xuống thấp hơn nữa để phù hợp với lé trình gia nhập AFTA của Việt Nam và cũng để doanh nghiệp có những bước chuẩn bị trong điều kiện hội nhập mới. Chính sách nhập khẩu mà cụ thể là các thủ tục hải quan, các văn bản pháp lý có liên quan đến hoạt động nhập khẩu có vai trò rất lớn giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn, giảm các chi phí có liên quan. Để tạo điều kiện cho Công ty phát huy hết khả năng của mình trong kinh doanh nhập khẩu thì các cơ quan chức năng Nhà nước như Bộ thương mại, Tổng cục hải quan nên tạo điều kiện cho Công ty trong việc cấp hạn ngạch nhập khẩu, làm thủ tục hải quan…Tránh trường hợp hàng về nhưng chưa được làm thủ tục phải nằm tại cảng gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Công ty như chậm tiến độ giao hàng, tăng chi phí do phải chịu thêm chi phí lưu kho và các chi phí có liên quan khác. Hiện nay, mặc dù thủ tục hải quan cũng như các thủ tục hoàn thuế, nép thuế đã được cải thiện nhưng vẫn còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, chồng chéo trong nội dung các văn bản pháp lý có liên quan làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu. Do vậy, Nhà nước cần đơn giản hoá thủ tục hải quan tạo điều kiện cho việc thông quan hàng hoá nhanh chóng, tiết kiệm các loại chi phí. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Nhà nước cần xây dựng hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc và tài chính ngân hàng phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu, đẩy nhanh tốc độ thực hiện hợp đồng và giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp. - Hỗ trợ về thông tin Để đạt được thành công khi kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin chính xác về cung cầu thị trường hàng hoá, về công nghệ kỹ thuật, về đối thủ cạnh tranh…Kinh nghiệm thành công của nhiều doanh nghiệp cho thấy nắm được các thông tin cần thiết, biết xử lý và sử dụng các thông tin đó kịp thời là một điều kiện rất quan trọng để ra quyết định kinh doanh có hiệu quả cao, đem lại thắng lợi trong cạnh tranh. Những thông tin chính xác được cung cấp kịp thời sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn và hoạch định chương trình sản xuất ngắn hạn. Do nhu cầu về thông tin ngày càng lớn nên đòi hỏi sự hỗ trợ của Nhà nước để doanh nghiệp phát triển hệ thống thông tin nội bộ được nối mạng trong nước và quốc tế bởi vì: Các doanh nghiệp ở nước ta nhìn chung là “đói thông tin” về thị truờng xuất nhập khẩu nên Nhà nước cần hổ trợ cho các doanh nghiệp trong việc xử lý thu thập thông tin về thị trường xuất nhập khẩu, giúp các doanh nghiệp đề ra phương án kinh doanh có hiệu quả . Nhà nước nên tổ chức cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các Ên phẩm thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp về sức mua, nhu cầu tiêu thụ, các mặt hàng đang được khách hàng quốc tế ưa chuộng, giá cả.. Nhà nước nên tạo lập kênh thông tin thương mại thông suốt từ thường vụ Việt Nam ở nước ngoài, Bộ thương mại đến các Sở thương mại, các doanh nghiệp hoặc có thể mở các văn phòng tư vấn cho doanh nghiệp… Với Sở thương mại Hà Nội Vấn đề thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung cũng như hoạt động nhập khẩu của Công ty nói riêng là khó khăn lớn nhất vì nó góp phần làm giảm hiệu quả kinh doanh. Công ty buộc phải sử dụng một lượng lớn vốn vay từ nhiều nguồn khác nhau vì nguồn vốn được cấp còn quá nhỏ so với nhu cầu về vốn của Công ty. Khi phải huy động từ nhiều nguồn khác nhau đã làm đẩy chi phí lên cao, giảm lợi nhuận và giảm hiệu quả nhập khẩu của mình. Sở TM Hà Nội với tư cách là cơ quan chủ quản, Công ty mong muốn nhận được nhiều hơn nữa về vốn cũng như những điều kiện thuận lợi khi tiến hành kinh doanh như: Lập kế hoạch nhập khẩu, cấp vốn cho hoạt động nhập khẩu là bao nhiêu; tạo điều kiện vay vốn Ngân hàng vơi lãi suất ưu đãi, cung cấp thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động nhập khẩu, giúp Công ty giải quyết khó khăn vướng mắc của mình… KẾT LUẬN Chẳng còn bao lâu nữa, bắt đầu từ năm2006 trong khuôn khổ Hiệp định về khu vực mậu dịch tự do thương mại ASEAN(AFTA), Việt Nam sẽ phải áp dụng mức thuế nhập khẩu dưới 5% đối với hầu hết các mặt hàng trao đổi trong khối. Hàng hoá từ các nước có trình độ phát triển công nghiệp và thương mại cao hơn nước ta sẽ tràn vào thị trường trong nước khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan gỡ bỏ, đặt hàng hoá nội địa trước thách thức cạnh tranh sinh tử. Liệu các doanh nghiệp Việt nam có đứng vững và vượt qua thử thách này để vươn lên ? Trước những khó khăn này việc chú trọng nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu nói riêng là điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên hoạt động nhập khẩu là lĩnh vực hoạt động hết sức phức tạp và chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau đòi hỏi các doanh ngiệp cùng với Nhà nước, các ngành và cơ quan chức năng liên quan có sự hỗ trợ, phối hợp hoạt động thì mới bảo đảm được hoạt động kinh doanh thông suốt và có hiệu quả cao Công ty thương mại XNK Hà Nội được đánh giá là một đơn vị làm ăn có hiệu quả của Sở thương mại Hà Nội trong thời gian qua. Cùng với sự biến chuyển của đất nước, hoạt động nhập khẩu đang có những biến chuyển đáng mừng. Tuy nhiên, so với yêu cầu trong thời kỳ đổi mới thì những thành quả đạt được còn rất khiêm tốn. Để góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu hơn nữa vấn đề đặt ra cho Công ty là phải đưa ra những biện pháp hữu Ých nhằm đưa hiệu quả cao. Qua thời gian thực tập tại Công ty em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội” với mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình trong nỗ lực của toàn công ty nâng cao hiệu quả nhập nhập khẩu của mình Em xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn của ThS Tạ Lợi và các anh chị phong xuất nhập khẩu đã giúp em hoàn thành chuyên đề này, em rất mong nhận được các ý kiến đóng góp và sự chỉ bảo của các Thầy cô và các bạn để em hiểu sâu hơn về lĩnh vực hiệu quả kinh doanh. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty thương mại XNK Hà Nội những năm 1998 – 2002 - Báo cáo tổng kết kinh doanh của Công ty năm 1998 – 2002 - Giáo trình : Nghiệp vụ ngoại thương, tác giả Vũ Hữu Tửu, NXB Giáo dục - Giáo trình: Quản trị kinh doanh tổng hợp, NXB Thống kê - Giáo trình : Thương mại quốc tế. tác giả PGS- PTS Nguyễn Duy Bét, NXB Thống kê - Giáo trình :Quản trị dự án đầu tư quốc tế - Giáo trình : Kinh doanh quốc tế, chủ biên TS Nguyễn Thị Hường, NXB Thống kê, Trường Đại học Kinh tế quốc dân - Thời báo kinh tế Sài Gòn - Thời báo kinh tế - Tạp chí nghiên cứu kinh tế - Những vấn đề kinh tế thế giới NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 190.doc
Tài liệu liên quan