Tiểu luận Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay

Qua quá trình nghiên cứu chính sách tiền tệ quốc gia nói riêng và chính sách kinh tế vĩ mô nói chung, chúng ta đã thấy rõ được vai trò và ý nghĩa của nó trong nền kinh tế bởi chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nên vị trí của chính sách tiền tệ trở nên hết sức quan trọng. Hoạch định một chính sách tiền tệ đòi hỏi cả một quá trình, sự linh hoạt và sự thống nhất trong sự áp dụng trên thực tiễn trước bối cảnh kinh tế quốc tế hiện nay. Bằng sự nỗ lực hiện tại và trong trong tuơng lai, sự kế thừa và phát huy những thành tựu của chính sách tiền tệ, chắc chắn chính sách tiền tệ của Việt Nam sẽ đóng góp vai trò quan trọng trong việc xây dựng một đất nước Việt Nam giầu mạnh, giai đoạn 2001- 2010 mà đảng nhà nước đã đề ra. Từ đó chính sách tiền tệ khắc phục được những yếu kém bất cập trong điều kiện nền kinh tế vĩ mô, tầng bước nâng cao vai trò điều tiết nền kinh tế nhằm nhằn đưa nền kinh tế đi đúng hướng, sánh vai với bè bạn quốc tế ./.

doc55 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3718 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống ngân hàng trong bối cảnh hội nhập hàng loạt các giải pháp tiền tệ tín dụng đã được ban hành. Hệ thống ngân hàng hai cấp ngày nay đang đi vào nề nếp, NHTW đã thực sự trở thành người cho vay cuối cùng, hệ thống ngân hàng thương mại rộng khắp và hoạt động dưới sự chỉ đạo của NHTW Việc tự chủ kinh doanh và việc xoá sự bao cấp của nhà nước khiến cho các ngân hàng càng ngày cangf phải tích cực giảm thiểu chi phí hoạt động, nhằm kinh doanh có hiệu quả nhất. Các ngân hàng đã nâng cấp nhiều về trang 5thiết bị, đã đưa dược công nghệ tiên tiến vào quản lí ngân hàng, trang bị hàng loạt các máy vi tính từ NHTW đến các chi nhánh NHNN địa phương bằng hệ thống thanh toán qua mạng vi tính đã thu hút được kết quả khả quan. Đây có thể coi là mmột bước chuyển về chất lượng trong điều hành hoạt động tiền tệ, ngân hàng. Một vài con số đáng được ghi nhận: Cho đến hết tháng 6/1999, huy động vốn của hệ thống ngân hàng tăng 9,3% so với đầu kì. Ngân hàng ngoại thương đạt 34% đối với đồng nội tệ và 10,6% đối với đồng ngoại tệ. Tổng dư nợ nền kinh tế tăng 6% trong đó tín dụng trung và dài hạn chiếm trên 40% tổng dư nợ và đạt 45,8% trên địa bàn Hà Nội. phải khẳng định rằng những kết quả đó là rất đáng khích lệ, bởi vì, các lợi thế có được như sự ổn định tương đối của nền kinh tế- chính trị- xã hội, chi phí vốn thấp và tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Do phương hướng điều hành một chính sách tiền tệ lỏng đã được dặt ra ngay từ đầu năm. 2. Những kết quả đạt được do sự xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ đúng hướng phù hợp với diễn biến của nền kinh tế 2.1. Về chính sách lãi suất và các công cụ bổ trợ Do vốn vay chiếm tới 80- 90% tổng số vốn sản suất nên việc giảm lãi suất đã được đặt ra nhằm giảm chi phí hoạt động của nênf sản xuất. Tuy nhiên, do hệ thống nhân hàng cũng ở tình trạng rất khó khăn nên lúc đầu việc hạ lãi suất chỉ áp dụng đối với các ngân hàng mậu dịch quốc doanh (Chỉ thị 1/1999/CT- NHNN 29/1/1999 quy định trần lãi suất tín dụng của các ngân hàng mậu dịch quốc doanh pá dụng đối với khách hàng khu vực thành thị sẽ giảm từ 1,2 xuống 1,1%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn, từ 1,25 xuống 1,15/ tháng đối với tín dụng trung và dài hạn). NHNN đã tiến hành giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc(Quyết đinh số 52/1999/QĐ- NHNN ngày 10/2/1999) Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đựoc coi là bứoc đệm cho việc hạ lãi suất đồng loạt vào 31/5/1999. Trong suốt thời gian qua, lãi suất đã thực sự là một công cụ điều hành chính sách tiền tệ đắc lực. Đặc điểm sử dụng lãi suất NHNN mang tính trực tiếp theo yêu cầu tăng cường vốn đầu tư phát triển kinh tế và thực hiện một số chính sách xã hội. Cho đến nay, ta đã thực thi và hoàn thiện dần cơ chế lãi suất riêng và đang đang trên con đường tiến tới tự hoá lãi suất. Từ đầu tiên các tổ chức tín dụng được tự do ấn định lãi suất kinh doanh tứ tụ do hoá lãi suất trong phạm cho phép do NHNN công bố vào 1/1/1996 với chênh lệch lãi suất cho vay. Luật NHNN có hiệu lọc tù 1/10/1998 tại điều 18 quy định :” NHNN công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn “ và tại điều 19 ghi rõ “Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố để các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh “. Những thanh công trên đây là kết quả của một quáy trình từ điều chỉnh lãi suất một cách tình thế sang một cách chiến lược có tính lâu dài cho cơ chế lãi suất. Việc vận dụng những công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên điều đó là hoàn toàon phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta đi lên từ một xuất phát điểm tương đối thấp. Việc xây dựng nền móng và tiến dần lên sử dụng các công cụ gián tiếp cũng đựoc chú trọng và đạt nhiều thành tích đáng kể. Công cụ lãi suất đã nói trên cũng đã tiếp cận dần với lãi suất thị trường. Tỷ giá hối đoái cũng linh hoạt và phản ánh đựoc cung cầu vốn trên thị trường. Công cụ dự trữ bắt buộc đã được áp dụng chặt chẽ hơn và có quyết định xử phạt rõ ràng. Lãi suất tái chiết khấu cũng đã được nghiên cứu áp dụng sao cho nó trở thành công cụ chính thay cho lãi suất tín dụng hiện nay. Công cụ nthị trường mở đã bắt đùa triển khai và thử nghiệm, đồng thời chúng ta cũng tạo ra được một số công cụ để sử dụng nghiệp vụ thị trường mở. 2.2.Về tỷ giá Bước vào thời kỳ đổi mới, trong những năm đầu,nhà nước vẫn duy trì chính sách 2 tỷ - Tỷ giá do nhà nước quy định và tỷ giá thị trường tự do. Tỷ giá nhà nước thường thấp hơn so với thị trường tự do. Với sự duy trì hai tỷ giá cùng với sự khan hiếm ngoại tệ mạnh, nạn đầu cơ ngoại tệ nâng tỷ giá đã gia tăng. Nhà nước vưa không điều hành được tỷ giá vừa không dự trữ được ngoại tệ. Việc ấn định tỷ giá gần với tỷ giá thị trường có ý nghĩa quan trọng và còn mang tính chiến lược về kinh tế. Do đồng tiền của các các nước châu Á có xu hưóng ổn định ở mức giá trị thấp hơn so với các ngoại tệ mạnh, nên sức cạnh tranh yếu kém của hàng hoá Việt Nam một phần cũng xuất phát từ chế độ tỷ giá VND. Cùng với các bài học rút ra từ việc điều hành tỷ giá của các nước khủng hoảng,sự ra đời của luật ngân hàng,vấn đề quản lý ngoại hối đựoc thực hiện nghiêm minh và đặc biệt là sự cã thiện trong việc kiềm chế lạm phát thời gian qua. Thị trường hoá chế độ tỷ giá đã được đặt ra. Quyết định 64/QĐ- NHNN ngày 25/2/1999 qui định:”NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân hình thành ở thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất”. Trên thị trường, tỷ giá có tâưng chút ít vào 2 ngày sau khi quyết định 64 được công bố, tới khoảng 14.150VND/USD ngày 26/2/1999. Nhưng sau dố tỷ giá đã giảm xuống và ổn định ở mức 13. 950VND/USD. Như vậy, cơ sở pháp lý cho việc điều tiết tỷ giá của NHNN trên cơ sở thị trường đã được xác lập, góp phần tạo thế ổn định cho sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu. Sự ổn định của tỷ giá sau khi điều chỉnh cơ chế điều hành tỷ giá phần nào phản ánh sự thành công của hoạt quản lý tiền tệ- ngân hàng. 2.3. Thị trường tín dụng Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng ngân hàng đã được cải thiên theo hướng thị trường, nhưng thực tế sự nôn nóng trong việc vực dậy nền kinh tế đã mở rộng hoạt tín dụng bao cấp đối với hầu hết các khu vực kinh tế. Với qui chế 324, cơ chế cải thiện từng bước. Tính hiệu quả đã được đề cao trong các quyết định tín dụng ; thời hạn tín dụng được điều chỉnh theo chu kì sản xuất, kinh doanh, đối tượng vay tín dụng được mở rộng... Song hoạt động tín dụng thực tế vẫn bế tắc. Cho đến 31/3/1999, tăng trưởng tín dụng và lãi suất thực tế mà ngân hàng cơ sở cho vay đã giảm mạnh. Trước thưcj trạng đó, cùng với việc đẩy mạnh thực hiện CNH- HĐH_nông nghiệp - nông thôn cấp tín dụng không cần thế chấp đã được mở rộng theo quyết định 67/QĐ- TTg ngày 31/3/1999 và quyết định 148/QĐ- TTg ngày 7/7/1999 đã cụ thể hoá vấn đề này với nội dung cụ thể là các hộ nông dân dược vay không cần thế chấp tới 10 triệu VND. Kết quả khảo sát cho thấy trong 3 tháng 4,5,6 dư nợ cho vay phục vụ phát triẻn nông nghiệp- nông thôn đã tăng mạnh tăng 7%, NHCT tăng 8% và NHNT tăng 25%. 2.4.Về thị trường tài chính thứ cấp Quyết định số 140/QĐ- NHNN 14 ngày 19/4/1999 (có hiệu lực sau 15 ngày) về việc mua bán nợ giửa các tài chính tín dụng cũng là một tư tươngr hoàn toàn mới tri\ong việc điều hành hoạt động tiền tệ và ngân hàng. Thực chất của qui chế này là tạo môi trường pháp lý cho việc hình thành thị trường thứ cấp các tài sản của hệ thống tài chính tín dụng. Mặc dù thời gian hoạt động chưa nhiều để có thể đánh giá được hoạt động mua, bán nợ giữa các tài chính tín dụng, nhưng có thể khẳng định được sự tồn tại cũng như những tác động tích cực của cơ chế này. Thứ nhất, đối với thị trường tài chính sự ra đồi của các thị trường thứ cấp là một tất yếu và sẽ có tác dụng tích cực đối với thị trường sơ cấp. Thứ hai, trong điều kiện việc tạo các nguồn vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế tương đối hạn chế, ma fnhu cầu vốn trung và dài hạn rất lớn, thì việc hình thànhg thị trường thứ cấp là các tái sản có của hệ thống tài chính tín dụng sẽ xó tác dụng tích cực trong việc chuyển đổi thời hạn giữa các nguồn vốn ngắn hạn sang các khoản tín dụng trung- dài hạn. Bên cạnh đó,việc thiết lập môi trường pháp lý cho thị trường thứ cấp các tài sản có của hệ thống các trung gian tài chính còn có tác dụng tích cực đối với việc tối đa hoá hiệu suất sử dụng vốn, qua đó góp phần giảm lãi suất tín dụng và tạo điều kiện cho NHNN thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng hiệu quả hơn. 2.5. Kiềm chế lạm phát ổn định tương đối sức mua của đồng tiền Việt Nam Cho đến nay, không ai có thể phủ nhạn được những thành quả trong việc kiềm chế lạm phát của chính phủ Việt Nam trong thời gian vừa qua mà trong đó chính sách tiền tệ có một vị rí vô cùng quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát đó. Trong những năm cuối thập kỷ 80,lạm phát ở Việt Nam ở mức rất cao, còn nền kinh tế tăng tương đối chậm. Nhưng từ đầu thập niên 90 cho đến nay với việc đổi mới mạnh mẽ hoạt động nngân hàng và thực hiện thành công chính sách tiền tệ nên lam phát đã đựoc giảm thấp và kiềm chế. Năm 1994 lạm phát 14.4%, 1995 12,7%, 1996 lạm phát 4,5% 1997 là 3,6%.. Trong khi đó nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định :Năm 1994 là 8,8%, 1995 là 9,5%, 1997 là 9% tháng 6/1998 là 6,64%. Điều đó cho thấy nứoc ta với điểm xuất phát năm sau cao hơn năm trước, nhịp độ tăng trưởng chẳng những không lùi mà vẫn tiếp tục tăng khá cao, đồng thời tỷ lệ lạm phát đựoc kéo xuống. Điều đó khẳng định rằng chính sách tiền tệ của chúng ta là phù hợp và có hiệu quả. Ngược lại, với xu nhướng giảm lạm phát là sự gia tăng nhanh chóng của khôíu lưọng huy đọng tiết kiệm và khôí lượng cho vay so năm 1995 với năm 1991 số dư tiền gửi tiết kiệm tăng khoảng 3 lần, khối lượng cho vay tăng hơn 4 lần tổng dư nợ đầu tư cho nền kinh tế tăng hơn 50%. Một dấu hiệu đáng khích lệ không kém là cơ cấu tiền vay, tiền gửi ngân hàng dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng nguồn dài hạn. Còn có thể kể ra những đóng góp khác của chính sách tiền tệ trong việctạo lập môi trưòng kinh doanh bình đẳng, thúc đảy tăng trưởng xuất khẩu, xoá đói giảm nghèo... Tuy vậy, cần làm rõ cốt lõi của tấ cả các thành tưuđạt được. Diểm mấu chốt năm trong sự phù hờp của hướng tiếp cận đén chính sách tiền tệ với logic của tiến trình đổi mới. Có 3 đặc trung chính thể hiện sự phù hợp đó : Một là, chính sách tiền tệ quán triệt di theo đưòng lối chuyển sang kinh tế thị trường mởi cửa. Hai là, nỗ lực để chính sách tiền tệ thực sự trở thành công cụ điều hành kinh tế vĩ mô hưu hiệu trong tay nhà nứoc. Ba là, Sự đồng hướng và phùi hợp của chính sách tiền tệ với tất cả các chiónh sách kinh tế vĩ mô khác được áp dụng trong quá trình đổi mới. Ở những mức độ khác nhau, cả ba đặc trung này đều chứa đựng trong từng giải pháp tiền tệ đẫ nói trên. Tổ hợp chống lại đó là lời giải thích đầy đủ hơn cả về thành công của chính sách tiền tệ của toàn bộ quá trình chuyển đổi nền kinh tế nhìn từ gốc đọ chính sách tiền tệ. Với cách tiếp cận đó, chính sách tiền tệ đã góp phần to lớn vào việc thực hiện hai mục tiêu khôi phục ổn định và thúc đảy tăng trưởng kinh tế. II. TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN Trong quá trình thực nthi chính sách tiền tệ thời gian qua, chúng ta đã đạt được nhữn thành tựu đáng kể, nhưng mặc dù vậy cũng không tránh khỏi những bộc lộ yếu kém. Có thể tóm tắt những mặt tồn tại, hạn chế chính sách tiền tệ ở nước ta trong thời gain qua như sau : Việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam mới ở thời điểm “sơ khai”, “xuất phát “. Thông thường NHNN dựa vào những tín hiệu của nền kinh tế để xá định lượng tiền cung ứng trình chính phủ phê duyệt, bổ sung, điều chỉnh. Vẫn mang nặng “đối phó “ trứoc mắt mà còn chưa có được tính chiến lựoc lâu dài nên dễ bị động hiệu quả và độ tin cậy thấp. Việc thực thi các công cụ chính sách còn nhiều mặt hạn chế : + Hạn mức tín dụng NHNN có quy định cho các NHTM nhưng tốc độ tăng dư nợ chậm. Do đó, ý nghã thực của công cụ này trước thực tế hiện nay chưa được phát huy tác dụng. + Nghiệp vụ thị trường mở mới ở dai đoạn thí điểm dự báo vốn khả dụng. + Công cụ lãi suúat được sử dụng thường xuyên, linh hoạt hơn đẫ theo tín hiệu thị trường để điều chỉnh. Tuy niên, có lúc lãi suất thay đổi còn chậm so với thục tê, đồng thời có thời kỳ lại liên tục điều chỉnh gây khó khăn cho người gửi cũng như người vay, dễ hoang mang thiếu ổn định về tâm lý.. Việc tính toán điều chjỉnh lãi sút mới chỉ dựa vào hiệu ứng về hình thức biểu hiện của chỉ số giá cả tăng, giảm (nặng về quan điểm “trọng tiền”. Chỉ số lạm phát bằng chỉ số giá cả bình quân băng lãi suất tăng). Trong khi còn nhiều yếu tố tác đọng khác làm cho giá cả biến động nhưng chau đựoc phân tích một cách sâu sắc và chuă lượng hoá được thành các tiêu chis cụ thể đẻ xử lý tổng thể. Chẳng hạn, nếu sức mau của dân giảm (do nhiều nguyên nhân khác nhau) sẽ dẫn đến gia cả giảm (nhìn theo góc độ cung cầu) hoặc ngược lại. Trong trưòng hợp này, nếu không phân tích đày đủ, tìm hiểu kỹ nguyên nhân dẫn đén sức mua giảm của dân cua, mà dừng mức cảm nhân, dự đoán đẻ quyết định việc thay đổi laic suúat giảm thì chua đủ độ tin cậy đảm bảo tính xác thực, khách quan của sự biến động đó. Rất có thể bất lợi khi điều chỉnh. Mặt khác, yếu tố tâm lý, sở thích của người dân trong từng điều kiện cụ thể cũng tác động đến quan hệ cung cầu(có những tác động “giả”). Vởy điều cần phải làm là tìm tín hiệu thực và phải lượng hoá các yếu tố tác động cụ thể. + Công cụ tỷ giá lâu nay NHNN sử dụng để điều chỉnh tăng giảm biên độ quan hệ tỷ giá giữa đồng Viêtj Nam và ngoại tệ. Như chúng ta đã biết, lý thuyết xác định tỷ giá căn cứ vào giá cả bình quân của một số loại hàng hoá chủ yếu mỗi nước. Có nghĩa, khi giá cả bình quân của mỗi nước thay đổi sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá. Đối với Việt Nam, việc xác định tỷ giá chủ yếu vẫn dựa vào hiện tượng giá cả biến động và dự đoán những tác động để xác định và điều chỉnh. Việc đưa ra những cơ sở, tiêu thức và một phương pháp tính toán cụ thể cho từng yếu tố tác động(đo bằng lượng giá trị) vẫn đang là những vấn đề trăn trở. Chưa có biện pháp hữu hiệu tập trung các nguồn lực thúc đẩy CNH- HĐH. Thị trường tiền tệ chưa phát triển. Hoạt động ngân hàng có nhiều biểu hiện chưa lành mạnh (Qui định, qui chế chưa được chấp hành nghiêm chỉnh.. ) Chính sách tiền tệ và chính sách tài chính quốc gia chưa thực sự ăn khớp với nhau. Chúng ta tìm hiểu sâu hơn về khía cạnh cụ thể sau. 1. Những tồn tại trong cơ chế lãi suất hiện hành Tháng 6/1992 đã được NHNN coi là một mốc quan trọng, đánh dấu sự chuyển giai đoạn từ chính lãi suất lãi suất thực dương, chấm dứt khâu cuối cùng của sự bao cấp qua tín dụng,bắt đầu chính sách lãi suất tín dụng hạot động theo cơ chế thị trường, nhưng thực tế hoạt lại hoàn khác. NHNN còn can thiệp quá sâu vào việc ấn định các mức lãi suất của NHTM, vẫn còn qui định nhiều mức lãi suất khống chế khác nhau. Bắt đầu là khung lãi suất rời bây giờ là trần lãi suấtvà chênh lệch lãi suất. Cho đến nay, hầu như NHTM ở nước ta chưa tạo được nhiều nguồn vốn dài hạn, thể hiện ở lãi suất ngân hàng còn mang nặng tư duy kinh tế thời bao cấp, người gửi tiền dài hạn muốn lãi suất cao người vay vốn dài hạn đòi lãi suất thấp. Mức lãi suất trong cả nước chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Hiện nay việc qui định mức lãi suất thống nhất chưa tạo được sự mềm dẻo linh hoạt theo yêu cầu thị trường từng vùng, khu vực. Cũng như thị trường hàng hoá trong thị trường vốn, mức cung cầu về vốn ở mỗi vùng, mỗi khu vực khác nhau thì đòi hỏi giá cả của vốn tiền tệ cũng khác nhau. Vì vậy, nếu qui định một mức giá cả thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng sử dụng công cụ lãi suất kém linh hoạt. Còn có sự chênh lệch lớn giữa lãi suất tín phiếu kho bạc cà lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng nên nhiều khi ảnh hưởng lớn đến hoạt đọng nguồn vốn của ngân hàng. Ta biết rằng, tín phiếu kho bạc là một cơ quan thuộc bộ máy quản lý tài chính nhà nước (kho bạc nhà nước) thay mặt chính phủ phát hành nhằm huy động tiền mặt trong xã hội theo yêu cầu cân đối ngân sách nhà nươcs twngf thời kì,việc vay này không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, bởi vậy, thường có mức lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng. Vì vậy, tín phiếu kho bạc đã thu hút được người cho vay (mua) hơn là gửi tiền vào ngân hàng, làm cho nhân hàng khó khăn vì giảm phần nào vốn huy động, làm ảnh hưởng đến qui mô tín dụng đã được định trước theo ké hoạch, ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch tài chính và nghĩa vụ với NHNN và sâu hơn nữa là phá vx sự kiến thiết mặt bằng lãi suất tín dụng. Có thể nó,do sự nghèo nàn về chủng loại các sản phẩm đầu tư tài chính đã dẫn đến tình trạng, tiền gửi tiết kiệm ngân hàng vẫn tăng trong khi lãi suất huu động liên tục giảm xuống. Đứng trước tình trạng này, hệ thống ngân hàng cho rằng nhà nước cần phải thực hiện chính sáh bội chi ngân sách ca0 hơn. Trong đó ngân sách nhà nước chỉ cấp một phần vốn cho các công trình lớn,phần còn lại để chủu công trình tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài (vay các ngân hàng thương mại). Việc xử lí mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái bằng việc tâưng nhẹ dần lãi suất cho vay bằng VND và điều chỉnh lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ trong năm 1988 là kịp thời, góp phần điều hoà thị trường nội, ngoại tệ hạn chế chuyển đổi từ VND sang ngoại tệ. Tuy nhiên, việc tăng nhẹ trần lãi suất cho vay bằng VND sẽ gây thêm khó khăn cho sản xuất kinh doanh trong nước, nhất là khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái. Mặt khác, lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế tại các tổ chức tín dụng giảm từ 1- 15%/năm nhưng tỷ giá lại điều chỉnh tăng 15%(theo tỷ giá chính thức) tăng 135 (theo tỷ giá giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng). Hơn nữa, lãi suất tổng tiền vay ngoại tệ giảm nhưng tỷ giá hối đói tăng làm hạn chế nhu cầu vay bằng ngoaị tệ của các doanh nghiệp muốn phát triển sản xuất kinh doanh dẫn tới tình trạng nền kinh tế thiếu vốn. 2. Tỷ lệ tín dụng chung, dài hạn tăng và không tuơng xứng với tốc độ tăng nguồn vốn huy động của các loại vốn này Trong vòng quay kinh tế thị trưòng, nhu cầu vốn là rất cao, thì nguồn vốn đầu tư từ ngân sách hàng năm cho đàu tư còn rất hạn hẹp, vốn tự có của các doanh ngiệp rất nhỏ, do vậy các doanh ngiệp khi vần vốn cho sán suất kinh doanh đều trrong chờ vào nguồn vốn chung và dài hạn của hệ thống ngân hàng. Trong khi đó nguồn vốn chủ yếu của các NHTM là nguồn vốn ngắn hạn (chiếm tới 90%) nên NHTM không đáp ứng được nu cầu vốn trung và dài hạn. Tình trạng này chưa có giải pháp tối ưu, mới chỉ có giải pháp tình thế là nghành ngân hành cho phép “ Trích 20% tổng nguồn vốn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn”, còn doanh nghiệp thì “lấy ngăn nuôi dài “. Sỡ dic tình trang trên tồn tại là vì : Thứ nhất, yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng là thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay ởo dao đạn sơ khai,các sản phẩm trrên thị trường tìn tệ chưa nhiều, hoạt động đơn giản, thuần tuý. Mặt khác hệ thống pháp luật còn thiếu những quy định toàn diện trong việc điều chỉnh các hoạt đôngj, tiếp theo kà những hạn chế của chính ngành ngân hàng trong mọi hoạt đọng, chu chuyển nguồn vốn của các doanh nghiệp. Thư hai, hiện nay những người có tiền nhãn rỗi chưa dùng hết thì chưa tìm kiếm được những địa chỉ tin cậy, bản thân từng ngân hàng chưa khăng định được những khoản tiền dai hạn thì lợi ích của người gửi tiền đựoc đảm bảo lâu dài như thế nào, lợi nhuận bao nhiêu.. Thứ ba, các ngân hàng còn thiếu các công cụ huy đọng vốn dài hạn và thiếu thị truờng thứ cấp để luân chuyẻen và tạo thành tính thanh khoản dễ dàng của các công cụ này. 3. Tái cấp vốn và việc kiểm soát lượng tiền cung ứng Thực hiên mục tiêu của chính sách tiền tệ. NHNN đã sử dụng nghiệp vụ tái cấp vốn như là công cụ để điều tiết việc mở rộng hay thu hẹp tổng khối luợng tiền hay tổng phương tiên thanh toán trong nền kinh tế. Từ tổng khối lưọng tiền cung ứng đựoc phép tăng lên hàng năm NHNN kiểm soát chặt chẽ khối lưọng tín dụng tương ứng cho các NHTM qua nghiệp vụ tái cấp vốn. Tuy nhiên, do trong nền kinh tế chưa lưu thông hối phiếu và thương phiế nên NHNN chưa có điều kiện thực hiện tái cấp vốn qua tái chiết khấu các kỳ phiếu thương mại, cũng như chưa tái cấp vốn qua các thế chấp bằng những chứng từ có giá. Trên tầm vĩ mô NHNN vẫn chua kiểm soát đượ toàn bộ các kênh tín dụng nằm ngoài ngân hàng, như khối lưọng tín dụng của tổng cục đầu tư và hệ thống kho bạc. Đay là một mảng của tổng phương tiện thanh toán cần nằm trong sự kiểm soát của NHNN. 4. Những tồn tại trong quy chế dự trữ bắt buộc Từ năm 1991, dự trữ bắt buộc được áp dụng như một công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ theo pháp lệnh ngân hàng, tỷ lệ dự trũ bắt buộc có thể ở mức 10 - 35% tổng nguồn vốn huy động của cá NHTM. Song xét hoàn cảnh thực tế, tiềm lực của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé và mức lạm phát đã đuợc kiềm chế cho NHNN Việt Nam quyéet định dự trữ bắt buộc ở mức 10%. Tỷ lệ này từ năm 1991 tới nay, nhưng kỷ luật chấp hành của các NHTM chưa nghiêm nên tác dụng của các công cụ này kém hiệu quả. 5. Những tồn tại trong tổng nguồn vốn huy động và mức dư nợ cho vay trong nền kinh tế bị tăng chậm Năm 1998, như đã biết tổng nguồn vốn huy đọng qua hệ thống ngân hàng có hướng tăng chậm lại. Nếu như năm 1997 huy đọng vốn tăng 31,5% (qua hệ thống ngân hàng) thì năm 1998 chỉ còn 25%, 3 tháng đầu năm 1999 chỉ còn 4,16% so với đầu năm (Quý I năm 98 tăng 5,9%). Thực trạng của nền kinh tế xã hội nước ta nhất là sự tác động của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ khu vực, đã làm cho nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế bị suy giảm nghiêm trọng. Thị trường tiêu thụ sản phẩm thu hẹp cũng khiến tốc đọ chu chuyển vốn trong nền kinh tế bị chậm lại, hiệu quả kinh doanh và các nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng. Tất cả những điều này đã dẫn đến dư nợ cho vay của các tố chức tín dụng cũng có xu hưóng tăng chậm lại. Năm 1997 dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng tăng 27,2%. Năm 1998 là 19% quý I năm 1999 là 0,8% hần III Những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện nay I. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐẾN KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM Đó là cơn bão (Khủng hoảng tài chính - Tiền tệ bùng nổ tại châu Á chắc hẳn mọi người còn nhớ. Tại Thái Lan vào 2/7//1997 sau đó tràn qua các nước Philipin, Maliaxia, Indonxia,Hàn quốc, Nhật bản.. Và gần như tàon khu vực đều bị ảnh hưỏng nặng nề. Nguyên nhân cơn bão đã đựoc các nhà kinh tế phân tích, nghiên cứu gần bốn năm qua. Xin nêu lên các nguyên nhân cơ bản như :Nền kinh tế phát triển với tốc độ rất cao vượt quá khả năg nội tại của nền kinh tế, Chính sách đầu tư bất hợp lý và không hiệu quả, chất lượng kém, nợ quá hạn tăng nhanh, hệ thống ngân hàng tư nhân kém hiệu quả, vai trò quản lý kinh tế của chính phủ yếu, tình trạng tham nhũng bê bối gia tăng, thi hành chính sách tự do hoá thị trương tài chính, đồng tiền gần như buộc chặt với đồng USD 13 năm không đổi, Cán cân thương mại từ nhập siêu cán cân vãng lai thâm hụt ở tỷ lệ cao. Ví dụ như :Năm 1996 ở Thái Lan là 9,1% GDP, Indinonexia là 3,5% GDP Malaixia là 8,6% GDP. Nợ nước ngoài quá lớn (Hàn quốc 153 tỷ USD Indonexia 133,3tỷ USD, Thái lan 92,9tỷ USD, Philippin 39,4 tỷ USD, Malaisia 28,9 tỷ USD). Dự trữ ngoại tệ thấp Indonexia 19,3 tỷ USD, Thái lan 28tỷ USD Philippin 8,3tỷ USD Maláiia 21,1tỷ USD)dân chúng không tin tưởng ở chính phủ, dễ bị hoảng loạn, bị các nhà đầu cơ chứng khoán tấn công (Geogre Soros vào tháng năm 1997). Tác động của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ đến kinh tế Việt Nam. Việt Nam nằm trong khu vực xảy ra cơn bão tiền tệ, vả lại có những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh khủng hoảng tài chính điều có tại Việt Nam. Nền kinh tế phát triển cao, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, hiệu quả kinh tế kém, năng suất lao động thấp đặc biệt là trong doanh nghiệp nhà có khoảng 63% doanh nghiệp nhà nước hoạt nđộng không có hiệu quả, trong đó có 35% doanh nghiệp nhà nước thua lỗ. Đầu tư quá nhiều vào lĩnh vực bất động sản (khách sạn nhà hàng, văn phòng cho thuê,đất đai.. ) đến nay đã có dầu hiệu cung vượt cầu. Hệ thống ngân hàng yếukém, chất lượng tín dụng yếu kém, nợ quá hạn cao (năm 1997 tại các ngân hàng tại các ngân hàng ở thành phố Hồ Chí Minh là 19,3%, cả nước khoảng 10%) Ngân sách nhà nước bội chi ở cấp độ cao năm 1997 là 3,5% GDP tăng gấp 3 lần so với năm 1996 (1,2% GDP). Cán cân thương mại nhập siêu với mức gia tăng năm 1994 là 1771,8 triệu USD, năm 1995 là 2706,5 triệu USD, năm 1996 là 3859,3 triệu USD, năm 1997 là 2370 triệu USD, làm cho cán cân vãng lai thâm hụt ở tỷ lệ lớn, năm 1996 là 11,2% GDP, năm 1997 là 5,5% GDP. Nợ nước ngoài trên 8 tỷ USD. Dự trữ ngoại tệ thấp: năm 1995là 1798 triệ USD, năm 1997 là 2260 triệu USD tương đương 10 lần xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái được giữ gần như cố định với USD trong 3 năm 1994- 1995- 1996 với tỷ giá 11000VND/USD, trong khi USD liên tục tăng giá so với ngoại tệ khác trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, do Việt Nam chưa có thị trường chứng khoán thứ cấp đồng tiền VN chưa được tự do chuyển đổi, chính sách quản lý ngoại hối khá chặt chẽ, đầu tư nước ngoài chủ yếu là đầu tư trưc tiếp (FDI) cho nên họ không thể rút vốn ồ ạt như ở Thái Lan. Từ đó ảnh hưởng của “cơn bão tiền tệ” đến kinh tế tài chính Việt Nam sẽ không lớn, nếu có biện pháp đề phòng và đối phó thích hợp. CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Tăng trưỏng GDP(%) 4,9 6,0 8,6 8,1 8,8 9,5 9,4 9,0 Lạm phát (% CPI) 60,0 67,5 17,6 5,2 14,4 12,7 4,5 4,0 Tăng trưởng cung tiền M2(%) 32,4 78,7 33,7 19,0 21,3 30,2 28,0 - Thâm hụt ngân sách (%) - 8,8 - 4,4 - 7,6 - 4,9 - 4,1 - 0,4 - Tiết kiệm trong nước (%) 6,1 16,5 20,2 16,0 16,9 17,1 17,7 18,0 Tài khoản vãng lai (%GDP) - 5,6 - 1,9 - 0,7 - 8,3 - 6,9 - 9,8 - 16,2 - 8,6 Dự trữ ngoại tệ (triệu USD) 24 27 465 404 876 1376 1921 2300 Nợ dài hạn nước ngoài (%GDP) 14,6 15,3 17,7 17,7 19,6 11,32 10,95 10,14 Đáp ứng số tháng nhập khẩu 0,2 0,2 2,2 1,4 2,1 2,2 2,1 3,2 Nguồn :APEG, The Finacia Times. 1998 và Báo cáo thường niên 1997 NHNN 1997 Ngân hàng Nhà nước Sản xuất trong nước vốn đã khó khăn, nay bị hàng ngoại tràn vào do gia rẻ, từ đó gay ra tình trạng đình đốn trong sản xuất, khả năng thanh toán nợ ngân hàng giảm sút. Đầu tư trực tiếp nước ngoài , yếu tố quan trọng trong nền kinh yế Việt Nam cũng bị chững lại. Năm 1997 tổng vốn đầu tư đã cấp giấy phép cho các dự án FDI là 5,5 tỷ USD trong khi đó năm1996 là 9,2 tỷ USD, năm tháng đầu năm 1998 có 93 dự án ddược cấp giấy phép với vốn đầu tư đăng ký là 1151 tỷ USD. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài (1987- 6/1988) vào Việt Nam đã cấp giáy phép với vốn đăng ký là 32,3 tỷ USD cho 2437 dự án. Điểm đáng lưu ý là 70% đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua là các nước châu Á: Malaixia, Thai lan,singapore, Nhật bản, Hàn quốc.. Đối với nhiều người, cuộc khủng hoảng châu Á là một minh chứng cho rằng các nguồn vốn luôn có tính mất ổn định vì vậy mang lại những hậu quả xấu cho chính nền kinh tế châu Á. Những luồng vốn luôn thay đổi làm cho chính sách sách kinh tế vĩ mô của các nền kinh tế nhỏ mới nổi trở nên hết sức phức tạp. Nguyên nhân sâu xa của sự sụp đổ hệ thống tài chính ở châu Á chính là do sự kiểm soát vốn. Nhưng việc kiểm tra, giám sát các luồng chu chuyển vốn bản thân nó không thể chữa trị cho những nội tại yếu kém trong nền kinh tế châu Á. Và vì vậy hiệu quả của các biện pháp kiểm soáy vốn để bảo vệ nền kinh tế cũng là hết sức mong manh. cụ thẻ ở Việt Nam năm 1998 nhà nước bố trí kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung với tổng mức vốn đầu tư là 14028,3 tỷ đồng (vốn trong nước: 8088,3 try đồng, vốn ngoài nước 5940,4 tỷ đồng), trong đó: Các công trình dự án cho các hộ, nghành TƯ quản lý là:929,4 tỷ đồng (vốn trong nước 4781,4 try đồng, vốn ngoài nước 4510 tỷ đồng). Các công trình do địa phương quản lý là 4730 tỷ đồng. Về mặt hình thức, giá tfị khối lượng thực hiện là vượt kế hoạch nhà nước giao (đầu năm và bổ sung trong năm). Xong thực chất giá trị khối lượng trong năm kế hoạch không đạt. Những con số dưới đây minh chứng cho điều đó. Giá trị khối lượng thực hiện 15417,5 tỷ đòng bằng 109,9% so với kế hoạch. Giá trị khối lượng trong kế hoạch chỉ thực hiện được 12449,4 tỷ đồng bằng 88,03% kế hoạch được giao. Một vai con số trong bảng cho ta nhìn nhận bản chất của vấn đề này. GIÁ TRỊ KHỐI LƯỢNG THỰC HIỆN VÀ VỐN CẤP THANH TOÁN đơn vị : Tỷ đồng Giá trị khối lượng thực hiện đến 31/12/1998 Luỹ kế cấp vốn từ đầu năm KH đến 31/1/99 Tổng số Trong KH Tổng số : - Vốn trong nước - Vốn ngoài nước Trung ương quản lý - Vốn trong nước - Vốn ngoài nước Địa phương quản lý - Vốn trong nước - Vốn ngoài nước 15417,5 10804,2 4613,3 9157,7 5656,9 3500,8 6259,8 5147,2 1112,6 12349,4 7736,0 4613,4 8013,2 4512,4 3500,8 4336,2 3223,6 1112,6 12275,96 7662,6 4613,4 8002,1 4501,3 3500,8 4373,8 3161,2 112,6 Những đặc trưng cơ bản của nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1991- 1998 Trong 5 năm (1991- 1995) vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội là:193,537 tỷ đồng (tính theo giá trị hiện hành) tương đương 18,6 tỷ USD. Trong đó, vốn đầu tư trong nước là 137,305 tỷ đồng chiếp 29%. Vốn đầu tư trong nước thuộc khu vực nhà nước 70,011 tỷ đồng (bao gồm vốn NSNN, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước ầu tư) chiếm 36,1% bình quân hàng năm tăng 16%. Khu vực ngoài nhà nước đã đầu tư 67,294 tỷ đồng, chiếm 37,7% so với đầu tư trong nước. Trong 3 năm (1996- 1998) tổng mức vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện là 253,614 tỷ đồng tương đương khoảng 21 tỷ USD. So với mục tiêu huy động vốn đầu tư toàn xã hội của kế hoạch 5 năm 1996- 2000 là 42 tỷ USD thì 3 năm 1996- 1998 đã thực hiên được khoảng 48- 50%. Nguồn vốn đầu tư huy động toàn xã hội ngày càng tăng so với GDP. Năm 1989 chỉ đạt :8- 9% GDP thì năm 1991 đạt 15,22 năm 1993 đạt 21%, năm 1995 đạt 26,3% năm 1996 đạt 26,9% năm 1997 đạt 27,5%, năm 1998 VỐN ĐẦU TƯ HIỆN TOÀN XÃ HỘI 1996 - 1998 Nguồn vốn huy động 1996 1997 1998 Tổng 3 năm 96 - 98 Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tổng vốn đầu tư Vốn nhà nước Vốn ngoài QD Vốn dân cư Vốn FDI Hệ số ICOR 77814 30614 21773 15000 26400 - 100 39,4 28,0 20,1 33,9 3,04 90800 3800 22000 14734 30800 - 100 41,9 24,2 16,2 33,9 3. 49 85000 3900 20000 13500 26000 - 100 45,9 23,5 15,9 30,06 3,6 253614 107614 63733 43843 83200 - 100 42,43 25,19 17,28 32,80 II. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN XÂY DỰNG VÀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI. Nền kinh tế Việt Nam trải qua bao nhiêu giai đoạn thăng trầm nhưng cho đến nay đã đạt được nhiều kết quả đáng mừng. Việc đánh giá thực trạng nền kinh tế từ đó suy đoán sự vận động của nó trong tương lai là hết sưcs cần thiết cho việc hoạch định bất cứ một chính sáh kinh tế nào. Nhìn chung, có thể thấy nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, bất cập hơn cơ chế thị trường vẫn đang trong quá trình thiết lập, quản lý nhà nước vẫn còn kém hiệu lực, hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa đạt hiệu quả cao.. trong những năm tới, các cân đối vĩ mô có nhiều khó khăn hơn, đặc biệt là cân đối ngân sách, cán cân thanh toán quốc tế, lạm phát, áp lực về lao động và việc làm lớn, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực còn ảnh hưởng nhiều, thêm vào đó lại ảnh hưởng của thiên tai mà chúng ta vẫn chưa khắc phục hết (5/11/1999). Tuy nhiên, những thuận lợi có thể nhìn thấy trước sự ổn định chính trị xã hội. Sự lớn mạnh của thế và lực nền kinh tế Việt Nam qua nhiều năm đổi mới, quan hệ kinh tế đối ngoại còn nhiều cơ hội để tăng thêm tiềm lực kinh tế thông qua hoạt động thương mại, đầu tư, góp phần hỗ trợ cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đồng thời các chính sách đã triển khai trong những năm trước sẽ phát huy tác dụng tốt. Như vậy, giai đoạn tới nền kinh tế Việt Nam còn phảu đối đầu với rất nhiều khó khăn và việc giữ vững mức tăng trưởng và phát triẻn là rát khó, đòi hỏi sự hoàn thiện dần của tất cả ccá chính sách kinh tế, trong đó có chính sách tiền tệ, một công cụ hữu hiệu tạo nên một phần những thành công trong giai đoạn qua và sẽ là công cụ đắc lực trong giai đoạn tới. 1. Điều hành cung ứng tiền tệ Ngân hàng nnhà nước cần tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, trong đó kiẻm soát khối lượng tiềh cung ứng,vừa đáp ứng đầy đư yêu cầu phương tiện thanh toáncủa nền kinh tế theo tín hiệu thị trường, vừa kịp thơqì có các biện pháp để thu hút tiền mặt về, giảm bvớt sức ép lạm phát khối lượng tiền tệ tăng thêm chỉ là một chỉ tiêu có định hướngNHTU phaỉ theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, của sự biến đổi lượngđộng giá cả và tỷ giá hối đoái dể điều chỉnh kịp thờiviệc cung ứng tiền sao cho việc tăng giảm khối lượng tiền tệ không ảnh hưởng đến giá cả thị trường và làm tắc nghẽn lưu thông. Việc điều chỉnh này phải thực hện thông qua các nhu cầu đối ứng tạo ra trong lĩnh vực tạo tiền bằng các chính sách tín dụng về ngoại hối. Tong quá trìng điều hành, căn cứ vào tín hiệu của thị trường NHNN cần điều hoà khối lượng tiền cung ứng vào các mục tiêu cho thích hợp và phương thức cung ứng tiền thông qua các kênh: - Mua ngoại tệ cho quĩ dự trữ - Cấp tín dungj cho NHTM thông qua chương trình tín dụng của nhà nước, vốn cho ngân hàng phục vụ người nghèo. - Cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu. - Cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước. - Tăng vốn điều lệ cho NHTM quốc doanh - Nhiệp vụ thị trường mở. 2. Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá 2.1. Chính sách quản lý ngoại hối Để triệt thoái hiện tượng găm giữ, đầu cơ, đào hối ngoại tệ và tập trung hơn nữa lượng ngoại tệ vao sự quản lý của nhà nước. Nghị định 63/NĐ- CP(17/8/1998)về quản lý ngoại hối trong tình hình mới và ngày 12/9/1998 chín phủ đã ban hành quyết định số 173/QĐ- TTg và nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức trên cơ sở tỷ lệ kết hối bát buộc 80% số ngoại tệ từ tài khoản vãng lai. Chính sách quản lý ngoại hối phải hướng tới mục tiêu chủ yếu là bảo vệ đồng tiền Việt Nam, tạo tiền đề cho tương lai có một đồng tiền Việt Nam chuyển đổi. Chính sách quản kýa ngoại hối cần được kết hợp chặt chẽ với chính sách nhoạI thương để có kết quả bội thu trong cán cân thương mại, ổn định tỷ giá hối đoái tăng dự trữ ngoại tệ. Cán cân thanh toán quốc tế phải được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô. NHNN phải phân tích điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế để đảm bảo cân bằng hợp lý trong giao dịch đối ngoại. 2.2. Điều hành tỷ giá Chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách tiên tệ và có nhiệm vụ đảm bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao, bền vững. với tư cách là một chính sách tỷ giá phải hướng vào thực hiện những mục tiêu có tính đặc thù của mình: - Ổn định tỷ giá dựa trên mối tương quan cung cầu trên thị trường dể khuyến khích xuất khẩu,cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ. - Từng bước nâng cao uy tín đồng tiền Việt Nam: đồng thời tào ra các điều kiện cần thiết để đồng tiền Việt Nam trở thành đồng vtiền chuyển đổi. - Phối hợp chặt chẽ với chính sách quản lý ngoại hối để khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế. Chính sách tỷ giá phải hướng vào xử lý và điều hành tỷ giá theo đuúng bản chất vốn có của nó- là một cơ chế thị trường. Chính sách tỷ giá phải hỗ trợ tốt nhất cho chính sách xuất khẩu để cải thiện cán cân thanh toán tăng dự trữ ngoại tệ. Chính sách tỷ giá không được tách rời sự quản lý của nhà nước. Lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều ttiết của nhà nước. Đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng tự do hoá dần. NHNN nên mở rộng biên độ giao dịch từ từ đồng thời cân phải điều chỉnh tăng dần tỷ giá chính thức. Có như vậy mới tránh được sự xáo trộn thị trường và kiềm chế tỷ giá thị trường tự do để tỷ giá chính thức ở mức chênh lệch khá xa so với tỷ giá giao dịch của NHTM và tỷ giá thị trường tự do là không hợp lý. Khi nâng cao dự trữ ngoại tệ của nàh nứoc tương xứng nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu và khối lượng ngoại tệ đang có trên thị trường ở nước ta. Tập trung dự trũ ngoại tệ vào một đầu mối trung tâm làNHNN. Chuẩn xá hoá các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát lãi suất thực trạng cán cân thanh toán, nợ nước ngoài để giúp cho nhà nước lựa chọn phương án điều chỉnh tỷ giá có hiệu quả hơn. Phải tạo thêm nhiều phương tiện chuyển giá trị làm phương tiện lưu thông, thanh toán giảm bới áp lực nhu cầu tiền mặt trong lưu thông. Cải cách hệ thống thanh toán, khuyến khích người dân mở tài khoản séc cá nhân và thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, một cơ sở hạ tầng rất quan trọng để NHNN can thiệp và điều chỉnh tỷ giá. Xử lý tốt mối quan hệ tỷ giá và lãi suất bởi tỷ giá có xu hướng giảm thì người ta quan tâm đến laĩ suất và ngược lại. 3. Chính sách huy động vốn và tín dụng 3.1. Về huy động vốn Theo định hướng của đảng và nhà nước về tăng cường huy động vốn thúc đẩy tích luỹ nội bộ nền kinh tế khuyến khích tiết kiệm, đặc biệt là các hình thức và biệ pháp huy động vốn ngắn hạn, vốn trung và dàI hạn để đạt được mục tiêu đua tiền gửu vào hệ thống ngân hàng trên GDP hàng năm taưng 30%, góp phần thúc đẩy công cuộc CNH- HĐH đất nước, tác động vào quá trình chuyển dịc cơ cấu kinh tế giữa các ngành, cacá thành phần. Để thưc hiện mục tiêu đó, một số biện pháp nhằm hoàn thiện và cải tiến hình thức huy động vốn. Bằng các hình thức huy động tiết kiệm phong phú với lãi suất cao như hiện nay, hệ thống ngân ngàng đã thu hút được phần lớn số tiền nhàn rỗi trong dân cư. Đẩy mạnh việc thanh toán không dùng tiền mặt trong nề kinh tế nói chung và mở rộng dần việc đó trong khu vực dân cư nói riêng, sẽ cho phép thun hut s, tận dụng đựoc số tiền nhàn rỗi này. Mở rộng các hình thức áp dụng máy tự động thanh toán và rú tiền tự động (ATM) đẩy mạnh việc sử dungj thẻ thanh toán. Việc hình thành và phát triển một thị trường vốn hấp dẫn sôi động, trở nên cấp thiết nhằm tạo ra nhiều hình thức đầu tư vốn phong phú, đa dạng, thủ tục thuận lợi mua bán, chuyến nhượng nợi dưói hình thức trao đỏi các loại giấy tờ có giá dễ dàng cho nhân dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia cũng như việc tạo điều kiện về chế độ, thủ tục phục vụ ngueoeì gửi, thuận tiện, dễ dàng, rút ngắc thời dan cho mỗi khách hàng. Đối với các tín phiếu,trái phiếu NHTM, nghiên cưu các hình chiết khấu, chuyển nhượng tạo điều kiện thứ cấp cho các giấy tờ này lưu thông dề dàng có ngiã là mở rộng kênh huy động vốn dồi dào tiềm năng và thu hút các ngồn vốn khác (phá hầnh trái phiếu ra thọ trường quốc tế). Thực chất là nhanh chóng hình thành thị trường chứmg lhón. NHNN phối hợp với các bộ nghành liên quan tiếp tục hoàn thiện quy chế quỹ bảo toàn tiền gửi và nhanh chóng đưa nội dung này trong luật các tổ chức tín dụng vào thực tế. 3.2. Về tín dụng đối với nền kinh tế Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng là mối quan tâm bức xúa không chỉ riêng ngành ngân hàng. Quyết định 324/1998/QĐ- NHNN1 (30/9/1998) của Thống đốc NHNN Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng có quy định về phương thức cho vay từng lần và phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. hai ngân hàng công thương Việt Nam và ngoại thương Việt Nam đã có văn bản thi hành quyết định này và đều quy định chỉ dùng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng cho cá doanh ngiiẹep có tín nhiệm cao và có vòng quay vốn nhanh. Việc điều chỉnh lãi suất hợp lý có ý ngiã tuơng quan với tỷ giá và lãi xuất sao đảm bảo quyền lợi cho người gửi. Việc quy định thế chấp và mức độ thế chấp tuỳ thộc tín nhiệm của người vay là chính, không cứng nhắc về mức và phân biệt đối tưọng, thành phần kinh tế. Cần tăng cường khả năng phát mai nhanh để thu hồi vốn. Và coi trọng hiệu quả cho vay lấy đó làm tiêu chuẩn hàng đầu để mở rộng đối tượng vay vốn và khuyến khích đầu tư phát triển. Chú trọng hỗ trợ cho vay các dự án, các đơn vị làm hàng xuất khẩu, đưa vốn đúng lúc và tình hình giá cả trong nước và quốc tế. Cần xử lý nhanh các tài sản thế chấp, nhất là bất động sản có gắn quyền sử dụng đất của cá doanh nghiệp phá sản theo chỉ đạo của chính phủ. Đẩy mạnh việc chấn chỉnh, củng cố hẹ thống ngân hàng trong việc quản lý kiểm soát, thẩm định cho vay và sử dụng vốn, cũng như nâng cao năng lực, trách nhiệm của các tổ chứ, cá nhân trong hoạt động ngân hàng. Xác định rõ mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, duy trì sự phát triển kinh tế xã hội. 4. Điều hành chính sách tiền tệ với công cụ quản lý 4.1.Dự trữ bắt buộc Thông qua việc thực hiện chế đọ dự trữ bắt buộc NHNN điều hành tổng phương tiện thanh toán qua cơ chế tác động đén khối lượng và giá tín dụng của các NHTM. Muốn công cụ này trở nên có hiệu quả hơn thì trước mắt phải hoàn thiệ từng bứoc cá văn bản pháp lý trong lĩnh vực này, linh hoạt điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho phù hợp với tình hình thực tế (hiện nay là 6%). NHNN có thể hoàn lại số tiền lãi mà NHTM phải trả cho khách hàng có tiền gtửi để đảm bảo cho NHTM kinh doanh có lãi. Cần thồng nhất một tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho cá loại tiền gửi có kỳ hạn vf không có kỳ hạn. Thống nhất nhập số tiền dự trữ bắt buộc vào một tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và quản lý theo hạn mức ;thưch hiện việc truy đổi hay hoàn lại tiền lãi số tiền lãi, số tiền hụt mức hay vựot mức dự trũ, xử phạt ngiêm ngặt đối với các trường hợp vi phạm. 4.2. Chính sách lãi suất Đây là công cụ đã sử dụng hiêum quả trong suốt những năm qua, và chắc chắn sẽ là công cụ thiết yếu trong những năm tới. bởi chính lãi suất là chính sách quan trọng hàng đầu trong điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay. NHNN vẫn thực hiện vai trò kiểm soát và định hướng mức lãi suất cho vay của hệ thống NHTM dưói hinhf thức quy định mức lãi suất trần cho vay tối đa của cá tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Những năm tới cần áp dụng lãi suất trực tiếp, vừa áp dụng lãi suất gián tiếp, nhưng áp dụng lãi suất trực tiếp là chủ yếu thông qua việc xác định và công bố lãi suất trần (lãi suất sàn) là lãi suất cơ bản đi đôi với lãi suất tái cấp vốn (đang ở giai đoạn đầu). Vì sự cạnh tranh lành mạnh và an toàn hệ thống, chúng ta cần chuyển sang cơ chế khống chế lãi suất tiền gửi tối đa làm lãi suất cơ bản theo thông lệ quốc tế. Điều chỉnh lãi suất phải nhạy bén, mang tính thời cuộc, phù hợp với biến động của thị trường theo quan hệ cung cầu về vốn, theo mức đọ lạm phát được khống chế theo sát các mục tiêu của tài chính tiền tệ. Thị trường nội tệ liên ngân hàng cần được củng cố và hoàn thiện để ngày càng phát triển và ngày càng hoạt động hiệu quả trên thị truờng tiền tệ. 4.3. Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ qua trọng bậc nhất trong điều hành chính sách tiền tệ. Ở Việt Nam hiện nay, thị trường mở chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền tệ. Vì vậy đeer sớm có thế đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động, xin kiến nghị một số giải pháp cơ bản sau : Chúng ta cần hoàn thiện cơ chế tổ chức, điều kiện công nghệ. Cụ thể NHNN và các bộ máy cần, các chuyên gia tà chính tiền tệ giỏi chuyên môn theo dõi, phân tích đánh gia tình hình diễn biến tiền tệ, lạm phát ... Để đưa ra những quyết định và thiệp vào thị trường một cách kịp thời, cũng như phát triển công nghệ ngân hàng nhằm nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng. Ban hành quy chế về hoạt động của thị trường mở và hình thành cơ chế can thiệp linh hoạt, kịp thời NHNN trên thị trường mở. NHNN cần quy định các công cụ được mua bán trên thị trường mở nghiã là phải quy định rõ các loại chứng khoán được phép lưu hành như tín phiếu kh bạc, tín phiếu NHNN. NHNN cần quy định cụ thể phạm vi đối tượng tham gia thị trường mở: Gồm NHNN và các chủ thể kinh tế khác trong xã hội. Ngoài ra NHNN cần thực hiện linh hoạt cơ chế mua bán tại thị trường mở. Ban thị trường mở phải nghiên cứu, xác định lãi suất phát hành và lãi suất đó sẽ là lãi suất thấp tại thị trường tiền tệ, nhằm giảm lãi suất thị trường theo mục tiêu đã định, ngược lại khi vẫn tăng lãi suất thị trường hoặc khống chế thị trường tiền tệ trong lưu thông, NHNN đặt mua lại các tín phiếu trên thị trường mở với lãi suất ấn định cao, mức lãi suất đó sẽ tác động đến lãi suất thị trường nói chung đồng thời giúp NHNN nhanh chóng thu hẹp khối tiền tệ ngoại lưu thông như định. Các biện pháp liên quan khác: Việc phát hành tín phiếu kho bạc phải tập trung vào một đầu mối thông qua NHNN làm đại lý. NHNN cần sớm nghiên cứu cơ chế để có thể thực hiện phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. NHNN cũng cần xem xét để có thế sớm cho phép một số NHTM được phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, góp phần cung cấp hàng hoá cho thị trường tiền tệ. NHNN cần tiếp tục củng cố, hoàn thiẹn thi trường tiền tệ liên ngân hàng hoạt động thực sự sôi nổi, lành mạnh và thực hiện đúng vai trò người cho vay cuối cùng. Thực hiện các biện pháp cần thiết, đồng bộ từ chính phủ, uỷ ban chứng khoán nhà nước đến các ngành các cấp để sớm đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động. 5. Các giải pháp hỗ trợ cho chính sách tiền tệ 5.1. Cải thiện hệ thống ngân hàng Cho đến nay, mặc dù hệ thống ngân hàng đẫ có những đổi mới đáng kể song vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi đặt ra cho nó. Tiến tới hoàn thiện hệ thống ngân hàng những vấn đề cần giải quyết như: Phải tạo lập sự hoạt động toàn diện của ngân hàng hiện đại trong khâu thanh toán và trong các dịch vụ ngân hàng khác, phát triển mạnh các nghiệp vụ ngân hàng. Đối với các ngân hàng thương mại cần tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng mạng lưới chi nhánh từ đô thị tới nông thôn. Xây dưng cơ sở kỹ thuật hiện đại hoá để hoà nhập với quốc tế và, kế toán, thông tin và điều hành. Đi lên từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung lạc hậu, chúng ta đã không có kinh nghiệm thực tế trong hoạch định chính sách tiền tệ. Vì vậy, cần phải coi trọng việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ, xây dựng đội ngũ chuyên môn giỏi, đồng thời giáo dục đạo đức đối với cán bộ làm công tác ngân hàng, Bởi con người là nhân tố hàng đầu quyết địng đến sự thành bại của bất kỳ một chính sách nào. Nội dung hoạt động của ngân hàng này càng đa dạng, phức tạp và tinh vi, đòi hỏi phải có một mô hình tổ chức và bộ máy vận hành hợp mới đem lại hiệu quả. Cần phát triển hơn nữa các NHTM, các công ty con của nó và các định chế tài chính phi ngân hàng, tạo thành những ngân hàng lớn với xu thế phát triển chung của ngân hàng. Nâng cao hơn nữa năng lực và hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát ngân hàng, nhất là năng lực kiểm tra kiểm soát nội lực để kịp thời kiểm soát và phát hiện xử lý cá vi phạm chế độ trong hoạt động ngân hàng. 5.2. Hoàn thiện khung pháp lý Tiếp tục thi hành, tạo ra cơ chế đồng bộ cho hoạt động ngân hàng trên cơ sở nguyên tắc thị trường và vai trò quản lý của nhà nước cũng như của NHNN. Cụ thể là điều chỉnh và hoàn thiện các dự thảo, các văn bản nghị định, quy chế thuộc thẩn quiyền ban hành của chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ nhằm triển khai 2 luật ngân hàng, bổ sung cho phù hợp với thực tế, tạo ra một môi trưòng pháp lý thống nhất, tạo điều kiện cho công cụ của chính sách tiền tệ phát huy có hiệu quả. 5.3. Phát triển thị trường tài chính Tăng tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Cần phát hành cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần và tất cả cá công ty tài chính cổ phần, tăng vốn điều lệ và phát tiển loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế. Đẩy mạnh phát hành trái phiếu công trình, nhất là công trình quan trọng của nhà nước như điện nước, giao thông dầu khí.. huy động vốn đầu tư và nhu cầu khác của nền kinh tế. Thành lập các công ty chứng khoán thuộc các NHTM và cá tổ chức tín dụng. Hoàn thiện tín dụng chứng khoán sớm đưa vào thực hiện. 6. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với chính sách kinh tế vĩ mô khác. Việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ cần phải đặt trong tổng nền kinh tế, trong sự hài hoà với các chính sách kinh tế khác. Mọi sự khập khiễng, không đồng bộ từ khâu soạn thảo, ban hành chính sách.. điều có sự làm hạn chế hay làm triệt tiêu tác dụng của các chính sách khác. Vì vậy, hoàn thiện chính sách tiền tệ có nghĩa là hoàn thiện cơ chế điều hành, công cụ điều hành.. của chính sách tiền tệ để chính sách này trở nên có hiệu quả hơn, có nghĩa là xây xựng chính sách tiền tệ trong một thể thống nhất, thực hiện mục tiêu chung của nền kinh tế, hợp lý và hỗ trợ lẫn nhau. Đối với chính sách tài chính có mối tương quan đặc biệt với nhau, bởi hai chính sách này vừa có tính đồng nhất vừa có tư cách khác biệt với tư cách là hai chính sách độc lập nhưng phải có sự bổ sung và hỗ trợ cho nhau là rất cần thiết. Chính vì vậy, việc phối hợp, đồng bộ với chính sách tiền tệ với chính sách kinh tế vĩ mô khác là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế tiến tới xây dựng một đất nước Việt Nam giầu mạnh - con rồng châu Á trong thế kỷ 21 này. Kết kuận Qua quá trình nghiên cứu chính sách tiền tệ quốc gia nói riêng và chính sách kinh tế vĩ mô nói chung, chúng ta đã thấy rõ được vai trò và ý nghĩa của nó trong nền kinh tế bởi chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nên vị trí của chính sách tiền tệ trở nên hết sức quan trọng. Hoạch định một chính sách tiền tệ đòi hỏi cả một quá trình, sự linh hoạt và sự thống nhất trong sự áp dụng trên thực tiễn trước bối cảnh kinh tế quốc tế hiện nay. Bằng sự nỗ lực hiện tại và trong trong tuơng lai, sự kế thừa và phát huy những thành tựu của chính sách tiền tệ, chắc chắn chính sách tiền tệ của Việt Nam sẽ đóng góp vai trò quan trọng trong việc xây dựng một đất nước Việt Nam giầu mạnh, giai đoạn 2001- 2010 mà đảng nhà nước đã đề ra. Từ đó chính sách tiền tệ khắc phục được những yếu kém bất cập trong điều kiện nền kinh tế vĩ mô, tầng bước nâng cao vai trò điều tiết nền kinh tế nhằm nhằn đưa nền kinh tế đi đúng hướng, sánh vai với bè bạn quốc tế ./. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình lý thuyết tiền tệ - Trường đại học Tài chính Kế toán Hà Nội, NXB Tài chính, năm 1998. Kinh tế học - David begg. Thị trường vốn, Học viện Ngân hàng. Đổi mới chính sách tiền tệ và kiểm soát ở Việt Nam. Ngân hàng Việt Nam quá trình xây xựng và phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996. Tạp chí Tài chính số 8, 9, 10/1999, 1/2000. Tạp chí Tài chính Ngân hàng, số 12, 18, 19/1998; số 7, 8/1999.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTaichinh (56).DOC