Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường chất lượng xúc tiến đầu tư để phát triển các khu công nghiệp của Việt Nam

Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường chất lượng XTĐT để phát triển các KCN của Việt Nam MỤC LỤC CHƯƠNG I Những vấn đề lý luận chung về công tác XTĐT nhằm phát triển các khu công nghiệp I, Khái niệm, đặc điểm và phân loại KCN 1. Khái niệm KCN : 2. Phân loại KCN : 3. Vai trò của các KCN với phát triển nền kinh tế: 3.1 Vai trò của KCN đối với nền kinh tế Việt Nam: 3.2 KCN góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 3.3 Nâng cao năng lực công nghệ quốc gia 3.4 Thúc đẩy phát triển kinh tế ở địa phương và đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa II, Vấn đề lý luận cơ bản về XTĐT phát triển các KCN 1. Khái niệm XTĐT : 2. Vai trò của hoạt động XTĐT 3. Vai trò của cơ quan XTĐT đối với vấn đề thu hút vốn đầu tư 4. Các cơ quan tham gia XTĐT 5. Nội dung và công cụ của hoạt dộng XTĐT 5.1Công tác XTĐT của cơ quan trung ương và tổ chức tham gia XTĐT 5.1.1 Xây dựng chiến lược về XTĐT 5.1.2 Xây dựng hình ảnh 5.1.3 Xây dựng quan hệ 5.1.4 Lựa chọn mục tiêu và tạo cơ hội đầu tư 5.1.5Cung cấp dịch vụ và hỡ trợ cho các nhà đầu 5.1.6 Đánh giá và giám sát công tác XTĐT 5.2 Hoạt động của doanh nghiệp 5.2.1 Đối với doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng A1. Doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng –chủ đầu tư là đơn vị có vốn nhà nước A2. Doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng là cơ sở có vốn đầu tư trong nước & đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế tư nhân: 5.2.2 Đối với doanh nghiệp vệ tinh 5.3 Trình tự thực hiện các hoạt động XTĐT : NHỮNG CÔNG CỤ CHÍNH ĐỂ XTĐT CHƯƠNG II Thực trạng XTĐT vào các KCN ở Việt Nam I, Tình hình phát triển KCN trong thời gian qua 1. Tình hình thành lập KCN, KKT 2. Tình hình thu hút đầu tư 3 Tình hình sản xuất kinh doanh 4. KCN nam châm thu hút FDI II, Thực trạng công tác XTĐT vào các KCN 1. Những thành tựu đạt được trong XTĐT 2. Những hạn chế cần khắc phục 2.1 Về hoạt động XTĐT nhằm xây dựng hình ảnh 2.2 Hoạt đông XTĐT nhằm phát sinh và hình thành đầu tư 2.3 Về hoạt động XTĐT nhằm cung cấp các dịch vụ đầu tư 2.4 Về nguồn tài chính cho hoạt động XTĐT ở Việt Nam CHƯƠNG III Giải pháp tăng cường XTĐT vào các KCN và định hướng trong thời gian tới I, Giải pháp cho công tác XTĐT vào KCN Việt Nam 1. Một số giải pháp nhằm đẩy thu hút đầu tư vào các KCN 1.1 Đối với thu hút đầu tư nước ngoài: 1.2 Đối với thu hút đầu tư trong nước 2. Giải pháp cụ thể tăng cường hoạt động XTĐT 2.1 Xây dụng thông điệp XTĐT và quảng bá hình ảnh của Việt Nam 2.2 Phát triển các công cụ XTĐT có chất lượng cao 2.3 Tích cực đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam II, Định hướng phát triển KCN trong thời gian tới

doc64 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1958 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường chất lượng xúc tiến đầu tư để phát triển các khu công nghiệp của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại Khu công nghiệp Phú Mỹ 2, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,2 tỷ USD. Cũng chính dự án này đã đẩy tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lên vị trí thứ nhất trong bảng xếp hạng các địa phương về thu hút FDI với tổng vốn tiếp nhận gần 1,7 tỷ USD. Cũng có thể kể đến dự án xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện điện tử do Tập đoàn Meiko của Nhật đầu tư với số vốn 300 triệu USD tại Khu công nghiệp Phùng Xá (Hà Tây), đây cũng là dự án lớn nhất từ trước đến nay tại tỉnh này. Đối với dự án đăng ký vốn bổ sung, cũng không thiếu vắng những dự án đang hoạt động tại khu công nghiệp của cả nước. Đơn cử, Công ty Công nghiệp Gốm Bạch Mã tại Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore (Bình Dương) tăng 150 triệu USD (chỉ đứng sau dự án tăng vốn của Intel), Công ty Canon Việt Nam tăng 70 triệu USD đầu tư nhà máy sản xuất máy in ở Khu công nghiệp Tiên Sơn (Bắc Ninh), Công ty Fomosa ở Khu công nghiệp Nhơn Trạch 3 (Đồng Nai) tăng 66,4triệuUSD,… Như vậy, tính từ trước đến nay, các khu công nghiệp, khu chế xuất đã thu hút gần 2.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký trên 20 tỷ USD. Đối với các chuyên gia, kết quả nổi bật về thu hút FDI của các khu công nghiệp trong năm 2006 không phải là điều gì quá ngạc nhiên. Theo họ, đó chính là sự nối tiếp thành quả của những năm trước, và điều này càng thêm khẳng định một dự báo trước đó rằng các khu công nghiệp sẽ là viên nam châm "hút" nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam. Cộng với quyết định của Thủ tướng phê quyệt Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, với mục tiêu hình thành hệ thống các khu công nghiệp chủ đạo có vai trò dẫn dắt công nghiệp quốc gia, viên nam châm này sẽ được tiếp thêm một năng lượng lớn. Nhiều ý kiến cũng cho rằng với việc Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), sẽ có nhiều cơ hội hơn được tạo ra cho nhà đầu tư nước ngoài, nhờ đó các khu công nghiệp càng trở nên hấp dẫn hơn, làn sóng đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng mạnh cả về nguồn vốn, công nghệ, và kinh nghiệm quảnlý. Không chỉ thu hút vốn trực tiếp, sắp tới, với việc lên sàn giao dịch chứng khoán, các khu công nghiệp còn có thế mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Các khu công nghiệp phía Nam của các địa phương: Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Tp.HCM, và Đồng Nai vẫn là những đơn vị thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất của cả nước, với 205 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 2,9 tỷ USD, chiếm 73% số dự án và 76% số vốn thu hút mới trong các khu công nghiệp trên cả nước (tính trong 11 tháng đầu năm). Những tỉnh, thành phố này cũng thuộc diện danh sách các địa phương thu hút trên 100 triệu USD trong năm 2006 II, Thực trạng công tác XTĐT vào các KCN Những thành tựu đạt được trong XTĐT  Trong thời gian qua, cùng với việc xây dựng Danh mục dự án gọi vốn đầu tư làm cơ sở để tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư trên địa bàn lãnh thổ, các Ban quản lý KCN các địa phương đã xây dựng được mô hình xúc tiến đầu tư có hiệu quả thông qua việc thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư với chức năng như một cơ quan “một cửa, một đầu mối” nhằm hỗ trợ nhà đầu tư toàn bộ các khâu từ hình thành đến triển khai dự án, đồng thời chủ động tổ chức các chương trình vận động đầu tư ở trong và ngoài nước. Ở cấp Trung ương, thời gian qua công tác XTĐT trực tiếp nước ngoài, quảng bá hình ảnh Việt Nam là địa điểm đầu tư hấp dẫn đã có những bước chuyển bến mạnh mẽ, đặc biệt là từ năm 2001 trở lại đây. Việc vận động XTĐT được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở cả trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức đa dạng. Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã thành lập ba trung tâm XTĐT ở khu vực Bắc, Trung , Nam để cung cấp các thông tin mới nhất liên quan đến đầu tư và tổ chức các hoạt động quảng cáo, vận động, XTĐT. Việt Nam đang đẩy mạnh các hoạt động vận động, XTĐT tập trung vào các nước có tiềm lực tài chính mạnh và có trình độ công nghệ cao như Mỹ, Nhật Bản và một số nước ở châu Âu. Các cược hội thảo XTĐT trong khuôn khổ các chuyến thăm các nước của các lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước cũng như các cuộc hội thảo do Bộ Kế hoạch & Đầu tư phối hợp với cơ quan trong và ngoài nước tổ chức đã góp phần quan trọng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư đối với Việt Nam nói chung và bộ phận các KCN riêng. Kết quả đã thu hút được một số lượng lượng lớn tập đoàn, doanh nghiệp có danh tiếng từ nhiều nước và vừng lãnh thổ trên thế giới.(Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức…) vào Việt Nam tìm cơ hội đầu tư; và số lượng các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã gia tăng mạnh mẽ ở một số địa bàn thuộc các tỉnh đồng bằng sông Hồng( Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh,…) và các tỉnh Đông Nam Bộ ( Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu) Ở cấp địa phương, các sở Kế hoạch & Đầu tư và ban quản lý KCN các tỉnh cũng dã tích cực, chủ động tổ chức các hoạt động XTĐT nhằm xây dựng và quảng bá hình ảnh của một số địa phương. Một số Sở KH & ĐT các tỉnh đã tích cực tham gia vào các chuyến làm việc và các hội thảo XTĐT .Người quảng bá hình ảnh cho địa phương hiệu quả nhất đáng tin cậy nhất không ai khác chính là những nhà đầu tư hiện đang đầu tư kinh doanh thành công tại KCN đó. Đây cũng là hiện tượng đồng thanh tương ứng trong đầu tư, nghĩa là các nhà đầu tư tiềm năng khi nghiên cứu các cơ hội đầu tư và quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư thường quan tâm tới các doanh nghiệp và các nhà đầu tư đã đầu tư thành công tại KCN này Tất cả các cơ quan XTĐT ở Trung Ương và địa phương đề công nhận tầm quan trọng của dịch vụ đầu tư và đồng ý với quan điểm cho rằng “làm hài lòng các nhà đầu tư chính là công cụ XTĐT tốt nhất”. Nhiều tiến bộ đã được ghi nhận trong việc cung cấp các dịch vụ trước khi cấp giấy phép đầu tư. Chẳng hạn như việc cung cấp một đầu mối liên hệ cho nhà đầu tư nước ngoài khi họ có ý định đầu tư vào KCN hoặc rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư cho các dự án ĐTNN thông thường xuống còn từ 2 đến 3 ngày, những dự án phức tạp thì được xem xét giải quyết trong vòng 7 ngày, hay việc công bố rõ ràng, minh bạch công khai cho tất cả các nhà đầu tư biết về các quy hoạch công nghiệp, dịch vụ ở KCN, tạo quỹ đất thuận lợi, kết cấu hạ tầng trọng yếu như đường giao thông, điện nước… được đáp ứng tốt, thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư được tinh giản tới mức tối đa. Cụ thể có thể thấy hoạt động XTĐT đang diễn ra với xu hướng tốt: Năm Chương trình XTĐT 2005 Những ngày việt nam tại Mỹ , Đức và Singapore 2006 Những ngày Việt Nam tại Bỉ-Luxemboug và Anh 2007( tháng 10) Những ngày Việt Nam tại Hàn Quốc và Pháp Một số kết quả của hoạt động xúc tiến đầu tư: thời gian qua chúng ta quan tâm và chú trọng công tác xúc tiến đầu tư để thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Giai đoạn 2001 - 2006,chúng ta đã tận dụng nhiều cơ hội để tiếp xúc, làm việc với các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế như trong dịp các lễ hội văn hoá - du lịch, các hội nghị quốc tế, các hội thảo đầu tư trong và ngoài nước và đặc biệt là việc quảng bá thành công hình ảnh của Việt Nam thông qua hội nghị APEC Các nhà Lãnh đạo APEC và bạn bè quốc tế đánh giá rất cao về vai trò chủ nhà, chủ tịch Hội nghị của Việt Nam. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã nhấn mạnh, các nhà lãnh đạo cho biết họ khâm phục sự phát triển kinh tế xã hội nhanh chóng của Việt Nam trong thời gian gần đây, ấn tượng sâu sắc với vẻ đẹp của Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, với lòng mến khách và nụ cười thân thiện của mỗi người dân Việt Nam, với tà áo dài quyến rũ, với các món ăn truyền thống và với bản sắc văn hóa đặc sắc của đất nước Việt Nam... ‘’Ngay cả đến Tổng thống Mỹ Bush có nói rằng trước khi đến Việt Nam ông còn nhiều băn khoăn không biết sẽ nhận được sự đối xử như thế nào. Nhưng khi đặt chân tới Việt Nam, ông đã thực sự bất ngờ vì sự thân thiện của người Việt Nam. Ông còn nói khi về Mỹ sẽ kể lại điều này, để người dân Mỹ hiểu hơn về Việt Nam, để bớt đi những mặc cảm hay ấn tượng sai về Việt Nam’’, thông qua việc tổ chức thành công APEC 2006, nhờ tạo được hình ảnh mới thân thiệt và hài lòng các nhà lãnh đạo cấp cao cũng như các du khách mà Việt Nam đã thuyết phục được giới đầu tư rằng, đất nước này chính là điểm đến, điểm chọn lựa an toàn và hiệu quả của các nhà đầu tư Nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư. Công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua chủ yếu tập trung vào các hoạt động như: giới thiệu tiềm năng và cơ hội đầu tư các tỉnh, (ii) thu hút đầu tư ; (iii) hỗ trợ, thúc đẩy đầu tư. Các đơn vị chức năng xúc tiến đầu tư của các tỉnh đã tập trung thu thập thông tin, biên soạn, ấn hành các tờ gấp, brochure, đĩa CD và thông qua một số lễ hội văn hoá - du lịch, Hội nghị SOM III và Hội nghị Bộ trưởng Du lịch APEC; đặc biệt là qua một số hội thảo đầu tư trong và ngoài nước, …để giới thiệu Việt Nam là 1 điểm đến an toàn và tiềm năng. Với nguồn tài nguyên phong phú, tiềm năng phát triển thuỷ điện, nhiều sản vật quý hiếm và nhiều khu kinh tế, khu chế xuất như Khu kinh tế mở Chu Lai,khu công nghệ cao Tp HCM, Láng Hoà Lạc.. đặc biệt là sự thân thiện,năng động của các tỉnh đã chiếm được cảm tình, tin tưởng, yên tâm của các nhà đầu tư. Trong thời gian qua,chúng ta đã tiến hành tổ chức được nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư nhiều nước và lãnh thổ như Pháp, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc,Mỹ… bằng kinh phí xúc tiến đầu tư của các tỉnh và theo lời mời của nhà đầu tư. Cùng với việc giới thiệu, mời gọi nhà đầu tư, các cơ quan chức năng của các tỉnh thường xuyên giữ liên lạc, trao đổi và cung cấp thông tin cho nhà đầu tư, xác định nhà đầu tư tiềm năng theo từng lĩnh vực, ngành nghề, dự án cụ thể để tập trung hỗ trợ và hướng dẫn cho nhà đầu tư nghiên cứu, thực hiện dự án đầu tư. Các cơ quan chức năng luôn nhận thức rằng, xúc tiến đầu tư là một hoạt động xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu, hình thành và thực hiện dự án đầu tư, nên đã tích cực hỗ trợ cho nhà đầu tư như tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án đầu tư; các vấn đề về đất đai, thành lập doanh nghiệp, thủ tục đầu tư, xây dựng và hoạt động của dự án đầu tư… Nhờ các hoạt động xúc tiến đầu tư tích cực trong thời gian qua mà chỉ trong 10 tháng đầu năm 2006, cả nước đã thu hút được trên 6,48 tỷ USD vốn đăng ký mới, tăng gần 41% so với cùng kỳ năm trước và là mức cao nhất kể từ sau năm 1997 đến nay. Như vậy, sau 10 tháng, về cơ bản chúng ta đã đạt được mục tiêu về thu hút ĐTNN đề ra cho cả năm 2006 (6,5 tỷ USD), đưa tổng số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tại nước ta lên 57,3 tỷ USD, vốn thực hiện đạt hơn 36 tỷ USD. Điểm mới đáng chú ý là trong 10 tháng qua đã xuất hiện nhiều dự án có quy mô lớn, sử dụng công nghệ cao do các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư, như dự án của Tập đoàn Intel với tổng vốn đầu tư đăng ký 605 triệu USD (nay đã tăng lên 1 tỷ USD); dự án sản xuất thép của Tập đoàn Tycoons với tổng số vốn đăng ký 556 triệu USD; dự án Tây Hồ Tây vốn đầu tư 314,1 triệu USD; Cảng container tại Thành phố Hồ Chí Minh có vốn đầu tư 249 triệu USD; Công ty Panasonic Communication vốn đầu tư 76,36 triệu USD. Phù hợp với xu hướng nói trên, cơ cấu ĐTNN xét về đối tác cũng đã có sự thay đổi tích cực theo hướng gia tăng nguồn vốn đầu tư từ các trung tâm kinh tế lớn của thế giới nhất là Nhật Bản và Hoa Kỳ. Riêng Hoa Kỳ, nếu tính cả đầu tư qua nước thứ ba, trong đó có dự án Intel, đã trở thành nước đầu tư lớn nhất tại Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2006. Dự án lắp ráp ô tô của Công ty TNHH sản xuất và lắp ráp ô tô Trường Hải, Dự án sản xuất gạch men của Công ty gạch Đồng Tâm, Dự án khu du lịch The Nam Hải của Tập đoàn Indochina Capital (Hoa Kỳ), Dự án khu du lịch Palm Garden, Khu du lịch Golden Sand, Dự án giày da của Công ty Rieker (Đức), vv…; các dự án hoạt động có hiệu quả và đang xin tăng vốn đầu tư, mở rộng đầu tư để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Các tỉnh phía Nam, đặc biệt là TP Hồ Chí Minh có hoạt động XTĐT rất mạnh, một phần vì đây là một trong những địa phương đầu tiên có trung tâm XTĐT, lại được hỗ trợ kinh phí rất mạnh từ UBND thành phố. Một số tỉnh khác như Bình Dương, Đồng Nai hoạt động xúc tiến cũng khá sôi nổi. Gần đây, mấy tỉnh phía Bắc làm khá mạnh, như Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc Giang… Miền Trung cũng đang khởi sắc với hàng loạt hoạt động XTĐT của Đà Nẵng, Quảng Bình. Đặc biệt, Khu Kinh tế Dung Quất đang là đơn vị tiên phong đi đầu trong việc tự mình kêu gọi đầu tư. Những địa phương chưa có điều kiện “mang chuông đi đánh xứ người” như Tây Bắc, đồng bằng sông Cửu Long cũng đều có các hoạt động xúc tiến trong nước. Điển hình là Hội nghị xúc tiến của ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng thời gian trước. Những hạn chế cần khắc phục: Tuy đã đạt được các bước tiến đáng kể nhưng hoạt động XTĐT trong thời gian qua vẫn còn tồn tại những hạn chế. 2.1 Về hoạt động XTĐT nhằm xây dựng hình ảnh Tuy đã đạt được những thành công nhất định, song các hoạt động nhằm xây dựng hình ảnh của các cơ quan XTĐT Việt Nam thời gian qua nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, nội dung cũng như phương thức tổ chức vận động, quảng bá hình ảnh còn quá đơn giản. Tài liệu tuyên truyền giới thiệu về cơ hội đầu tư, các ấn phẩm hướng dẫn đầu tư,các bản tin XTĐT v.v..chưa đầy đủ, hoặc thiết kê chưa hợp lý, nội dung không cập nhật, hình thức thiếu hấp dẫn. Các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước chưa được sử dụng có hiệu quả nhằm phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư, xây dựng hình ảnh. Phần lớn các cơ quan XTĐT của Việt Nam chưa tận dụng được ưu thế của hình thức vận động đầu tư gián tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Sự hợp tác của cơ quan xúc tiến đầu tư với các cơ quan, các hãng thông tấn, báo chí, truyền hình trong và ngoài nước còn thiếu chặt chẽ nên tần suất đưa tin quảng cáo về môi trường và cơ hội đầu tư không nhiều, hiệu quả thấp. Kết quả của các hội thảo và hội nghị về XTĐT ở trong và ngoài nước, cũng như tính hiệu quả của các chuyến tham gia triển lãm đầu tư ở nước ngoài và các chuyến công tác của phái đoàn đầu tư thường chưa cao. Hầu hết cơ quan XTĐT của Việt Nam đều thiếu các kỹ năng cần thiết để tổ chức các cuộc hội thảo vận động và XTĐT có chất lượng cao. 2.2 Hoạt đông XTĐT nhằm phát sinh và hình thành đầu tư Mặc dù một số tỉnh đã quan tâm tới việc xây dựng website riêng để quảng bá về tiềm năng và lợi thế của địa phương mình, tuy nhiên vẫn càn nhiều tỉnh chưa có sự quan tâm đúng mức tới hoạt động XTĐT . Các website nhằm quảng bá vận động XTĐT thường không cập nhật và chưa thuận tiện cho người sử dụng. Do thiếu đầu mối quản lý chung nên ngoài một số cuộc hội thảo về đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó lồng ghép thêm nội dung giới thiệu và vận động hình thành đầu tư do một số bộ, ngành tổ chức ở trong và ngoài nước, còn lại thì phần lớn các hoạt động XTĐT nhằm phát sinh và hình thành đầu tư được tiến hành gần như tự phát ở từng địa phương.. Công tác xây dựng quy hoạch và danh mục dự án kêu gọi đầu tư đã bước đầu được quan tâm, nhưng việc triển khai thực hiện còn chậm và chất lượng thấp.một số quy hoạch và dự án trong danh mục chưa tính đến nhu cầu và điều kiện cụ thể của nhà đầu tư, đồng thời không dự báo diễn biến tình hình nên chưa trở thành công cụ định hướng vận động hình thành đầu tư có hiệu quả (quy hoạch KCN ). Quy hoạch các KCN còn thiếu cơ sở khoa học, chưa tính đến những những điều kiện cần thiết những căn cứ làm cơ sở dể quy hoạch nên không thể tránh khỏi sai lầm rất khó khắc phục. Quy hoạch các KCN còn không dựa trên định hướng phát triển ngành công nghiệp nhằm mục tiêu CNH_HĐH cả những năm trước mắt đến năm 2010 và lâu dài tới năm 2020. hơn nữa quy hoạch các KCN chưa giải quyết các vấn dề cụ thể: Vị trí xây dựng KCN , bảo vệ môi trường, ngành nghề, quy mô…Giải quyết các mối quan hệ kinh tế -xã hội . Tình trạng hiện nay một số KCN phải điều chỉnh lại quy hoạch, đặc biệt là thiếu các dịch vụ cần thiết cho người lao động. Ngoài ra là tình trạng các tỉnh thi nhau xây dựng các KCN để “lót ổ”, “trải chiếu” cho các nhà đầu tư. Nhưng hiệu quả quá kém gây lãng phí lớn. Quan hệ giữa quy hoạch - Kế hoạch và thị trường, dẫn tới không cân đối được khả năng cung cầu, có trường hợp chạy theo thị trường theo kiểu “mỳ ăn liền” hoặc lại theo cơ chế Kế hoạch hóa tập trung… .(danh mục kêu gọi đầu tư) Có thể nói công việc cập nhật danh mục kêu gọi dự đầu tư là tốn rất nhiều công sức và thời gian của các bộ phận vận động đầu tư. Thông tin này được cung cấp bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nhật trên tờ rơi và đĩa CD. Các tài liệu này thường được thiết kế tương đối đẹp mắt và được cung cấp cho các nhà đầu tư tiềm năng. Chẳng hạn, 170 dự án đã được liệt kê trong “danh mục các dự án đã kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Hà Nội” (Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội). Hà Nội cũng bày tỏ mong muốn thu hút đầu tư từ Hoa Kỳ. Thành phố cung cấp danh mục đầu tư này cho một công ty tư vấn để công ty này sử dụng tại các buổi hội thảo XTĐT . Nhà đầu tu mục tiêu là các công ty Hoa Kỳ . Như dã bàn ở trên , cấc nhà đầu tư nước ngoài quyết định địa điểm đầu tư vài những lợi ích thực tế mà họ nhận được từ môi trường đầu tư của quốc gia sở tại. Cách hiểu này chưa thực sự đưa vào thực tiễn xây dựng chính sách.. Các tài liệu XTĐT cần được xây dựng trên cơ sỏ đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư chứ không chỉ dựa trên mong muốn của người làm chính sách . Trong trường hợp của Hà Nội, danh mục dự án đầu tư không thực sự hữu ích cho kêu gọi đầu tư và các dự án trong danh mục không đáp ứng nhu cầu thông tin từ các công ty Hoa Kỳ . Nội dung cũng như phương thức tổ chức vận động XTĐT còn quá đơn giản, nặng về tuyên truyền về luật pháp, chính sách chưa tập trung vào chương trình vận động thu hút đầu tư theo từng đối tác, từng lĩnh vực hoặc dự án cụ thể. Hơn nữa, do thiếu thông tin về nhà đầu tư, các phái đoàn Việt Nam thường có xu hướng trình bày nhiều thông tin không hữu ích và cung cấp ít các thông tin thực sự có ích cho các nhà đầu tư . Chẳng hạn một trình bày kêu gọi đầu tư diển hình thường bao gồm các số liệu về kinh tế, các thống kê về FDI, ODA, thương mại và du lịch. Thông tin về quan hệ song phương giữa Việt Nam với quốc gia đang ghé thăm cũng được trình bày như hình thức đầu tư (100% vốn nước ngoài, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh), số lượng dự án đầu tư, số lượng việc làm tạo ra từ các dự án đầu tư,…Các thông tin này cũng cần thiết cho các nhà đầu tư theo cách này hay cách khác songcacs nhà đầu tư cần các thông tin đặc thù hơn như họ có thể bắt đầu công việc kinh doanh như thế nào, khuyến khích cụ thể nào mà họ có thể nhận được, Chính phủ sẽ giáp đỡ họ như thế nào để giải quyết các khó khăn phát sinh,…Các thông tin cụ thể này lại không được đề cập đầy đủ trong các tài liệu vận động đầu tư. Bên cạnh đó, Việc so sánh giữa Việt Nam với Trung Quốc và Thái Lan như điểm đến của nhà đầu tư nước ngoài cũng ít khi được thực hiện . Đây thực sự là một trong những thông tin mà nhà đầu tư thực sự muốn tìm hiểu. Nếu Việt Nam chỉ trình bày về đất nước, chính sachsv và tiềm năng của mình, “ điều này vừa quá nhiều vừa quá ít”. Hoạt động XTĐT tại một số nước, khu vực thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại, của Việt Nam ở nước ngoài còn rất hạn chế do không có cán bộ chuyên trách và thiếu kinh phí tổ chức. 2.3 Về hoạt động XTĐT nhằm cung cấp các dịch vụ đầu tư Một trong những biện pháp xúc tiến vận động đầu tư hiệu quả nhất đối với nhà ĐTNN là việc giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho cho các doanh nghiệp đang xây dựng hoặc đang sản xuất kinh doanh, trước hết trong những vấn đề về thủ tục hành chính, thuế, hải quan, xuất nhập khẩu, lao động, xây dựng...vv. Vừa qua, việc xử lý đối với một số doanh nghiệp có vốn ĐTNN tiến hành chưa được tốt, đặc biệt cuối năm 2005 đã xảy ra các cuộc bãi công tự phát ở một số KCN thuộc các tỉnh miền Đông Nam Bộ, thêm vào đó việc phản ánh về hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong KCN trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã gây không ít hoài nghi về chính sách nhất quán và thiện chí của Nhà nước ta, tác động không tốt tới việc vận động, thu hút vốn ĐTNN trong bối cảnh hiện nay.Tóm lại, các dịch vụ sau khi cấp giấy phép ( giải quyết, tháo gỡ kip thời, nhanh chóng những vướng mắc phát sinh cho các nhà ĐT trong quá trình thực hiện dự án của họ; và cung cấp các dịch vụ GTGT) vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu và vấn đề này hiện đang là điểm trở ngại trong thu hút đầu tư FDI của Việt Nam các nhà đầu tư vẫn còn gặp khó khăn trong việc triển khai dự án sau khi cấp phép đầu tư, đặc biệt là thủ tục cấp đất, đền bù giải phóng mặt bằng v.v..lối quản lý nặng về xin cho, thủ tục qua nhiều cửa, kéo dài thời gian chờ đợi của các nhà đầu tư…Ở một số địa phương là những rào cản về hành chính có tác động rất lớn tới đến hoạt động vận động, XTĐT thu hút vốn đầu tư nhất là đối với vốn FDI.Về mối liên hệ với các cơ quan của Trung ương và địa phương Thiếu hệ thống tổ chức chung của Nhà nước đồng thời chưa có chính sách thoả đáng đối với hoạt động này. Xúc tiến đầu tư trước hết thuộc trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, mà trực tiếp là của các ban quản lý KCN. Nhưng do thiếu đầu mối quản lý chung, nên ngoài một số cuộc hội thảo về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó có lồng nội dung giới thiệu và vận động đầu tư vào các KCN đã được thành lập do một số bộ, ngành tổ chức ở trong và ngoài nước, thời gian qua công tác này được tiến hành gần như tự phát ở từng KCN, dựa chủ yếu vào sáng kiến chủ động và kinh phí của các công ty xây dựng hạ tầng KCN, trước hết là của chủ đầu tư nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng KCN. Sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành từ trưng ương tới địa phương trong việc tổ chức và triển khai các hoạt động XTĐT nhằm tăng cường thu hút vốn vẫn còn nhiều hạn chế.. Các nhà đầu tư tiềm năng đang được nghe những thông điệp không thống nhất từ các phái đoàn vận động đầu tư của Bộ Kê hoạch & Đầu tư cũng như các địa phương. Vấn đề tồn tại khi thiết lập một phái đoàn quốc gia đó là đại diện của tỉnh ít có cơ hội phát biểu. Thậm chí chia nhỏ nhóm làm việc cũng không hoàn toàn giải quyết được hạn chế này. Thành phần của đoàn cũng là một vấn đề. Thành phần của các đoàn địa phương thường bao gồm Chủ tịch hay Phó chủ tịch tỉnh và đại diện từ Văn phòng Ủy ban, SỞ Kế hoạch & Đầu tư, Sở tài chính , … Một số thành viên không thực sự hiểu rõ vai trò của mình trong công tác XTĐT . Khi hội nghị, hội thảo Kết thúc, một trong những công việc cần thiết phải thực hiện là các hoạt động sau hội thảo nhằm tiếp tục tìm hiểu và kích thích nhu cầu của các nhà đầu tư tiềm năng. Trên thực tế các phái đoàn Việt Nma thường cung cấp danh thiếp và địa chỉ liên lạc sau mỗi Kỳ gặp mặt song ai là người trực tiếp chủ động liên lạc lại và trợ giúp các nhà đầu tư thì chưa rõ ràng. Hiện tượng “xé rào ưu đãi đầu tư” trong cuộc chạy đua thu hút vốn đầu tư XTĐTảy ra tương đố phổ biến ở các tỉnh, thành, ngành trong cả nước thời gian qua là một thực trạng đáng báo động về sự phối hợp kém chặt chẽ giữa các cơ quan Trung ương và địa phương trong việc thực hiện vận động , XTĐT thu hút vốn đầu tư FDI ở nước ta. Nhiều địa phương trong cả nước đã chạy theo lợi ích cục bộ , bỏ qua lợi ích tổng thể của đất nước khi ban hành nhiều chính sách ưu đãi về hỗ trợ tiền thuê đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, hỗ trợ đầu tư,v.v..Vượt khung quy định của chính phủ. Mặc dù có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng có thể dễ dàng nhận thấy rằng hiện tượng “xé rào ưu đãi đầu tư”, “mạnh ai nấy làm”chính là hệ quả tất yếu và trực tiếp của việc thiếu chiến lược XTĐT tổng thế ở cả cấp quốc gia và thiếu sự kêt hợp chặt chẽ giữa các cơ quan XTĐT ở Trung ương và địa phương. Do chưa xây dựng được chương trình kê hoạch vận động XTĐT thống nhất, lại thiếu sự phối hợp chỉ đạo của cơ quan đầu mối ở cấp trưng ương nên các hoạt động vận động XTĐT ở các địa phương và KCN còn manh mún, tự phát và phần nào tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động XTĐT ở nước ta. Mặt khác, mức độ phân quyền sâu mà không có một sự liên thông giữa các đầu mối, thông tin, quảng bá xây dựng hình ảnh vận động XTĐT và vô tình tạo nên một hàng rào chắn cho các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình thâm nhập và tiếp cận với các cơ hội đầu tư taị Vịêt Nam. Sự phối hợp giữa những ban ngành chức năng chưa chặt chẽ và đồng bộ. Các địa phương vì mục tiêu và lợi ích cục bộ đã cố gắng kêu gọi , thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi cách mà không xem xét , đánh giá một cách khoa học tính khả thi và hiệu quả của dự án đầu tư dẫn đến tình trạng số dự án đầu tu nước ngoài được thực hiện còn thấp, trong khi số dự án phải giải thể, phá sản lại tăng lên. 2.4 Về nguồn tài chính cho hoạt động XTĐT ở Việt Nam Những khó khăn về tài chính là một vấn đề trọng yếu đặt ra cho tất cả các cơ quan XTĐT ở cả cấp trung ương và đại phương. Chính phủ không có ngân sách riêng dành cho XTĐT nhằm thu hút vốn đầu tư. Hoạt động XTĐT được tài trợ từ ngân sách nhà nước hoạt dộng hàng năm của Bộ Kế hoạch & Đầu tư và các sở Kế hoạch & Đầu tư các tỉnh. Các hoạt động XTĐT được tiến hành với số lượng quá ít ỏi, cùng với việc duy trì các trang thông tin về XTĐT với nội dung quá sơ sài, đơn giản đã cho thấy nguồn tài liệu cho hoạt động XTĐT ở Việt Nam còn rất hạn hẹp Ở cấp độ địa phương, toàn bộ nguồn tài chính dành cho hoạt động cở các cấp cơ sở đều được rót từ nguồn vốn ngân sách tỉnh. Do đó, việc phân bổ ngân sách cho XTĐT nhiều hay ít hoàn toàn tùy thuộc vào sự nhận thức của các ủy ban nhân dân cấp tỉnh về tầm quan trọng và vai trò của hoataj động XTĐT với địa phương mình. Nhiều cơ quan XTĐT cho biết , chỉ từ năm 2000, chi phí cho các hoạt động XTĐT chỉ mới được chấp nhận là một “chi phí hợp lệ”. Hơn nữa do khái niệm XTĐT không rõ ràng, nên việc xác định chi phí nào là chi phí liên quan tới XTĐT để được hưởng nguồn kinh phí từ ngân sách cũng gặp rất nhiều khó khăn và phần nhiều còn mang tính chủ quan định tính của người xét duyệt Nguồn kinh phí hoạt động eo hẹp đã hạn chế khả năng của các cơ quan XTĐT ở cấp cơ sở trong quá trình tổ chức , triển khai và thực hiện các hoạt động XTĐT có hiệu quả. Ngoài ra hiện nay các cơ quan XTĐT ở cấp cơ sở cũng không thể xây dựng được một kế hoạch về ngân quỹ dành cho hoạt động XTĐT dài hạn, bởi lẽ ngân sách chỉ được xét duyệt từng năm. Đây cũng là một khó khăn rất lớn cho các cơ quan XTĐT ở địa phương khi các cơ quan này muốn xây dựng một kế hoạch XTĐT lâu dài cho địa phương mình. Điều này lý giải tại sao các chương trình hoạt động XTĐT ở nước ta phần lớn chỉ được tiến hành theo từng vụ việc riêng lẻ. Một số cơ quan XTĐT ở địa phương nhận được nguồn tài trợ từ khu vực tu nhân để xây dựng trang thông tin diện tử nhằm quảng bá và xây dựng hình ảnh đầu tư của địa phương hoặc sản xuất các CD-ROM, băng video ấn phẩm, tài liệu vận động, XTĐT . Tuy nhiên do tính chất của nguồn tài trợ từ khi vực tư nhân là không bề vững và lâu dài nên khi khu vực tư nhân không tài trợ nữa thì các hoạt động vận động và XTĐT kể trên cũng không còn được duy trì và cập nhật nữa . CHƯƠNG III Giải pháp tăng cường XTĐT vào các KCN và định hướng trong thời gian tới I, Giải pháp cho công tác XTĐT vào KCN Việt Nam Xúc tiến, vận động đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý nhà nước đối với KCN, đồng thời giữ vai trò quyết định sự thành công của KCN. Với những chính sách ưu đãi và thủ tục đầu tư đơn giản hơn so với bên ngoài, KCN đã thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Tính đến hết năm 2005, các KCN của cả nước đã thu hút được 2.202 dự án có vốn ĐTNN với tổng vốn đăng ký là 17,5 tỷ USD và 2.314 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 100 ngàn tỷ đồng (chưa tính 1.059 triệu USD và 31,3 ngàn tỷ đồng đầu tư phát triển hạ tầng các KCN, trong đó gần 2400 dự án đi vào sản xuất kinh doanh và 900 dự án đang triển khai xây dựng nhà xưởng. 1. Một số giải pháp nhằm đẩy thu hút đầu tư vào các KCN 1.1. Đối với thu hút đầu tư nước ngoài: Một là, nâng cao chất lượng quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài làm cơ sở thực hiện chương trình vận động đầu tư. Để tăng cường tinh minh bạch, ổn định và có thể dự đoán trước được môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc lực chọn cơ hội đầu tư, cần thực hiện đúng quy định của Nghị định 24/2000/NĐ-CP, theo đó Danh mục dự án gọi vốn ĐTNN vào KCN khi được công bố thì được coi là đã thống nhất về chủ trương và phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ. Để đảm bảo tính khả thi của quy định này, Danh mục phải được xây dựng phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH trong từng thời kỳ, đồng thời phải tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của nhà đầu tư. Những thông tin về mục tiêu, địa điểm, hình thức, đối tác thực hiện dự án..vv trong Danh mục phải có độ chính xác và tin cậy cao. Hai là, đổi mới, đa dạng hoá các phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư. Thực hiện các chương trình vận động trực tiếp đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác cụ thể theo hướng: tiếp xúc trực tiếp ở các cấp khác nhau (kể cả Chính phủ, Nhà nước), với các công ty, các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công ty trực thuộc và hoặc có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào KCN; mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tài chính, các công ty tư vấn, xúc tiến ĐTNN.. vv để phối hợp vận động các khách hàng của họ đầu tư vào Việt Nam; chuẩn bị thông tin chi tiết về một số dự án có tính khả thi cao để đưa ra giới thiệu với các nhà đầu tư có tiềm năng nhân dịp các chuyến thăm của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chính phủ đi các nước. Kết hợp vận động đầu tư trong các dịp tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, triển lãm, hội chợ; nâng cao hiệu quả hoạt động vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các cơ quan, hãng thông tấn, báo chí, truyền hình trong và ngoài nước để tăng tầng suất thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư vào KCN; kịp thời chuẩn xác thông tin, khắc phục tình trạng đưa tin sai hoặc cố tình bóp méo sự thật về KCN ở Việt Nam; duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với với cộng đồng các nhà đầu tư, đặc biệt là trong khuôn khổ Diễn dàn doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp có vốn ĐTNN.. nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp, coi đó là giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư mới; tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước về kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam. Kịp thời khen thưởng các cá nhân, doanh nghiệp có đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển KCN ở Việt Nam. Ba là, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư. Để thực hiện có hiệu quả chủ trương mở rộng, đa phương hoá đối tác đầu tư, cần tổ chức nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thực trạng và xu hướng đầu tư của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia từ các nước và khu vực quan trọng như EU, Nhật Bản, Hoa kỳ.. vv. Mặt khác, cần nghiên cứu tình hình, xu hướng ĐTNN trên thế giới, kinh nghiệm thu hút đầu tư của một nước trong khu vực, đặc biệt là các cơ chế pháp lý song phương và đa phương điều chỉnh quan hệ hợp tác đầu tư quốc tế mà Việt Nam đã và đang trong quá trình tham gia. Đây là chương trình nghiên cứu quan trọng, không chỉ phục vụ thiết thực cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư mà còn tạo điều kiện cho việc xây dựng và triển khai thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư. Bốn là, tăng cường hợp tác song phương và đa phương vế xúc tiến đầu tư. Sửa đổi Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã ký với Hàn Quốc theo những nguyên tắc về đối xử đã thoả thuận với Hoa Kỳ, xem xét áp dụng nguyên tắc đối xử nói trên đối với các nhà đầu tư EU. Tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư song phương đã được thiết lập trong thời gian qua với JICA và JETRO (Nhật Bản), Trung tâm xúc tiến đầu tư và du lịch ASEAN (Nhật Bản), OPIC (Hoa Kỳ), GTZ (Đức).. nhằm tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức này trong việc thực hiện các chương trình vận động đầu tư trực tiếp với từng đối tác, lĩnh vực cụ thể. Nghiên cứu thực trạng và xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các công ty đa quốc gia, hỗ trợ đào tạo về kỹ thuật xúc tiến đầu tư..vv. Nối lại quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các cơ quan Chính phủ ở các nước trong khu vực như Văn phòng Hội đồng đầu tư Thái Lan (OBOI), Cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA), Hội đồng phát triển kinh tế Singapore (EDB). Tham gia tích cực và chủ động hơn nữa vào các chương trình xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn khu vực theo hướng sau: xây dựng và cập nhật thường xuyên các chương trình hành động quốc gia về tự do hoá, thuận lợi hoá và xúc tiến đầu tư mà Việt Nam đã cam kết trong khuôn khổ ASEAN, APEC và ASEM; tham gia tích cực vào chương trình hợp tác và tham vấn giữa các cơ quan quản lý đầu tư của các nước thành viên, đồng thời tăng cường đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, diễn đàn quốc tế khác để xác định các rào cản đối với đầu tư và kiến nghị các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư của khu vực nói chung và từng nước thành viên nói riêng; duy trì, mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các tổ chức quốc tế như WB, IFC, FIAS, MIGA, ESCAP theo chương trình đã thoả thuận. Năm là, nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư. Khẩn trương xây dựng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam, đồng thời kết nối mạng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam với trang Web của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh, cũng như trang Web của các Công ty phát triển hạ tầng KCN của cả nước hình thành hệ thống mạng thông tin chung về KCN của Việt Nam. Sáu là, bố trí ngân sách phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư. Nhà nước cần dành kinh phí thoả đáng từ ngân sách Nhà nước cho công tác này, không chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN hoặc bên nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng KCN. 1.2.Đối với thu hút đầu tư trong nước Một là, Nhà nước phải tạo khung pháp lý nhất quán và ổn định, môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thực hiện tốt cơ chế một cửa, tại chỗ”, bảo đảm các chế độ ưu đãi đầu tư đối với các dự án đầu tư vào KCN. Hai là, KCN phải ban hành Danh mục dự án gọi vốn đầu tư vào KCN để mọi thành phần kinh tế trong nước có cơ hội đầu tư. Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, cá nhân trong nước đầu tư vào KCN. Ba là, Nhà nước cần có chính sách thoả đáng để di dời các doanh nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn vào KCN. Bốn là, ở những KCN thuộc khu vực khó khăn, hoặc KCN gắn với quốc phòng, cần có chính sách định hướng, vận động các tổng công ty Nhà nước, trên cơ sở chiến lược phát triển của ngành mình đầu tư vào KCN . Đối với KCN vừa và nhỏ ở các vùng nông thôn, Nhà nước phải có biện pháp, chính sách di chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may mặc, da-giầy..vv.), chế biến nông, lâm sản ở các thành phố và đô thị về các KCN này; đồng thời có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào KCN loại này. Năm là, khi thành lập KCN trên địa bàn, đòi hỏi các tỉnh, thành phố phải phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý KCN cấp tỉnh, doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN trong việc vận động định hướng đầu tư vào KCN tránh tình trạng đầu tư phân tán, không tuân thủ quy hoạch, gây khó khăn cho việc kiểm soát môi trường. 2. Giải pháp cụ thể tăng cường hoạt động XTĐT 2.1. Xây dụng thông điệp XTĐT và quảng bá hình ảnh của Việt Nam Tập trung tốt chiến lược xây dựng hình ảnh nhằm nâng cao hiểu biết về VIệt Namvà cải thiên cách nhìn nhận của nhà đầu tư nước ngoài về Việt Nam.Để thực hiện các hoạt động XTĐT có hiệu quả, phải xây dựng một chủ điễm trung tâm về Việt Nam như là một dịa điểm đầu tư hấp dẫn. Chủ điểm tiếp thị trung tâm sẽ dược sử dụng để nâng cao hình ảnh Việt Nam trong cộng đồng các nhà ĐTNN . Chủ điểm XTĐT trung tâm phải bao gồm các nội dung sau: Phản ánh những gì nhà đầu tư đang tìm kiếm: những nhu cầu của nhà đầu tư nhìn chung là muốn nâng cao hiệu qủa và khả năng sinh lời. Bởi vậy các hoạt dộng vận đọng XTĐT nên phản ánh việc Việt Nam có thể giúp các nhà đầutư nước ngoài đáp ứng tốt những nhu cầu này như thế nào. Chẳng hạn, có thể nhấn mạnh về lực lượng lao động hùng hậu, giá rẻ và có học thức. Phản ánh những điểm nổi trội , độc đáo nhất của Việt Nam: để làm nổi bật Việt Nam trong mắt cảu những nhà đầu tư nước ngoài, chủ điểm tiếp thị pahir xác định rõ điểm nổi trội, độc đáo nhất của Việt Nam. Chẳng hạn, vị ttris dịa lý có tính chiến lược ở Đông Dương và Đông Nam Á, có một chính phủ mạnh và sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của người dân dối với việc cải cách kinh tế. Thông điệp đến với nhà đầu tư nước ngoài phải đúng đắn và trung thực. Đừng giao bán những gì mà mình không có. Quảng cáo sai lệch gây ra nhận thức tría ngược và tahis độ bực tức rất khó giải quyết. Một khi nhà đầu tư có nhận thức không tốt, tiêu cực về hình ảnh một quốc gia hay địa bàn đầu tư nào đó thì mọi nỗ lực vạn động, XTĐT nhằm cải thiện, khôi phục lại hình ảnh và thu hút nhà đầu tư nước ngoài đầu tư sẽ rất khó khăn. Thông điệp đến với các nhà đầu tư phải nhất quán:một điều rất quan trọng là mọi hoạt động XTĐT do chính quyền địa phương và trrung ương thực hiện cần đưa ra một thông điệp như nhau và nhất quán. Nếu không các nhà đầu tư sẽ hiểu theo nhiều cacshvaf dẫn tới tâm lý e ngại và hoài nghi về tính minh bạch , rõ ràng cũng như tính xác thực của những thông điệp này. Phát triển các công cụ XTĐT có chất lượng cao cung cấp các tài liệu giới thiệu, ấn phẩm hướng dẫn đầu tư, trang thông tin và bản tin XTĐT có chất lượng cao đến các nhà ĐTNN trang thông tin là những trang tài liệu cung cấp vắn tắt các thông tin chính về một địa bàn đầu tư cho các nhà ĐTNN tiềm năng. Trang thông tin có chất lượng thường bao gồm cacs nội dung: chính sach công nghiệp và kinh tế các ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh chính vốn FDI và luồng FDI hàng năm trong các ngành; số liệu thống kê thương mại( gồm xuất khẩu và nhập khẩu) thông tin về môi trường đầu tư như: GDP, mức tăng truwongrGDP, thu nhập trên đầu người, lãi suất ,tỉ giá hối đoái, chỉ số độ tin cậy tín dụng của quốc gia theo hệ thống đánh giá của cơ quan quốc tế như Moody, Standard&Poor, cơ chế ưu đãi cảu chính phủ và của bản thân KCN chính sách và hệ thống tiền tệ việc làm và pháp luật về lao dộng(chi phí lao động, chính sách tiền lương, công đoàn) quy chế hải quan và thuế cơ sở hạ tầng chi phí và khả năng cung cấp các tiện ích vai trò và dịch vụ cúa các cơ quan XTĐT . trang thông tin điện tử website là một trong những công cụ XTĐT rẻ và hiệu quả nhất, bởi vậy phải ưu tiên cho việc thiết kế và duy trì các trang thông tin điện tử có chất lượng cao. Trang thông tin điện tử cần có : giao diện hấp dẫn, cung cấp những thông tin có chất lượng tốt nhất về:dữ liệu kinh tế vĩ mô cơ bản, phương thức khởi sự và tiến hành kinh doanh, những vấn đề pháp luật cơ bản, cơ cấu thuế, các chế độ ưu đãi đâu tuwvaf các quy chế đầu tư, danh mục các nhà cung cấp dịch vụ( như các công ty tư vấn, nhà thầu xây dựng, luật sư ,chuyên gia tư vấn tài chính, nhà tư vấn kinh doanh, nhà nghiên cứu thị trường, nhà tư vấn về công nghệ thông tinv.v..) các hoạt động đầu tư cụ thể theo từng ngành nghề, chi phí kinh doanh, lao động và đất đai, ccs đầu mối liên lạc của cơ quan và chính phủ, đầu mối liên lạc tại các hiệp hội kinh doanh, hiệp hội ngành nghề, những ví dụ đầu tư thành công điển hình, và phải được duy trì cập nhật thường xuyên.Trang thông tin điện tử nhằm mục đích quảng bá XTĐT nước ngoài nên sử dụng các ngôn ngữ phổ biến như : Anh, Pháp, Nhật,…và có thể liên kết với trang thông tin của mạng lưới XTĐT ( Phải thực hiện tốt các chiến dịch quảng cáo và quan hệ công chúng để nâng cao mức độ nhận thức vaf caiar thiện hình ảnh của Việt Nam. Đây là một công cụ XTĐT có ý nghĩa quan trọng và hiệu quả khi mà các nhà đầu tư tiềm năng nhận thức quá ít hoặc có hiểu biết sai lầm về hình ảnh của Việt Nam. stt Công cụ Lời khuyên 1 Quảng cáo Tập trung đưa QC ngắn gọn,cô đọng một thông điệp mời gọi và phản ánh được chiến lược mình muốn vận động Phải chuẩn bị đủ kinh phí cho hoạt động này vì nếu không có tiền, QC của bạn sẽ không đạt được mức tối thiểu để được chú ý tới Tránh đưa quảng cáo lên các báo tầm thường. Tập trung QC trên những báo mà chắc chắn rằng sẽ tới tay độc giả mà bạn muốn vận dộng. Thuê một công ty QC có kinh nghiệm, khôn khéo làm trưng gian giữa người làm kế hoạch, của tờ báo và khách hàng. 2 Tham gia triển lãm Đừng đứng ỳ tại gian hàng triển lãm của IPA để đợi khách tham quan. Hãy tranh thủ thời gian triển lãm đi thăm các công ty đang hoạt động trong lĩnh vực mà IPA muốn vận động. Làm tăng giá trị của triển lãm bằng cách viết thư cho những người tham gia triển lãm trước triển lãm. Sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu của cơ quan XTĐT và gửi thư trước cho cả những công ty mà mình muốn vận động mà không có gian hàng tham gia triển lãm, nhưng nhân viên của công ty nhất định sẽ tới thăm triển lãm.. 3 Quan hệ công chúng Luôn luôn coi nhà báo/ người tường thuật thời sự là khách quya của cơ quan XTĐT . Nếu cơ quan XTĐT có nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư hạn hẹp và bỏ tập trung kêu gọi các nhà báo giỏi tại các phương tiện thông tin đại chúng mà cơ quan XTĐT muốn đăng tin tới thăm đất nước cơ quan XTĐT để đưa tin cải thiện hình ảnh của đất nước. 4 Cá đoàn vận động đầu tư tận dụng tối đa các tác động của đoàn vận động đầu tư bằng cách xác định một mục tiêu về ngành nghề hoặc tốt hơn là tiểu ngành một cách rõ ràng 5 Các hội thảo về cơ hội đầu tư xác định một (hoặc một vài) đói tác chiến lược mạnh và bắt tay vào việc xây dựng KCNế hoạch ít nhất 6 tháng trước khi tổ chức . đặc biệt quan tâm tới việc bảo đảm đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng. Có sự tham dự của Lãnh đạo cấp cao. 6 Sử dụng thư trực tiếp Đầu tư vào một cơ sở dữ liệu marketing chất lượng cao và được cập nhật. Đặt mục tiêu mỗi tháng một cán bộ ở bộ phận marketing phải viết thư cho một số lượng doanh nghiệp. Thư marketing trực tiếp nên báo cho khách hàng chờ đợi cuộc liên hệ điện thoại tiếp theo. 7 Internet và email đầu tư vào một cơ sở dữ liệu marketing chất lượng cao và được cập nhật đặt mục tiêu mỗi tháng một cán bộ ở một bộ phận marketing phải viết thư cho một số doanh nghiệp thư marketing trực tiếp nên báo cho khách hàng chờ đợi cuộc liên hệ điện thoại tiếp theo Tích cực đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam có thể nói XTĐT là “chào bán cơ hội đầu tư” cho các nhà đầ tư tiềm năng. Một chương trình XTĐT không thể thành công cho dù nó tốt đến mức độ nào nếu như có một sản pẩm tồi. Thiết lập nên “một môi trường đầu tư tốt “ tức là làm ra một sản phẩm tốt. Do vậy cải thiện môi trường đầu tư chính là phương tiện để xúc tiến có hiệu quả . mặc dù Việt Nam đã đạt được những cải thiện nhất định, tuy nhiên môi trường vẫn kém cạnh tranh hơn so với Trung quốc và một vài nước ASEAN khác Nếu chúng ta muốn thu hút thêm nhiều dự án thì phải nhanh chóng cải thiện môi trường đầu tư. Trong ngắn hạn mục đích chính của cơ quan XTĐT là láy lại niềm tin cho các nhà đầu tư.để đạt được điều đó thì một số biện pháp sau được đề suất: Tránh những thay đổi bất lợi không lường trước trong các chính sách và quy định; đẩy nhanh cải cách hành chính; Giảm chi phí kinh doanh bằng cách xóa bỏ hệ thống hai giá và chi phí không chính thức; Xây dựng chiến lược tổng thể thao lĩnh vực Nâng cao tính minh bạch Để đạt được những thành công lớn trong XTĐT trong những năm tới chúng ta cần thực hiện những nội dung sau: Xây dựng một khung pháp lý đồng bộ; Xây dựng khung thể chế mạnh để thực hiện các chính sách này; Cải tiến chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng cứng và mềm như giao thông ngân hàng, tài chính, giáo dục và đào tạo; Khuyến khích sự phất triển cuarm ột khu vực kinh tế tư nhân mạnh; Giảm sự can thiệp của nhà nước… Ngoài ra, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, tập trung trước hết một số lĩnh vực và địa bàn có KCN mà việc thu hút đầu tư trong thời gian còn ở mức thấp. Chính phủ cần có những giải phấp ổn định hơn nữa để cải thiện tốt môi trường đầu tư. Đó là: Kịp thời tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp ĐTNN.Trường hợp doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh thì động viên khen thưởng; doanh nghiệp đang gặp khó khăn thì có biện pháp hỗ trợ tháo gỡ, đặc biệt là liên quan tới vấn đề hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm và nghĩa vụ thuế với nhà nước Thực hiện chủ trương phân cấp quản lý nhà nước về ĐTNN , trong đó phan cấp quản lý hoạt động sau giấy phép cho UBND cấp tỉnh Nhà nước chỉ đạo rà soát lại văn bản pháp quy liên quan đến đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước do các Bộ , ngành, địa phuwowngban hành không phù hợp với sự chỉ đạo của Chính Phủ. Nhà nước chỉ đạo phải có biện pháp phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương với địa phương, duy trì thường xuyên việc tiếp xúc giữa cơ quan quản lý nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Ngoài ra nhà nước cần bổ sung các chính sách về khuyến khích đầu tư thông thoáng hơn nữa nhằm tạo môi trường kinh doanh và thu hút ĐTNN cũng như đầu tư trong nước vào các KCN. v.v.. II, Định hướng phát triển KCN trong thời gian tới Căn cứ và chủ trương của Đảng và nhà nước về CNH_HĐH cần tiếp tục phất triển KCN với mục tiêu tổng quát là tập trung xây dựng KCN trở thànhlượng lượng công nghiệp mạnh có hiệu quả và sức cạnh ttranh, phát triển theo hướng ngoại, nâng cao tay nghề công nhân, nắm bắt và vận dụng được thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, thực hiện bảo vệ môi trường , phát huy hơn nữa việc liên kết giữa KCN và thị trường ngoài KCN đi tiên phong trong quá trình hội nhập với quốc tế và khu vực Đến năm 2010, tạo điều kiện cho các địa phương có kế hoạch từng bước phát triển KCN , phát triển có hiệu quả ngay,có tính đến nhu cầu của cac địa phương và khả năng của cả nền kinh tế, theo kịp tiến trình CNH_HĐH đất nước. Phát triển KCN theo chiều sâu và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của nó theo hướng : lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu bên trong thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và cuối cùng là phát triển các ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin,cơ điện tử, công nghệ sinh học, vật liệu mới. Chuyển mạnh từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các nguyen liệu trong nước sẵn có và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị hàm lượng quốc gia của sản phẩm, hạn chế thua thiệt khi hội nhập thị trường quốc tế và thị trường khu vực. Chấm dứt việc phát triển coa sở công nghiệp độc lập xen kẽ với các khu dân cư. Kiên quyết hướng các nhà đầu tư vào các KCN, trừ những dự án đòi hỏi gần nguồn nguyên liệu, cần diện tích chiếm đất lớn vài trăm ha, các dự án đầu tư chiều sâukhông thuộc diện di dowifvaf vẫn phù hợp với quy hoạch. Cải tạo các làng nghề truyền thống và các cơ sở sản xuất tiể thủ công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất.Hình thành phát triển KCN nhỏ tại các vùng nông thôn có quy mô vài chục ha và thực hiện theo quy chế KCN một cách linh hoạt hơn Trưng ương hỗ trợ các KCN này thông qua các giải pháp :quy hoạch đất mở dường giao thông, xây dựng các công trình Xử lý chất thải, bảo lãnh tín dụng, công nghệ áp dụng, tìm kiếm thị trường. MỤC LỤC CHƯƠNG I Những vấn đề lý luận chung về công tác XTĐT nhằm phát triển các khu công nghiệp I, Khái niệm, đặc điểm và phân loại KCN 1. Khái niệm KCN : 2. Phân loại KCN : 3. Vai trò của các KCN với phát triển nền kinh tế: 3.1 Vai trò của KCN đối với nền kinh tế Việt Nam: 3.2 KCN góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 3.3 Nâng cao năng lực công nghệ quốc gia 3.4 Thúc đẩy phát triển kinh tế ở địa phương và đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa II, Vấn đề lý luận cơ bản về XTĐT phát triển các KCN Khái niệm XTĐT : 2. Vai trò của hoạt động XTĐT 3. Vai trò của cơ quan XTĐT đối với vấn đề thu hút vốn đầu tư 4. Các cơ quan tham gia XTĐT 5. Nội dung và công cụ của hoạt dộng XTĐT 5.1Công tác XTĐT của cơ quan trung ương và tổ chức tham gia XTĐT 5.1.1 Xây dựng chiến lược về XTĐT 5.1.2 Xây dựng hình ảnh 5.1.3 Xây dựng quan hệ 5.1.4 Lựa chọn mục tiêu và tạo cơ hội đầu tư 5.1.5Cung cấp dịch vụ và hỡ trợ cho các nhà đầu 5.1.6 Đánh giá và giám sát công tác XTĐT 5.2 Hoạt động của doanh nghiệp 5.2.1 Đối với doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng A1. Doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng –chủ đầu tư là đơn vị có vốn nhà nước A2. Doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng là cơ sở có vốn đầu tư trong nước & đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế tư nhân: 5.2.2 Đối với doanh nghiệp vệ tinh 5.3 Trình tự thực hiện các hoạt động XTĐT : NHỮNG CÔNG CỤ CHÍNH ĐỂ XTĐT CHƯƠNG II Thực trạng XTĐT vào các KCN ở Việt Nam I, Tình hình phát triển KCN trong thời gian qua 1. Tình hình thành lập KCN, KKT 2. Tình hình thu hút đầu tư 3 Tình hình sản xuất kinh doanh 4. KCN nam châm thu hút FDI II, Thực trạng công tác XTĐT vào các KCN 1. Những thành tựu đạt được trong XTĐT 2. Những hạn chế cần khắc phục 2.1 Về hoạt động XTĐT nhằm xây dựng hình ảnh 2.2 Hoạt đông XTĐT nhằm phát sinh và hình thành đầu tư 2.3 Về hoạt động XTĐT nhằm cung cấp các dịch vụ đầu tư 2.4 Về nguồn tài chính cho hoạt động XTĐT ở Việt Nam CHƯƠNG III Giải pháp tăng cường XTĐT vào các KCN và định hướng trong thời gian tới I, Giải pháp cho công tác XTĐT vào KCN Việt Nam 1. Một số giải pháp nhằm đẩy thu hút đầu tư vào các KCN 1.1 Đối với thu hút đầu tư nước ngoài: 1.2 Đối với thu hút đầu tư trong nước 2. Giải pháp cụ thể tăng cường hoạt động XTĐT 2.1 Xây dụng thông điệp XTĐT và quảng bá hình ảnh của Việt Nam 2.2 Phát triển các công cụ XTĐT có chất lượng cao 2.3 Tích cực đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam II, Định hướng phát triển KCN trong thời gian tới Tài liệu tham khảo Kỹ năng xúc tiến đầu tư_Bộ kế hoạch đầu tư(dự án XTĐT của Hoa Kỳ vào Việt Nam) Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam_ĐH KTQD và JICA Hoàn thiện chiến lược XTĐT nhằm phát triển KCN ở Việt Nam_LATS.731 (ĐH KTQD) Tạp chí: nghiên cứu kinh tế; kinh tế và chính trị thế giới; …. Website:…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25808.DOC