Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam khi gia nhập WTO

Chương 1: Thương mại và thương mại quốc tế ở Việt Nam 1.1 Tình hình thương mại quốc tế hiện nay Tình hình thương mại quốc tế hiện nay có nhiều khác biệt lớn theo hướng tích cực so với 2 thập kỷ trước nhưng phải chịu sức ép của cạnh tranh. Hệ thống thương mại quốc tế đã từng trải qua một giai đoạn thay đổi to lớn cùng với phát minh ra các công nghệ mới đang làm cho việc lập những chiến lược hoạt động Marketing và Chiến lược cung cấp theo chuỗi cũng thay đổi theo. Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá. Việt Nam đã và đang mở rộng quan hệ với một số nhước như: ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc . và các tổ chức quốc tế lớn như WTO, OECD, UNDP, UNCTAD, Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoà Kỳ (BTA), 1.2 Những ảnh hướng của hoạt động thương mại quốc tế tới Việt Nam Trong tiến trình toàn cầu hóa, chắc chắn là cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn Tác động lớn thứ hai đối với hoạt động thương mại quốc tế là xu hướng tự do hoá thương mại ở cả hai bình diện quốc tế và khu vực nghĩa là xu hướng chủ động trong tự do hoá thương mại của khu vực và quốc tế sẽ mang đến cho các DN Việt Nam nhiều cơ hội hơn trong hoạt động xuất khẩu nhưng rất nhiều các DN nước ngoài sẽ đầu tư vào Việt Nam Mở ra xu hướng phát triển chung, có thể sự dụng để mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường.

doc31 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan hệ với một số nhước như: ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc... và các tổ chức quốc tế lớn như WTO, OECD, UNDP, UNCTAD, Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoà Kỳ (BTA),… 1.2 Những ảnh hướng của hoạt động thương mại quốc tế tới Việt Nam Trong tiến trình toàn cầu hóa, chắc chắn là cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn Tác động lớn thứ hai đối với hoạt động thương mại quốc tế là xu hướng tự do hoá thương mại ở cả hai bình diện quốc tế và khu vực nghĩa là xu hướng chủ động trong tự do hoá thương mại của khu vực và quốc tế sẽ mang đến cho các DN Việt Nam nhiều cơ hội hơn trong hoạt động xuất khẩu nhưng rất nhiều các DN nước ngoài sẽ đầu tư vào Việt Nam Mở ra xu hướng phát triển chung, có thể sự dụng để mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường. Chương 2: Đánh Giá Tình Hình Xuất Nhập Khẩu Của VN Khi Gia Nhập WTO 2.1 Tình hình xuất nhập khẩu của việt nam trước Khi Gia Nhập WTO 2.1.1 Tình hình chung Xuất khẩu của Việt Nam thời gian từ năm 2001 - 2006 đã đạt được những thành tích rất ấn tượng và được xác định là một thế mạnh của Việt Nam trên con đường hội nhập đầy đủ và sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam khá chậm vào những năm 2001 - 2002, đã vươn lên đạt mức trên 20%/năm từ 2003 tới nay. Kết quả là kim ngạch XKHH đã tăng gấp 2,64 lần trong thời gian 5 năm, từ 15 tỉ USD năm 2001 lên 39,6 tỉ USD năm 2006. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá hàng năm thời kỳ 2000-2006 là 19,3%, được xếp vào mức cao nhất khu vực, chỉ sau Trung Quốc. Nhìn chung, nền kinh tế quốc dân đã được định vị theo hướng xuất khẩu và độ mở cửa là tương đối rộng. KNXK tăng (triệu USD) Năm 2004 6,327.0 Năm 2005 5,730 Năm 2006 7,163.3 Kim ngạch xuất khẩu ba năm gần đây (%) (Nguồn: Bộ Thương mại) 2.1.2 Thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu Các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam theo thứ tự là: Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Australia. Trong giai đoạn 2001-2007, Kim ngạch xuất khẩu vào tất cả các thị trường trọng điểm đều tăng trưởng ấn tượng: xuất khẩu vào EU tăng 2,8 lần, vào Nhật tăng 2,3 lần và vào ASEAN tăng 2,8 lần. Đáng chú ý nhất là việc gia tăng xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Nếu như năm 2001, giá trị xuất khẩu sang thị trường lớn nhất thế giới này chỉ là 1065,3 triệu USD, thì đến năm 2007, kim ngạch xuất khẩu đạt 10,54 tỷ USD, xấp xỉ 10 lần năm 2001. Kết quả này có được là nhờ Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ kí kết vào năm 2000 và có hiệu lực vào cuối năm 2001. Thị trường xuất khẩu có ý nghĩa lớn đối với việc tăng trưởng xuất khẩu theo nước và vùng lãnh thổ chủ yếu, nếu năm 2000 mới có 7 nước và vùng lãnh thổ đạt trên 500 triệu USD (Nhật Bản, Trung Quốc, Ôxtrâylia, Xingapo, Đài Loan, Đức, Mỹ), thì đến năm 2004 đã cao gấp đôi, lên 13  (thêm Anh, Hàn Quốc, Malaixia, Hà Lan, Pháp, Bỉ). Mỹ hiện là nước nhập khẩu lớn nhất, chiếm 18,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đây là kết quả của việc ký Hiệp định Thương mại song phương giữa Việt Nam và Mỹ. Tuy nhiên, thời gian gần qua xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ gặp khó khăn sau các vụ kiện cá basa, tôm, hạn ngạch dệt may, tiền đặt cọc xuất khẩu thuỷ sản (5 tháng đầu năm 2005 chỉ tăng 13,2%, tỷ trọng chỉ còn chiếm 16,8%) và tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ so với tổng kim ngạch nhập khẩu lên đến 1526 tỷ USD của Mỹ còn rất nhỏ (chiếm chưa đến 3,3%) Nhật Bản  là nước nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau Mỹ. Năm 2004 đạt 3.502,4 triệu USD, tăng 36% so với năm 2000. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản chiếm 13,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm tháng đầu năm 2005, xuất khẩu vào Nhật Bản tăng tới 37,5%, cao gấp hơn hai lần tốc độ chung và tỷ trọng đã tăng lên đạt 14%. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam. Năm 2004 đã đạt 3725,5 triệu USD, tăng 78% so với năm 2000, chiếm 10,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trung Quốc là thị trường đầy tiềm năng, do đây là thị trường gần, có số dân đông nhất thế giới và sau kết quả đàm phán song phương để Việt Nam gia nhập WTO thì xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc sẽ gia tăng nhanh Ôxtrâylia là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam. Nếu năm 1995 mới đạt 55,4 triệu USD thì năm 2000 đã đạt 1.272,5 triệu USD và năm 2004 đạt 1.821,7 triệu USD. Tỷ trọng xuất khẩu sang Ôxtrâylia chiếm 6,9%. Năm tháng 2005, xuất khẩu sang thị trường này tăng tới 73,7 Xingapo là thị trường xuất khẩu lớn thứ 5 của Việt Nam đồng thời cũng là thị trường khá sớm. Năm 1995 đạt 689,8 triệu USD, năm 2000 đạt 885,9 triệu USD, năm 2004 đạt 1.370 triệu USD. Đức là thị trường xuất khẩu lớn thứ 6 của Việt Nam. Năm 1995 đạt 218 triệu USD, năm 2000 đạt 730,3 triệu USD, năm 2004 đạt 1.066,2 triệu USD Anh là thị trường xuất khẩu lớn thứ 7 của Việt Nam. Năm 1995 mới đạt 74,6 triệu USD, năm 2000 đạt 479,1 triệu USD, năm 2004 đạt 1.011,4 triệu USD Ngoài 7 đại gia đạt trên 1 tỷ USD như trên, còn có 6 nước và vùng lãnh thổ khác đạt trên 500 triệu USD là Đài Loan 905,9 triệu USD, Hàn Quốc 603,5 triệu USD, Malaixia 601,1 triệu USD, Hà Lan 581,8 triệu USD, Pháp 557 triệu USD, Bỉ 512,8 triệu USD. Triển vọng có thêm Philippin, Indonexia, Thái Lan... Về nhập khẩu, có các thị trường chủ yếu sau đây: Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Nếu năm 1995 mới có 329,7 triệu USD thì năm 2000 đã là 1401,1 triệu USD, năm 2004 lên đến 4456,5 triệu USD. Trong quan hệ buôn bán với Trung Quốc, Việt Nam ở vị thế nhập siêu lớn, năm 2004 lên đến 1721 triệu USD, đứng thứ 4 trong các nước. Đài Loan là thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam. Nhập khẩu năm 2000 là 1879,9 triệu USD, năm 2004 là 3698 triệu USD. Đồng thời, Việt Nam luôn luôn ở vị thế nhập siêu ngày một lớn với Đài Loan: năm 2000 là 1123,3 triệu USD, đến năm 2004 là 2792,1 triệu USD, lớn nhất trong các nước và vùng lãnh thổ. Singapore là thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam. Năm 2000 là 2694,3 triệu USD, năm 2004 là 3618,5 triệu USD. Tuy nhiên, Việt Nam luôn luôn ở vị thế nhập siêu đối với Xingapo và nhập siêu từ đây hiện lớn thứ 3 sau Đài Loan và Hàn Quốc: năm 2000 là 1808,4 triệu USD, năm 2004 là 2248,5 triệu USD. Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam: năm 2000 là 2300,9 triệu USD, năm 2004 là 3552,6 triệu USD. Việt Nam đã chuyển từ vị thế xuất siêu (trước 2002) sang nhập siêu (từ 2002) tuy mức nhập  siêu còn nhỏ. Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu lớn thứ 5 của Việt Nam: năm 2000 là 1753,6 triệu USD, năm 2004 là 3328,4 triệu USD. Trong quan hệ buôn bán với Hàn Quốc, Việt Nam luôn ở vị thế nhập siêu; mức nhập siêu hiện lớn thứ 2 sau Đài Loan: năm 2000 là 1401 triệu USD, năm 2004 là 1810,9 triệu USD. Thái Lan là thị trường nhập khẩu lớn thứ 6 của Việt Nam với kim ngạch năm 2004 lên đến 1858 triệu USD và nhập siêu từ đây cũng đã lên đến 1367,1 triệu USD, lớn thứ 5 trong các nước và vùng lãnh thổ. Malasia là thị trường nhập khẩu lớn thứ 7, hiện đã vượt mức 1,2 tỷ USD. Nhập siêu từ đây cũng lớn thứ 7, lên tới 613,6 triệu USD. Mỹ là thị trường nhập khẩu đứng thứ 8 với kim ngạch 1127,4 triệu USD. Trong quan hệ buôn bán với Mỹ, Việt Nam luôn luôn ở vị thế xuất siêu, với mức xuất siêu lớn và liên tục tăng lên (năm 2000 là 369,4 triệu USD, năm 2004 là 3364,9 triệu USD). Hồng Kông là thị trường nhập khẩu lớn thứ 9 của Việt Nam, hiện đã đạt 1074,7 triệu USD. Trong quan hệ buôn bán với Hồng Kông, Việt Nam luôn luôn ở vị thế nhập siêu, hiện đã ở mức 695 triệu USD, lớn thứ 6 trong các nước và vùng lãnh thổ.  Ngoài 9 “đại gia” như trên, còn có một số nước và vùng lãnh thổ mà Việt Nam nhập khẩu vượt 500 triệu USD như Đức, Liên bang Nga, Inđônêxia, Thụy Sỹ, Pháp. Định hướng xuất khẩu của Việt Nam là đa dạng hóa thị trường, gia tăng xuất khẩu sang châu Âu, châu Mỹ và giảm xuất khẩu sang các nước châu Á. 2.1.3 Cơ cấu thị trường xuất khẩu (%) Khu vực thị trường 2000 2002 2003 2004 2005 2006 Châu Á 60,5 52,0 49,0 54,8 58,5 52,6 Châu Âu 23,0 23,0 22,0 20,4 18,1 19,3 Châu Mỹ 6,7 16,0 20,2 21,3 21,3 23,2 Châu Phi, Tây Nam Á 1,0 1,0 0,8 1,6 2,1 4,8 Châu Đại Dương 8,8 8,0 8,0 6,7 - - Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Thương mại Tình hình xuất khẩu xét theo các nhóm hàng : Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006 đã có sự thay đổi theo hướng tích cực. Tỷ trọng nhóm hàng nông - lâm - thủy sản đã 20,5% năm 2006. Tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tương đối ổn định: 39,0% năm 2006. Tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản : 23,4% năm 2006. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2006 (%) 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nông, Lâm, Thuỷ sản 24,3 23,9 22,1 20,5 21,1 20,5 Nhiên liệu, khoáng sản 21,6 20,5 19,9 22,7 24,7 23,4 CN và TCMN 33,9 40,0 40,5 40,4 38,4 39,0 Hàng hoá khác 20,2 15,6 17,5 16,4 15,6 17,1 Nguồn: Báo cáo tổng kết của Bộ Thương mại 2005, 2006 Để thấy rõ hơn sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, có thể quan trắc cơ cấu của hàng xuất khẩu chế biến. Theo cách phân tích này hàng xuất khẩu chế biến được chia thành 3 nhóm chính: Nhóm hàng khoáng sản, nhiên liệu : Dầu thô và than đá là hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt được mức tăng trưởng cao trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2004, 2005 do được giá và tăng lượng xuất khẩu. Năm 2005, ngành than khai thác được khoảng 25 triệu tấn than (trong đó xuất khẩu trên 15 triệu tấn), vượt cả chỉ tiêu quy hoạch cho năm 2010 mà Chính phủ đã đề ra. Than đá: mục tiêu xuất khẩu than đá đặt ra trong Chiến lược phát triển xuất khẩu là 4 triệu tấn/năm trong giai đoạn 2001-2010 với kim ngạch khoảng 120-150 triệu USD/năm. Dầu thô: Chiến lược đặt mục tiêu khai thác hàng năm là 14-16 triệu tấn, trong đó một phần dùng cho sản xuất trong nước. Việc giảm xuất khẩu dầu thô sẽ đi đôi với giảm nhập khẩu sản phẩm xăng dầu từ nước ngoài. Năm 2005, ngành than khai thác được khoảng 25 triệu tấn than (trong đó xuất khẩu trên 15 triệu tấn), vượt cả chỉ tiêu quy hoạch cho năm 2010 mà Chính phủ đã đề ra. Dầu thô cũng khai thác được 20,2 triệu tấn, xuất khẩu tới 19,5 triệu tấn trong năm 2004. Tuy nhiên, sang năm 2005 nhờ chủ trương của Chính phủ nên lượng dầu thô khai thác và xuất khẩu đã giảm. Như vậy, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nhóm nguyên nhiên liệu năm 2006 và bình quân 6 năm vẫn chiếm gần 23% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Nguyên nhân chủ yếu là do dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất vẫn chưa hoàn thành trong giai đoạn 2001–2005, ngoài ra nhu cầu và giá thế giới tăng mạnh ngoài dự báo khiến hai mặt hàng than đá và dầu khí đẩy mạnh khai thác và xuất khẩu. Nhóm hàng nông lâm, thủy sản : Nhóm hàng nông -lâm - thủy sản gồm thủy sản, gạo, cà phê, rau quả, caosu, hạt tiêu thì thủy sản luôn là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn, kế đến là gạo, cao su, cà phê, rau quả và hạt tiêu. Tuy nhiên sự sắp xếp này cũng có năm phải chuyển hoán ngôi vị; chẳng hạn năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm này là 3649 triệu USD trong đó gồm: thủy sản 1.778 triệu USD, gạo 625 triệu USD, cà phê 391 triệu USD, rau quả 330 triệu USD, caosu 166 triệu USD và hạt tiêu 91 triệu USD thì năm 2006 :thủy sản 2739 triệu USD, gạo 1407 triệu USD, cà phê 735 triệu USD, rau quả 235 triệu USD, caosu 804 triệu USD và hạt tiêu 150 triệu USD trong tổng số 6852 triệu USD giá trị xuất khẩu của cả nhóm. Số giá trị kim ngạch xuất khẩu còn lại là các mặt hàng nhân điều, chè các loại và đậu phộng nhân. Hầu hết các mặt hàng đều đạt tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao. Đặc biệt, một số mặt hàng có tốc độ tăng rất cao: mặt hàng gạo sau 5 năm sụt giảm đã tăng 49% và chỉ sau 8 tháng đã đạt hơn 1 tỷ USD; rau quả tăng 36,1%, cao su tăng 25,2%. Trong giai đoạn 2001 - 2006 dù xuất khẩu liên tục tăng trưởng vượt kế hoạch nhưng nhìn chung vẫn còn những điểm yếu vốn đã tồn tại nhiều năm vẫn chưa được khắc phục. Tỷ trọng xuất khẩu hàng nông-lâm-thuỷ sản còn lớn; hàng chế biến chủ yếu vẫn là hàng gia công. Chính vì vậy, giá trị gia tăng thực thu về thấp. Bên cạnh đó, do tỷ trọng xuất khẩu hàng nông - lâm - thuỷ sản lớn nên tăng trưởng xuất khẩu của nước ta không ổn định, phụ thuộc nhiều vào biến động giá cả trên thị trường thế giới, mà hầu hết là biến động bất lợi. Trong nhóm hàng nông lâm thủy sản, xuất khẩu thủy sản và gạo vẫn là 2 mặt hàng chủ lực nắm giữ kim ngạch xuất khẩu hàng đầu. Xuất khẩu thủy sản Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của các năm gần đây: 2000 là 1,47 tỷ USD; 2001 là 1,8 tỷ USD; 2002 là 2 tỷ; 2003 là 2,2 tỷ; 2004 là 2,4 tỷ; 2005 là 2,7 tỷ và 2006 là 3,36 tỷ USD. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản ước đạt hơn 3,36 tỷ USD, vượt hơn 400 triệu USD so kế hoạch năm; tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt hơn 3,7 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng chiếm hơn 1,7 triệu tấn. Trong năm nay, thuỷ sản đứng thứ 4 trong số 9 mặt hàng có mặt ở câu lạc bộ 1 tỷ USD của Việt Nam. Bộ Thuỷ sản phấn đấu kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 3,5 tỷ USD trong năm 2007. Xuất khẩu gạo Lượng gạo xuất khẩu năm 2001 là 3,7 triệu tấn, năm 2002 là 3,2 triệu tấn, năm 2003 là 3,8 triệu tấn, năm 2004 là 4,1 triệu tấn. Năm 2005, lần đầu tiên xuất khẩu gạo đạt mức 5,3 triệu tấn thu về cho đất nước hơn 1,34 tỉ USD, giá gạo bình quân đạt 267 USD/tấn. Đây là mức cao nhất đạt được trên cả 3 chỉ tiêu số lượng, kim ngạch và giá cả xuất khẩu kể từ khi Việt Nam chính thức tham gia thị trường gạo thế giới. So với năm 2004, lượng gạo xuất khẩu tăng gần 1,2 triệu tấn (25%), kim ngạch tăng trên 400 triệu USD (45%) và giá cả tăng 48 USD/tấn (15%). Đây là năm thứ 17 Việt Nam liên tục xuất khẩu gạo, là năm thứ 3 đạt lượng gạo xuất khẩu trên 4 triệu tấn, năm thứ 2 đạt kim ngạch trên 1 tỉ USD; và giữ vững vị trí thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo (vượt qua Ấn Độ). Năm 2005, gạo Việt Nam đã xâm nhập được vào các thị trường khó tính, yêu cầu chất lượng cao như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ. Ở thị trường Nhật Bản, năm 2005 Việt Nam đã xuất khẩu được 90.000 tấn gạo thơm, tăng 60% so với năm trước và giá cũng cao hơn. Những tháng đầu năm 2007, lần thứ hai thắng thầu xuất khẩu gạo sang thị trường Nhật Bản với số lượng 28.000 tấn. Có được kết quả đó là do chất lượng gạo Việt Nam đã đạt 579 tiêu chuẩn khắt khe thay cho 250 tiêu chuẩn trước đây. Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2005 đạt 275 USD/tấn so với 232 USD/tấn năm 2004 và 188,2 USD/tấn năm 2003. Nét đặc biệt quan trọng đánh dấu sự phát triển và tăng trưởng của xuất khẩu gạo Việt Nam thời kỳ 2001-2006 là, tính ổn định cao trong điều kiện có sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường thế giới, và năm sau cao hơn trước. Lượng gạo xuất khẩu bình quân trong thời kỳ này là 3.706 nghìn tấn/năm, so với 1.734 nghìn tấn/năm thời kỳ 1991-1995 và 3.663 nghìn tấn thời kỳ 1996-2000. Năm 2006 so với năm 1989, lượng gạo xuất khẩu gấp 3,57 lần, giá gạo tăng 63 USD/tấn (267-204 USD) và kim ngạch tăng gấp 7 lần (1.340/189 triệu USD). Kết quả đó đã được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Khác với các nước trong khu vực, sản xuất nông nghiệp nói chung và lúa nói riêng ở Việt Nam phát triển ổn định và tăng trưởng nhanh. Kết quả sản xuất và xuất khẩu gạo còn có tác dụng tăng thu nhập của nông dân trồng lúa hàng hóa do giá gạo trong nước tăng cao. Nhóm hàng công nghiệp chế biến : Sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu sản phẩm chế biến thời kỳ 1985 – 2005 Hàm lượng xuất khẩu Tỷ trọng (%) Tốc độ tăng trưởng (%) 1985 2000 2005 1985 - 1990 1990 - 1995 1995 - 2000 2000-2005 1. Ngành chế biến dựa vào nguồn tài nguyên 74 17,6 17,8 21 23 5 4,8 2. Ngành chế tạo công nghệ thấp sử dụng nhiều lao động và sản xuất các cấu kiện, công nghệ trung bình 21,7 77 76,0 34,3 102 20 18 3. Công nghệ cao, sử dụng nhiều vốn 3,9 5,4 6,2 40 62,2 2,4 3,7 Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân 5 năm 2001-2006 đạt 17,1%/năm. Trong số 7 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD thì có 5 mặt hàng công nghiệp. Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp đạt 75,8%, trong đó công nghiệp chế biến đạt trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhìn chung, nhóm hàng công nghiệp chế biến đều có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như: mặt hàng dệt may đạt 6,2 tỷ USD, tăng 28%; mặt hàng giày dép đạt 3,7 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2005. Năm 2006, EU đã áp đặt thuế chống bán phá giá tạm thời đối với sản phẩm giày có mũ da của Việt Nam, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam đã nhanh chóng chuyển dịch thị trường xuất khẩu vào Mỹ, do đó kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá; sản phẩm gỗ đạt 1,9 tỷ USD, tăng 25%; Hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 1,65 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái Trong điều kiện lợi thế về các yếu tố tự nhiên và lao động rẻ đang ngày càng giảm dần và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì sự chậm thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng nâng dần tỷ trọng hàng công nghệ cao sử dụng nhiều vốn là một hạn chế lớn đối với tăng trưởng xuất khẩu của nước ta. Trong dài hạn, sự chậm trễ này sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, giảm sức cạnh tranh và cải thiện cán cân thanh toán. Nếu phân tích cơ cấu xuất khẩu của nước ta có tính đến cả mức độ giá trị tăng thêm, có thể thấy, tỷ trọng các mặt hàng tinh chế có giá trị gia tăng rất thấp, chỉ chiếm gần 30% (năm 2006). Nhìn chung, cơ cấu xuất khẩu mặc dù đã có sự chuyển biến song tốc độ còn chậm. Tỷ trọng hàng xuất khẩu chế biến (công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp) còn quá khiêm tốn, trong khi hàng sơ chế và khoáng sản vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. Sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, nhìn chung, chưa thật bền vững, còn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Cơ cấu xuất khẩu là một trong những hạn chế lớn nhất của nền kinh tế. Nếu không tăng nhanh tỷ trọng các mặt hàng chế biến, xét về dài hạn, tăng trưởng xuất khẩu sẽ khó có thể tiếp tục đà tăng cao như hiện nay. 2.2 Tình hình xuất nhập khẩu của việt nam sau khi gia nhập WTO Nền kinh tế Việt Nam những tháng đầu tiên sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được đánh giá là tiếp tục phát triển tốt. Tốc độ tăng trưởng GDP quý I/2007 đạt 7,7%, là mức cao nhất kể từ năm 2001 đến nay, và dự báo tăng trưởng cả năm 2007 sẽ vượt mức kế hoạch 8,5%. Việc Việt Nam gia nhập WTO đã có những tác động đầu tiên đến một số lĩnh vực của nền kinh tế, nhất là xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). 2.2.1. Giai đoạn sau khi gia nhập WTO đến 2007 2.2.1.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu (ĐVT: triệu USD) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng số Nhập siêu 2006 39.605 44.410 84.015 4.805 8 tháng đầu năm 2007 31.218 37.632 68.850 6.414 Nếu như trong năm 2006 cả nước xuất khẩu 39,6 tỷ USD, nhập khẩu 44,4 tỷ USD, cán cân thương mại nghiêng về nhập khẩu, ta nhập siêu 4,8 tỷ USD thì chỉ trong 7 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt trên 27 tỷ USD trong khi nhập siêu đến con số 5 tỷ USD. Tính chung 8 tháng đầu năm, cả nước nhập siêu 6,4 tỷ USD hàng hóa. Theo dự báo của bộ Công Thương, con số nhập siêu đến cuối năm 2007 có thể lên đến 8 tỷ USD. Về cơ cấu nhập khẩu năm 2006 khoảng 70% là hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất để tái xuất khẩu và sản xuất trong nước, các mặt hàng khác chiếm 30% thì trong 7 tháng đầu năm 2007 kim ngạch XNK vẫn chủ yếu nguyên vật liệu phụ vụ sản xuất như máy móc thiết bị dụng cụ, phụ tùng ước tính đạt 4,4 tỷ USD, tăng tới 46,4% so với cùng kỳ; 2.2.1.2 Thị trường xuất khẩu Thị trường xuất khẩu phụ thuộc vào nhiều yếu tố: từ nguồn lực, chung loại, chất lượng hàng hóa, giá cả xuất khẩu, công tác quảng cáo, tiếp thị,…đến thị trường xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu là yếu tố quan trọng, bởi nó tác động đến hầu hết các yếu tố khác và sự tăng tưởng của tổng kim ngạch XNK. Dưới đây là diễn biến các thị trường xuất khẩu từ đầu năm 2007 đến nay. Mỹ là nước nhập khẩu của VN nhiều nhất, chiếm 19,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Những mặt hàng chủ yếu vào thị trường này là dệt may, giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ. VN đang ở vị thế xuất siêu. Tuy nhiên do bị giám sát chương trình bán phá giá giám sát nên ảnh hưởng dến xuất khẩu trong thời gian tới. Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới(sau Mỹ) của VN và lớn nhất ở châu Á, chủ yếu xuất khẩu sang đây là: thủy sản nhưng gần đây dừng lại do dư quá nhiều lượng kháng sinh cho phép. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu hàng VN lớn thứ tư thế giới. Trong quan hệ XNK với TQ, VN liên tục ở vị trí nhập siêu và nhập siêu từ TQ ngày càng tăng. Singapore là thị trường nhập khẩu nhiều hàng hóa của VN, đứng hàng thứ 6 trên thế giới. Tuy nhiên, nhập siêu của VN từ Singapore rất lớn, dứng thứ 2 sau TQ. Indonesia là thị trường nhập khẩu của VN đứng hàng thứ 8 trên thế giới, chủ yếu là xuất khẩu gạo từ VN. Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu của VN đứng thứ 9 trên thế giới, tuy nhiên trong quan hệ buôn bán Việt-Hàn, VN luôn ở vị thế nhập siêu. Campuchia là thị trường nhập khẩu của VN đứng thứ 11 trên thế giới, VN có vị thế xuất siêu trong quan hệ buôn bán với Campuchia Thái Lan trong quan hệ buôn bán với Thái Lan, VN ở vị thế nhập siêu Hồng Kông là thị trường nhập khẩu của VN đứng thứ 20 trên thế giới, VN ở vị thế nhập siêu. Đài Loan trong quan hệ buôn bán với Thái Lan, VN ở vị thế nhập siêu Qua những kết quả ở trên, ta thấy quan hệ buôn bán của VN với các nước châu Á trong những tháng qua: quy mô lớn nhất trong các châu lục, tăng chậm nhất so với châu lục khác: VN nhập siêu lớn nhất ở châu lục này Châu Á là thị trường nhập khẩu nhiều nhất của VN, chiếm trên 45% tổng kim ngạch XNK của VN.Tuy nhiên tỉ trọng xuất khẩu vào thị trường này đang giảm dần do xuất khẩu vào thị trường này tăng thấp hơn tốc độ tăng chung. EU là thị trường nhập khẩu lớn của VN, chiếm 19,4% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, trong đó: Đức, Anh, Hà Lan, Ý, Úc là chủ yếu. 2.2.1.3 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu (ĐVT: triệu USD) Mặt hàng 8 tháng đầu năm 2007 So với cùng kỳ 2006 Dầu thô 5.091 -11.80% Dệt may 5.084 29.60% Da giày 2.725 14.30% Thủy sản 2.361 14.10% Gạo 1.154 12.10% Cà phê 1.414 90.80% Cao su 799 -1.60% Hạt tiêu 178 20.20% Chè 71 4.40% Hạt điều 396 24.20% Sản phẩm gỗ 1.499 24.30% (nguồn: báo Saigon Times và Tổng Cục Thống Kê) Như vậy, trong 8 tháng đầu năm 2007 (sau khi gia nhập WTO) dầu thô xuất khẩu giảm 4.8% về số lượng, giá đầu thô cũng giảm khoảng 18USD/tấn làm cho kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này giảm 11.80% so với năm ngoái (trước khi gia nhập WTO) Kéo kim kim ngạch xuất khẩu chung cả nước xuống thấp. Tuy nhiên, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác đều có tín hiệu khả quan như: cà phê, tiêu, điều, dệt may và các sản phẩm gỗ. trong đó cà phê tăng mạnh do nhu cầu và giá cà phê trên thế giới đang có xu hướng tăng mạnh. 2.2.1.4 Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu (ĐVT: TRIỆU USD) Mặt hàng 8 tháng đầu năm 2007 So với cùng kỳ 2006 Máy móc, thiết bị 6.212 51.40% Xăng dầu 4483 6.4% Sắt thép 2.310 65.00% Điện tử, linh kiện 1.784 42.50% Vải 2.598 34.30% NVL dệt, may da 1.407 7.6% Gỗ 669 41.10% Kim ngạch nhập khẩu 7 tháng đầu năm 2007 đạt 32,2 tỷ USD, tăng 29% so với cùng kỳ 2006. Đa số các mặt hàng nhập khẩu tăng so với nam 2006. trong đó nhập khẩu xăng dầu thăng 12%, sắt thép tăng 24,3%, phân bón tăng 14%, máy móc thiết bị tăng 42,2%, vải tăng 32%, tân dược tăng 22,5%. Về thị trường nhập khẩu 5 đối tác lớn nhất xuất khẩu hàng hóa vào VN là Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật và Hàn Quốc. 2.2.2 Giai đoạn 2008-2009 2.2.2.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu Năm 2008 Đã xuất hiện nhiều dấu hiệu đáng lo ngại khi nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất những tháng cuối năm giảm, sức ép từ hàng tiêu dùng nước ngoài. Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007 Trong tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm tỷ trọng 31%, nhóm hàng nông sản chiếm 16,3%. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu năm 2008 của các loại hàng hoá đều tăng so với năm 2007, chủ yếu do giá trên thị trường thế giới tăng. Trong các thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2008, Hoa Kỳ là đối tác lớn nhất, ước tính đạt 11,6 tỷ USD, tăng 14,5% so với năm 2007 với 5 mặt hàng chủ yếu (chiếm tỷ trọng 76% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này) gồm: Hàng dệt may, dầu thô, gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép, thủy sản. Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu sang thị trường ASEAN tuy có giảm trong các tháng cuối năm, nhưng ước tính cả năm vẫn đạt 10,2 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2007 với các mặt hàng chính là: Dầu thô, gạo, thủy sản, máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện. Thị trường EU ước tính đạt 10 tỷ USD, tăng 15% so với năm trước gồm các mặt hàng truyền thống như: Hàng dệt may, giày dép, nông sản, thủy sản. Thị trường Nhật Bản ước tính đạt 8,8 tỷ USD, tăng 45% so với năm 2007, tập trung chủ yếu vào các mặt hàng: Dầu thô, giày dép, thủy sản, máy tính và linh kiện, dây và cáp điện. Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007. Trong các thị trường nhập khẩu của Việt Nam năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu từ khu vực ASEAN, ước tính 19,5 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm 2007; Trung Quốc 15,4 tỷ USD, tăng 23,2%; thị trường EU 5,2 tỷ USD, tăng 1,7%; Đài Loan 8,4 tỷ USD, tăng 21,8 %; Nhật Bản 8,3 tỷ USD, tăng 37,7%. Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất từ châu Á, nhiều nhất là ở Trung Quốc (Nhập khẩu từ Trung Quốc lên tới 15,4 tỷ, tăng 23,2%) Năm 2009 Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả nước trong 7 tháng đầu năm 2009 đạt 68,73 tỷ USD, giảm 23,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu là 32,55 tỷ USD, giảm 12,8% và nhập khẩu là 36,18 tỷ USD, giảm 31,2%. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 10 ước đạt 4,75 tỷ USD, tăng 4,5% so với tháng 9. Tính chung 10 tháng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 46,3 tỷ USD, bằng 78,5% kế hoạch năm và giảm 13,8% so với cùng kỳ (tương đương giảm 7,43 tỷ USD). ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tháng 10 tăng 3,2% so với tháng 9 chủ yếu do đơn giá xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng tăng trừ chè, sắn và các sản phẩm của sắn. Kim ngạch xuất khẩu của nhóm nhiên liệu và khoáng sản tháng 10 tăng 1,9% về lượng và tăng 11,8% về trị giá so với tháng 9 chủ yếu do lượng của một số mặt hàng trong nhóm tăng và giá dầu thô tăng. Kim gnạch xuất khẩu của nhóm công nghiệp chế biến tháng 10 tăng nhẹ 0,1% so với tháng 9. Thị trường xuất khẩu tháng 10 vào hầu hết các châu lục đều tăng so với tháng 9: Châu á tăng 4,5%, Châu Âu tăng 5,2% (trong đó EU tăng 4,7%), Châu Đại dương tăng 4,6%.... Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá tháng 10 ước đạt 6,65 tỷ USD, tăng 4,3% so với tháng 9 (tương đương tăng 274 triệu USD). Tính chung 10 tháng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 55,119 tỷ USD, bằng 78,74% kế hoạch năm và giảm 21,7% so với cùng kỳ (tương đương giảm 15,247 tỷ USD). Về thị trường, tháng 10 kim ngạch nhập khẩu của các mặt hàng có xuất xứ từ châu Á tăng 4,0%, châu Âu tăng 8,1% (trong đó EU tăng 9,4%), Châu Đại Dương tăng 5,0%... Tính chung 10 tháng kim ngạch nhập khẩu từ châu Á giảm 28,4%, châu Đại dương giảm 26,1%, châu Âu giảm 18,1% so với cùng kỳ. 2.2.2.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chính - Hàng dệt may: tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này 7 tháng lên 5,04  tỷ USD. Đối tác lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Đài Loan, Canada - Giày dép các loại: tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này 7 tháng lên 2,4 tỷ USD. Các thị trường xuất khẩu giày dép chính của Việt Nam là EU và Hoa Kỳ - Hàng thuỷ sản: tổng kim ngạch xuất khẩu 7 tháng năm 2009 lên 2,2 tỷ USD, giảm 7,9% so với cùng kỳ 2008. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang các đối tác lớn: thị trường EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc - Dầu thô: tổng lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam 7 tháng năm 2009 lên hơn 9 triệu tấn, tăng 17,0% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù lượng xuất khẩu tăng, nhưng do giá bình quân giảm mạnh tới 52,8% so với cùng kỳ năm 2008 (tương đương giảm 460USD/tấn), nên kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này 7 tháng năm 2009 đạt 3,71 tỷ USD, giảm 44,7%. Các thị trường chính nhập khẩu dầu thô của nước ta chủ yếu là Ôxtrâylia: 2,4 triệu tấn, Singapore: 1,6 triệu tấn, Malaysia: 1,3 triệu tấn, Hoa Kỳ: 618 nghìn tấn, Trung Quốc: 587 nghìn tấn ,… - Gạo: Tháng 7/2009, xuất khẩu gạo cả nước chỉ đạt 489,4 nghìn tấn, giảm 15,7% về lượng và giảm 22,5 % về trị giá so với tháng trước. Bên cạnh đó, đơn giá xuất khẩu bình quân của mặt hàng này đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu năm, chỉ đạt 410 USD/tấn (giảm 18,2% so với tháng 5, thời điểm đạt giá cao nhất). Tính đến hết tháng 7, xuất khẩu gạo của Việt nam đã đạt 4,2 triệu tấn, tăng 44,1% so với cùng kỳ năm 2008. Giá bình quân và lượng xuất khẩu gạo 7 tháng năm 2009 Tính đến hết tháng 7/2009, lượng gạo của Việt Nam xuất sang hầu hết các châu lục đều tăng trên 30% so với cùng kỳ năm 2008 (trừ Châu Mỹ). Trong đó, lượng gạo xuất khẩu sang Châu Á đạt 2,56 triệu tấn, tăng 34% và chiếm 60,6% tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước; sang châu Phi: 933 nghìn tấn, tăng 112%; sang châu Mỹ: 359 nghìn tấn, giảm 18%; sang Châu Đại Dương: 211 nghìn tấn, tăng mạnh 258%; sang châu Âu: 158 nghìn tấn, tăng 90,6% so với cùng kỳ năm 2008. - Cao su: trong tháng lượng cao su xuất khẩu đạt 82,3 nghìn tấn, tăng 21,9% và trị giá xuất khẩu mặt hàng này đạt 122 triệu USD, tăng 22,8% so với tháng trước. Hết tháng 7/2009, tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước là 334 nghìn tấn và kim ngạch đạt 480 triệu USD, giảm 42,6% so với cùng kỳ năm 2008.  Trung Quốc tiếp tục là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của Việt Nam trong 7 tháng qua với 229 nghìn tấn, chiếm 68,7% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp theo là Hàn Quốc: 15,6 nghìn tấn, Malaixia: 14,8 nghìn tấn, Đài Loan: 11,1 nghìn tấn, Đức: 8,5 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 6,8 nghìn tấn,… - Cà phê: xuất khẩu trong tháng đạt 53,3 nghìn tấn, giảm 31,9% so với tháng trước. Hết tháng 7, tổng lượng cà phê xuất khẩu đạt 788 nghìn tấn, tăng 17,0% và kim ngạch xuất khẩu đạt 1,17 tỷ USD, giảm 17,1% so với cùng kỳ năm 2008. Các thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong 6 tháng qua là Bỉ: 114,6 nghìn tấn, Đức: 85,3 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 84,1 nghìn tấn, Italia: 73,6 nghìn tấn, … - Gỗ & sản phẩm gỗ: Sau 3 tháng giảm liên tiếp, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tháng 7 đạt 209 triệu USD, tăng 11,8% so với tháng trước, mức cao nhất kể từ đầu năm. Hết tháng 7/2009, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 1,34 tỷ USD, giảm 16,1% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam qua 7 tháng vẫn chủ yếu tập trung ở 3 thị trường chính là Hoa Kỳ: 566 triệu USD, chiếm 42,1%; EU: 314 triệu USD, chiếm 23,3% và Nhật Bản: 205 triệu USD, chiếm 15,3% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Tuy nhiên, diễn biến ở các thị trường lại trái chiều nhau. Thị trường dẫn đầu là Hoa Kỳ đang có mức tăng trưởng cao (mức tăng trung bình từ tháng 4 đến hết tháng 7 là 5,6%), thị trường EU lại có mức sụt giảm mạnh (trung bình là đạt 27,3 triệu USD/tháng trong 3 tháng gần đây, chỉ bằng 47,2% so với mức trung bình 4 tháng đầu năm). - Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: trong tháng xuất khẩu đạt 248 triệu USD, tăng 10,0% so với tháng 6, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng năm 2009 lên 1,4 tỷ USD. Dẫn đầu về nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong 6 tháng qua vẫn là thị trường Hoa Kỳ với 242 triệu USD, tiếp theo là Nhật Bản: 194 triệu USD, Thái Lan: 153 triệu USD, Trung Quốc: 125 triệu USD, Singapore: 91 triệu USD, Hà Lan: 85,6 triệu USD,… 2.2.2.3 Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu (kim ngạch nhập khẩu 36,18 tỷ USD) - Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: trong tháng, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là 1,05 tỷ USD (mức cao nhất từ đầu năm 2009), tăng 14,4% so với tháng trước. Nâng tổng kim ngạch nhập khẩu 7 tháng năm 2009 lên 6,34 tỷ USD, giảm 17,9% so với cùng kỳ 2008. Nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu vào Việt Nam trong 7 tháng qua có xuất xứ chủ yếu từ Trung Quốc với 2,1 tỷ USD, giảm 6,2%; Nhật Bản: 1,26 tỷ USD, giảm 21,9%; Hàn Quốc: 439 triệu USD; giảm 22,7%; Hoa Kỳ: 395 triệu USD, tăng 9,5%,... so với cùng kỳ năm 2008. - Sắt thép các loại: tháng 7/2009, cả nước nhập khẩu hơn 1 triệu tấn thép các loại, tăng 13,8% so với tháng trước với trị giá là 511 triệu USD. Hết tháng 7/2009, lượng sắt thép nhập khẩu vào Việt Nam là 5,05 triệu tấn, giảm 22,8% so với cùng kỳ năm 2008. Lượng phôi thép nhập khẩu vào Việt Nam trong tháng là 324 nghìn tấn, tăng 22% so với tháng trước. Hết tháng 7/2009, lượng phôi thép nhập khẩu vào Việt Nam là 1,4 triệu tấn, giảm 26,5% so với cùng kỳ 2008, trị giá là 565 triệu USD. Mặc dù vẫn thấp hơn nhiều so với cùng kỳ tháng trước, nhưng lượng sắt thép nhập khẩu vào Việt Nam trong 3 tháng gần đây luôn ở mức cao (trung bình là 960 nghìn tấn/tháng) và nhiều khả năng lượng nhập khẩu cả năm sẽ nhiều hơn so với năm 2008. - Thức ăn gia súc và nguyên liệu: Trong tháng, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này 244 triệu USD, tăng nhẹ 1,9% so với tháng trước và là tháng thứ 2 đạt kim ngạch trên 200 triệu USD, cao hơn nhiều so với tháng nhập khẩu cao nhất của năm 2008 (là 190 triệu USD). Tính đến hết tháng 7/2009, cả nước nhập khẩu 1,07 tỷ USD hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu, giảm  9,3% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, nhập khẩu từ Achentina là: 294 triệu USD, tăng 202,6%; Ấn Độ : 285 triệu USD, giảm 52%; Trung Quốc: 98 triệu USD, tăng 32,4%; và Hoa Kỳ: 97,6 triệu USD, giảm 6,9% so với 7 tháng 2008. - Nhóm hàng nguyên liệu ngành dệt may, da giày trong tháng nhập khẩu 648 triệu USD, nâng kim ngạch nhập khẩu 7 tháng/2009 lên 4,06 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008. Lượng, trị giá nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu ngành dệt may, da, giày 7 tháng 2009 và 7 tháng 2008 Tên hàng 7 tháng 2008 7 tháng 2009 Lượng (nghìn tấn) Trị giá (triệu USD) Lượng (nghìn tấn) Trị giá (triệu USD) Bông 172 262 149 183 Xơ, sợi dệt 240 466 277 420 NPL dệt may, da, giày 1.417 1.087 Vải 2.615 2.372 Tổng cộng 4.759 4.062 Hết 7 tháng 2009, Việt Nam nhập khẩu nhóm mặt hàng này chủ yếu từ các nước: Trung Quốc dẫn đầu với 1,14 tỷ USD, Đài Loan: 840 triệu USD, Hàn Quốc: 801 triệu USD, Hồng Kông: 234 triệu USD, Nhật Bản: 266 triệu USD,… - Xăng dầu: trong tháng nhập khẩu 1,08 triệu tấn, tăng 4,4% so với tháng trước, nâng lượng nhập khẩu nhóm hàng này lên 7,86 triệu tấn trong 7 tháng năm 2009, giảm 7% so với cùng kỳ 2008. Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 7 tháng đầu năm chủ yếu có xuất xứ từ Singapore với hơn 3,1 triệu tấn, tiếp theo là Đài Loan: 1,55 triệu tấn, Trung Quốc: 1,41 triệu tấn, Hàn Quốc: 734 nghìn tấn, Nga: 394 nghìn tấn, Thái Lan: 292 nghìn tấn, ... - Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: nhập khẩu trong tháng là 364 triệu USD, tăng 7,7% so với tháng trước, nâng tổng trị giá nhập khẩu 7 tháng/2009 lên 1,95 tỷ USD, giảm 7,1% so với cùng kỳ 2008. Tính đến hết tháng 7 năm 2009, Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về cung cấp nhóm hàng này cho nước ta với 731 triệu USD, tăng nhẹ 0,5% so với 7 tháng/2008. Tiếp theo là Nhật Bản: 413 triệu USD, giảm 9,7%; Đài Loan: 156 triệu USD, giảm 5,5%; Malaysia: 154 triệu USD, giảm 2,2%; ... - Chất dẻo nguyên liệu:  trong tháng nhập khẩu 226 nghìn tấn, tăng 17,9% so với tháng trước và đạt trị giá là 295 triệu USD. Hết tháng 7/2009, tổng lượng nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu của cả nước là 1,24 triệu tấn, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước và đạt trị giá là 1,46 tỷ USD. Hết 7 tháng năm 2009, chất dẻo nguyên liệu được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ: Hàn quốc : 235 nghìn tấn, tăng 44,0% so với cùng kỳ 2008; Đài Loan: 187 nghìn tấn, giảm 3,9%; Thái Lan: 173 nghìn tấn, tăng 7,1%, A rập Xê út: 142 nghìn tấn, tăng 78,1% … - Phân bón: trong tháng nhập khẩu 246 nghìn tấn, giảm 19,2% so với tháng trước với trị giá đạt gần 85 triệu USD. Hết 7 tháng/2009, cả nước nhập khẩu 2,48 triệu tấn phân bón các loại, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2008. Lượng phân Urê nhập khẩu vào Việt Nam trong 7 tháng qua là 768 nghìn tấn, phân SA là 662 nghìn tấn, phân DAP là 580 nghìn tấn, phân Kali là 230 nghìn tấn, phân NPK là 185 nghìn tấn. Mặt hàng phân bón các loại được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc với 885 nghìn tấn. Tiếp theo là Nga: 284 nghìn tấn, Ucraina: 202 nghìn tấn, Philippin: 193 nghìn tấn, Hàn Quốc: 154 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 102 nghìn tấn, Đài Loan: 83,4 nghìn tấn,… - Ôtô nguyên chiếc các loại và linh kiện, phụ tùng ôtô: trong tháng, lượng ôtô nguyên chiếc nhập khẩu là 8,68 nghìn chiếc, tăng 32,4%, trong đó loại xe từ 9 chỗ ngồi trở xuống là hơn 5 nghìn chiếc, tăng 51% so với tháng trước.  Tính đến hết 7 tháng 2009, lượng xe nguyên chiếc nhập khẩu là 32,4 nghìn chiếc, giảm 23,9% so với cùng kỳ 2008 với trị giá là 524 triệu USD. Ô tô nguyên chiếc nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ chủ yếu từ Hàn Quốc với 20,8 nghìn chiếc, chiếm 64% tổng lượng ôtô nhập khẩu của cả nước trong 7 tháng 2009. Nguồn hàng lớn tiếp theo là từ Nhật Bản: 3,06 nghìn chiếc, Hoa Kỳ: 2,5 nghìn chiếc, Trung Quốc: 2,3 nghìn chiếc, … Trị giá nhập khẩu linh kiện & phụ tùng ô tô trong tháng 7 đạt 179 triệu USD, tăng 9,8% so với tháng 6, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này 7 tháng /2009 lên 778 triệu USD. 2.2.2.4 Nhận xét tình hình xuất nhập khẩu sau khi Việt Nam gia nhập WTO Dựa vào những phân tích trên và các con số Năm 2006: kim ngạch xuất khẩu gần 40 tỷ USD, XK năm 2006 đạt được kết quả cao như vậy, trước tiên là nhờ cơ chế điều hành hợp lý, hiệu quả. Doanh nghiệp năng động. Năm 2007: kim ngạch xuất khẩu 48,38 tỷ USD,là năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước cao hơn tốc độ tăng chung, chứng tỏ khu vực này đã tận dụng được cơ hội do vị thế mới của thành viên WTO. Nếu không kể dầu thô bị sút giảm thì kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng khác của khu vực cóvốn đầu tư nước ngoài (FDI) còn tăng cao hơn khu vực kinh tế trong nước.Điều đó cho thấy, khu vực FDI đã tận dụng tốt hơn cơ hội WTO. Nhập khẩu ước đạt 60,83 tỷ USD: nhập khẩu nằm ở mức cao, một số ngành được xem là cần thiết,tuy nhiên cũng có những lĩnh vực không thể coi là hợp lý hay cần thiết, bởi có nhiều loại mà trong nước có thể sản xuất được. Năm 2008: + kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD do giá trên thị trường thế giới tăng. + kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD, Năm 2009: +Tính chung 10 tháng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 46,3 tỷ USD +Tính chung 10 tháng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 55,119 tỷ USD Chương 3: Nhận xét chung và giải pháp: 3.1 Thuận lợi: Lợi ích lớn nhất của việc gia nhập WTO là thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam được mở rộng, ngoài việc duy trì và mở rộng thị trường truyền thống và thị trường xuất nhập khẩu lớn của thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản, hàng loạt thị trường nhỏ, thị trường xa cũng đã rộng cửa cho doanh nghiệp Việt Nam như các quốc gia thuộc khu vực Trung Đông. Trong hơn 200 nước và vùng lãnh thổ có quan hệ buôn bán với Việt Nam, thì Việt Nam có vị thế xuất siêu đối với 159 nước và vùng lãnh thổ, trong đó xuất siêu lớn là Mỹ, Australia, Anh, Philippines, Đức, Bỉ… nhập khẩu còn ở vị thế nhập siêu đối với 47 nước và vùng lãnh thổ, trong đó nhiều nhất là Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Hồng Kông, Thụy Sĩ, Ấn Độ, Kuwait…, gia tăng giá trị ( khối lượng, kinh nghạch) xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam do không còn bị phân biệt đối xử tại thị trường các nước thành viên khác của WTO. Hàng hoá Việt Nam xuất khẩu đã được cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ khác, không còn bị vướng nhiều rào cản về thuế quan và hạn ngạch. Tuy thế, điều mà các doanh nghiệp lo ngại nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO phải xoá bỏ các biện pháp bảo hộ và các doanh nghiệp phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh hơn từ bên ngoài ngay trên “sân nhà”. Nhưng, theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, chính áp lực cạnh tranh lại là lợi ích mà xét trên tổng thể toàn bộ nền kinh tế Việt Nam sẽ được thụ hưởng nhiều hơn. Cạnh tranh sẽ sàng lọc những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và buộc các doanh nghiệp khác phải nỗ lực tự vươn lên. Đồng thời, nó cũng sẽ tạo cơ hội cho người tiêu dùng tiếp cận, sử dụng hàng hoá, dịch vụ với giá rẻ hơn, qua đó sẽ kích “cầu” trong nước, làm cho nền kinh tế phát triển. Người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận , sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ các nước khác. Về vấn đề bình đẳng thương mại, tuy đã tham gia nhiều hiệp định thương mại khu vực và song phương, nhưng hàng hoá Việt Nam vẫn có những biểu hiện bị đối xử không công bằng. Việc Mỹ áp dụng biện pháp trừng phạt về vấn đề cá da trơn và tôm của Việt Nam trên thị trường Mỹ, EC áp thuế bán phá giá đối với sản phẩm giày mũ da của Việt Nam, và mới nhất, đó là Pêru cũng đang điều tra bán phá giá đối với sản phẩm giày mũ da của Việt Nam… là những ví dụ điển hình. Là thành viên của WTO, Việt Nam có thể đưa các vụ kiện trên ra trước Uỷ ban WTO, chứ không phải là tại Bộ Thương mại Mỹ; EC… nơi khó có thể đạt được sự phân xử công bằng như mong đợi. Việt Nam sẽ được luật lệ của WTO bảo vệ để tránh bị Mỹ và các quốc gia khác có thể lại kiện Việt Nam về các mặt hàng xuất khẩu đang mang lại nhiều lợi ích như hàng dệt may. Như vậy, Việt Nam gia nhập vào WTO đã sử dụng cơ chế hoạt động của tổ chức này nhằm bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng nói chung và của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Nhờ các chính sách tự do hoá thương mại, xoá bỏ độc quyền ngoại thương, mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu là bước đột phá tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động ngoại thương, đẩy nhanh tăng trưởng xuất khẩu trên cả nước. Sản phẩm ngành dệt may là một ví dụ, chế độ hạn ngạch đã được bãi bỏ cho các nước thành viên. Về thuế quan, các nước thành viên dành cho nhau mức thuế theo Qui chế Tối huệ quốc (khoảng 5%). Thị phần của Việt Nam trên thị trường quốc tế do đó sẽ được mở rộng. Khả năng cạnh tranh, cơ hội làm ăn của doanh nghiệp Việt Nam cũng ngày càng phát triển. Các doanh nghiệp Việt Nam trong hai năm sau hội nhập WTO đã chuyển từ chỗ thụ động chờ khách hàng tới đưa mẫu và mua hàng tại nhà máy, đã tiến sang chủ động tiếp cận thị trường thế giới như đi ra nước ngoài dự hội chợ, tham quan, chủ động thiết kế mẫu mã chào hàng, thiết lập hệ thống kho trực tiếp bán hàng vào siêu thị nước ngoài... 3.2 Khó khăn: Về cơ cấu: Những điểm yếu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, hàng loạt vấn đề đã bộc lộ rất rõ. Phần lớn hàng xuất khẩu đều ở dạng thô và sơ chế; hàng công nghiệp chưa có thương hiệu trên thị trường thế giới, tỷ lệ gia công rất cao…nhất là hàng may mặc và giày dép; tính cạnh tranh thấp vì chất lượng và mẫu mã kém, giá đầu vào cao, chi phí cho xuất khẩu rất lớn ở khâu thu gom hàng hóa và vận tải, tiêu cực phí ở các khâu vận tải và thủ tục hải quan, thuế… Trong khi đó, các mặt hang nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy móc, thiết bị, phụ tùng, xăng dầu, thép… ôtô nguyên chiếc, xe máy nguyên chiếc và dầu mỡ động thực vật. Mặc dù Việt Nam có thị trường rộng lớn nhưng nhập siêu của Việt Nam chủ yếu là các thị trường gần, chưa phải là nơi có công nghệ nguồn. Còn xuất siêu cảu Việt Nam lại chủ yếu ở thị trường xa, thị trường có công nghệ nguồn. Về giá cả : Nền kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu khả quan, nhưng vẫn tiềm ẩn những biến động khó lường về kinh tế, chính trị, tài chính tiền tệ và giá cả. Giá nhiều loại hàng hóa trên thị trường thế giới tiếp tục tăng, tác động đến thị trường trong nước, nhất là giá dầu thô đang có chiều hướng tăng cao do sự lo ngại các vấn đề lọc dầu tại Mỹ, cùng với việc đẩy mạnh nhập khẩu dầu từ Trung Quốc và việc cắt giảm nguồn dầu thô đến các nhà máy lọc dầu ở khu vực châu Á, Ảrập. Giá lương thực, thực phẩm chịu ảnh hưởng bơi việc điều chỉnh giá xăng, dầu; giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu tăng… Tỷ giá USD, giá vàng tăng cao, ảnh hưởng đến hàng nhập khẩu và hàng tiêu dùng nội địa. Về phía các doanh nghiệp : Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải tăng độ minh bạch chính sách hơn, giảm bảo hộ doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của doanh nghiệp này như các cổ đông khác. Đây là một khó khăn đối với các doanh nghiệp nhà nước. Một vài thị trường Xuất Khẩu đã dựng lên một vài rào cản kỹ thuật kiểm soát chặt chẽ hàng hóa Xuất Khẩu vào quốc gia. Việc thích nghi với tiêu chuẩn kỹ thuật đòi hỏi Doanh Nghiệp sự đầu tư bổ sung. Ngoài ra, người ta đã cho biết rằng có những khó khăn khi thâm nhập vào thị trường một số quốc gia Đông Âu. Các tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra là không rõ ràng, làm việc theo cảm tính, có dấu hiệu tham nhũng. Điều này làm phát sinh thêm thời gian và chi phí giao dịch cho các Doanh Nghiệp. Sự cạnh tranh của các Doanh Nghiệp Xuất Khẩu cùng mặt hàng của Việt Nam và cũng như của các quốc gia trong khu vực. Việc Việt Nam gia nhập WTO muộn hơn các quốc gia khác là một bất lợi lớn trong quan hệ với các khách hàng và chính quyền các quốc gia Xuất Khẩu. Các rào cản thương mại dần dỡ bỏ, thuế đánh vào các sản phẩm Nhập Khẩu giảm nên làm gia tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường nội địa. Trong thời gian qua giá nguyên vật liệu liên tục tăng. Một số loại nguyên vật liệu phục vụ sản xuất phải Nhập Khẩu, phụ thuộc sự biến động giá cả của thị trường thế giới. Do giá dầu tăng nên chi phí vận tải gia tăng, đặc biệt cước phí vận chuyển hàng Xuất Khẩu bằng đường biển tăng mạnh. Mặc dù thủ tục hành chính có liên quan đến Xuất Nhập Khẩu đã được cải thiện theo hướng đơn giản hơn nhiều, các Doanh Nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn và những chi phí khi sử dụng các dịch vụ công. 3.3 Giải pháp Bài học kinh nghiệm và các kiến nghị đối với các cơ quan chuyên môn -Nhìn chung, trong tình hình hiện tại, những biện pháp chiến lược mà các DN đề ra là tương đối phù hợp với tình hình hiện tại. Vì chưa đánh giá được hết những tác động của việc gia nhập WTO, các DN thực hiện các biện pháp trước mắt để dần nâng cao khả năng cạnh tranh, đứng vững trên thị trường và khai thác các cơ hội XK. Một số bài học kinh nghiệm thành công rút ra ở đây: -Các DN nên có những chiến lược chủ động thích ứng với những thay đổi đến từ môi trường kinh doanh xuất phát từ hội nhập quốc tế. -Tái cấu trúc DN, sắp xếp lại tổ chức -Đầu tư nhiều hơn cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. -Tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng qui mô sản xuất các sản phẩm có tiềm năng tiêu thụ trên thị trường nội địa cũng như ở nước ngoài. -Cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng, đa dạng mẫu mã nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của từng thị trường. -Củng cố và mở rộng hệ thống phân phối, phát triển dịch vụ sau bán, tăng cường công tác quảng bá sản phẩm. -Gia tăng giá trị bổ sung cho các sản phẩm XK, hoàn thiện các hoạt động kinh doanh theo hướng tạo nên chuỗi cung ứng giá trị, từ đầu vào đến đầu ra và nhấn mạnh việc tạo dựng các quan hệ vơi các nhà cung cấp, cũng như các nhà phân phối và các khách hàng truyền thống. -Đáp ứng tốt các tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật của các thị trường nước ngoài để gia tăng XK. -Liên doanh liên kết với các DN có thế mạnh trong lĩnh vực liên quan để phát huy lợi thế sẵn có của DN và tăng sức mạnh cạnh tranh.      Một vài kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan nhằm giúp các DN đối phó tốt với những tác động của việc gia nhập WTO: -Tiếp tục hoàn thiện luật pháp và tiến hành cải cách hành chính, đặc biệt trong các lĩnh vực trực tiếp ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh. -Thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các DN nhà nước để các DN có thể chủ động phát triển năng lực cạnh tranh. -Phổ biến kiến thức về WTO và các văn bản pháp lý liên quan nhằm giúp các DN tăng trưởng và tránh rủi ro. -Giúp các DN trong việc gia tăng khả năng cạnh tranh, cung cấp thông tin đầy đủ, hỗ trợ xúc tiến thương mại. -Cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý, hỗ trợ giải quyết tranh chấp thương mại đối với đối tác nước ngoài. Hướng dẫn các DN vượt qua rào cản mang tính chất kỹ thuật của thị trường XK. -Tập trung vào một số giải pháp chính gồm: tiếp tục đa dạng hóa mặt hàng thúc đẩy xuất khẩu tăng về lượng, chú trọng phát hiện các mặt hàng mới có tốc độ tăng trưởng cao và tiềm năng tăng trưởng lớn để tập trung đầu tư, động viên mọi thành phần kinh tế làm hàng xuất khẩu thông qua: hỗ trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo các nhóm chính sách thuộc hộp xanh, hộp xanh lơ và tối đa 10% đối với nhóm chính sách thuộc hộp đỏ... đầu tư cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu như bến cảng, kho tàng... đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu. Giải pháp - Phải hiểu rõ Môi trường Thương mại và Kinh doanh Quốc tế hiện nay - Đánh giá sản phẩm và sự sẵn sàng của tổ chức trong việc phát triển hoạt động thương mại quốc tế - Phát triển các chiến lược kinh doanh quốc tế cho DN của mình - Không ngừng sáng tạo, sử dụng những kỹ thuật Marketing quốc tế hiệu quả (Nhóm tự tổng hợp) Kết Luận Qua những vấn đề được trình bày liên quan đến xuất khẩu của Việt Nam như trên chúng ta có thể tin rằng trong những năm tới triển vọng tăng xuất khẩu là rất khả quan do nhiều mặt hàng có lượng xuất khẩu tăng và đặc biệt là tăng về giá như cà phê, gạo, cao su, hạt tiêu, thủy sản, đồ gỗ, sản phẩm nhựa, cáp điện,…Tuy nhiên, cũng còn không ít khó khăn có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu của chúng ta. Để đảm bảo thắng lợi mục tiêu kế hoạch xuất nhập khẩu sau khi gia nhập WTO, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ. Trong đó, tập trung vào một số giải pháp chính gồm: tiếp thục đa dạng hóa mặt hàng, thúc đẩy xuất khẩu tăng về lượng, chú trọng phát hiện các mặt hàng mới có tốc độ tăng trưởng cao và tiềm năng tăng trưởng lớn để tập trung đầu tư. Động viên mọi thành phần kinh tế làm hàng xuất khẩu thông qua: hỗ trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo các nhóm chính sách, đầu tư cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất khẩu như bến cảng, kho tang… đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hàng hình, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu. Có như thế mới làm cho tình hình xuất nhập khẩu của VN tăng trưởng tốt hơn trong thị trường WTO đầy thách thức. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế Vĩ mô – Trường ĐH Công Nghiệp TP.HCM www.tailieu.vn www.vietnam-wto.vn Kinh tế Việt Nam sau hai tháng gia nhập WTO - XãLuận.com www.xaluan.com www.cpv.org.vn www.ktdt.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 9.doc
Tài liệu liên quan