Tiểu luận Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông qua thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước có thể kiểm soát chặt chẽ khối lượng nghiệp vụ thị trường mở – tác nhân ảnh hưởng trực tiếp lên cơ số tiền tệ, và quan trọng hơn cả là mục tiêu của chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt, chính xác, có hiệu quả. Tuy còn có một số vấn đề còn tồn tại trong việc sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở nhưng nghiệp vụ này vẫn có hiệu quả và có vai trò quan trọng đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đồng thời nghiệp vụ này trỏ thành một công cụ chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ Quốc gia tại Việt Nam. Tiểu luận đã đề cập được thực trạng hoạt động cũng như một số giải pháp của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam trong thời gian qua. Qua đó có thể đánh giá có hiệu quả việc áp dụng Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước và từ đó thấy được tầm quan trọng của NVTTM đối với chính sách tiền tệ nói riêng, đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung. Bản thân tiểu luận của em còn nhiều hạn chế, lời văn chưa mạch lạc. em rất mong sự đóng góp của các thầy cô về bài tiểu luận của em, để em có thể rút kinh nghiệm trong những bài viết sau. Em xin chân thành cảm ơn!

doc27 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1233 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời mở đầu 1 Nội dung Chương I: Hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở tại Việt nam 2 Khái quát chung về nghiệp vụ thị trường mở 2 .Khái niệm 3 . Nguyên lý thực hiện nghiệp vụ thị trường mở 3 Nghiệp vụ thị trường mở trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt nam 7 3. Kinh nghiệm của một số nước trên Thế giới khi áp dụng nghiệp vụ thị 10 trường mở Chương II: Thực trạng hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở và giải pháp 13 Thực trạng hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở tại Việt nam trong thời gian qua 13 1.1. Đánh giá tình hình hoạt động của NVTTM 13 1.2. Những kết quả đạt được sau 3 năm triển khai áp dụng NVTTM tại Việt Nam 15 Những tồn tại và hạn chế trong việc thực hiện NVTTM hiện nay tại Việt Nam. 17 3. Giải pháp và nâng cao hiệu quả hoạt động NVTTM ở nước ta 20 3.1. Làm thế nào để khắc phục tồn tại... 20 3.2. Những giải pháp cụ thể 22 Kết luận 25 Tài liệu tham khảo 26 Lời mở đầu Xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ là một đòi hỏi bức xúc để phù hợp với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhằm thực hiện tốt vai trò quản lý Nhà nước về tiền tệ của NHNN, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, đồng thời phù hợp với xu thế hội nhập với khu vực và Thế giới. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: Thực thi chính sách tiền tệ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo các nguyên tắc thị trường. Nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt nam. Để thực hiện vai trò trách nhiệm đã được Luật Ngân hàng Nhà nước quy định, NHNN đã sử dụng các công cụ tái cấp vốn, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các quy trình cần thiết khác do Thống đốc NHNN quyết định. Trong đó, nghiệp vụ thị trường mở được coi là một công cụ tái cấp vốn có hiệu quả nhất của chính sách tiền tệ. Kể từ khi thành lập (ngày 12/7/2000) cho tới nay, qua hơn ba năm triển khai thực hiện, nghiệp vụ thị trường mở đã hoạt động ổn định có thể khẳng định NHNN đã thu được thành công bước đầu trong việc đưa một công cụ mới vào điều hành chính sách tiền tệ. Và bản thân công cụ này cũng phát huy tốt vai trò của mình đối với các mục tiêu của chính sách tiền tệ như tác động tới vốn khả dụng của các Tổ chức tín dụng, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn... và trở thành một công cụ quan trọng của NHNN. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này nên em đã chọn đề tài: ''Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt nam '' làm tiểu luận nghiên cứu của môn học. CHƯƠNG I: Hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt nam Khái quát về nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở được Ngân hàng Anh áp dụng đầu tiên từ trước năm 1914 với mục đích là Ngân hàng Anh muốn tìm kiếm công cụ có hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng mong muốn. Còn tại Mỹ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) được thành lập vào năm 1913, ban đầu Ngân hàng dự trữ Liên bang Mỹ cũng sử dụng NVTTM như một công cụ bổ sung cho chính sách tái chiết khấu. Nhưng sau cuộc suy thoái kinh tế năm 1920-1921, Cục dự trữ Liên bang Mỹ- Ngân hàng Trung ương (viết tắt là FED) thiếu vốn nghiêm trọng, nguồn thu nhập trược đó của FED chủ yếu từ nghiệp vụ chiết khấu nhưng nay do cuộc khủng hoảng kinh tế đã làm khối lượng vay chiết khấu giảm sút, dẫn tới giảm nguồn thu. FED “bí tiền” đành nghĩ cách buôn bán chứng khoán kiếm lãi để tiếp tục hoạt động của mình. Trong khi thực hiện mua bán chứng khoán, bỗng nhiên các nhà điều hành chính sách tiền tệ phát hiện thấy dự trữ trong hệ thống Ngân hàng tăng lên và các khoản tiền gửi, khoản cho vay tăng lên gấp bội. Kết quả này được FED rút ra một bài học bổ ích từ thực tế vô tình là việc mua bán chứng khoán sinh lãi có thể làm thay đổi cơ số tiền tệ nhạy bén nhất. Kể từ đó, vào cuối năm 1920 giải pháp gọi là NVTTM đi vào cuộc sống của chúng ta; hiệu quả và tầm quan trọng NVTTM ngày càng tăng lên và nó trở thành công cụ chính sách tiền tệ được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả ở khắp các nước trên Thế giới. ở Việt nam, sau khi chuyển đổi cơ chế sang Ngân hàng hai cấp, kể từ năm 1989 đến nay Ngân hàng Trung ương đã và đang áp dụng một số giải pháp thường gọi là công cụ của chính sách tiền tệ như: tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, mức lãi suất trần, điều hành tỷ giá, đấu thầu tín phiếu kho bạc. Và năm 2000 là năm cuối cùng của thế kỷ 20 đã đánh dấu nhiều chuyển biến tích cực trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai thị trường đặc thù trong tổng thể thị trường tài chính là thị trường mở và thị trường chứng khoán đã chính thức hoạt động. NVTTM bắt đầu vận hành vào ngày 12/7/2000, ghi nhận việc điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp của NHNN Việt nam. NVTTM đã có tác động nhất định tới vốn khả dụng của các Tổ chức tín dụng tham gia thị trường, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối hợp giũa thị trường liên Ngân hàng- thị trường mở- thị trường chứng khoán trong các thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay. Có thể nói NVTTM của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là hoạt động hoàn toàn mới cả về lý luận và nội dung hoạt động đối với Việt Nam. 1.1 Vậy nghiệp vụ thị trường mở là gì? Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ của chính sách tiền tệ Ngân hàng Trung ương, là nơi diễn ra việc mua bán các loại chứng khoán ngắn hạn (là chủ yếu) giữa một bên là Ngân hàng Trung ương với một bên là khách hàng bao gồm: các Ngân hàng, các tổ chức phi Ngân hàng và tư nhân. Hay nói cách khác NVTTM chỉ các hoạt động giao dịch chứng khoán của Ngân hàng Trung ương với các đối tác được lựa chọn. Mà các giao dịch mua bán này giúp Ngân hàng Trung ương có thể thay đổi khối lượng tiền dự trữ theo mong muốn: muốn tăng dự trữ thực hiện nghiệp vụ mua, muốn giảm dự trữ thực hiện nghiệp vụ bán. Về mục đích, thị trường mở thoả mãn xuất phát điểm tiếp cận: thay đổi khối lượng tiền tệ dẫn tới thay đổi cầu tiền tệ cuối cùng thay đổi lãi suất. Diễn biến cụ thể là: Khi tăng trưởng tiền tệ và tín dụng đạt mức thấp hơn mong muốn, NHTƯ có thể tăng thêm dự trữ thúc đẩy tăng trưởng bằng cách mua chứng khoán trên thị trường mở. Việc tăng cường dự trữ theo cách này làm giảm bớt nhu cầu vay của các Ngân hàng trên cửa sổ chiết khấu, kết quả dẫn tới là lãi suất trên thị trường tín dụng nói riêng và trên thị trường vốn ngắn hạn nói chung được hạ xuống. Khi cần thiết phải xiết chặt tiền tệ, NHTƯ có thể giảm dự trữ bằng cách bán chứng khoán trên thị trường mở, hoặc tăng dự trữ chậm hơn so với cách làm khác, hành động này sẽ làm tăng nhu cầu vay trên cửa sổ chiết khấu, dẫn tới nhu cầu vay trên thị trường tín dụng và cuối cùng làm tăng lãi suất vốn ngắn hạn nói chung. Hiện nay, NVTTM được sử dụng như một công cụ chính sách tiền tệ có hiệu quả nhất ở hầu hết Ngân hàng Trung ương các nước, từ những nước phát triển cho đến những nước đang phát triển ở Châu á, Mỹ la tinh và các nước Đông âu. Nguyên lý thực hiện nghiệp vụ thị trường mở: Khi NHTW mua chứng khoán từ khách hàng (người bán) bằng séc, khách hàng gửi tờ séc đến NHTW để nhận trả tiền, NHTW chấp nhận thanh toán các séc chuyển đến đúng hạn, bằng cách ghi có tài khoản tiền gửi của ngân hàng người bán, làm tài khoản của ngân hàng này tăng lên. Do không phải khấu trừ cho một khoản giảm dự trữ nào cả nên tổng khối lượng tiền gửi tăng lên. Ngược lại, khi NHTW bán chứng khoán, kết quả của việc thanh toán làm giảm tiền gửi của ngân hàng phục vụ người mua tại NHTW. Cũng tương đương không có khoản bù đắp dự trữ tăng nào cả, nên tổng lượng tiền gửi giảm đi. Đặc tính thay đổi tiền tệ một phía với việc mua bán chứng khoán của NHTW đã làm nghiệp vụ thị trường mở trở thành một công cụ có sức mạnh, nhạy bén, chính xác hơn bất kỳ một công cụ nào khác của chính sách tiền tệ. Để hiểu rõ những đặc tính ưu việt của thị trường mở thì ta nghiên cứu tác động của công cụ này lên cơ số tiền tệ như sau: Như đã biết, cơ số tiền tệ được đo bằng khối lượng tiền đang lưu thông bao gồm tiền ngân hàng, tiền kho bạc trong xã hội và khối lượng tiền dự trữ của hệ thống ngân hàng bao gồm tiền trong két và tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW. Khối lượng tiền đang lưu thông và tiền dự trữ này là một bộ phận của tài sản Nợ trong bảng tổng kết tài sản của NHTW. Nhờ tính ưu việt của cấu trúc bảng tổng kết tài sản mà cơ số tiền tệ được xác định một cách dễ dàng bằng cách lấy tổng tài sản Có trừ đi các yếu tố tài sản Nợ còn lại. Các nhà hoạch định chính sách quan tâm nghiên cứu cơ số tiền tệ, bởi cơ số tiền tệ có quan hệ với lượng tiền cung ứng mà NHTW đang dày công tìm cách kiểm soát như một chỉ tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, NHTW không hứa hẹn chắc chắn có thể kiểm soát được toàn bộ khối lượng tiền tệ dự trữ thông qua tất cả các tác nhân làm tăng hoặc giảm cơ số tiền tệ trong bảng tổng kết tài sản, mà chỉ có thể kiểm soát chặt chẽ phần thay đổi cơ số tiền tệ nhờ thay đổi khoản mục chứng khoán được mua bán trên thị trường mở tạo nên. Khối lượng dự trữ này gọi là dự trữ không vay. Với ý nghĩa này nghiệp vụ thị trường mở được chọn làm công cụ để kiểm soát cơ số tiền tệ thông qua việc NHTW thực hiện mua bán chứng khoán sau đây: Mua chứng khoán của một ngân hàng trên thị trường mở: Khi mua chứng khoán của một ngân hàng với giả định là 100 tỷ đồng, NHTW phát hành một séc thanh toán 100 tỷ đồng, séc được ngân hàng – người bán để nhận lại tiền tại NHTW. Đến lượt mình, NHTW nhận thanh toán séc bằng cách hoặc ghi có tiền gửi của khách hàng hoặc trả bằng tiền mặt, tuy nhiên dù nhận loại tiền nào chăng nữa thì tài sản có của ngân hàng –người bán đó cũng tăng lên 100 tỷ đồng ở khoản mục dự trữ và giảm đi 100 tỷ đồng chứng khoán đã bán, tài khoản chữ T được ghi như sau: Ngân hàng bán chứng khoán____ Chứng khoán -100 Tiền dự trữ +100 Tại NHTW, tài sản Nợ tăng thêm100 tỷ đồng( tiền gửi khách hàng), đồng thời tài sản có cũng tăng thêm 100 tỷ đồng cho khoản chứng khoán vừa mua được, tài khoản chữ T là: Ngân hàng Trung ương_____ Chứng khoán + 100 Tiền dự trữ +100 Đến thời điểm này, tiền lưu hành không thay đổi nhưng cơ số tiền tệ tăng lên 100 tỷ đồng. Mua chứng khoán từ nguồn phi ngân hàng trên thị trường mở: Giả sử một pháp nhân hay một cá nhân bán cho NHTW 100 tỷ đồng chứng khoán lĩnh bằng séc, tờ séc đó được gửi đến một ngân hàng phục vụ, tài khoản chữ T của khách hàng sẽ là: ____ __ Khách hàng______________ Chứng khoán - 100 TG không kỳ hạn + 100 Ngân hàng phục vụ khách hàng nhân séc của khách hàng và ghi có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng 100 tỷ đồng, sau đó gửi tờ séc đến NHTW. Tài khoản chữ T của ngân hàng phục vụ được ghi __ Ngân hàng phục vụ____________ Tiền dự trữ + 100 TG không kỳ hạn + 100 Tại NHTW bảng tổng kết tài sản tăng thêm 100 tỷ đồng tiền dự trữ do ngân hàng phục vụ gửi tiền, đồng thời cũng tăng thêm 100 tỷ đồng giá trị chứng khoán mua được của khách hàng. Tài khoản chữ T của NHTW sẽ là: Ngân hàng Trung ương_______ Chứng khoán + 100 Tiền dự trữ +100 Như vậy, mua chứng khoán trên thị trường mở từ một khách hàng là ngân hàng hoặc phi ngân hàng đều cho một kết quả, tiền dự trữ của NHTW tăng lên 100 tỷ đồng. Bán chứng khoán của NHTW trên thị trường mở: Khi NHTW bán ra 100 tỷ đồng chứng khoán cho các ngân hàng hoặc cho công chúng thì cơ số tiền tệ lập tức giảm đi 100 tỷ đồng tương ứng. Ví dụ như NHTW bán cho một cá nhân 100 tỷ đồng chứng khoán thanh toán bằng tiền mặt. Tài khoản chữ T của khách hàng như sau: Khách hàng________ Chứng khoán + 100 Tiền mặt - 100 Tại NHTW giảm đi 100 tỷ đồng chứng khoán đã bán cho khách hàng, đồng thời cũng giảm đi 100 tỷ đồng tài sản do khách hàng rút tiền mặt để thanh toán chứng khoán của NHTW Tài khoản chữ T là: ___ Ngân hàng trung ương__________ Chứng khoán – 100 Tiền mặt lưu hành - 100 Tóm lại việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua hoạt động NHTW mua vào bán ra các loại chứng khoán( tín phiếu, trái phiếu kho bạc) có tác động mạnh tới thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) từ đó gây nên tác động dây chuyền tới một loạt biến số kinh tế như lãi suất, đầu tư, tỷ lệ thất nghiệp, GNP... Các số liệu về dự trữ tự do trong các ngân hàng có thể là dấu hiệu khá chính xác về tình hình trên thị trường tiền tệ (dự trữ tự do là phần chênh lệch giữa dự trữ vượt mức của các NHTM với các khoản vay chiết khấu mà các NHTM vay từ NHTW). Dự trữ tự do phản ánh tính sẵn có của các khoản vốn trên thị trường tiền tệ, phản ánh mức độ rộng rãi hoặc hạn chế của việc cung cấp vốn cho nền kinh tế của các NHTM. Do vậy dự trữ tự do có thể được sử dụng như là một mục tiêu hoạt động của NHTW. Theo đó, chiến lược thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ bao gồm các bước sau: Hàng tuần thực hiện Nghiệp vụ TTM à Tình hình thị trường tiền tệ à Dự trữ tự do à Hàng tháng Hàng tháng Hàng quý Tổng dự trữ Của các NHTM à Lượng tiền cung ứng à GNP Vậy chính nhờ phát hiện ra nghiệp vụ thị trường mở với tính năng tác dụng của nó mà NHTW chọn cơ số tiền tệ làm chỉ tiêu kiểm soát lượng tiền cung ứng. 2. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở đối với việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt nam: Với vai trò quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, NHNN tổ chức các hoạt động của mình nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các Tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trách nhiệm của NHNN trong việc thực hiện chính sách tiền tệ là xây dựng dự án chính sách tiền tệ Quốc gia, xây dựng và điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, điều hành kế hoạch cung ứng lượng tiền cho lưu thông theo tín hiệu thị trường trong phạm vi lượng tiền cung ứng được phê duyệt. Khi thực hiện chính sách tiền tệ, NHNN thường phải đứng trước các mục tiêu tổng thể chung là: mức công ăn việc làm cao (thường tương ứng với một mức tăng trưởng kinh tế), ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định hệ thống tài chính, ổn định thị trường ngoại hối... Một số giải pháp được được sáng tạo, hoàn thiện dần trong quá trình phát triển của hệ thống NHTW và được thừa nhận như những công cụ điều hành sắc bén hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên khối lượng tiền tệ, phạm vi tín dụng và mặt bằng lãi suất. Xuất phát điểm để tiếp cận khi áp dụng các giải pháp này là: làm thế nào để đạt được một khối lượng tiền tệ nhất định cho phép thay đổi cầu tiền tệ hiệu ứng dẫn tới thay đổi lãi suất; hoặc đạt được một mức lãi suất bằng cách cung tiền tệ hiệu ứng dẫn tới thay đổi cầu tiền tệ: Cầu tiền tệ Lãi suất Khối lượng tiền tệ Cung tiền tệ Lãi suất Cầu tiền tệ Với cách tiếp cận trên, đòi hỏi nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc giải pháp thích hợp khi áp dụng. Mặc dù vậy, hầu hết các NHTW đều lần lượt trải qua nhiều giải pháp, rồi quy tựu về một vài giải pháp chủ yếu như NVTTM; chính sách chiết khấu; mức dự trữ bắt buộc...Trong quá trình áp dụng các công cụ nói trên (trừ NVTTM ), NHNN đã từng bước xây dựng và hoàn thiện chúng. Sau một quá trình chuẩn bị, ngày 12 tháng 7 năm 2000 NHNN đã chính thức khai trương NVTTM. Đây là một bược tiến trong quá trình đổi mới điều hành chính sách tiền tệ theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ điều hành gián tiếp. Cho đến nay, NVTTM đã được thực hiện an toàn, đúng qui định theo định kỳ một tuần một lần vào một ngày cố định trong tuần. Tuy tác động của NVTTM đến những điều kiện của thị trường tiền tệ chưa đáng kể nhưng việc điều hành NVTTM của NHNN đã phù họp với mục tiêu chính sách tiền tệ, bám sát diễn biến của nền kinh tế thị trường và phần nào điều chỉnh vốn khả dụng của các Tổ chức tín dụng, thu hút khi thừa vốn và bơm thêm khi thiếu vốn. Cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, thời gian qua công cụ NVTTM đã được sử dụng tương đối linh hoạt, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của công cụ NVTTM đối với việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN. Việc mua bán giấy tờ có giá giữa NHNN với các chủ thể có liên quan tại NVTTM nhằm tác động trực tiếp tới lượng tiền cung ứng và gián tiếp tới lãi suất thị trường vốn ngắn hạn. Để thực sự phát huy hiệu quả của NVTTM thì thị trường tiền tệ cần phải có những yếu tố kỹ thuật cần thiết như : số lượng và chất lượng giấy tờ có giá, các thành viên tham gia thị trường phải có đủ điều kiện và cơ sở vật chất kỹ thuật lẫn trình độ quản lý vốn khả dụng, am hiểu kỹ thuật thị trường mở; cơ chế và kỹ thuật giao dịch; sự phối hợp giữa công cụ của chính sách tiền tệ, giữa các thị trường và tổ chức có liên quan. Trong thời gian qua đã có sự phối kết hợp giữa các công cụ, các thị trường đã tạo điều kiện tốt cho việc triển khai và thực hiện NVTTM. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc phát hành qua NHNN là nơi tạo ra hơn 80% khối lượng giấy tờ có giá được giao dịch tại NHNN. Thị trường này đã được NHNN triển khai từ năm 1995 nên cho đến nay hoạt động đã thường xuyên đều đặn. Thị trường nội tệ liên Ngân hàng được NHNN tổ chức từ năm 1994 đến nay đã qua nhiều giai đoạn điều chỉnh từ giao dịch trực tiếp tại NHNN và đến nay là hoạt động tự do của các ngân hàng. Tuy nhiên, thông qua các công cụ khác, NHNN đã giám sát và khích lệ hoạt động của NVTTM. Và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng được triển khai từ năm 1996 và duy trì hoạt động cho đến nay với hình thức giao dịch trực tiếp với NHNN. Tuy nhiên, phương thức giao dịch đã được thay đổi cho phù hợp với yêu cầu, điều kiện Việt nam. Ngoài ra, NHNN tiếp cận NVTTM bằng một trong hai hướng: Thứ nhất là: Dự báo cho thấy cung tiền tệ cần được tiếp tục điều chỉnh thì NHNN ngay lập tức mua hoặc bán chứng khoán theo hình thức mua đứt bán đoạn( mua bán hẳn). Thứ hai là: nếu dấu hiệu yêu cầu chỉ cần tạm thời thay đổi dự trữ tiền tệ, hoặc các yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng lên dự trữ dự báo cần thiết phải rút bớt, hay bù đắp trạng thái dự trữ, hoặc tổng quan về dự trữ trong thời gian tới là thiếu ổn định, thì NHNN trực tiếp thực hiện các giao dịch tác động lên cung tiền tệ bằng các hợp đồng mua lại đối với các trường hợp muốn tăng dự trữ tạm thời, và bằng các giao dịch bán- mua đảo ngược- muốn giảm dự trữ tạm thời. Có thể khẳng định rằng, hầu hết các NHTW các nước nói chung, NHNN Việt nam nói riêng đều đề cao NVTTM như một công cụ đầu bảng trong hệ thống các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. 3. Kinh nghiêm của một số nước trên Thế giới khi áp dụng công cụ NVTTM: ở Hàn Quốc: Việc sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ của Hàn Quốc: Vào những năm 1980, nghiệp vụ thị trường mở ở nước này chưa được coi là công cụ của chính sách tiền tệ. Sự kém phát triển đó là do NHTW thiếu các công cụ tài chính để giao dịch trên thị trường. Lúc đầu, thị trường chỉ giao dịch với 3 công cụ gồm: chứng khoán chính phủ, chứng khoán được chính phủ bảo đảm và chứng khoán có thể chuyển nhượng do NHTW phát hành gọi là trái phiếu ổn định tiền tệ (MSBs). Càng về sau, trong điều kiện Chính phủ phụ thuộc vào các khoản vay của NHTW để trang trải cho thâm hụt ngân sách hơn là phát hành chứng khoán Chính phủ, NHTW không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc mua bán trên thị trường mở trái phiếu ổn định tiền tệ do chính mình phát hành để bù đắp thâm hụt ngân sách. Đây là giao dịch bất đắc dĩ, cuối cùng các tín hiệu thị trường mở bị bóp méo trở thành “ thị trường đóng”. Gần đây NHTW và Chính phủ Hàn Quốc đã cố gắng tạo ra một môi trường thuận lợi cho thị trường mở hoạt động theo đúng nghĩa thông thường của nó. Thâm hụt ngân sách được bù đắp thông qua phát hành công trái Chính phủ thay vì sự vay NHTW trước đây. Việc thay đổi này đã làm tăng khối lượng phương tiện thanh toán, góp phần đưa thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả. ở Mỹ: Một số nước khác có thị trường tài chính phát triển, thị trường đối với chứng khoán Chính phủ thoả mãn các điều kiện đòi hỏi của NVTTM. NHTW các nước này thực hiện phần lớn các NVTTM thông qua thị trường này. Chẳng hạn như ở Mỹ, thị trường chứng khoán Chính phủ có doanh số giao dịch bình quân tới 100 tỷ đô la/ ngày, đây là khả năng giao dịch ở mức độ rộng và mạnh nhất thị trường tài chính nước Mỹ, có thể đảm đương một khối lượng đăng ký giao dịch rất lớn với tất cả các ngân hàng, các tổ chức phi ngân hàng, các doanh nghiệp, các cá nhân và các nhà môi giới ... bằng điện thoại và các dịch vụ mạng cáp kết nối giữa các giao dịch viên và các khách hàng trên toàn nước Mỹ. Dưới đây, số liệu của Cục dự trữ liên bang Mỹ sẽ cho ta thấy chứng khoán loại nào được mua bán trên thị trường mở ? Đó là tín phiếu kho bạc có thời hạn thanh toán dưới 1 năm, thời hạn bình quân theo danh mục của liên bang là 3 năm đối với các trái phiếu kho bạc và 5 năm đối với tất cả các chứng khoán kho bạc khác đang được sử dụng để buôn bán. Các chứng khoán kho bạc trên 10 năm cũng được sử dụng để giao dịch vì các chứng khoán này có tính thanh khoản cao trên thị trường vốn, được lưu giữ ở dự trữ liên bang, ở các ngân hàng, trong các hộ gia đình và ở nước ngoài, nói cách khác chúng đáp ứng được các điều kiện đòi hỏi của thị trường mở. Số dư tài khoản chứng khoán trên thị trường mở (Đơn vị: tỷ USD) Thời hạn Chứng khoán kho bạc CK các cơ quan liên bang Tổng số Dưới 1 năm` 209,5 1,8 211,3 Từ 1- 5 năm 83,7 1,8 85,5 Từ 5- 10 năm 25,3 0,6 25,9 Hơn 10 năm 33,1 0,0 33,1 Tổng cộng 351,6 4,2 355,8 Giá trị giao dịch trên thị trường mở Cục dự trữ liên bang Mỹ (Đơn vị: tỷ USD) Hình thức giao dịch 1990 1991 1992 1993 Mua hẳn 25,2 31,4 34,1 36,9 Bán hẳn 7,6 1 1,6 0 Hợp đồng mua lại 189,9 508,7 533,3 627,6 Bán- mua đảo ngược 48,3 75,3 28,6 10,9 Chương II. Thực trạng hoạt động của thị trường mở và những giải pháp 1.Thực trạng hoạt động của NVTTM tại Việt nam trong thời gian qua: Đánh giá tình hình hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở : Sau một thời gian nghiên cứu kinh nghiệm Quốc tế, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết, cách đây hơn ba năm, ngày 12/7/2000, Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã chính thức đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động. Việc thực hiện nghiệp vụ này đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng trong việc điều hành chính tiền tệ của NHNN, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp, phù hợp với thông lệ Quốc tế. Trong năm 2000, NHNN chủ yếu áp dụng phương thức đấu thầu lãi suất, chỉ duy nhất có 4 phiên giao dịch đầu tiên là áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng. Trong thời gian này, lãi suất đăng ký giao động thấp nhất ở mức 4,00%/ năm đến mức cao nhất 5,58%/ năm. Nhìn chung lãi suất này đã phản ánh được diễn biến tình hình lãi suất của thị trường trong thời gian đó. NHNN đã tiến hành bán tín phiếu NHNN để hút vốn khả dụng dư thừa, đồng thời từ đó có thể tạo thêm hàng hoá cho hoạt động của NVTTM và cũng giúp các Ngân hàng có điều kiện để tập dượt tham gia đầy đủ các hình thức giao dịch của NVTTM ( cụ thể tháng 8/2000 trong 3 phiên giao dịch, NHNN đã bán được hẳn 550 tỷ đồng, đạt kết quả 100% cuối tháng 2 và đầu tháng 3 năm 2001 tiến hành liên tục 4 phiên giao dịch với hình thức bán hẳn với tổng khối lượng là 470 tỷ đồng). Từ tháng 7/2000 đến tháng 12/2001, NHNN đã tổ chức được 64 phiên đấu thầu NVTTM, với tổng doanh số giao dịch là 5.636 tỷ đồng; trong đó có 24 phiên trực hiện đấu thầu lãi suất, 40 phiên thực hiện đấu thầu khối lượng. Nếu tính riêng năm 2001, NHNN đã tổ chức được 48 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng vốn chính thức giao dịch mua bán là 3.833,81 tỷ đồng, bán hẳn 470,0 tỷ đồng, bán có kỳ hạn 150 tỷ đồng và mua hẳn 60 tỷ đồng. Trong năm 2002, bàng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch là mua có kỳ hạn và bán hẳn, NHNN đã tổ chức được 85 phiên thị trường mở, với tổng khối lương giao dịch 9.145,53 tỷ đồng, bằng 232,48% so với năm 2001. Thông qua đó NHNN cung ứng thêm vốn cho nền kinh tế, hoặc rút bớt tiền từ lưu thông về, tạo điều kiện cho các NHTM tham gia có hiệu quả thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Cụ thể thông qua 57 phiên giao dịch theo phương thức mua có kỳ hạn, NHNN đã cung ứng 7.245,53 tỷ đồng vốn cho NHTM. Thông qua 28 phiên giao dịch theo phương htức bán hẳn, NHNN đã thu hút về 1.900 tỷ đồng vốn. Lãi suất trúng thầu trên thị trường mở bình quân khi mua vào là 4,9%/năm và lãi suất trúng thầu bán ra là 4,7%/ năm. Tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay của các NHTM đối với các doanh nghiệp và khách hàng. Trong năm 2003, bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch là mua có kỳ hạn và bán hẳn, tính đến ngày 16-12-2003, NHNN đã tổ chức được 102 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng trúng thầu ước tính là 16.740 tỷ đồng, trong đó khối lượng giấy tờ có giá NHNN mua hẳn ước tính là 9.500 tỷ đồng, bán hẳn là 7.240 tỷ đồng. Tức là thông qua thị trường này trong năm 2003, NHNN đã cung ứng gần 8.000 tỷ đồng cho các NHTM; tăng đáng kể so với năm 2002 và năm 2001,... Xu hướng đó một mặt NVTTM thực sự có hiệu quả trong việc tác động vào vốn khả dụng của NHNN, chủ động thu hút tiền về hoặc bơm tiền ra lưu thông trên cơ sở cung cầu vốn của thị trường; mặt khác cũng chứng tỏ thị trường mở hấp dẫn đối với các NHTM. Tác động tích cực làm giảm nhiệt trên thị trường tiền tệ. Lãi suất trên thị trường mở trong thời gian qua giảm dần phản ánh diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ và lãi suất ngắn hạn trong nền kinh tế. Lãi suất trên thị trường mở cũng giảm dần phản ánh diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ trong suốt cả năm 2003, phản ánh sát lãi suất trong nền kinh tế. Thông qua phương thức xét thầu riêng lẻ, trong phiên giao dịch tháng 1/ 2003 lãi suất trúng thầu xoay quanh mức 4,8%- 5%/ năm, tháng 2/2003 xoay quanh mức 4,6%- 4,8%/ năm thì các phiên giao dịch trong tháng 11/2003 lãi suất trúng thầu của thị trường mở giảm xuống chỉ còn 2,3%- 2,7%/ năm. Trong nửa đầu tháng 12/2003 thì tăng lên, đạt mức 3,5%-3,8%/ năm trong phiên giao dịch thứ 102 ngày 16/12/2003. Điều đó chứng tỏ các NHTM đang linh hoạt sử dụng vốn khả dụng của mình. Đây cũng là cơ sở để cho lãi suất huy động vốn có kỳ hạn ngắn giảm xuống mức thấp. Đồng thời thực tế vận hành nghiêp vụ thị trường mở trong năm 2003 tiếp tục khẳng định, từ tháng 6/2002 khi chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận Đồng Việt nam, thì cùng với lãi suất đấu thầu tín phiếu Kho bạc Nhà nước, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ Swap giữa NHNN và TCTD, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất NVTTM đã có tác động tích cực vào lãi suất của các TCTD giao dịch với khách hàng. Các loại giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường mở trong năm 2003 đều có thời hạn ngắn. Giao dịch trong quý I thời hạn còn lại của giấy tờ có giá là từ 15 ngày đến 60 ngày, quý II là từ 15 ngày đến 91 ngày, từ cuối tháng 5 đến giữa tháng 7 phần lớn là 91 ngày, từ cuối tháng 7 đến tháng 12/2003 là 30 ngày đến 60 ngày. Luật NHNN Việt nam sửa đổi được kỳ họp Quốc hội thông qua ngày 16-6-2003 vừa qua, đã cho phép các loại giấy tờ có giá dài hạn còn thời hạn ngắn được giao dịch trên thị trường tiền tệ. Theo quy định của nội dung sửa đổi, bổ sung Luật NHNN vừa được công bố thì thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá, bao gồm tín phiếu Kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia. Ngoài ra việc mua bán ngắn hạn là việc mua bán có kỳ hạn không quá một năm các giấy tờ có giá; trong đó bao gồm cả các loại giấy tờ có giá có thời hạn trên một năm nhưng còn thời hạn thanh toán dưới một năm được phép giao dịch mua bán trên thị trường mở với NHNN. Đây là một dạng của thị trường tiền tệ mà thông qua đó NHNN tác động vào tình hình vốn khả dụng của các NHTM, tác động vào lãi suất trong nền kinh tế, thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Trong năm 2003, các NHTM đầu tư khối lượng vốn khá lớn, ước tính khoảng gần 7.000 tỷ đồng vào các loại giấy tờ có giá có thời hạn trên một năm, đó là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu dầu khí, công trái giáo dục và khoảng trên 15.000 tỷ đồng tín phiếu Kho bạc có thời hạn dưới một năm. Do đó tới đây, khối lượng và tổng giá trị giấy tờ có giá ngắn hạn và còn thời hạn ngắn có điều kiện giao dịch tren thị trường mở là rất lớn. Tóm lại là trong thời gian qua NVTTM đã thể hiện bằng hoạt động tích cực của mình đối với công việc thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia của Nhà nước. 1.2. Những kết quả đạt được sau 3 năm triển khai NVTTM tại Việt nam: Qua hơn ba năm triển khai thực hiện, NVTTM đã hoạt động ổn định có thể khẳng địnhNHNN đã thu được thành công bước đầu trong việc đưa một công cụ mới vào điều hành chính sách tiền tệ, nhằm tác động tới vốn khả dụng của các Tổ chức tín dụng. Đến nay đã có 22 Tổ chức tín dụng được cấp giấy chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường mở, tăng thêm 4 thành viên so với khi mới thành lập; trong đó có 4 Ngân hàng Thương mại Nhà nước, 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần, 1 Ngân hàng liên doanh, 5 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, 1 công ty tài chính và Quỹ tín dụng Trung ương. Quy mô doanh số hoạt động của thị trường mở ngày càng tăng thể hiện sự sự phát triển triển ổn định và bền vững của nghiệp vụ mới này, được thể hiện cụ thể ở bảng số liệu sau: Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 6 tháng cuối năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 102 phiên 2003 (đến16.12.03) Tổng cộng 1. Doanh số hoạt động 1.903,5 3.933,8 9.145,53 16.740* 31.722,83 - NHNN mua 1.353,5 3.313,8 7.245,53 9.500* 21.412,83 - NHNN bán 550 620 1.900 7.240 10.310 2. Số phiên giao dịch 17 48 85 102 252 (* Số liệu ước tính) Ngân hàng Nhà nước đã đưa vào sử dụng thành công một công cụ gián tiếp trong việc điều hành chính sách tiền tệ và đã dần củng cố thêm vị trí quản lý của mình trong nền kinh tế thị trường, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay và trong quan hệ quốc tế, đã đạt được những kết quả bước đầu khá khích lệ như: - Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần tác động vào vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng từ đó góp phần thực hiện các nghiệp vụ mà Ngân hàng Nhà nước đặt ra, ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động của hệ thống Ngân hàng. - Bằng cách “ bơm tiền” ra lưu thông qua nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần thúc đẩy sản suất, nâng cao sức mua của xã hội và thực hiện đúng mục tiêu kích cầu của Chính phủ trong điều kiện nền kinh tế có dấu hiệu giảm phát trong thời gian qua. - Các văn bản pháp lý cho hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với thực tiễn của Việt nam. Việc lắp đạt các trang thiết bị, thiết kế chương trình phần mềm phục vụ cho hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện khẩn trương, có hiệu quả và đạt được kết quả tốt, từ đó tạo điều kiện cho các giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở diễn ra trôi chảy, đảm bảo đúng quy chế, quy trình và an toàn. - Công tác điều hành, tổ chức thực hiện nghiệp vụ thị trường mở luôn thực hiện đúng quy định, và đã dần bám sát được tình hình diễn biến thị trường về vốn khả dụng và lãi suất. Mặc dù là một công cụ điều hành chính sách hoàn toàn mới ở Việt nam nhưng NVTTM đã thu hút được khá đông đảo các thành viên tham gia. Thông qua việc tham gia NVTTM các thành viên đã sử dụng nguồn vốn của mình một cách có hiệu quả và linh hoạt hơn trong điều kiện thực tiễn của nền kinh tế. Doanh số hoạt động của NVTTM không ngừng tăng lên, thể hiện tính ưu việt của thị trường này trong việc sử dung nguồn vốn của các Tổ chức tín dụng. Như vậy qua một thời gian hoạt động, việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở của NHNN luôn tỏ ra là một công cụ có hiệu quả cao trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. 2. Những tồn tại và hạn chế trong việc thực hiện NVTTM hiện nay tại Việt nam: Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện việc điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ gián tiếp nghiệp vụ thị trường mở tương đối linh hoạt, đã đáp ứng được phần nào đó nhu cầu về vốn khả dụng cũng như giải quyết được một phần lượng vốn khả dụng dư thừa trong một số thời kỳ. Các công cụ và hình thức thực hiện cũng đã được áp dụng, tương đối thành công như: đấu thầu lãi suất, đấu thầu khối lượng, xét khối lượng đấu thầu theo phương pháp tính lãi suất riêng lẻ v.v... Tuy nhiên, do còn hạn chế cả về cơ sở vật chất, trình độ cán bộ, sự đơn sơ của thị trường tài chính cũng như khối lượng giấy tờ có giá do các thành viên nắm giữ... nên tác động can thiệp của Ngân hàng Nhà nước thông qua NVTTM vẫn còn rất hạn chế. Cụ thể, có những vấn đề khó khăn và còn tồn tại như sau: Hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động. Thể hiện là số lượng thành viên tham ra thị trường còn quá ít, cụ thể trong mỗi phiên giao dịch NVTTM chỉ có từ 1 đến 4 thành viên tham gia, chiếm tỷ lệ tương đối thấp(15%) so với tổng số các thành viên tham gia NVTTM và chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số Tổ chức tín dụng. Các thành viên tham gia chủ yếu là các Ngân hàng Thương mại Nhà nước (do lượng hàng hoá chủ yếu đều tập trung vào các Ngân hàng này, họ nắm giữ tới hơn 70% Tín phiếu kho bạc và Tín phiếu Nhà nước). Còn các Tổ chức tín dụng khác nhìn chung không đủ điều kiện cạnh tranh tại các phiên đấu thầu trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Do vậy trong các phiên giao dịch của thị trường mở gần đây hầu như không có một Ngân hàng Thương mại cổ phần nào tham gia. Về hàng hoá trên thị trường mở còn nghèo nàn, cũng chỉ mới có các loại giấy tờ có giá ngắn hạn mới được mua bán trên thị trường, song cho đến nay chỉ có tín phiếu kho bạc và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước được mua bán. Tín phiếu NHNN được mua bán nhiều nhất với số lượng 1.070 tỷ/1448,500 tỷ đồng. Tín phiếu kho bạc Nhà nước chỉ có 378,500 tỷ đồng nếu tính theo giá trị khi đến hạn thanh toán. Vì những giấy tờ có giá này chỉ tập trung vào Tổ chức tín dụng có quy mô lớn nên đã hạn chế tác dụng của công cụ này. Về phương thức giao dịch, các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu kho bạc Nhà nước, còn phương thức bán hẳn ít được thực hiện và đặc biệt phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực thi.Thêm nữa thời gian giao dịch mỗi tuần một phiên và thời gian thanh toán hiện tại vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của các Tổ chức tín dụng trong việc điều hoà vốn của mình. Có thể lấy dẫn chứng cụ thể như sau: tính đến cuối tháng 8 năm 2001 NHNN đã thực hiện 41 phiên đấu thầu NVTTM với doanh số 4.313,3 tỷ đồng. Lượng vốn giao dịch thông qua thị trường như vậy còn nhỏ bé và chưa có tác động tích cực tới lượng tiền cung ứng. Là do chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (vì nghiệp vụ này mới chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 2000) mà điển hình là sự thiếu hụt tiền mặt VNĐ trong hệ thống Ngân hàng Thương mại trong thời gian trước đây. Đó là tháng 7 năm 2000, một loạt các Ngân hàng Thương mại đã lâm vào tình trạng thiếu hụt VNĐ dẫn đến tâm lý lo ngại VNĐ mất giá khiến cho người gửi tiền vào Ngân hàng không muốn gửi bằng VNĐ, các Ngân hàng cũng lúng túng do không thể huy động đủ vốn VNĐ để phục vụ nhu cầu cho vay bằng VNĐ. Trong khi đó thì Ngân hàng Nhà nước cũng chưa có biện pháp tích cực gì để giải quyết mà chỉ dùng biện pháp cung ứng tiền ra lưu thông qua các kênh mua ngoại tệ, thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn, tái chiết khấu nhưng số tiền cung ứng thêm này không nhiều hơn số tiền thu về nên tổng lượng tiền đưa vào lưu thông không tăng. Để giải quyết sự khan hiếm tiền mặt VNĐ, NHNN đã cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (SWAP). Thực chất của nghiệp vụ này này là việc NHNN cho các NHTM vay bằng VNĐ mà đảm bảo tiền vay là các lượng ngoại tệ (USD) có giá trị tương ứng. Nhưng lãi suất từ việc vay vốn này lại khá cao, lãi suất đối với hợp đồng vay SWAP là 1 tháng( 30 ngày) là khoảng 1% cao hơn lãi suất huy động từ những nguồn khác. Cộng với tình hình tỷ giá hối đoái biến động trong thời gian qua thì việc sử dụng nghiệp vụ này chưa thực sự là biện pháp có hiệu quả. Thêm vào đó, nhu cầu giữ tiền mặt để đầu tư vào kinh doanh bất động sản cũng là một nguyên nhân dẫn tới sự rút vốn bằng VNĐ ra khỏi hệ thống Ngân hàng và số tiền này nằm thụ động trong lưu thông. Hoạt động NVTTM là một hoạt động hoàn toàn mới nên một số Tổ chức tín dụng vẫn còn nhiều bỡ ngỡ và chưa có nhiều kinh nghiệm khi tham gia giao dịch. NVTTM ra đời trong điều kiện nền kinh tế còn đang ở trình độ phát triển thấp và chưa ổn định, thị trường tài chính và thị trường tiền tệ chưa phát triển, môi trường hoạt động của các Tổ chức tín dụng còn chứa đựng nhiều rủi ro. Bên cạnh đó các Tổ chức tín dụng cũng chưa quan tâm đúng mức tới công tác đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trực tiếp chuyên sâu vào NVTTM và việc đầu tư trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho nghiệp vụ này còn nhiều bất cập. Mặt khác, do các Tổ chức tín dụng hiện tại vẫn chủ yếu quan tâm đến các nghiệp vụ truyền thống như tín dụng nên chưa có thói quen kinh doanh trên thị trường tiền tệ mà điển hình là thông qua NVTTM. Ngoài ra, luật Ngân hàng Nhà nước quy định chỉ có các giấy tờ có giá ngắn hạn mới được giao dịch trên thị trường mở nên phạm vi hoạt động của NVTTM đã bị thu hẹp. Thêm vào đó việc chỉ đạo lãi suất đấu thầu và khối lượng giao dịch trong các phiên giao dịch cũng chưa linh hoạt. Tốc độ tăng trưởng cung ứng vốn tại NVTTM thấp hơn so với nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng các giấy tờ có giá. Và chương trình phần mềm hệ thống đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở không tập trung nên các thành viên khó sử dụng và không tự khắc phục được. Như vậy, những tác động và hiệu quả của NVTTM tới chính sách tiền tệ chưa sâu rộng và thiết thực, việc thực hiện nghiệp vụ này là không dễ dàng và còn gặp rất nhiều khó khăn. 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ thị trường mở ở nước ta: 3.1. Làm thế nào để khắc phục những tồn tại trên để nâng cao hiệu quả tác động của NVTTM tới chính sách tiền tệ. Thứ nhất NVTTM thực chất là hoạt động của Ngân hàng Trung ưong trên thị trường mở để tác động tới lượng tiền cung ứng trong từng thời kỳ. ở giai đoạn đầu, thành viên thị trường mở là các TCTD là phù hợp. Tuy nhiên, các tổ chức này hiện nay chưa thực sự cần đến thị trường mở để điều tiết vốn khả dụng của mình và NHNN cũng chưa có biện pháp tích cực chỉ huy nghiệp vụ này. Một trong các điều kiện tham gia NVTTM là các thành viên phải có giấy tờ có giá để bán và chủ động được vốn khả dụng của mình. Nhưng các TCTD chưa đầu tư nhiều vào giấy tờ có giá ngắn hạn do nhiều nguyên nhân và thực ra họ vẫn thiếu sự bình đẳng trong kinh doanh. Trong khi đó, các NHTM quốc doanh được vay theo chỉ định nên có nhiều lợi thế trong giao dịch trên thị trường Mở được vay với giá rẻ để mua giấy tờ có giá có lãi suất lợi hơn. Còn các Ngân hàng Thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng ít có được ưu thế này. Điều này không kích cầu tín dụng, tạo ra sự phân biệt đáng kể trên thị trường. Như vậy, để cho các TCTD ngoài quốc doanh tham gia NVTTM một cách thực sự thì NHNN phải tạo cho họ một sân chơi bình đẳng, tức là giảm cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Ngoài ra cần phải tuyên truyền thường xuyên sâu rộng cho các TCTD về nghiệp vụ này. Thứ hai tạo hàng hoá cho NVTTM. Một trong những tồn tại tạo ra sự đơn điệu của NVTTM vừa qua là sự khan hiếm hàng hoá. Theo quy định hiện nay, chỉ những giấy tờ có giá như tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác được giao dịch ở thị trường. Quy định này đã làm giảm khả năng và phạm vi mua bán của các loại giấy tờ có giá khác hiện có ở Việt nam như trái phiếu trung và dài hạn... trên thị trường mở khi mà thời gian đáo hạn của chúng còn dưới một năm. Tuy không phải là nhiều, nhưng các loại trái phiếu hiện có thể giao dịch trên thị trường mở không phải là ít. Riêng tín phiếu kho bạc( thời hạn dưới 1 năm) và trái phiếu kho bạc(thời hạn 1 năm) từ tháng 6/1995 đến tháng 9/ 2000 được đấu thầu qua NHNN với 39 đợt đấu thầu là 15.282,8 tỷ đồng, trong đó 11.126,7 tỷ đồng là trái phiếu kho bạc và 4.156,1 tỷ đồng là tín phiếu. Nếu được phép giao dịch thì loại trái phiếu kho bạc này sẽ là một loại hàng hoá tốt cho thị trường mở. Ngoài ra, các loại trái phiếu ngân hàng, trái phiếu công ty... đã phát hành như: trái phiếu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam, trái phiếu chính quyền địa phương nếu còn thời hạn dưới 1 năm cũng nên được chấp nhận ở thị trường mở. Việc sử dụng tín phiếu NHNN chỉ là giải pháp trong thời kỳ đầu và không thể lạm dụng, còn loại hàng hoá cần cho thị trường mở là thương phiếu thì cho tới nay chưa phổ biến. Việc phát hành tín phiếu kho bạc vẫn được tiến hành thường xuyên, vấn đề là tạo ra thị trường thứ cấp cho loại hàng hoá này. Rõ ràng là sự khan hiếm đồng thời về hàng hoá giữa thị trường mở và thị trường chứng khoán đã làm cho hai thị trường này không thể hiện đúng bản chất vốn có của nó. Tuy nhiên, nếu như NVTTM được phép sử dụng các trái phiếu kho bạc đã phát hành khi chúng còn thời gian đáo hạn ngắn thì luân chuyển vốn sẽ dễ dàng hơn. Thứ ba phương thức giao dịch phù hợp nhất với NVTTM là mua bán có kỳ hạn, mà Ngân hàng Trung ương là người chủ động quyết định mua bán với số lượng bao nhiêu, thời gian nào, theo phương thức nào là tuỳ theo yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Vì vậy, NVTTM cần phát huy tính linh hoạt cao trong thực tế sử dụng, mà phương thức mua bán hẳn chỉ phù hợp với giai đoạn đầu. Bên cạnh đó theo quy chế NVTTM, NHTW có thể thực hiện đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. Việc đấu thầu khối lượng xảy ra khi lãi suất cố định được tính toán và chỉ đạo, còn đấu thầu lãi suất sẽ xác định lãi suất trúng thầu tại điểm mà khối lượng tiền cần bơm vào hay rút ra khỏi lưu thông đạt được. Chính các mức lãi suất này sẽ quyết định giá của giấy tờ có giá trên thị trường mở. Để khuyến khích các tổ chức tín dụng tham gia NVTTM, trong giai đoạn đầu, NHNN cần kết hợp cả hai hình thức đấu thầu này. Thứ tư hoàn thiện thị trường liên ngân hàng. Thị trường Mở và NVTTM chỉ thực sự hữu hiệu trên cơ sở thị trường liên ngân hàng phát triển. Trong lịch sử, thị trường liên ngân hàng hoạt động trước khi thị trường Mở hoạt động. Ơ Việt nam, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có vai trò khá lớn trong luân chuyển vốn ngoại tệ, xác định và điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Song hiện nay, thị trường nội tệ liên ngân hàng gần như đóng băng, điều này đã làm giảm đáng kể khả năng quản lý của NHNN. Vì vậy, việc hoàn thiện thị trường liên ngân hàng cần phải được xem là cơ sở cho các hoạt động khác của NHNN trong bối cảnh thị trường tài chính đã thiết lập và đi vào hoạt động. 3.2 Những giải pháp cụ thể: Để từng bước ổn định và đưa vào hoạt động NVTTM thành công cụ chủ đạo trong việc thự hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: - NHNN cần sớm trình Quốc hội về việc sửa Luật NHNN theo hướng cho phép các chứng khoán dài hạn (thời hạn từ một năm trở lên) được giao dịch tại thị trường tiền tệ nói chung và thị trường Mở nói riêng. Cần sớm ban hành các văn bản dưới luật để Luật sửa đổi nhanh chóng đi vào cuộc sống và để tạo điều kiện cho thời gian tới đây hàng hoá của thị trường mở sẽ đa dạng, phong phú hơn. - Việc cung ứng thêm tiền ra lưu thông cũng như rút bớt tiền về của NHNN thông qua thị trường này cần được thực hiện linh hoạt hơn nữa, đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho nền kinh tế cũng như tác động đến lãi suất trên thị trường. Thêm nữa NHNN cũng nên hoàn thiện hơn nữa các khâu kỹ thuật, tổ chức,... để thu hút các NHTM cổ phần tham gia thị trường. Và lãi suất trong các phiên đấu thầu cũng cần linh hoạt hơn nữa để nó có thể tác động có hiệu quả vào lãi suất trong nền kinh tế. - Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình cơ cấu lại tổ chức và hoạt động của các NHTM nhằm nâng cao năng lực tài chính và tín nhiệm trong việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu đổi mới trong nền kinh tế thị trường. - Thúc đẩy hoạt động của các thị trường như: thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu Tín phiếu kho bạc và thị trường mua bán lại các giấy tờ có giá giữa TCTD với TCTD, giữa TCTD với khách hàng nhằm tạo động lực thúc đẩy hoạt động thị trường mở ngày càng phát triển. - Bên cạnh đó, NHNN nên tổ chức đi khảo sát kinh nghiệm một số nước thành công trong việc vận hành NVTTM, với sự tham gia của các NHTM cổ phần để họ có thêm thực tế trong việc linh hoạt vốn khả dụng, nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Ngoài ra, NHNN và các TCTD cần có những biện pháp cụ thể thiết thực để áp dụng cho tương lai nhằm góp phần nâng cao việc thực hiện NVTTM như sau: Đối với các Tổ chức tín dụng: Thứ nhất là mở rộng các loại hình kinh doanh, dịch vụ như đầu tư tín, trái phiếu Chính phủ trên thị trường sơ cấp, tạo hàng hoá cho các giao dịch với NHNN. Thứ hai là hoàn chỉnh các quy định về thị trường mua bán lại tín phiếu giữa Tổ chức tín dụng với khách hàng và đưa thị trường này vào hoạt động, nhằm sử dụng linh hoạt và hiệu quả nguồn vốn kinh doanh. Thứ ba là quan tâm và tạo điều kiện trong việc đào tạo cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ để có đủ khả năng dự báo vốn khả dụng của đơn vị và phân tích đưa ra quyết định chính xác cho từng giao dịch tại NVTTM. Đồng thời trang bị bổ sung cơ sở vật chất, bảo đảm đầy đủ điều kiện giao dịch thị trường mở thuận lợi chính xác. Đối với Ngân hàng Nhà nước: Thứ nhất : Rà soát và hoàn chỉnh các cơ chế, quy chế làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường nói chung và NVTTM nói riêng cho phù hợp với diễn biến về kinh tế, chính trị, xã hội trong từng thời kỳ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD tham gia. Thứ hai: Trên cơ sở duy trì các loại giấy tờ có giá như tín phiếu Kho bạc, tín phiếu NHNN là hàng hoá cho các phiên giao dịch tại NVTTM, từng bước mở rộng và đa dạng hoá các loại hàng hoá khác như: tín phiếu, kỳ phiếu của NHTM Nhà nước. Thứ ba: Từng bước nâng cao chất lượng dự báo, điều hành thị trường trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cải tiến chế độ cung cấp thông tin trong và ngoài ngành (sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị NHNN, các TCTD, cán bộ, ngành có liên quan). Thứ tư: Điều hành các công cụ khác của chính sách tiền tệ để hoạt động NVTTM thể hiện tính nổi trội hơn hẳn về mặt hiệu quả kinh tế trên thị trường. Phối kết hợp trong việc điều hành hoạt động NVTTM và các nghiệp vụ khác như chiết khấu giấy tờ ngắn hạn với các ngân hàng, cho vay cầm cố bằng giấy tờ có giá ngắn hạn, hoán đổi ngoại tệ... để thực hiện tốt mục tiêu của chính sách tiền tệ. Kết luận Thông qua thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước có thể kiểm soát chặt chẽ khối lượng nghiệp vụ thị trường mở – tác nhân ảnh hưởng trực tiếp lên cơ số tiền tệ, và quan trọng hơn cả là mục tiêu của chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt, chính xác, có hiệu quả. Tuy còn có một số vấn đề còn tồn tại trong việc sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở nhưng nghiệp vụ này vẫn có hiệu quả và có vai trò quan trọng đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đồng thời nghiệp vụ này trỏ thành một công cụ chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ Quốc gia tại Việt Nam. Tiểu luận đã đề cập được thực trạng hoạt động cũng như một số giải pháp của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam trong thời gian qua. Qua đó có thể đánh giá có hiệu quả việc áp dụng Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước và từ đó thấy được tầm quan trọng của NVTTM đối với chính sách tiền tệ nói riêng, đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung. Bản thân tiểu luận của em còn nhiều hạn chế, lời văn chưa mạch lạc... em rất mong sự đóng góp của các thầy cô về bài tiểu luận của em, để em có thể rút kinh nghiệm trong những bài viết sau. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên: Nguyễn Phương Thảo Tài liệu tham khảo Giáo trình: Ngân hàng Trung ương. Thời báo Kinh tế Việt nam – năm 2003. Tạp chí Ngân hàng – số 4 năm 2000. Tạp chí Ngân hàng – số 2 năm 2001. Tạp chí Ngân hàng – số 9 năm 2001. Tạp chí Ngân hàng – số 6 năm 2003. Tạp chí Kinh tế và Phát triển – số chuyên đề năm 2002. Tạp chí Ngân hàng – số 3 năm 2003. 9. Tạp chí Ngân hàng – số 1 năm 2004.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0841.doc
Tài liệu liên quan