Tiểu luận Giải pháp kiềm chế lạm phát và triển vọng kinh tế Việt Nam

NHÌN LẠI CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT VÀ TRIỂN VỌNG KINH TẾ VIỆT NAM HẬU KHỦNG HOẢNG Hiện trạng tăng chỉ số giá cả (CPI) ở Việt Nam có mầm móng từ năm 2005 - 2006, khi mà nền kinh tế Việt Nam đang trên đã ổn định về cơ cấu và nhịp độ tăng trưởng. Tình trạng đó kéo dài suốt 2007. Song do hạn chế về khả năng dự báo và sự nhạy bén trong điều hành kinh tế vĩ mô mà lạm phát bùng phát ở “đỉnh điểm” vào cuối quí I/2008 với mức tăng giá tiệm cận tới 20%. Điều này như một cảnh báo về tính bức xúc của việc điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ, mà trong đó, chính sách tiền tệ là tiêu điểm. Nhìn từ bối cảnh của lạm phát ở Việt Nam (mà trực tiếp là hiện tượng tăng CPI), không thể nói đó là biểu hiện của nền kinh tế suy thoái hay khủng hoảng tiền tệ có tính nguy cấp, mà nó đang diễn ra trong trạng thái kinh tế có những chuyển biến tích cực. Có thể nói, lạm phát diễn ra theo các chu trình kinh tế, có tính “qui luật”; ví như quá trình kinh tế – xã hội phát triển theo đường “xoắn ốc”. Điều này cũng đồng nghĩa trong quá trình phát triển, cái cũ được thay thể dần bằng các nhân tố mới, tích cực hơn, phù hợp hơn nhưng cái cũ cũng không tự phủ định ngay mà cần phải có quá trình theo qui luật chuyển hóa lượng thành chất. Lạm phát có thể diễn ra ở một quốc gia, khu vực hay quốc tế. Trong một quốc gia, lạm phát có thể diễn ra toàn cục hay cục diện đồng thời nó cũng phản ánh sự tác động từ hai nhân tố: một là, do sự suy thoái kinh tế; hai là, tạo ra các tác nhân tích cực để phá vỡ toàn cục hay cục bộ các quan hệ kinh tế cũ, xác lập môi trường cho chu trình kinh tế mới. Ở Việt Nam hiện tượng lạm phát diễn ra trong bối cảnh mà nền kinh tế đang chuyển động tích cực, thể hiện qua các yếu tố sau: NHÌN LẠI CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT VÀ TRIỂN VỌNG KINH TẾ VIỆT NAM HẬU KHỦNG HOẢNG

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1915 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giải pháp kiềm chế lạm phát và triển vọng kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GiẢi pháp kiỀm chẾ lẠm phát và triỂn vỌng kinh tẾ viỆt nam NHÌN LẠI CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT VÀ TRIỂN VỌNG KINH TẾ VIỆT NAM HẬU KHỦNG HOẢNG - Nhìn lại các giải pháp kiềm chế lạm phát và triển vọng kinh tế Viêt Nam hậu khủng hoảng Bối cảnh diễn tiến lạm phát ở Việt Nam có nhiều cách nhìn và nhận định khác nhau. Với cách nhìn xuyên suốt ngay từ khởi đầu về hiện tượng này, tác giả xin bày tỏ các quan điểm sau: 1. Có phải mọi hiện tượng lạm phát đều bắt nguồn từ nguyên nhân suy thoái kinh tế? Hiện trạng tăng chỉ số giá cả (CPI) ở Việt Nam có mầm móng từ năm 2005 - 2006, khi mà nền kinh tế Việt Nam đang trên đã ổn định về cơ cấu và nhịp độ tăng trưởng. Tình trạng đó kéo dài suốt 2007. Song do hạn chế về khả năng dự báo và sự nhạy bén trong điều hành kinh tế vĩ mô mà lạm phát bùng phát ở “đỉnh điểm” vào cuối quí I/2008 với mức tăng giá tiệm cận tới 20%. Điều này như một cảnh báo về tính bức xúc của việc điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ, mà trong đó, chính sách tiền tệ là tiêu điểm. Nhìn từ bối cảnh của lạm phát ở Việt Nam (mà trực tiếp là hiện tượng tăng CPI), không thể nói đó là biểu hiện của nền kinh tế suy thoái hay khủng hoảng tiền tệ có tính nguy cấp, mà nó đang diễn ra trong trạng thái kinh tế có những chuyển biến tích cực. Có thể nói, lạm phát diễn ra theo các chu trình kinh tế, có tính “qui luật”; ví như quá trình kinh tế – xã hội phát triển theo đường “xoắn ốc”. Điều này cũng đồng nghĩa trong quá trình phát triển, cái cũ được thay thể dần bằng các nhân tố mới, tích cực hơn, phù hợp hơn nhưng cái cũ cũng không tự phủ định ngay mà cần phải có quá trình theo qui luật chuyển hóa lượng thành chất. Lạm phát có thể diễn ra ở một quốc gia, khu vực hay quốc tế. Trong một quốc gia, lạm phát có thể diễn ra toàn cục hay cục diện… đồng thời nó cũng phản ánh sự tác động từ hai nhân tố: một là, do sự suy thoái kinh tế; hai là, tạo ra các tác nhân tích cực để phá vỡ toàn cục hay cục bộ các quan hệ kinh tế cũ, xác lập môi trường cho chu trình kinh tế mới. Ở Việt Nam hiện tượng lạm phát diễn ra trong bối cảnh mà nền kinh tế đang chuyển động tích cực, thể hiện qua các yếu tố sau: - Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển lành mạnh với nhịp độ tăng trưởng những năm gần đây trên 8% hàng năm. - Cơ cấu kinh tế vĩ mô và vi mô đang dần vào thế ổn định và có xu hướng chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa. Minh chứng là năm tháng đầu năm 2007 so với năm 2008, sản lượng công nghiệp tăng 16,4%, giá trị xuất khẩu tăng 27,2%, dịch vụ du lịch tăng khá và tổng mức bán lẻ tăng 29,7%. - Vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh chưa từng có so với 10 năm qua. Tính đến tháng 6/2008 các dự án được cấp phép đã lên đến 324, với tổng số vốn đăng ký 31,6 tỷ USD tăng 160% so với 6 tháng đầu năm 2007. - Tiềm lực kinh tế dưới dạng các công trình kinh tế đang xây dựng với hàng tỷ USD lần lượt được hoà mạng và sẽ tham gia làm gia tăng GDP và tích lũy kinh tế quốc dân. - Kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa với tốc độ phát triển nhanh, đa dạng tương đối ổn định góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế và mở rộng nhu cầu về nguồn lực ở nhiều cấp độ khác nhau. - Lương thực, một nhân tố quan trọng bảo đảm ổn định đời sống và chính trị vẫn còn nhiều tiềm năng trong cung ứng tiêu dùng, dự trữ và xuất khẩu (4,5 triệu tấn 2008) đủ hậu thuẫn cho một nền kinh tế phát triển lành mạnh. - Cung – cầu lao động tiếp tục tăng trưởng trong mọi lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế; đặc biệt cầu về lao động có trình độ cao đang tăng nhanh – dấu hiệu của một nền kinh tế đang trên lộ trình hiện đại hóa. - Thể chế kinh tế và cơ chế điều hành thị trường đang được hoàn thiện theo hướng đa phương hóa, đa diện hóa đang tiến vào chiều sâu trên con đường hội nhập. Tuy nhiên do ảnh hưởng quá nghiêm trọng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam muốn đi đến phục hồi phải cần có một quá trình. Từ phân tích những đặc điểm trên, có thể rút ra: Thứ nhất, lạm phát ở Việt Nam hiện nay, không do nguyên nhân suy kém của nền kinh tế mà xuất phát từ yêu cầu bức xúc về chuyển hóa mâu thuẫn giữa tình trạng kinh tế nội tại với xu thế phát triển kinh tế theo xu hướng toàn cầu hóa. Do vậy cần xử lý bằng thái độ bình tĩnh. Thứ hai, với mức lạm phát 2 con số thì việc giảm phát xuống 1 con số cần có quá trình, không thể nóng vội. Thứ ba, cần nhận diện và phân tích một cách toàn diện, xác thực các tác nhân khách quan và chủ quan gây lạm phát để hình thành đối sách thích ứng, không quá “cứng” cũng không quá “nhu” nhằm chủ động kiểm soát lạm phát một cách hữu hiệu. Thứ tư, các giải pháp đưa vào thực thi nhằm kiềm chế lạm phát cần song hành giữa tình thế và tính chiến lược một cách tương thích, để vừa bảo đảm giảm phát lành mạnh vừa tạo nền cho sự ổn định và phát triển vững chắc. 2. Việt Nam có tránh được lạm phát như đã diễn ra không? Như trên đã phân tích, hiện tượng lạm phát của Việt Nam đang diễn ra về cơ bản là do yêu cầu của sự chuyển biến về chất của nền kinh tế, thể hiện qua mâu thuẫn giữa nội sinh và ngoại lực trong điều kiện Việt Nam thâm nhập sâu, rộng vào tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Vì sao nó diễn ra trong thời gian này. Điều đó cần xem xét trên 2 phương diện kinh tế ngoại lực và nội sinh. Tác động của ngoại lực Nếu khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1997 – 1998, Việt Nam dường như đứng “ngoài cuộc”. Song sau hơn 10 năm tiếp tục đổi mới, kinh tế Việt Nam đang dấn sâu vào công cuộc hội nhập khu vực và quốc tế với sự gia nhập vào ASEAN, AFTA (CEPT), WTO và các quan hệ đa phương đơn phương khác, đã đưa kinh tế Việt Nam vào vòng ảnh hưởng “dây chuyền”, bởi những biến động của kinh tế khu vực và toàn cầu. Trong đó có những nhân tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp. Vừa qua, yếu tố tác động trực tiếp và sâu rộng có tính toàn cầu là sự khủng hoảng năng lượng mà chủ yếu là xăng dầu đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình lạm phát ở Việt Nam – giá xăng dầu liên tục leo thang từ vài chục USD thùng rồi 140USD, đã thâm nhập trên diện rộng trong lưu thông hàng hóa, từ khâu ngoại nhập rồi lan rộng đến thị trường làm tăng chỉ số giá cả CPI dẫn tới phá vỡ mặt bằng giá cũ, khó có thể kiềm chế trong thời gian ngắn. Nếu chính phủ không kiềm giá “xăng dầu” trong thời gian qua thì chỉ số giá tăng còn trầm trọng hơn. Đây là yếu tố khách quan mà tiềm lực kinh tế Việt Nam chưa đủ khả năng chủ động kiểm soát và ngăn chặn. Điều này có thể liên hệ với cuộc khủng hỏang ở Mỹ những năm 70 thế kỷ 20, khi mà khối OPEC cấm vận xăng dầu đối với Mỹ để phản đối Mỹ đứng về phía ISRAEL trong cuộc chiến với các nước Ả Rập. Cuộc khủng hỏang dẫn tới lạm phát kéo dài đến cuối thập niên đó, mặc dù Mỹ là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới. Chúng ta thường nói “nội lực là chính” nhưng trong cuộc khủng hoảng này, xét trong chừng mực nào đó ngoại lực đang ảnh hưởng rất mạnh mẽ và sâu rộng. Các nước hàng đầu thế giới Mỹ, Nhật, EU đã hỗ trợ hàng ngàn tỷ USD để cứu vớt nền kinh tế. Song hiệu quả của các gói kích hoạt kinh tế đó cần có nhiều thời gian. Kinh tế thế giới đang suy thoái bao trùm và cần nhiều thời gian phục hồi thực trạng đó làm sa sút nghiêm trọng đến kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam và ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, bởi kim ngạch xuất khẩu ở Việt Nam chiếm gần 70% GDP. Đây là tác nhân quan trọng làm suy giảm kinh tế Việt Nam và tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc không ít vào nhân tố đó. Ngoài ra Việt Nam còn chịu tác động của đồng USD giảm giá, làm ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu tăng nhập siêu. Số nhập siêu tính đến tháng 5/2008 tăng 55,3% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó sự giảm giá của đồng USD cũng tạo cơ hội cho đầu cơ xăng dầu ảnh hưởng đến cung – cầu thêm tác nhân tiềm ẩn cho giá xăng dầu leo thang liên tục, giá vàng dao động bất thường, không có lợi cho nền kinh tế. Giá vàng tuy diện ảnh hưởng của nó là giới hạn và gián tiếp đến một bộ phận XH đặc biệt trên thị trường bất động sản song cũng góp phần thêm tác nhân biến động tiêu cực đến mặt bằng giá cả trong thời lạm phát cả về mặt thực thể, tâm lý. Ngoài ra sự biến động của giá vàng mang tính tự phát, mà chính phủ vẫn chưa có đủ các giải pháp điều hành có hiệu lực, không thể coi là yếu tố đứng ngoài quá trình lạm phát. Những tác động trên có thể là những yếu tố “nhập khẩu” lạm phát. Tác động nội sinh Với đặc điểm kinh tế Việt Nam, quá trình dấn sâu vào công cuộc hội nhập cũng là quá trình đòi hỏi hòan thiện toàn diện đồng bộ thể chế, cơ chế quản lý để thích ứng với xu thế toàn cầu hóa kinh tế. Với đặc thái đó, trong điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ, khó tránh khỏi những khiếm khuyết, mà những khiếm khuyết đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến môi trường lạm phát. Cụ thể: a) Năng lực dự báo kinh tế Mầm móng lạm phát đã có triệu chứng từ 2005-2006 với chỉ số gia tăng khó kiềm chế. Hiện tượng này được lộ diện từ ngoại lực và nội sinh. Song các dự báo về bối cảnh kinh tế thế giới và tác động của nó đối với nội tình kinh tế Việt Nam, dường như còn thiếu một “chỉ đạo chính thống” và chưa đặt mình trong thế thực sự hội nhập để có những phương sách ứng phó tương thích. Do vậy, mà chỉ sau khi mức độ lạm phát lên “cao điểm” vào giữa quí I/2008, mới xuất hiện là các giải pháp mang tính tình thế và sau đó mới hình thành những chính sách căn cơ. b) Điều hành vĩ mô chính sách tài chính – tiền tệ Chính sách tài chính – tiền tệ được coi như là công cụ kinh tế nhạy cảm và nếu không phù hợp sẽ dễ gây “tổn thương” cho nền kinh tế, đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp đến lạm phát. Những ảnh hưởng này thể hiện cụ thể: Thứ nhất, về chính sách tài khóa: chính sách tài khóa thông qua hoạt động của ngân sách nhà nước là sự bội chi triền miên trong nhiều năm qua duy trì ở mức 5% GDP. Kéo theo đó là sự kém hiệu quả trong phân bổ ngân sách như: chi đầu tư công quá lớn (40% tổng đầu tư xã hội bằng vốn trong nước) lại dàn trải và bình quân không tạo được những bước “đột phá” kinh tế. Quản lý ngân sách chưa thật sự thóat khỏi cơ chế bao cấp, thông qua cấp phát, hỗ trợ cho các doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau; tạo sự ỉ lại cũng như sự hỗ trợ cho lảng phí tham nhũng công quỹ, mà lẽ ra các đối tượng đó phải thực hiện cơ chế tự chủ tài chính từ lâu. Chi thường xuyên còn nhiều lảng phí, chỉ riêng chi cho hội họp của các bộ, ngành, địa phương có thể lên đến hàng trăm tỷ hàng năm mà rất ít hiệu quả. Do cơ chế quản lý ngân sách còn lỏng lẻo, cũng tạo cơ hội cho tham nhũng, đục khoét vốn ngân sách nhà nước với con số khó lường. Cơ chế xin cho vẫn còn tồn tại kể cả vốn ODA, làm mất cân đối về “cầu” giữa các ngành các địa phương, đồng thời cũng không bảo đảm nguyên tắc công bằng trong phân phối vốn ngân sách nhà nước… Những khiếm khuyết nói trên của chính sách tài khóa diễn ra trong nhiều năm thật sự là những tác nhân trực tiếp tạo mầm mống và cơ hội lạm phát khi nó cùng “cộng hưởng” với những yếu tố khác. Thứ hai, về dự trữ bắt buộc, việc “buông lỏng” dự trữ bắt buộc đối với các định chế tài chính trung gian, nay “đột ngột” xiết chặt bằng tỷ lệ 4 – 11% trên tổng số dư tiền gửi cũng gây hiệu ứng đến quan hệ cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân, cụ thể là góp phần “kích chế” lãi suất ngân hàng thương mại theo hướng “tự phát” nhất thời, theo lợi ích trước mắt không lường đến hệ quả. Điều này được coi là một trong những tác nhân tiềm ẩn đến những động thái của lạm phát. Thứ ba, về thị trường chứng khoán việc hình thành “giá ảo” đưa cao trào giá, cách biệt quá xa với thực giá cổ phiếu vào cuối năm 2006, đã tạo ra một tầng lớp “tỷ phú mới” một cách bất ngờ ngọan mục khiến họ có đủ khả năng dự phần và làm “nóng” giá bất động sản. Do tăng cầu về bất động sản cơ hội đầu tư vào thị trường này cũng tăng nhanh làm tăng cung tín dụng từ ngân hàng thương mại, dẫn tới ảnh hưởng toàn cục đến cung – cầu tín dụng về thị trường bất động sản, lan ra các lĩnh vực hoạt động khác. Hậu kỳ của cao trào “giá ảo” là sự thoái trào với những phiên “chợ chiều” ế ẩm kéo dài. Nếu thời cao điểm cuối 2006, có những loại cổ phiếu giá giao dịch gấp 15 – 20 lần mệnh giá của nó, thì nay đồng loạt rớt giá và không ít có nhiều loại cổ phiếu chỉ giao dịch với 0,4 – 0,6% mệnh giá của chúng. Những động thái đó của thị trường chứng khoán - một khâu trọng yếu của thị trường tài chính, không thể không dự phần quan trọng vào những diễn biến của lạm phát. Thứ tư, dòng vốn nước ngoài tăng nhanh vào đầu tư trực tiếp và gián tiếp (thị trường chứng khoán …), góp phần tăng trưởng tiền tệ, tỷ lệ tăng tín dụng trên 38% so với tốc độ tăng trưởng GDP 8% cũng góp phần làm cho lượng tiền tham gia lưu thông tăng đáng kể, ảnh hưởng đến lượng cung – cầu trên thị trường. Bên cạnh đó tiền trong dân còn hàng chục ngàn tỷ mà ngân hàng không kiểm soát được, cũng có cơ hội tham gia vào cao trào lạm phát. c) Điều hành các hoạt động kinh tế khác Ở đây chỉ đề cập đến các quan hệ kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình lạm phát đó là: - Về cơ cấu kinh tế: cơ cấu kinh tế Việt Nam hiện nay chưa thực sự bảo đảm mục tiêu cho việc hòan thành cơ bản công nghiệp hóa vào năm 2020, theo các góc độ nhìn dưới đây: + Nhìn trên toàn cảnh cơ cấu này chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng và tính hiện đại theo mục tiêu công nghiệp hóa nói trên trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế và cần có những bước điều chỉnh quan trọng tiếp theo. + Cơ cấu kinh tế ở các thành phố lớn có vai trò đầu tàu và động lực chưa định hình rõ nét của 1 cơ cấu công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp hoặc dịch vụ – công nghiệp – bền vững. + Cơ cấu nông nghiệp chưa được chuyển dịch căn bản theo hướng công nghiệp hóa bởi hơn 70% lao động vẫn còn gắn với nông nghiệp. + Ngoài ra, việc các tập đòan kinh tế và tổng công ty nhà nước đầu tư đa lĩnh vực ngoài chức năng chính, chủ yếu là tập trung vào các ngành bất động sản, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, với mức đầu tư trên 7.370 tỷ VND, cũng vừa tạo thêm sự mất cân đối về cơ cấu và tính kém hiệu quả xã hội của nó trong cơ cấu đầu tư. Hiện trạng đó, đang diễn ra trong mâu thuẩn giữa kinh tế nội tại với yêu cầu của hội nhập, đang là những yếu tố quan trọng tạo sự phát sinh đan xen, pha lẩn về lạm phát cầu kéo, lạm phát cung (chi phí đẩy) v.v… góp phần “hậu thuẫn” vào “trào lưu” lạm phát. - Điều hành bất động sản còn xa rời nguyên tắc đất đai là sở hữu toàn dân, tạo môi trường thiếu bình đẳng về hướng thụ giữa các tầng lớp xã hội. Hậu quả đó là nảy sinh đầu cơ bất động sản phục vụ lợi ích (siêu lợi nhuận) cho một số ít và nắm khả năng lủng đoạn, tạo giá cả bất ổn định của thị trường bất động sản làm tăng nhu cầu tín dụng đầu tư trên thị trường này, gây nên sự thiếu “an cư lạc nghiệp” đối với một tầng lớp dân cư đông đảo và tác động dây chuyền đến giá cả trên nhiều thị trường khác. Nếu chúng ta không khắc phục bằng việc áp dụng các chính sách tài chính (thuế, lãi suất tín dụng…) để điều tiết (như các nước phát triển) thì nó vẫn còn cơ hội tạo ra các yếu tố tiêu cực và các tình huống bất ngờ trong trong quá trình tiếp sau… - Dịch bệnh lan rộng gây thiệt hại lớn trong nông nghiệp, đẩy giá lương thực, thực phẩm tăng nhanh. Ngoài ra cũng còn một số yếu tố khác có tác động hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp đến sự bất ổn của thị trường. Từ phân tích trên về những tác động khách quan, chủ quan của ngoại lực và nội sinh, cùng với những khiếm khuyết khó tránh khỏi trong điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ, cộng thêm áp lực đối với kinh tế Việt Nam trong quá trình dấn sâu vào công cuộc hội nhập theo nguyên tắc đa phương hóa, đa dạng hóa, thì Việt Nam khó tránh khỏi lạm phát vừa qua. Đó là sự đan xen giữa “nhập khẩu” lạm phát và lạm phát “nội tại” trong quá trình phát triển. Cũng cần nhấn mạnh rằng hiện tượng lạm phát đó, có thể được coi như một diễn tiến tích cực, nhằm xác lập lại mặt bằng kinh tế mới cho quá trình phát triển bền vững theo xu hướng toàn cầu hóa. Nhiệm vụ trọng yếu của chính phủ hiện nay là phải lựa chọn các phương sách và giải pháp phù hợp, hiệu quả để nhanh chóng khắc phục lạm phát tạo cơ hội phát triển trên tầm cao mới. 3. Đánh giá các giải pháp thực thi về kiềm chế lạm phát Để có cơ sở đánh giá đúng mức các giải pháp kiềm chế lạm phát do chính phủ đề xuất, trước hết có thể tham khảo: Theo công bố của WB hôm 9/6/2008 rằng: “có những dấu hiệu cho thấy gói chính sách bình ổn kinh tế của Việt Nam đã tỏ ra hiệu quả…” và WB còn nhận định rằng “việc thắt chặt tín dụng như một phần của gói giải pháp ổn định kinh tế đã có tác động …” đối với nhiều lĩnh vực hoạt động. Tương tự chủ tịch Ngân hàng phát triển Á Châu (ADB) và giám đốc Ngân hàng này tại Viêt Nam cũng đánh giá như trên tại các diễn đàn các nền kinh tế đang nổi (1-7/2008). Các giải pháp mà chính phủ Việt Nam đưa ra để kiềm chế lạm phát trong thời gian qua có thể phân thành 2 loại: thứ nhất là, giải pháp “nhạy cảm” hay giải pháp “tình thế”; thứ hai là, các giải pháp căn cơ (chiến lược). 3.1. Các giải pháp “nhạy cảm” đó là giải pháp khống chế lãi suất tiền gửi dưới mức 12% (NHNN 26/2/2008) trong bối cảnh các ngân hàng thương mại chạy đua lãi suất lên 14 – 15%, đặc biệt là lãi suất ngắn hạn từ 1 – 3 tuần lên tới 13%/năm cá biệt lên 18%/năm thừ 1 – 3 tháng (Navibank). Sự kiện khống chế lãi suất tiền gửi dưới 12% nói trên, trong bối cảnh và thời điểm đó là hợp lý bởi: Thứ nhất, nếu không có sự can thiệp đúng lúc nói trên của Ngân hàng Nhà nước, thì khó tránh khỏi sự rối lọan trong trật tự lưu thông tiền tệ, dẫn đến hậu quả khó lường, ảnh hưởng lớn đến chi phí kinh doanh, có thể là xúc tác làm gia tăng lạm phát về “cung” (chi phí đẩy). Thứ hai, do coi trọng lợi ích trước mắt, các ngân hàng thương mại tăng nhanh lãi suất tín dụng qua đêm và ngắn hạn, như đã đề cập ở trên, dễ tạo ra nguồn tín dụng “bong bóng” bởi dòng tiền chạy lòng vòng theo lợi ích cục bộ làm giảm thế ổn định bền vững về nguồn vay của các ngân hàng thương mại, không thể không ảnh hưởng bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế. Vượt qua cơn “sốt” tín dụng nói trên và tháng 6/2008 Ngân hàng Nhà nước cho tháo gỡ trần lãi suất vay 12% và cho vay 18% (19/5/2008) và tiếp tục điều chỉnh lãi suất cho vay 14% và lãi suất cho vay 24% và lãi suất cho vay 21% (11/6/2008), đã đáp ứng được đòi hỏi của thị trường tín dụng theo diễn biến của thị trường tiền tệ. Đó là những bước đi có bài bản, hợp thời, hợp lý và có hiệu lực tức thời. Trên cơ sở đó tiếp tục điều chỉnh linh hoạt theo diễn tiến kinh tế. Tuy nhiên những giải pháp của ngân hàng nhà nước khống chế lãi suất trần rồi tháo gỡ nó theo bối cảnh và thời điểm nói trên, cũng có những phản ứng khác nhau. Trong đó có quan điểm cho rằng việc khống chế lải suất trần 12% trong bối cảnh và thời điềm đó, là xa rời nguyên tắc thị trường, thậm chí có những yếu tố vi phạm luật (TG C.S.K). Quan niệm này có thể là một nhận thức máy móc về vai trò của nhà nước trong cơ chế kinh tế thị trường. Cần nhấn mạnh rằng, vai trò của nhà nước luôn hiện diện trong bất cứ nền kinh tế nào và tùy vào trình độ phát triển của nền kinh tế mà mức độ, phương pháp và hình thức can thiệp khác nhau, kể cả phương pháp kinh tế và biện pháp hành chính (can thiệp vô hình và hữu hình). Nếu ở các nước phát triển (Mỹ, Âu), đã có nền kinh tế thị trường thực thụ, kinh tế tư nhân giữ địa vị thống trị; ở đó vai trò kinh tế của nhà nước chủ yếu được can thiệp bằng các phương pháp kinh tế. ví dụ: để kiểm soát lạm phát vừa qua, Chính phủ các nước này hỗ trợ 950 ngàn tỷ USD chiếm 17% GDP thế giới cho các ngân hàng để kiềm chế lãi suất tín dụng và ổn định tiền tệ. Ở Việt Nam – nền kinh tế thị trường còn “phôi thai”, chưa hội đủ các yếu tố đích thực của kinh tế thị trường, đồng thời kinh tế nhà nước đang giữ vai trò chủ đạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từ những đặc thù đó, ngoài việc sử dụng phương pháp kinh tế nhà nước còn sử dụng các biện pháp hành chính có “giới hạn” để điều hành nền kinh tế vì lợi ích của quốc kế dân sinh. Do vậy việc nhà nước can thiệp bằng biện pháp hành chính có “giới hạn” trong điều hành chính sách tiền tệ bằng việc khống chế lãi suất trần 12% và nới dần theo các động thái kinh tế là hợp lý, hơn nữa nhà nước cũng không đủ tiềm lực tài chính để hỗ trợ các ngân hàng thương mại kiềm chế lãi suất. Có thể liên hệ, từ sau cuộc khủng hoảng tiền tệ ĐNA 1997 nhiều chuyên gia nước ngoài và Việt kiều kiến nghị liên tục với chính phủ Việt Nam là nên phá giá đồng tiền thả nổi tỷ giá hối đoái. Song chính phủ vẫn kiên trì điều hành tỷ giá linh hoạt sát với giá thị trường. Kết quả đã được minh chứng. Hoặc nếu chính phủ thả lỏng việc điều hành giá một số mặt hàng chiến lược chủ lực và thiết yếu 14 mặt hàng thì có thể kinh tế được ổn định như thời gian qua không? Không nên hiểu kinh tế thị trường, đặc biệt là với đặc điểm của Việt Nam là mọi quan hệ đều được thả nổi theo quy luật giá trị, qui luật cung cầu, và cạnh tranh không lành mạnh là phù hợp với nguyên tắc thị trường. 3.2. Đánh giá về các giải pháp căn cơ (chiến lược) để kiềm chế lạm phát. Tiếp sau các giải pháp, nhạy cảm, Chính phủ đã đưa ra 7 giải pháp căn cơ để kiềm chế lạm phát. Nhìn trên toàn cục, các giải pháp này có tầm chiến lược và thích ứng với quá trình kiểm soát lạm phát diễn ra trong thế phát triển tích cực theo xu hướng toàn cầu hóa kinh tế ở Việt Nam. Trong hệ thống giải pháp đó, có những giải pháp có tính quyết định có giải pháp hỗ trợ cũng với các giải pháp đồng bộ, hướng vào tiêu điểm là kiềm chế một cách tích cực tình hình lạm phát đồng thời bảo đảm sự ổn định căn cơ trong quan hệ qua lại giữa kinh tế và xã hội cho quá trình phát triển bền vững tiếp sau. 3.2.1. Về các giải pháp có tính chất quyết định Các giải pháp này tập trung vào các lĩnh vực tài chính, tiền tệ và những khâu trọng yếu trong phát triển sản xuất, lưu thông, phân phối, vừa có tác động trực tiếp và lâu dài đến sự ổn định và tạo cơ hội chuyển hóa của nền kinh tế, với 4 giải pháp sau: Thứ nhất, chính sách thắt chặt tiền tệ… thực chất, lạm phát do tác động của nhiều yếu tố như: cơ cấu kinh tế, tình hình xuất nhập khẩu, mức cung tiền, quan hệ tín dụng, chính sách tài khóa… Song nó biểu hiện tập trung qua lăng kính của các quan hệ tiền tệ. Do đó phải sử dụng các chính sách và công cụ tiền tệ để can thiệp và kiểm soát lạm phát. Giải pháp này trước hết, đòi hỏi phải hình thành cơ chế lãi suất linh hoạt, ứng biến với diễn tiến của thị trường tiền tệ một cách có hiệu quả đi đôi với điều chỉnh các quan hệ tín dụng hướng vào các hoạt động kinh tế trọng yếu, mà các hoạt động đó tác động có hiệu lực trong kiềm chế lạm phát. Đồng thời đòi hỏi phải có sự phối họp đồng bộ giữa ngân hàng trung ương, hệ thống ngân hàng thương mại, các định chế tài chính trung gian khác và kể cả ngân sách nhà nước trong việc bảo đảm các thanh khỏan của nền kinh tế… đây có thể được như giải pháp trung tâm và có tính quyết định trong kiềm chế lạm phát, phù họp với các động thái trong thời lạm phát. Thứ hai, về chính sách tài khóa, cắt giảm đầu tư công với hàng ngàn tỷ một cách có cân nhắc, đối với những công trình chưa thật thiết yếu lên tới gần 7.000 tỷ VNĐ (riêng ngân sách nhà nước cắt giảm 5.876 tỷ VNĐ) và giảm chi thường xuyên (10%) trong tổng chi ngân sách nhà nước, nhằm góp phần giảm lượng cung tiền ra lưu thông, hổ trợ các khỏan chi thiết yếu khác, bị biến động do ảnh hưởng của lạm phát và kiềm chế sự gia giảm sức mua trên thị trường, góp phần ổn định an sinh xã hội. Thứ ba, gồm nhóm giải pháp thứ ba và thứ tư của chính phủ là tập trung sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, lương thực, thực phẩm, đẩy nhanh xuất khẩu, giảm nhập siêu là những giải pháp bảo đảm ổn định cung – cầu hàng hóa cho xã hội, cũng là để ổn định giá cả, tiến tới giảm phát tạo nền tảng cho sự phát triển cao hơn sau thời hậu lạm phát. 3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ; gồm 2 giải pháp năm và sáu của Chính phủ là: triệt để tiết kiệm trong sản xuất tiêu dùng và tăng cường công tác quản lý thị trường. Tiết kiệm trong đời sống kinh tế là quốc sách. Đứng trên gốc độ kiểm soát lạm phát, nó có tác động: - Kiềm chế đồng tiền tham gia vào lưu thông làm tăng cung về tiền. Trên thị trường tài chính cũng như có thể làm tăng giá cả. - Hạn chế tối đa các dòng tiền tham gia lưu thông có thể gây ảnh hưởng xấu trong thực thi chủ trương thắt chặt tiền tệ và kiềm chế lạm phát. Song song đó, việc tăng cường công tác quản lý thị trường như là một biện pháp ngăn chặn tính tự phát và tâm lý gây bất ổn trên thị trường, kiềm chế sự tăng “đột biến” của giá cả, ảnh hưởng đến đời sống của các tầng lớp dân cư. Bởi giá lên rất khó kéo xuống và ảnh hưởng rất lớn đến sự thụ hưởng của những người có thu nhập thấp. 3.2.3. Các giải pháp đồng bộ – xuất phát từ mối quan hệ đồng bộ và nhân quả giữa kinh tế và các vấn đề xã hội, đặc biệt là an sinh xã hội, có độ nhạy cảm cao với mọi tầng lớp dân cư. Do vậy mặc dù trong điều kiện kinh tế lạm phát, Chính phủ vẫn cải thiện đời sống vật chất cho mọi đối tượng, trong mọi lĩnh vực hoạt động với các hình thức và mức hổ trợ tương thích trong khả năng mà Chính phủ có thể đảm bảo phương sách này được coi như là một thành tố quan trọng trong chính sách kiềm chế hiệu quả lạm phát và ổn định về chính trị. Ngoài ra chính phủ còn hỗ trợ bằng các gói kích hoạt kinh tế lên hàng ngàn tỷ VND (theo chúng tôi nên dùng kích thích kinh tế hoặc kích hoạt kinh tế mà không nện dùng kích cầu – bởi nếu xét về các mặt quan hệ, nội dung kinh tế, mục tiêu, đối tượng, hạn định tác động và hiệu quả kinh tế của nó thì sử dụng “kích cầu” là không chuẩn xác.) Bên cạnh đó chính phủ còn hỗ trợ lại suất cho các đối tượng kinh tế tham gia tích cực vào quá trình hồi phục kinh tế ở Việt Nam. Nhìn chung hiệu quả của nó mang lại là khả quan. 4. Góp thêm các giải pháp về kiềm chế lạm phát Từ phân tích lý luận và thực tiễn của quá trình lạm phát diễn biến, có thể cần bổ sung thêm các giải pháp để gia tăng hiệu lực kiềm chế lạm phát, củng cố thêm nền tảng cho sự phát triển bền vững của thời hội nhập, theo các hướng chủ yếu sau: 4.1. Cần đưa dự báo kinh tế lên thành một trong những nhiệm vụ kinh tế hàng đầu, bởi sự ảnh hưởng lớn và tích cực của nó đến việc điều chỉnh chính sách, ứng xử tình thế cho phù hợp với những đặc điểm và đặc thù kinh tế trong và ngoài nước. Nên sử dụng cụm từ “quản lý chặt chẽ tiền tệ” thay vì “thắt chặt tiền tệ”. Bởi trong bối cảnh lạm phát vẫn có những đối tượng đầu tư cần tăng vốn vì ý nghĩa chiến lược của nó và không nhất thiết tất cả đều “thắt chặt”. Ngay cả phát hành tiền, không phải bắt cứ trường họp nào cũng ảnh hưởng xấu đến kinh tế và làm gia tăng lạm phát. Nếu nó mở ra cơ hội cho sự phát triển “đột phá” và mang lại lợi ích căn bản của quốc kế dân sinh. Về chính sách tài khóa. Đổi mới cơ chế quản lý ngân sách theo hướng hội nhập. Đưa mức bội chi ngân sách nhà nước xuống dưới 5% hàng năm. Thực hiện minh bạch, công khai công bằng trong phân phối ngân sách vì nguồn thu của nó là sự đóng góp công sức của mọi người dân thông qua thuế. Xóa bỏ hòan toàn tính bao cấp và cơ chế xin – cho vẫn đang còn tồn tại. Tiết kiệm hơn nữa các khỏan chi thường xuyên (công vụ phí, hội họ…) ít mang lại hiệu quả thiết thực. Cân nhắc tái cơ cấu chi đầu tư công hướng đến hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại theo mục tiêu công nghiệp hóa & hiện đại hóa hòan thành cơ bản vào năm 2020. Khắc phục đầu tư dàn trải (kể cả ODA) vì nó vừa lãng phí vừa không tạo thế đột phá kinh tế. Có thể nói chính sách tài khóa có ảnh hưởng lớn đến quá trình xác lập cơ cấu kinh tế – xã hội và chính vậy nó cũng là một tác nhân quan trọng tạo “mầm” của lạm phát. Tiếp tục tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại thành những ngân hàng lớn đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo qui ước của WTO. Đồng thời tạo điều kiện cho Chính phủ chủ động can thiệp vào hình thành lãi suất tín dụng trong những điều kiện cần thiết và bức xúc. Hậu khủng hoảng cần sớm thực hiện tách biệt quản lý nhà nước và kinh tế với quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước Qua thực tiễn của lạm phát cùng với sự điều chỉnh lại đầu tư công trong diễn biến đó, cho thấy bao cấp đối với doanh nghiệp nhà nước (tập đoàn, tổng công ty là một trong những nguyên nhân làm tăng đầu tư công mà lẽ ra nó không nên tồn tại. Sự trả lại quyền tự chủ tài chính vốn dĩ của doanh nghiệp nhà nước (không có chủ quản về quản lý kinh doanh) sẽ làm tăng nhanh tính năng động, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (khi còn là người đứng đầu Chính phủ, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhiều lần phát biểu trước các kỳ họp Quốc hội) và giảm đáng kể đầu tư công từ ngân sách nhà nước. Có những con đường đi khác nhau trong việc trả lại quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước là: Thực hiện chính sách hỗ trợ và rộng mở hơn để thu hút đầu tư của kinh tế tư nhân vào mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh ngay cả đầu cơ sở hạ tầng có sinh lợi, nếu họ có đủ thực lực. Đặc biệt khuyến khích phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong mọi lĩnh vực hoạt động. Bởi các doanh nghiệp này vừa tạo sự an toàn ổn định vững chắc cho nền kinh tế (Đài Loan có hơn 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa …) vừa tạo ra một tầng lớp trung lưu đông đảo, là lực lượng có khả năng chi phối quan hệ cung – cầu trên thị trường và có sức đề kháng mạnh đối với lạm phát… 5. Những tín hiệu khả quan cho phục hồi kinh tế Nhìn vào các mức tăng trưởng kinh tế do chính phủ điều chỉnh từ 6,5 xuống 5%( 2009) tại kỳ họp Quốc hội thứ 5 khóa XII , có thể nảy sinh nhiều cách nhận định khác nhau về khả năng phục hồi của kinh tế Việt Nam . Song xét trên 2 nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến suy giảm kinh tế, thì kinh tế nội sinh đang có những chuyển biến tích cực ( tăng 2,8 %) , còn ngoại lực vẫn là trở ngại lớn mà tiêu điểm của ảnh hưởng đó là sự giảm sút đáng kể lượng kim ngạch xuất khẩu , đang chiếm giữ khoảng 70% GDP của Việt Nam – theo đó là sự biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái dẫn đến diễn biến khó lường của giá vàng và một ngàn yếu tố khác vẫn là cản ngự cho sự phục hồi kinh tế. Tuy vậy không ít những tín hiệu khả quan cho sự phục hồi đó là: Thứ nhất, kinh tế nội lực đã tăng trưởng và tiếp tục tăng trưởng . Thứ hai, vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục được duy trì 5 tháng đầu năm vốn FDI đã lên đến 6,8 tỉ USD. Thứ ba, trong năm 2009 nhà máy lọc dầu Dung Quất đã cho ra sản phẩm và sẽ đưa vào hoạt động 15 nhà máy điện và nhiều công trình cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội khác. Thứ tư, CPI có tăng nhưng chậm. Thứ năm, chỉ số chứng khoán (Vn.Index) đang phục hồi ở mức > 450 điểm. Thứ sáu, số người mất việc đang được tiếp nhận vào những chỗ làm khác, làm giảm áp lực thất nghiệp. Thứ bảy, nông nghiệp ổn định và tăng trưởng, tạo nền tảng vững chắc cho cho ổn định chính trị xã hội . Thứ tám, các gói kích hoạt kinh tế đang dần đi vào hiệu lực. Thứ chín, mặc dù đối đầu với khủng hoảng nhưng chính phủ vẫn bảo đảm ở mức cần thiết về an sinh xã hội cho các đối tượng thuộc diện chính sách. Thứ mười, điều hành kinh tế vĩ mô luôn được điều chỉnh thích ứng với khủng hoảng toàn cầu. Nhìn chung kinh tế Việt Nam đã vượt qua “đáy” khủng hoảng theo mặt bằng toàn cầu. Thứ mười một, kinh tế toàn cầu đã vượt qua thời kỳ khó khăn nhất, nhìn ra thế giới nếu hiện nay có 94/116 nước không tăng trưởng hoặc tăng trưởng âm (ví dụ Thái Lan dự báo trong năm 2009 tăng trưởng âm 2,5-3,5% ) thì Việt Nam nằm trong 22 nước có tăng trưởng dương mặc dù thâm hụt ngân sách có thể lên 8%. Đại diện của WB nhận định “Việt Nam vượt qua năm 2008 khá thành công dù phải đối phó với 2 cú sốc nội sinh và ngoại lực…” cũng theo nhận định của đại diện WB : “Chính phủ Việt Nam đã mau chóng vượt qua giai đoạn khó khăn và lèo lái nền kinh tế khá tốt. Chính ý thức một cách rõ ràng những rủi ro gây ra nên đã áp dụng các giải pháp thích ứng”. Những phân tích trên thể hiện những tín hiệu khả quan cho thời kỳ phục hồi kinh tế Việt Nam, đồng thời dựa vào những dữ liệu này chúng tôi dự báo việc phục hồi kinh tế Việt Nam trãi qua 2 bước: Bước 1: là thời kỳ khởi đầu của phục hồi kinh tế. Thời kỳ này có thể là cuối năm 2009 và đầu năm 2010. Bước 2: bước vào phục hồi kinh tế, có thể diễn ra từ năm 2011. 6. Những dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam thời hậu khủng hoảng. Trải qua cuộc đối đầu bằng những giải pháp kinh tế quyết liệt và linh hoạt với suy giảm kinh tế bởi 2 trở lực từ nội sinh và “ngoại nhập”, kinh tế Việt Nam đã từng bước tìm được lối ra. Tuy nhiên vẫn còn nhiều trở ngại, mà trong đó tác động của ngoại lực với sự ẩn chứa của cuộc khủng hoảng toàn cầu có thể coi là rào cản lớn trong tiến trình hồi phục kinh tế Việt Nam. Bởi khủng hoảng toàn cầu đã làm thay đổi khối lượng tỷ giá hối đoái suy giảm kim ngạch xuất khẩu, mà kim ngạch xuất khẩu là yếu tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Đến nay mặc dù có những thông tin ngược chiều song những tín hiệu ban đầu cho thấy kinh tế toàn cầu đặc biệt là các nước kinh tế phát triển đang có những động thái tích cực. Trong bối cảnh đó, nhìn lại và phân tích toàn cảnh sự diễn tiến cuộc khủng hoảng kinh tế Việt Nam, bắt nguồn từ nguyên nhân phát sinh, sức đề kháng nội tạng, tác động ngoại lực các giải pháp nhằm chống đỡ của chính phủ Việt Nam và những ảnh hưởng khách quan và chủ quan khác, đã lộ rõ bức tranh lạc quan cho quá trình hồi phục kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn biến là áp lực làm trì trệ nền kinh tế Việt Nam nhưng cũng được coi là cơ hội để Việt Nam tái cấu trúc nền kinh tế, xác lập mặt bằng kinh tế mới, hướng tới sự phát triển bền vững hơn trong điều kiện Việt Nam tiến sâu vào hội nhập kinh tế toàn cầu. Mặt khác hậu quả của cuộc khủng hoảng này cũng sẽ là tác nhân cho việc tái cấu trúc kinh tế quốc tế theo hướng cân bằng, hợp tác và bền vững hơn. 6.1. Dự báo kinh tế Việt Nam hậu khủng hoảng. Có 2 quan điểm chủ yếu khác nhau trong nhận định về kinh tế Việt Nam hậu khủng hoảng: - Quan điển thứ nhất, sau khi thoát ra cuộc khủng hoảng kinh tế Việt nam tăng trưởng chậm và sau thời gian không ngắn mới có thể tăng tốc. - Quan điểm thứ hai, hậu khủng hoảng kinh tế Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển nhanh, có những bước đột phá trực diện theo hướng hiện đại hóa và nhiều khả năng trở thành con rồng mới của Châu Á. Dù tiếp cận theo quan điểm nào song để đảm bảo kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả, bền vững kinh tế Việt Nam vẫn phải tiến hành theo hai hướng chủ yếu: + Một là, nhanh chóng tái cấu trúc các ngành, các lĩnh vực kinh tế nhạy cảm nhất với những hậu quả do cuộc khủng hoảng để lại. + Hai là, Điều chỉnh các lĩnh vực, các quan hệ kinh tế tương thích và trào lưu chung của hội nhập kinh tế toàn cầu. 6.1.1 Các lĩnh vực nhạy cảm với tái cấu trúc hậu khủng hoảng Đó là các ngành kinh tế quan trọng đã được thử thách của cuộc khủng hoảng và có nhu cầu bức xúc đổi mới cơ cấu, quy mô, phương thức hoạt động và điều chỉnh lại mục tiêu cho thích ứng với những động thái mới của nền kinh tế. Kết quả này sẽ tạo một nền tảng cho việc chuyển hóa nền kinh tế có tính đột phá, hậu thuẫn hoặc định hướng cho trật tự kinh tế mới đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế hậu khủng hoảng - các ngành đó là: a. Lĩnh vực tài chính tiền tệ : Tài chính tiền tệ luôn là công cụ kinh tế nhạy cảm trong mọi không gian kinh tế trong thời khủng hoảng, nó giữ vai trò phát hiện, chẩn trị, kiểm soát lạm phát, và điều tiết kinh tế, đây là khâu trọng yếu trong tái cấu trúc kinh tế và cần hướng tới: - Cấu trúc lại chính sách tài khóa theo hướng minh bạch, công khai và hội nhập. - Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo hướng mở rộng quy mô về vốn, tập trung hóa ngân hàng để hình thành những ngân hàng mạnh có tầm cỡ và khả năng cạnh tranh khu vực quốc tế, mở cửa cho ngân hàng quốc tế tham gia vào thị trường tài chính Việt Nam theo cam kết WTO, giảm thiểu các ngân hàng nhỏ (trong điều kiện Việt Nam nó cần thiết nhưng tỷ lệ không quá 30%) và nâng cao hơn vai trò điều tiết của Ngân hàng Trung ương bằng các chính sách điều hành vĩ mô. - Mở rộng hoạt động của các định chế tài chính trung gian khác, đặc biệt là hệ thống kinh doanh tiền tệ phi Ngân hàng đã đáp ứng linh hoạt nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp ở mọi cấp độ khác nhau. - Đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng trong quan hệ tín dụng đối nội và đối ngoại . b. Tạo thế cân đối mới giữa thị trường quốc tế và thị trường nội địa Trong cuộc khủng hoảng, thị trường xuất khẩu của Việt Nam bị co hẹp phải có thời gian để hồi phục, trước mắt cần sớm cấu trúc lại tương quan giữa thị trường quốc tế và thị trường nội địa, đặc biệt là hướng đến thị trường nội địa, theo nguyên tắc khai thác tối đa, sức mua của thị trường trong nước, đặc biệt là thị trường nông thôn chiếm 70% dân số quốc gia. + Trong cơ cấu của thị trường xuất khẩu, cần khai thác thêm các thị trường mới đặc biệt là Đông Âu, Châu Phi và Mỹ Latin, tranh thủ các thị trường ngách, “thị trường cơ hội” để tăng xuất khẩu. + Đối với thị trường nội địa, khai thác tối đa các vùng tiềm năng có mức thu nhập bình quân cao, đông dân số, giao thông, du lịch, các mặt giao lưu khác phát triển. c . Lĩnh vực bất động sản Thị trường bất động sản nóng lên và hạ nhiệt trong quá trình diễn ra lạm phát, điều này có nhiều nguyên nhân. Song để giữ bình ổn thị trường này lâu dài, sau cuộc khủng hoảng cần: - Hoàn chỉnh cơ chế quản lý bất động sản từ chính sách điều hành vĩ mô đến quản lý của các địa phương theo nguyên tắc công khai và công bằng. - Triển khai các hình thức thuế thích hợp, đối với kinh doanh bất động sản trong điều kiện Việt Nam có tính tới các thông lệ quốc tế. - Phát triển cân đối giữa kinh doanh bất động sản vì lợi nhuận và kinh doanh bất động sản phục vụ an sinh xã hội. - Hình thành các ngân hàng lớn chuyên doanh bất động sản để hỗ trợ tích cực cho các nhà đầu tư bất động sản. - Thực hiện cơ chế bình đẳng xóa bỏ quan hệ xin – cho trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản. d . Đối với các tập đoàn và tổng công ty nhà nước Trong điều kiện kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước đang là các đầu tàu kinh tế ở Việt Nam. Để nâng cao vị thế đó trong quá trình kinh tế hậu lạm phát, cần có những bước hoàn thiện thích ứng: - Tập trung vốn 90% vào nhiệm vụ kinh doanh chính yếu của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty, hạn chế việc đầi tư phân tán vốn vào các hoạt động ngoài nhiệm vụ kinh doanh chính.3 - Trao quyền tự chủ thực sự cho các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước theo hướng tách biệt giữa quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý kinh doanh. - Tao điều kiện cho các tập đoàn và các tổng công ty mở rộng liên doanh với các tập đoàn kinh tế quốc tế và tìm kiếm thị trường đầu tư ra nước ngoài có lợi và hiệu quả. e . Về thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là đầu mối quan trọng để phát ra các thông điệp về sức khỏe của nền kinh tế. Đây cũng là kênh cung cấp thông tin quan trọng, đáng tin cậy cho dự báo kinh tế. Vai trò này chỉ có thể được bảo đảm bởi các thông tin trung thực, chuẩn xác loại trừ các thông tin nhiễu, phản ứng nhanh với hiện tượng đầu cơ, làm suy yếu sự lành mạnh của thị trường chứng khoán. Để thực hiện được vai trò này trong bối cảnh kinh tế sau khủng hoảng, cần thực hiện công khai, minh bạch, kịp thời các diễn biến của thị trường, dựa trên cơ sở tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành hoạt động của thị trường chứng khoán có tính hệ thống trong mối quan hệ hữu cơ giữa quản lý nhà nước (UBCKNN), quản lý kinh doanh chứng khoán tập trung vào không tập trung, các công ty chứng khoán và các công ty cổ phần tham gia thị trường chứng khoán theo nguyên tắc “ tiền đăng, hậu kiểm”. 6.1.2 Điều chỉnh các lĩnh vực và các quan hệ kinh tế hậu khủng hoảng. Song song với tái cấu trúc các ngành kinh tế nhạy cảm, cần tiến hành đồng thời điều chỉnh các lĩnh vực và các quan hệ kinh tế thích ứng với yêu cầu của kinh tế hậu khủng hoảng và xu thế hội nhập toàn cầu: a. Xác lập tương quan hợp lý giữa đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu thời kỳ hậu khủng hoảng. Trước hết cần phân biệt khái niệm của 2 phạm trù trên. Có thể hiểu đầu tư theo chiều rộng là đầu tư mới các công trính kinh tế - xã hội và kết quả là làm tăng tích lũy kinh tế quốc dân và đầu tư theo chiều sâu là đầu tư để hiện đại hóa công nghệ trên các công trình đang hoạt động. Đầu tư theo chiều rộng thời hậu khủng hoảng cần chọn lọc theo hướng trang bị công nghệ hiện đại có tác động thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa. Đầu tư theo chiều sâu phải được thay thế hoặc trang bị mới bằng công nghệ tiên tiến. Có như vậy mới đẩy nhanh hơn nhịp độ tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững theo mục tiêu hoàn thành cơ bản công nghiệp hóa đất nước vào năm 2020. b. Đổi mới tư duy đầu tư cho nông nghiệp Trong cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, chúng ta đã từng khẳng định “muốn ổn định phải có lương thực; muốn đi lên phải có dầu khí”. Đến nay ý tưởng đó vẫn còn giá trị. Nông nghiệp vẫn đang là nền tảng của nền kinh tế Việt nam (KVI) và muốn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách bền vững phải đi từ cải tạo nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa. Tuy nhiên thực trạng đầu tư cho nông nghiệp chưa tương xứng với vai trò của nó trong nề kinh tế quốc dân. Cần có cuộc “cách mạng” toàn diện về ứng dụng công nghệ sinh học, cây trồng, vật nuôi và cơ giới hóa tiến tới tự động hóa trong canh tác và sau thu hoạch. Trong mối liên quan đó, một yếu tố quan trọng không thể không đề cập đến đó là Hạn điền - tức là cần phải đổi mới về chính sách Hạn điền, cho nông dân tích tụ ruộng đất. Có tích tụ ruộng đất mới đẩy nhanh được công nghiệp hóa nông thôn; bởi nó tạo cơ hội cho nông nghiệp ứng dụng mọi thành tựu khoa học hướng đến một nền nông nghiệp hiện đại. c. Chọn lọc tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Chủ yếu là tiếp nhận đầu tư nước ngoài từ công nghệ tiến tiến đặc biệt là công nghệ cao. Các khu vực kinh tế trong điểm quốc gia, cần từ chối đầu tư công nghệ thấp (gia công may mặc, da giày, gia công các sản phẩm thông dụng…); đồng thời có thể chuyển giao dần các ngành công nghệ thấp ra ngoại tỉnh để hỗ trợ các địa phương ít cơ hội tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Mặt khác cần có sự hướng dẫn đầu tư để vực dậy các địa phương khó khăn, ít tìm được đầu tư nước ngoài. d. Đổi mới về cơ cấu nguồn nhân lực. Hậu khủng hoảng kinh tế hứa hẹn bước vào giai đoạn mới nhiều triển vọng. Một yêu cầu bức bách trong giai đoạn này là tái cấu trúc nguồn nhân lực, theo hướng phát triển và hội nhập bằng cách giảm lao động giản đơn, tăng nguồn lao động lành nghề, lực lượng kỹ sư tài năng và các nhà quản trị có trình độ cao…nếu không đáp ứng được đòi hỏi này nền kinh tế Việt nam khó có những bước tiến đột phá và bền vững. 6.1.3 Dự báo về tái cấu trúc kinh tế tài chính toàn cầu. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế này có thể sẽ diễn ra sự tái cấu trúc kinh tế toàn cầu trong đó, có thể bước đầu chớm nở việc phân chia lại thế lực tài chính quốc tế, với sự tham gia của Mỹ, EU, TQ, Nga, Ấn Độ và các nước chủ nghĩa mới và ngay cả các khối kinh tế. Đồng thời qua cuộc khủng hoảng này cũng sẽ thúc đẩy sự liên kết chặc chẽ hơn giữa các nước, đặc biệt là các nước phát triển để xác lập sự cân bằng hơn trong trật tự kinh tế thế giới. Cũng không loại trừ phát sinh sự liên kết “ngầm” giữa một số nước để bảo vệ quyền lợi quốc gia. Mặt khác qua cuộc khủng hoảng này khái niệm về vai trò kinh tế nhà nước trong thời kỳ hiện đại, có sự điều chỉnh lại cả về lý thuyết lẫn thực tiễn, thông qua những sự kiện như: chính phủ các nước hổ trợ trực tiếp hàng ngàn tỷ USD vào các hoạt động cho các tập đoàn kinh tế, cũng như việc chính phủ Mỹ tham gia 60% vốn trong công ty General Motor (GM) bởi sự phá sản của tập đoàn này từ cuộc khủng hoảng quốc tế. 6.1.4 Hoàn thiện điều hành kinh tế vĩ mô. Chắc chắn rằng hậu khủng hoảng kinh tế, Chính phủ Việt nam đang hướng một cách đồng bộ vào việc hoàn thiện và chuẩn hóa chính sách, cơ chế điều hành kinh tế vĩ mô gồm: a. Điều chỉnh lại thể chế kinh tế theo hướng toàn cầu hóa. b. Nâng cao hơn tính hiệu lực trong điều hành kinh tế vĩ mô bằng hệ thống các giải pháp đồng bộ từ trung ương đến địa phương. c. Sớm thực hiện việc phân định giữa quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp theo hướng trao quyền rộng rãi về tự chủ tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước. d. Thực hiện đầy đủ các cam kết với WTO từ chính sách đến luật pháp, theo đó là đẩy mạnh cải cách hành chính để đáp ứng với những cam kết đó. Sự tái cấu trúc và điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động kinh tế và các quan hệ trên thời hậu khủng hoảng sẽ tạo những cơ hội để kinh tế Việt nam tăng trưởng, phát triển bền vững và bình đẳng trong hội nhập kinh tế toàn cầu. Kết luận: Cần khẳng định rằng, lạm phát ở Việt Nam hiện nay diễn ra trong bối cảnh kinh tế phát triển theo hướng hội nhập. Hiện tượng này có thể được coi như một diễn tiến tích cực, nhằm xác lập lại mặt bằng giá mới, mặt bằng kinh tế mới, thiết chế kinh tế mới, gia cố thêm nền móng cho sự phát triển bền vững trong xu thế toàn cầu hóa của thời hậu khủng hoảng. Hệ thống các giải pháp của Chính phủ về kiềm chế lạm phát đang diễn biến đã có hiệu lực. Với những tác động của ngoại lực và nội lực hiện hữu, cộng thêm các giải pháp toàn diện và đồng bộ trong điều hành kinh tế vĩ mô, chắc chắn lạm phát có thể được kiểm soát. Trên cơ sở đó, triển vọng mới sẽ mở ra cho kinh tế Việt Nam vững bước dấn sâu vào con đường hội nhập.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiẢi pháp kiỀm chẾ lẠm phát và triỂn vỌng kinh tẾ viỆt nam.doc
Tài liệu liên quan