Tiểu luận Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945 – 1946

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 I. Bối cảnh quốc tế và trong nước giai đoạn 1945-1946 4 1. Bối cảnh quốc tế 4 2. Bối cảnh trong nước 5 II. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945 - 1946 7 1. Mục tiêu của chính sách đối ngoại 7 2. Lựa chọn chính sách đối ngoại 7 3. Triển khai chính sách đối ngoại 8 3.1Chính sách đối ngoại với quân Tưởng Giới Thạch 9 3.2 Chính sách đối ngoại với quân Pháp 11 3.3 Chính sách đối ngoại với các quốc gia khác 15 IV. Ý nghĩa 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, xu thế chung mà các quốc gia trên thế giới hướng tới là sự hòa bình, hợp tác và phát triển. Các quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ về kinh tế, chính trị, xã hội .Để những mối quan hệ này trở nên tốt đẹp, bền vững, một quốc gia cần có quan hệ ngoại giao tốt với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam, sau 20 năm đổi mới, đang có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định nhưng chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.” Những phương châm, đường lối đối ngoại của ta bắt đầu cùng với sự hình thành của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đến nay, những chính sách đó vẫn là những công cụ sắc bén giúp Việt Nam bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển về các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội . Tìm hiểu về chính sách đối ngoại của Việt Nam giúp ta hiểu rõ về hoạt động ngoại giao của nước nhà. Từ đó, ta rút ra được những kinh nghiệm quý báu để vận dụng, sáng tạo góp phần phát triển đất nước. Đồng thời, những kiến thức mà ta thu được qua tìm hiểu các chính sách ngoại giao, hoạt động ngoại giao cũng giúp ích cho ta trong việc ứng xử, trong công việc hàng ngày. Giai đoạn 1945 – 1946 là thời điểm nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới được hình thành. Tại thời điểm này, tình hình trong nước và quốc tế diễn biến rất phức tạp. Ngoại giao Việt Nam lúc này phải phát huy hết khả năng để giữ vững độc lập, chủ quyền và đưa đất nước đi lên. Đây là thời kì mà ngoại giao Việt Nam được thể hiện rất rõ nét với những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể. Vì những lý do trên đây, người viết chọn đề tài: chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945 – 1946. Trong phạm vi của đề tài, người viết tập trung vào những vấn đề chính sau: I. Bối cảnh quốc tế và trong nước giai đoạn 1945 – 1946 II. Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn 1945 – 1046 III. Ý nghĩa

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 17869 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945 – 1946, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 I. Bối cảnh quốc tế và trong nước giai đoạn 1945-1946 4 1. Bối cảnh quốc tế 4 2. Bối cảnh trong nước 5 II. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945 - 1946 7 Mục tiêu của chính sách đối ngoại 7 Lựa chọn chính sách đối ngoại 7 Triển khai chính sách đối ngoại 8 3.1Chính sách đối ngoại với quân Tưởng Giới Thạch 9 3.2 Chính sách đối ngoại với quân Pháp 11 3.3 Chính sách đối ngoại với các quốc gia khác 15 IV. Ý nghĩa 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, xu thế chung mà các quốc gia trên thế giới hướng tới là sự hòa bình, hợp tác và phát triển. Các quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ về kinh tế, chính trị, xã hội...Để những mối quan hệ này trở nên tốt đẹp, bền vững, một quốc gia cần có quan hệ ngoại giao tốt với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam, sau 20 năm đổi mới, đang có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định nhưng chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.” Những phương châm, đường lối đối ngoại của ta bắt đầu cùng với sự hình thành của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đến nay, những chính sách đó vẫn là những công cụ sắc bén giúp Việt Nam bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển về các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội... Tìm hiểu về chính sách đối ngoại của Việt Nam giúp ta hiểu rõ về hoạt động ngoại giao của nước nhà. Từ đó, ta rút ra được những kinh nghiệm quý báu để vận dụng, sáng tạo góp phần phát triển đất nước. Đồng thời, những kiến thức mà ta thu được qua tìm hiểu các chính sách ngoại giao, hoạt động ngoại giao cũng giúp ích cho ta trong việc ứng xử, trong công việc hàng ngày. Giai đoạn 1945 – 1946 là thời điểm nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới được hình thành. Tại thời điểm này, tình hình trong nước và quốc tế diễn biến rất phức tạp. Ngoại giao Việt Nam lúc này phải phát huy hết khả năng để giữ vững độc lập, chủ quyền và đưa đất nước đi lên. Đây là thời kì mà ngoại giao Việt Nam được thể hiện rất rõ nét với những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể. Vì những lý do trên đây, người viết chọn đề tài: chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945 – 1946. Trong phạm vi của đề tài, người viết tập trung vào những vấn đề chính sau: I. Bối cảnh quốc tế và trong nước giai đoạn 1945 – 1946 II. Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn 1945 – 1046 III. Ý nghĩa I. Bối cảnh quốc tế và trong nước giai đoạn 1945 – 1946 1. Bối cảnh quốc tế giai đoạn 1945 - 1946 Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi với nhịp độ cực kỳ nhanh chóng. Các nước lớn điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình. Ở phe Đồng Minh, quan hệ giữa các nước lớn dần chuyển từ hợp tác trong chiến tranh sang đối đầu trong hòa bình. Trật tự thế giới thay đổi, hình thành hệ thống hai cực, đứng đầu là Mỹ và Liên Xô. Nước Mỹ sau chiến tranh, đặc biệt là sau khi tổng thống Truman lên cầm quyền (T4-1945), dựa vào vị trí là quốc gia mạnh nhất về kinh tế, tài chính, quân sự, độc quyền về vũ khí nguyên tử, chủ nợ chính của phần lớn các quốc gia Âu, Á, Mỹ Latinh trong thời chiến, mưu đồ làm bá chủ thế giới. Để thực hiện mục tiêu chiến lược làm bá chủ thế giới của mình, hoạt động ngoại giao của Mỹ bắt đầu hướng vào chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới, chống những diễn biến tích cực của phong trào giải phóng thuộc địa nhằm thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, Liên xô sau chiến tranh, trở thành cường quốc hàng đầu Châu Âu. Tuy còn thua kém Mỹ về tiềm lực kinh tế và vũ khí hạt nhân nhưng Liên Xô vẫn đóng một vai trò quyết định cùng Mỹ giải quyết những vấn đề lớn về hòa bình, an ninh trong khu vực và trên thế giới. Tại thời điểm này, các nước lớn trong phe Đồng Minh cũng ra sức củng cố lại hệ thống thuộc địa. Anh và Pháp là hai cường quốc thắng trận nhưng trong thế suy yếu, chính trị không ổn định nên cần phải nhanh chóng khôi phục lại nền kinh tế, ổn định chính trị và duy trì vai trò cường quốc sau chiến tranh. Để làm được như vậy, Anh và Pháp phải bảo vệ được hệ thống thuộc địa và khu vực ảnh hưởng của mình. Trong khi đó ở Châu Á và Châu Phi, phong trào đấu tranh chống chiến tranh xâm lược và sự thống trị, đô hộ của thực dân phương Tây trở nên vô cùng mạnh mẽ. Các cuộc đấu tranh ở các nước diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng đều có chung một xu hướng là hướng tới lật độ ách thống trị bên ngoài, giải phóng đất nước vốn và thuộc địa của đế quốc, thực dân phương Tây. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước này dần lan sang Châu Âu và lan rộng toàn thế giới. Như vậy, ta thấy được bối cảnh quốc tế trong những năm 1945 – 1946 có nhiều diễn biến phức tạp tác động sâu sắc và rộng lớn tới nhiều mỗi quan hệ quốc tế và có tác động trực tiếp đến tình hình ở Việt Nam. 2. Bối cảnh trong nước giai đoạn 1945 – 1946 Vào thời điểm đỉnh cao của cuộc chiến tranh thế giới, năm 1942, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra thời cơ và tiên đoán thời điểm cách mạng nước ta thành công “1945 – Việt Nam độc lập”1,2: Hồ Chí Minh: Toàn tập – (2000) – Nxb. Chính trị quốc gia - t.3 - tr. 230, 505 - 506 . Người kêu gọi đồng bào cả nước: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh!” Tới tháng 8 năm 1945, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Đông Dương do lãnh tụ Hồ Chí Minh đứng đầu – cuộc cách mạng nổ ra và giành được thắng lợi. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn thể nhân dân Việt Nam. Những ngày đầu đất nước thành lập, chính quyền nhân dân phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Đời sống kinh tế - xã hội đang rối loạn, suy sụp sau chiến tranh. Nạn khan hiếm lương thực triền miên trong thời chiến đã đưa lại hậu quả trong những năm 1945, có hơn hai triệu người chết đói; mọi hoạt động sản xuất, kinh tế, tài chính, thương mại đình đốn. Hệ thống ngân hàng Đông Dương vẫn trong tay tư bản Pháp. Trong khi đó, quân Tưởng cho lưu hành đồng tiền mất giá của Trung Quốc, tự ý quy định tỷ giá tiền quan kim và tiền Đông Dương, làm lũng đoạn thị trường ở miền Bắc; chính sách ngu dân của thực dân Pháp làm cho 95% dân ta mù chữ. Một thách thức nữa mà nước ta gặp phải - đó là cùng một lúc phải đối phó với nhiều thế lực quân sự đối địch của các nước lớn đang có mặt tại nước ta. Ở phía Bắc, gần 2000 quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra, mang theo các nhóm người Việt sống lưu vong ở Trung Quốc. Những nhóm người Việt này thuộc các tổ chức Việt Cách, Việt Quốc do chính quyền Tưởng thu nạp và nuôi dưỡng từ lâu. Phía Nam Việt Nam lúc này cũng có khoảng 26 nghìn quân Anh - Ấn vào giải giáp quân đội Nhật. Tháng 10/1945, Anh đã ký với Pháp hiệp định chính thức công nhận quyền dân sự của Pháp tại Đông Dương. Ngày 1/1/1946, Anh ký hiệp định trao quyền cho Pháp giải giáp quân đội Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Đổi lại, Pháp nhân nhượng cho Anh một số quyền lợi ở Xyri và Libăng. Thêm vào đó, trong khoảng thời gian Nhật Bản chiếm đóng Đông Dương, Pháp có khoảng 50 nghìn lính gồm tù binh đang bị Nhật giam giữ và tân binh nằm rải rác ở các miền phụ cận Đông Dương. Sau chiến tranh, 1500 lính Pháp bị Nhật giam giữ ở miền Nam Việt Nam trong cuộc đảo chính ngày 9/3/1945 được thả và vũ trang trở lại. Quân viễn chinh mới của Pháp được gấp rút đưa vào miền Nam. Ngày 23/9/1945, Pháp mở cuộc xâm lược Việt Nam lần 2. Ngoài ra, còn khoảng 60 nghìn quân Nhật ở Việt Nam chờ giải giáp lúc này. Như vậy, bốn thế lực quân sự lớn đang chiếm đóng nước ta ( là Nhật, Anh, Pháp và lực lượng Tưởng Giới Thạch) và bốn trong năm nước lớn là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đang dính líu vào việc giải giáp cho Đông Dương với mục tiêu duy nhất là tìm cách xóa chính quyền cách mạng, lập lại trật tự của thực dân phương Tây tại đây. Nhìn tổng thể về kinh tế, tài chính, quân sự, tương quan lực lượng giữa ta và các thế lực thù địch từ bên ngoài vào có sự chênh lệch rất lớn. Đất nước ta lại rơi vào tình thế “châu chấu đá xe”. Lúc này, chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cùng Thường vụ Trung ương Đảng đã sớm thấy khả năng dùng ngoại giao như vũ khí sắc bén tham gia năng động vào quá trình tự bảo vệ thành quả cách mạng, chia rẽ, cô lập kẻ thù. Ngoại giao Việt Nam từ những ngày đầu đã chủ động phát huy thế tiến công chống lại âm mưu, cạm bẫy của kẻ thù, thực thi những nhiệm vụ to lớn tưởng chừng như khó có thể thực hiện được. II. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945 – 1945 1. Mục tiêu của chính sách đối ngoại Trước tình hình trong nước và quốc tế diễn biến rất phức tạp, nhà nước ta đã sớm ban hành chính sách ngoại giao của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Một tháng sau khi tuyên bố nước Việt Nam giành được độc lập, ngày 3/10/1945, chính sách ngoại giao của nước ta được công bố dưới dạng một văn kiện nhà nước: “Thông cáo về chính sách ngoại giao của nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam”, được đăng trên báo Cứu quốc, ngày 3/10/1045. Mục tiêu của chính sách là: bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng Tháng 8 mà trước hết là duy trì, củng cố chính quyền nhân dân vừa thành lập trên cả nước. Tiếp đó, đưa đất nước Việt Nam đến độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn; “Nước Việt Nam còn đương ở giai đoạn đấu tranh kịch liệt, tất chính sách ngoại giao phải có mục đích cốt yếu là giúp cho sự đấu tranh thắng lợi bằng mọi phương pháp êm dịu hay cương quyết” Nguyễn Phúc Luân (2001), Ngoại giao Việt Nam vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945-1975), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, trang 39. . Đồng thời, chính sách ngoại giao của ta cũng chỉ rõ ta sẽ cùng các nước trong Đồng minh xây đắp lại nền hòa bình thế giới. 2. Lựa chọn chính sách đối ngoại Bản “Thông cáo về chính sách ngoại giao của nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam” (3/10/1945) đã đề ra chính sách đối ngoại rất cụ thể, đúng đắn, phù hợp với từng đối tượng Với các nước Đồng minh, Việt Nam mong muốn duy trì hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ, để xây dựng nền hòa bình thế giới lâu dài Với Pháp, chính sách của ta là bảo vệ tính mạng và tài sản kiều dân Pháp đúng theo luật quốc tế, miễn là họ yên ổn sinh sống và tôn trọng luật pháp, chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam. Ta mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị dựa trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và các quyền của nhau đối với nước Pháp. Còn đối với bọn thực dân Pháp có mưu đồ chống phá, xâm lược nước ta thì ta kiên quyết đấu tranh. Với các nước láng giềng, đặc biệt đối với nhân dân Khơme, Lào, Việt Nam đặt quan hệ dựa trên nguyên tắc dân tộc tự quyết. Đã từng chịu ách đô hộ của Pháp, nhân dân ba nước phải hợp sức lại để cởi bỏ ách đô hộ đó, giúp đỡ lẫn nhau giành được độc lập và duy trì nền độc lập của mình. Hơn nữa, ba nước có quan hệ kinh tế chặt chẽ, sẽ giúp đỡ nhau trong công cuộc kiến thiết, cùng nhau tiến lên trên con đường tiến bộ. Với các tiểu dân tộc trên toàn cầu, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng thân thiện, hơp tác chặt chẽ trên nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ lânhx nhau trong sự nghiệp xây đắp và giữ vững nền độc lập. (Nguồn: Bộ ngoại giao: Những văn bản chính của Hội nghị Giơneva (1995), Hà Nội, trang 25 – 26) Trong bối cảnh thế giới và trong nước diễn biến phức tạp. cùng một lúc, ta còn phải giải quyết mối quan hệ với nhiều lực lượng khác nữa. Do đó, ta cần có chính sách linh hoạt, mềm dẻo, đề ra những nhiệm vụ ưu tiên. Kẻ thù chính lúc này của ta là thực dân Pháp xâm lược. Ta cần tập trung lực lượng chống kẻ thù chính, hòa hoãn các lực lượng chống đối khác để rảnh tay đánh Pháp. Đảng ta chủ chương: “phải đặt riêng bọn thực dân Pháp xâm lược ra mà đánh , đừng bỏ cả Pháp, Anh, Ấn (lính Ấn Độ trong hàng ngũ quân Anh) vào một bị mà đánh và đừng coi họ là kẻ thù ngang nhau, đừng công kích nước Pháp, chỉ công kích bọn thực dân Pháp.” Vũ Đoàn Kết (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, trang 24 Trên cơ sở này, thường vụ Trung ương Đảng, Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến quyết định chiến lược “Hòa để tiến”. Bộ chỉ huy cách mạng lúc bấy giờ đã khái quát đúng các khả năng khác nhau để giữ vững thành quả cách mạng mà không nhất thiết phải đi theo con đường độc đạo. Ta không chủ chương “đánh đến cùng” bởi chủ chương này sẽ làm cho ta bị cô lập và tiêu hao lực lượng. Ta sử dụng các biện pháp “hòa để tiến”, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương, khéo léo, linh hoạt biến các Hiệp định tay đổi (Anh – Pháp và Hoa – Pháp) liên quan đến quyền lợi của nước ta thành thỏa thuận tay ba với sự tham gia của ta, đồng thời tạo thế hòa hoãn với một bên để tranh thủ thời gian củng cố nội lực, tăng cường sức mạnh để đối phó với những kẻ thù khác. Như vậy, ngoại giao của ta thời kì này là ngoại giao đa phương, mềm dẻo, linh hoạt, khi nhượng bộ, khi cương quyết và luôn khẳng định đường lối độc lập tự chủ của nước nhà 3. Triển khai chính sách đối ngoại 3.1 Chính sách đối ngoại với quân Tưởng Giới Thạch Chính quyền Tưởng từ lâu đã có những toan tính riêng của mình về Đông Dương. Ngay khi Paris thất thủ, và quân đội Nhật Bản tiến vào chiếm đóng Bắc Đông Dương tháng 9 năm 1940, chính phủ của Tưởng bắt đầu chuẩn bị cho kế hoạch “Hoa nhập quân Việt” và chủ chương “Diệt cộng cầm Hồ”. Tưởng Giới Thạch đã chuẩn bị một lực lượng tay sai người Việt để khi đưa quân vào Việt Nam sẽ lập chính quyền thân Tưởng và mục tiêu là lật đổ Đảng cộng sản, phá tan Việt Minh. Tuy nhiên, Chính quyền cách mạng của ta nêu cao khẩu hiệu “Hoa – Việt thân thiện” và thực hiện hòa hoãn với các sách lược mềm mỏng và bình tĩnh mà Hồ Chí Minh còn gọi là: “chính sách Câu Tiễn” Hồ Chí Minh nói chuyện Hội nghị ngoại giao 1964. Hồ sơ lưu trữ của Bộ ngoại giao Việt Nam . Mục đích của những chính sách này là lợi dụng lực lượng của Tưởng có mặt ở Việt Nam như một lực lượng đối trọng với lực lượng của thực dân Pháp, kiềm chế chủ trương của chính phủ Paris sớm khôi phục kiểm soát ở Đông Dương; có thời gian ổn định tình hình trong nước và rảnh tay đối phó với Pháp. Trong các tuyên bố công khai của Chính phủ Việt Nam về quan hệ Việt – Hoa, cũng như các thư từ và điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Tưởng Giới Thạch, ta luôn khẳng định tình hữu nghị, quan hệ gắn bó lâu năm giữa hai nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường có những cuộc thăm hỏi các tướng lĩnh của Tưởng ở Việt Nam như Lư Hán, Tiêu Văn...một mặt là để đặt quan hệ ngoại giao thân thiết, mặt khác là để tìm hiểu các tướng lĩnh, lợi dụng mặt hám lời vật chất để hạn chế sự chống phá; tìm hiểu những mâu thuẫn nội bộ của chúng và các mâu thuẫn với bên ngoài. Từ đó, lợi dụng những mâu thuẫn để thực hiện những việc có ích cho ta. Ví dụ như việc lãnh tụ Hồ Chí Minh tranh thủ tướng Lư Hán của Tưởng – người thường có thái độ thành kiến với Pháp ở Đông Dương. Hồ chủ tịch thường trao đổi với Lư Hán về tình hình Việt Nam, giới thiệu chủ trường “Hoa – Việt thân thiện”, phê phán các hành động xâm lược của Pháp. Qua những lần trao đổi như vậy, Lư Hán rất ngạc nhiên và khâm phục sự hiểu biết sâu rộng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Lư hán có những hành động độc lập với chính phủ Trung Ương như: không công nhận A-lếch-xăng-đri là đại diện cho Đờ Gôn ở miền Bắc Việt Nam, không cho phép Pháp lập cơ quan hành chính dân sự, không ủng hộ quá mực bọn Việt quốc, Việt cách... Vũ Đoàn Kết (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, trang 56 Thêm vào đó, Hồ chủ tịch còn lợi dụng sự khác biệt về quyền lợi, biện pháp chống đối cách mạng nước ta của các tướng lĩnh Tưởng, từ đó gây ảnh hưởng đến cách thức hành động của chúng. Ví dụ như mâu thuẫn nội bộ của Tưởng được thể hiện qua 14 nguyên tắc chỉ đạo hoạt động của quân đội Trung Hoa tại Đông Dương, trong đó chủ trương giữ liên hệ chặt chẽ với Mỹ và Pháp, giữ thái độ trung lập trong quan hệ Pháp – Việt. Tiêu Văn – 1 tướng của Tưởng nhận xét rằng với 14 nguyên tắc này, nhiều người Pháp cho là đã làm sống lại những điều mà họ đã tuyệt vọng. Còn tướng Lư Hán thì cho rằng các nguyên tắc của chính phủ không phù hợp với tình hình ở Việt Nam bấy giờ. Như vậy là không thống nhất được phương án hành động. Điều này rất có lợi cho ta. Tình hình trong nước có nhiều biến chuyển, Đảng ta rút vào hoạt động bí mật dưới hình thức tự giải tán ngày 11 tháng 10 năm 1945. Để hạn chế các hoạt động phá hoại của các nhóm thân Tưởng, chủ tịch Hồ Chí Minh đại diện cho Việt Minh thực hiện nhiều cuộc tiếp xúc, họp liên tịch với những kẻ đại diện cho Việt Quốc, Việt Cách để thống nhất những nguyên tắc chung và ký kết những thỏa thuận buộc bọn Việt Quốc, Việt Cách phải tỏ sự nhất trí đối với các nguyên tắc đoàn kết, hợp tác, vì lợi ích quốc gia, ủng hộ kháng chiến ở Nam Bộ, chống thực dân Pháp xâm lược, ủng hộ các chủ trương của chính phủ...Ta dành cho bọn Việt Cách, Việt Quốc các chức vụ phó chủ tịch nước, bộ trưởng ngoại giao, bộ trưởng kinh tế và 70 ghế trong quốc hội không qua tổng tuyển cử. Sách lược khéo léo và đúng đắn này đã xoa dịu sự chống đối của các tướng lĩnh Tưởng và các nhóm thân Tưởng, góp phần ngăn chặn âm mưu phá hoại và lật đổ của chúng. Tuy vậy nhân nhượng những ta vẫn có những nguyên tắc hoạt động rõ ràng, luôn khẳng định đường lối độc lập tự chủ. Đảng ta cũng đồng thời thực hiện biểu dương lực lượng chính trị lớn mạnh của quần chúng nhân dân ủng hộ cách mạng để hậu thuẫn cho hoạt động ngoại giao. Điển hình là cuộc diễu hành của 30 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội. Cuộc diễu hành về danh nghĩa để hoan nghênh phái bộ Đồng minh nhưng thực chất là để biểu dương lực lượng của nhân dân ủng hộ chính quyền cách mạng và Hồ chủ tịch. Như vậy, ngoại giao của Việt Nam với Tưởng trong giai đoạn này dùng ba biện pháp chính: Biểu dương lực lượng, Lợi dụng mâu thuẫn tránh xung đột; Nhân nhượng có nguyên tắc (Vũ Đoàn Kết). Nhờ những biện pháp, chính sách của chính phủ Việt Nam hòa hoãn, kiềm chế lực lượng chống phá của Tưởng, miền Bắc nước ta một thời kỳ tương đối ổn định để thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc, xây dựng củng cố chính quyền nhân dân; làm chậm chễ việc quân đội viễn chinh Pháp ra Bắc và tạo điều kiện để chi viện cho kháng chiến ở đồng bào miền Nam. 3.2 Chính sách đối ngoại với Pháp Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Pháp lại mưu đồ xâm lược Việt Nam lần nữa. Chúng đưa quân đánh chiếm miền Nam Việt Nam trước, sau đó ý định mở rộng chiến tranh ra Bắc. Tuy nhiên, quân đội Pháp thất bại trong kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh ở miền Nam, nên mặc dù đã thảo kế hoạch quân sự mở rộng chiến tranh ra Bắc, song Bộ chỉ huy quân Pháp thấy lo ngại. Kế hoạch của chúng khó có thể thực hiện. Vì thực dân Pháp lúc này không những phải đối mặt với khối đại đoàn kết dân tộc của ta mà còn phải đối mặt với hơn 20 vạn quân Tưởng. Pháp lo sợ sự “xích gần với chính quyền Hà Nội” của lực lượng Tưởng Giới Thạch ở Đông Dương sau một số thỏa thuận giữa ta với Tưởng. Trước tình hình đó, Pháp đưa ra giải pháp Vũ Đoàn Kết (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, trang 58 : một mặt thương lượng với chính phủ Trùng Khánh để đạt được sự công nhận của Tưởng về chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và cho quân Pháp thay thế quân Tưởng ở miền Bắc Việt Nam. Mặt khác, đàm phán với chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa để tránh chiến tranh lâu dài. Về phía Tưởng, quân Tưởng đang gặp khá nhiều khó khăn trong trong chống phá phong trào cách mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Tưởng Giới Thạch muốn rút quân về để chiếm Mãn Châu nhưng vẫn muốn giữ được nhiều quyền lợi ở Đông Dương. Do đó, Tưởng cũng muốn thương lượng với Pháp về vấn đề đưa quân ra Bắc của Pháp. Hơn nữa, Mỹ cũng đồng tình với Tưởng trong việc thương lượng với Pháp vì Mỹ đang ra sức tập hợp lực lượng, trong đó có Pháp, để chống Liên Xô. Ngày 28/2/1946, Pháp và Tưởng đã ký hiệp ước Hoa – Pháp tại Trùng Khánh. Theo hiệp ước, Pháp trả cho Tưởng các tô giới Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Châu, Thiên Tân, đất mướn Quảng Châu Loan, bán lại đường sắt Vân Nam, mở cửa Hải Phòng thành cảng tự do, miễn thuế cho hàng hóa Tưởng vận chuyển qua Bắc và lót tay cho Tưởng một khoản tiền lớn. Bù lại, Tưởng đồng ý cho quân Pháp thay Tưởng ở Bắc Đông Dương Vũ Đoàn Kết (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, trang 59 . Hiệp ước Hoa – Pháp là một bất lợi cho ta. Trước đó ta lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp và Tưởng để tránh đối đầu với hai thế lực lớn này, còn nay chúng lại bắt tay thỏa hiệp với nhau. Tình thế này, buộc ta phải đưa ra được những chính sách đối ngoại mới, linh hoạt, phù hợp để đối phó với Tưởng và Pháp. Trước tiên, ta vẫn chủ trương tiếp tục hòa hoãn với thế lực Tưởng ở Đông Dương nhằm dùng Tưởng để cản trở việc thực hiện ý đồ của Pháp và trong cả việc thực thi thỏa thuận Hoa – Pháp về Đông Dương, duy trì được thế hòa hoãn với cả hai phía, tạo thế vững chắc trong cuộc thương lượng với Pháp. Chính sách của ta dần chuyển thành nhân nhượng, hòa hoãn với Pháp tuy nhiên vẫn giữ vững nền độc lập chính trị. Mục tiêu của hòa hoãn với Pháp để đẩy Tưởng về nước, biến hiệp định tay đôi thành thỏa thuận tay ba. Thỏa hiệp Việt – Pháp được hoàn chỉnh từng bước qua các cuộc đấu tranh trong đàm phán giữa hai bên. Cuối cùng, ngày 6/3/1946, hiệp định sợ bộ Việt – Pháp được ký kết với sự chứng kiến của phái bộ Mỹ, lãnh sự Anh và lực lượng của Tưởng Giới Thạch ở Đông Dương. Hiệp định gôm những nội dung cơ bản sau: Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng và là một thành viên trong liên bang Đông Dương, nằm trong khối liên hiệp Pháp. Về hợp nhất 3 kỳ, chính phủ Pháp cam kết thừa nhận những quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết qua cuộc trưng cầu ý dân. Đổi lại, chính phủ Việt Nam chấp thuận để 15 nghìn quân Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật và đưa chúng về nước. Số quân Pháp kể trên sẽ được rút hết trong vòng 5 năm. Việc ký Hiệp định sơ bộ là một biện pháp ngoại giao sáng suốt, lợi dụng mâu thuẫn Pháp – Tưởng, nhất là khi chúng đã thỏa hiệp. Hiệp định sơ bộ phản ánh việc ta vận dụng sách lược phân hóa kẻ thù, sử dụng điều khoản thay quân của Hiệp định Hoa – Pháp tạo thời cơ đẩy quân Tưởng và bọn tay sai của chúng ra khỏi đất nước, tránh được nguy cơ phải đối phó với hai thế lực thù địch cùng một lúc. Đồng thời, Hiệp định tạo một không gian hòa hoãn trong cả nước để có thể biến thời gian thành lực lượng vật chất và cùng với kết quả đem lại trên thực tế ( Tưởng rút quân về nước, Pháp phải dãn quân ra) đã góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng toàn cục có lợi hơn cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong cả nước. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên mà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ký kết với nước ngoài. Các thỏa thuận ngày 6/3 đã mở rộng khuôn khổ tiếp xúc và thương lượng Việt – Pháp, tạo cơ sở pháp lí cho việc đấu tranh ngoại giao ở Việt Nam. Ngay sau khi Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 được ký kết, nội bộ quân Pháp có sự thay đổi. Mâu thuẫn giữa phái chủ chiến đứng đầu là Đắc – giăng – li- ơ và phe chủ hòa đứng đầu là Lơ – Cléc và Xanh – tơ – ni trong quân đội Pháp lên cao. Đắc – giăng – li – ơ chỉ trích Lơ – Cléc “chỉ thích điều đình, không muốn đánh nhau. Trong khi đó, cố vấn chính trị Cao ủy Pháp lại nhận xét: về phía Pháp Hiệp định được thảo ra một cách vội vã. Phái chủ chiến dần thắng thế. Các lực lượng thực dân hiếu chiến phản động ở Đông Dương tìm cách hạ thấp ý nghĩa của Hiệp định sơ bộ, trì hoãn việc thi hành Hiệp định, tiếp tục tiến hành chiến tranh Nam Bộ, Nam Trung Kỳ, lập ra “chính phủ Nam Kỳ” và “nước cộng hòa Nam Kỳ”. Theo yêu cầu của phía Pháp, ngày 24/3/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp Đắc – giăng – li – ơ ở Vinh Bắc Bộ. Tại cuộc gặp hai bên đã thỏa thuận những bước tiếp cuộc đàm phán Việt Pháp để giải quyết những vấn đề còn lại của Hiệp định sơ bộ. Hai bên đồng ý triệu tập cuộc họp trù bị Đà Lạt như Pháp đề nghị nhưng ta đòi phải có sự tham gia của đại biểu Chính phủ từ Pháp sang; đồng ý triệu tập sớm cuộc đàm phán chính thức giữa hai bên ở Paris ngay sau khi kết thúc cuộc họp trù bị; phía Pháp mời đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp vào tháng 5 năm 1946. Tại cuộc hợp trù bị ở Đà Lạt, do lập trường ngoan cố của Pháp, cuộc họp trù bị Việt – Pháp sau 22 ngày đấu tranh gay gắt xung quanh 5 vấn đề: đình chỉ chiến sự và tạo không khí chính trị thuận lợi; vấn đề liên hiệp Pháp; vấn đề Liên bang Đông Dương; vấn đề trưng cầu dân ý về thống nhất 3 kỳ đã không đem lại kết quả cụ thể nào. Tuy nhiên hai bên đã hiểu lập trường của nhau, giúp ta chuẩn bị tốt hơn cho cuộc họp chính thức ở Paris. Cuộc đàm phán chính thức Việt – Pháp ở Phôngtennơblô tiến hành từ ngày 6/7/1946 đến 1/8/1946, ta rất có thiện chí nhưng bọn thực dân phản động Pháp luôn thực hiện âm mưu phá vỡ hoàn toàn cuộc đàm phán chính thức, đi đến làm vô hiệu hóa Hiệp đinh sơ bộ 6/3/1946. Chúng gần như đã thực hiện được âm mưu của mình. Ngày 13/9/1946, đoàn đàm phán của ta lên đường về nước. Tuy nhiên chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định ở lại thêm vài ngày nữa để tiếp tục thảo luận với chính phủ Pháp nhằm cứu vãn tình thế căng thẳng của quan hệ Pháp – Việt, kéo dài thêm thời gian hòa hoãn ở Đông Dương rất cần cho ta lúc này. Kết quả là tạm ước 14/9/1946 được ký kết giữa Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Mutê đại diện của chính phủ Pháp. Tạm ước này đã ghi nhận tạm thời những cam kết của Việt Nam và Pháp trên cơ sở Hiệp định sơ bộ, nhằm giải quyết những vấn đề bức thiết trong mối quan hệ hai nước, khẳng định cần phải ngừng ngay mọi xung đột. Phía Pháp sẽ đảm bảo thực hiện các quyền tự do, dân chủ ở Nam Bộ, thả những người Việt Nam bị Pháp bắt và phía Việt Nam nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế và văn hóa ở Việt Nam Nguyễn Phúc Luân (2001), Ngoại giao Việt Nam vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945-1975), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, trang 74 . Bọn thực dân Pháp phản động cũng đòi Chủ tịch Hồ Chí Minh thỏa thuận rút lực lượng vũ trang ở Nam Bộ ra miền Bắc nhưng Người kiên quyết không chấp nhận. Như vậy, bằng việc nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa và kiên trì quan điểm độc lập trong Liên hiệp Pháp, ta đạt được tiếp tục ngừng bắn, cam kết quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Nam bộ. Do đó, giúp ta có thêm thời gian để chuẩn bị lực lượng quân sự, kinh tế...đối phó với quân địch. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946 đã thể hiện được chính sách đối ngoại đa phương, mềm dẻo và linh hoạt của Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ những chính sách này, ta không những loại bỏ được bớt kẻ thù (Tưởng Giới Thạch) mà còn có thêm thời gian để chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến. 3.3 Chính sách đối ngoại với các quốc gia khác Như đã khẳng địng trong Thông cáo 3/10/1945, với các nước lớn, các nước trong Đồng minh chống phát xít thì Việt Nam hết sức thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng và tương ái. Mỹ là một nước lớn trong phe Đồng minh chống phát xít. Thái độ của chính phủ Mỹ sẽ ảnh hưởng đến việc Pháp thiết lập chế độ thuộc địa ở Đông Dương, ảnh hưởng tới sự bành trướng của quân đội Tưởng. Từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 2 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tám lần gửi thông điệp, thư, điện và công hàm cho Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ, giới thiệu các phát triển mới trong tình hình của Việt Nam; tố cáo Pháp trở lại xâm lược Việt Nam và vi phạm các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến chương Liên Hợp Quốc; đề nghị Hoa Kỳ công nhận nền độc lập của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cũng thường xuyên giữ quan hệ với các đại diện Mỹ có mặt ở Việt Nam, như Phái bộ Mỹ tại Đông Dương, văn phòng của Cơ quan Tình báo chiến lược. Mục đích của ta là nhằm tranh thủ những người Mỹ có mặt ở Hà Nội để hỗ trợ cho việc kiềm chế tướng lĩnh Tưởng và thế lực của Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có những cuộc tiếp xúc với quan chức ngoại giao của Mỹ. Tháng 9 năm 1946, khi ở Pháp, chủ tịch đến thăm Đại sứ quán Mỹ ở Paris, gặp Đại sứ Mỹ và sau đó tiếp cán bộ Đại sứ Mỹ đến chào Người. Các giao dịch của những người đứng đầu Việt Nam đã có tác động nhất định tới thái độ của Mỹ trong vấn đề Đông Dương. Tài liệu của Lầu Năm góc đã nhận xét về vấn đề này: “Trong khi không có hành động gì đáp ứng yêu cầu mà Hồ Chí Minh nêu lên, Mỹ cũng không sẵn sàng giúp đỡ Pháp” Các tài liệu của Lầu Năm góc, t I, trang 17 - 18 . Như vậy, chính sách ngoại giao của ta lúc này là ngoại giao nhân dân, chủ động lập hội Việt – Mỹ thân hữu nhằm tranh thủ Mỹ trung lập, tạo điều kiện để hòa hoãn, kiềm chế lực lượng của Tưởng cũng như Pháp ở Việt Nam. Đối với các nước khác trên thế giới, ta chủ trương quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài. Đối với nhân dân Pháp, Việt Nam không thù hằn gì, vẫn luôn tỏ thái độ thân thiện, tỏ ý muốn hợp tác. Ta chỉ chống lại bọn thực dân Pháp phản động, có ý đồ muốn xâm lược nước ta. III. Ý nghĩa Hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong thời kỳ 1945 – 1946 rất linh hoạt, khôn khéo. Dấu ấn đậm nét của thắng lợi ngoại giao thời kỳ này là đối sách và những ứng xử tài tình cùng một lúc với nhiều nước lớn, đối phó với bốn đạo quân nước ngoài với trên 30 vạn binh lính có mặt ở Việt Nam. Mối quan hệ giữa các nước lớn luôn có nhiều xung đột và mâu thuẫn về lợi ích, nhưng khi cần họ sẵn sàng thỏa hiệp, mua bán với nhau bất chấp quyền lợi của Nhân dân Việt Nam, tìm cách áp đặt đối với Việt Nam và Đông Dương. Nhưng ta đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước với nhau và có sách lược phù hợp với từng đối tượng: giữ Mỹ đứng trung lập, kiên nhẫn tránh mọi xung đột của Tưởng, kiên quyết kháng chiến chống Pháp xâm lược ở miền Nam, đồng thời tìm giải pháp hòa bình khi Tưởng và Pháp thỏa hiệp cho phép quân đội Pháp ra miền Bắc. Đánh giá thời kỳ này, cố tổng bí thư Lê Duẩn cho rằng: “lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì hòa hoãn với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng, dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng ta đã biết chắc là không thể nào tránh khỏi. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào trong lịch sử nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninít về lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc” Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nhà xuất bản : Sự thật, trang 31. Như vậy, thực tế đã chứng minh rằng, thời kỳ 1945-1946 đó mãi mãi đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc như những năm tháng không thể nào quên. Nền ngoại giao Việt Nam non trẻ do Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã góp phần xuất sắc bảo vệ chủ quyền và nền độc lập non trẻ trong khi thế lực của ta còn yếu, đồng thời tạo điều kiện tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để phát triển đất nước; nâng cao vị thế, mở rộng ảnh hưởng trên trường quốc tế. Tựu chung lại, chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ này là ngoại giao đa phương, linh hoạt dựa trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nhân nhượng có nguyên tắc và lợi dụng, tranh thủ mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Những chính sách ngoại giao này hình thành từ những ngày đầu nước Việt Nam được thành lập, đã đặt nền móng cho ngoại giao Việt Nam cách mạng và hiện đại. Những chính sách này xuyên suốt quá trình phát triển của ngoại giao Việt Nam cũng như quá trình phát triển đất nước và đã để lại khá nhiều thành tựu. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những chính sách đối ngoại trên của Việt Nam vẫn phát huy tác dụng, giúp Việt Nam một lần nữa thoát ra khỏi tình thế nguy hiểm, giữ vững được nền độc lập. Đối với đế quốc Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam là mũi nhọn của chiến lược toàn cầu của Mỹ trong những năm 60. Quyết tâm chiến lược của Mỹ ở Việt Nam thể hiện qua sự dính líu của 5 đời tổng thống: Ai-xen-hao, Ke-nơ-đi, Nich-xơn và Pho vào chiến tranh Việt Nam. Đối với Mỹ, sự sụp đổ ở Việt Nam sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng đối với toàn bộ hệ thống thuộc địa của Mỹ trên toàn thế giới. Chính vì lẽ đó, Mỹ tập trung ở mức cao nhất lực lượng quân sự và tài chính trong thời bình với quyết tâm đè bẹp cuộc đấu tranh của nhân dân ta và từ đó uy hiếp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Về phía ta, ta một lần nữa vận dụng những chính sách ngoại giao linh hoạt, khôn khéo, phù hợp với từng thời điểm cụ thể để giành được thắng lợi. Sách lược đấu tranh và tranh thủ lực lượng trung gian của ta đã thu hẹp xu hướng thân Mỹ, sợ Mỹ và mơ hồ về cuộc chiến tranh, góp phần tạo chuyển biến lực lượng có lợi cho ta, thể hiện trước hết ở các diễn đàn quốc tế như: Liên Hợp Quốc, Phong trào không liên kết và các diễn đàn khu vực khác. Đồng thời, ta mở rộng quan hệ với nên ngoài, tạo được một hậu phương quốc tế vững chắc, hậu thuẫn cho cuộc chiến đấu lâu dài của “dân tộc nhỏ chiến đấu với đế quốc to”, đồng thời góp phần làm rối loạn hậu phương của thế lực xâm lược. Các phong trào đấu tranh, các cuộc biểu tình của nhân dân các nước phản đối chiến tranh ở Việt Nam lên cao, tác động lớn đến diễn biến quốc tế. Phong trào phản chiến ở Mỹ lên tới đỉnh điểm gây những hệ quả bất lợi cho nhà Trắng và Lầu Năm góc trong việc điều hành chính sách tăng cường, mở rộng chiến tranh. Ta cũng rất sáng suốt nhìn ra âm mưu chia rẽ Việt Nam với Trung Quốc và chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm cô lập Việt Nam. Bằng những chính sách kiên định, đoàn kết với Liên Xô, với những sách lược có lý, có tình, ngoại giao của ta đã góp phần duy trì, củng cố quan hệ đoàn kết, hợp tác với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, tạo hậu phương quốc tế vững chắc có lợi cho ta. Đảng và nhà nước ta bên cạnh thái độ cương quyết giữ độc lập, sẵn sàng đấu tranh vũ trang bảo vệ độc lập, còn rất coi trọng mặt trận ngoại giao, nhất là sử dụng mọi biện pháp chính trị, đối ngoại để khai thác đúng nhược điểm cơ bản trong chiến lược chiến tranh của đối phương. Tiến công ngoại giao từ tháng 1 năm 1967 buộc địch xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán tay đôi trong khi ta chưa tung ra quả đấm chiến lược về quân sự là điều khôn ngoan và sáng tạo của Việt Nam. Thế trận đánh – đàm đã buộc đối phương bộc lộ chỗ yếu nhất trong chiến tranh, mặt khác tạo thời cơ để ta phát huy sức mạnh chính nghĩa; phối hợp chính trị - quân sự - ngoại giao và sức mạnh cộng hưởng của dân tộc và thời đại Vũ Đoàn Kết (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, trang 424 . Sau gần năm năm đấu tranh quyết liệt trên bàn đàm phán, Hội nghị Paris đã ghi nhận trí tuệ lớn của Việt Nam. Điểm nổi bật của Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nếu khi bắt đầu cuộc chiến, Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn muốn xóa hiệp định Giơ – ne – vơ thì nay họ lại phải xác nhận tôn trọng quyền độc lập, tự chủ, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã thừa nhận ở Hiệp định Giơ – ne – vơ. Như vậy,chính sách ngoại giao đa phương, linh hoạt, biết tận dụng điểm yếu của kẻ thù cùng với sự đoàn kết dân tộc đã giúp Việt Nam giành được thắng lợi, buộc Mỹ và các nước phải công nhận độc lập toàn vẹn lãnh thổ của ta. Thắng lợi ngoại giao cực kỳ quan trọng này đã tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn vào mùa xuân năm 1975. Qua đó, một lần nữa, tính đúng đắn, hợp lý trong chính sách đối ngoại của Việt Nam được khẳng định Bước vào thế kỷ XXI, ngoại giao Việt Nam chuyển hướng mạnh mẽ sang phục vụ kinh tế, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là tạo môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế, lấy việc mở rộng kinh tế đối ngoại làm trọng tâm Ngoại giao Việt Nam – 60 năm vì hòa bình, hữu nghị - Trang web của Bộ ngoại giao Việt Nam: - Truy cập ngày 14/12/2009 . Hoạt động ngoại giao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng được tăng cường và mở rộng, góp phần xây dựng chính sách, khuôn khổ pháp lý cho quan hệ kinh tế đối ngoại, nghiên cứu đánh giá các vấn đề chính trị, kinh tế quốc tế tác động đến Việt Nam, nghiên cứu chính sách kinh tế, tìm hiểu tiềm năng thế mạnh của các nước, thúc đẩy hợp tác bình đẳng, cùng có lợi giữa Việt Nam với các nước. Tuy vậy, những bài học mà ngoại giao Việt Nam giai đoạn 1945 – 1946 để lại vẫn có giá trị vô cùng lớn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Đoàn Kết (2007) - Chính sách đối ngoại Việt Nam 1945-1975 - Nhà xuất bản: Thế giới 2. Nguyễn Đình Bin (2002)- Ngoại giao Việt Nam 1945-2000- Nxb chính trị quốc gia 3. Nguyễn Phúc Luân (2001) - Ngoại Giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp độc lập, tự do 1945-1975 – Nhà xuất bản: chính trị quốc gia 4. Thông cáo ngoại giao 3/10/1945 5. Hồ Chí Minh Toàn tập (2000) - Nxb. Chính trị quốc gia 6. NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN ................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchinh_sach_doi_ngoai_vn_45_46_2438.doc