Tiểu luận Giải pháp nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước

Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, NSNN là công cụ qu ản lí vĩ mô chi phối toàn diện các quan hệ kinh tế, là một quỹ tiền tệ lớn, tham gia trực tiếp vào quá trình điều tiết kinh tế qua các chính sách động viên và bố trí cơ cấu chi. Cơ cấu chi NSNN phản ánh chiến lược, chính sách phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững . Trong những năm qua việc chi NSNN ở nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể đến như: chi NSNN góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế-xã hội; góp phần phát triển kết cấu cơ sở hạ tầng của một số lĩnh vực quan trọng; đảm bảo trả nợ nguồn vay nợ và viện trợ của nước ngoài; đảm bảo quản lí nhà nước và xã hội ngày càng tốt hơn; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; tạo động lực để tăng đầu tư toàn xã hội; đảm bảo công bằng xã hội, xoá đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt đ ược, chi NSNN vẫn còn nhiều vấn đề chưa hợp lí cần xét đến như: chi NSNN vẫn trong khuôn khổ ngắn hạn, có lúc còn mang nặng tính đối phó tình thế, thiếu tính chủ động bền vững; cơ cấu chi NSNN không được xác định dứt khoát, còn lúng túng trong lựa chọn mục tiêu ưu tiên cho từng giai đoạn, từng thời kì; phân cấp quản lí nhà nước chưa đúng mức, còn có sự lồng ghép trong nhiệm vụ chi ở các cấp chính quyền; chưa có sự đầu tư thoả đáng cho công tác qui hoạch tổng thể, qui hoạch vùng, miền, lãnh thổ, ngành dẫn đến chi NSNN cho đầu tư còn phân tán dàn trải, trùng lặp, hiệu quả thấp; những khoản chi vì lợi ích lâu dài như chi GDĐT, chi cho KHCN, chi bảo vệ môi trường, . chưa được quan tâm đúng mức; còn tình trạng phân bổ không đúng mục đích, chi tiêu vượt quá dự toán, lãng phí thất thoát trong chi tiêu ngân sách; bố trí và vận hành cơ cấu chi NSNN theo cảm tính gây bất lợi cho nền tài chính quốc gia. Thấy được các thành tựu của chi NSNN cũng như những hạn chế trong việc chi tiêu ngân sách ở nước ta hiện nay, chúng em đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chi NSNN sao cho đáp ứng được mục đích mà chính phủ đề ra và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Do việc tìm hiểu và nghiên cứu còn hạn chế nên các giải pháp trên chỉ mang tính đóng góp và nhằm hoàn thiện hơn việc chi tiêu của chính phủ.

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2365 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Bất kì Nhà nước nào đều mang trong mình bản chất giai cấp. Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để duy trì và phát triển xã hội. Để thực hiện chức năng đó, Nhà nước phải có nguồn tài chính. Bằng quyền lực công cộng, Nhà nước đã ấn định các thứ thuế, bắt công dân phải đóng góp lập ra quỹ tiền tệ riêng _quỹ ngân sách Nhà nước(NSNN)_để chi tiêu cho bộ máy nhà nước quân đội, cảnh sát,… NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. Cũng như các nhà nước khác, Nhà nước Việt Nam có quỹ tiền tệ riêng để duy trì và thực hiện các chức năng của mình thông qua việc chi NSNN cho đầu tư, cho sự nghiệp kinh tế, cho y tế, cho giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa hoc,… Ngân sách quốc gia là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội và là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới,kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền thông qua các chính sách chi NSNN. Để tìm hiểu việc chi đó có mang lại hiệu quả và đạt được mục đich đã đề ra của chính phủ hay không, chúng ta cần nắm vững lý luận chung về chi NSNN và phân tích, đánh giá tình hình thực trạng chi NSNN ở nước ta hiện nay để từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục yếu kém, sai lầm. Dựa trên sở lý thuyết về chi NSNN, đồng thời kết hợp với việc tìm hiểu thực trạng việc chi NSNN ở nước ta những năm gần đây, chúng tôi có đưa ra một số nhận xét đánh giá và giải pháp nâng cao việc chi NSNN có hiệu quả. Bài tiểu luận bao gồm 3 nội dung chính: A. Lý luận chung về chi NSNN. B. Thực trạng chi NSNN. C. Giải pháp nâng cao hiệu quả chi NSNN. A. Lý luận chung về chi NSNN. I. Khái niệm, đặc điểm và nội dung chi NSNN: 1.Khái niệm: Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Chi NSNN là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào NSNN và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Vì thế, chi NSNN là những việc cụ thể không chỉ dừng lại trên các định hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của Nhà nước. 2.Đặc điểm: - Chi NSNN gắn với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ. -Chi NSNN gắn với quyền lực của Nhà nước.Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất quyết định qui mô, nội dung, cơ cấu chi NSNN và phân bổ vốn NSNN cho các mục tiêu quan trọng nhất, bởi vì Quốc hội là cơ quan quyết định các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia. Chính phủ là cơ quan hành pháp, có nhiệm vụ quản lý, điều hành các khoản chi NSNN. -Hiệu quả chi NSNN khác với hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp, nó được xem xét trên tầm vĩ mô và là hiệu quả kinh tế, xã hội, anh ninh, quốc phòng,…dựa vào việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế, xã hội, anh ninh, quốc phòng,…mà các khoản chi NSNN đảm nhận. -Chi NSNN là những khoản chi không hoàn trả trực tiếp. Các khoản chi cấp phát từ NSNN cho các ngành, các cấp, cho các hoạt động văn hóa, xã hội, giúp đỡ người nghèo. Không phải trả giá hoặc hoàn lại cho Nhà nước. Đặc điểm này giúp phân biệt các khoản chi NSNN với các khoản tín dụng. Tuy nhiên, NSNN cũng có những khoản chi cho việc thực hiện chương trình mục tiêu mà thực chất là cho vay ưu đãi có hoàn trả gốc với lãi suất rất thấp hoặc không có lãi (chi giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo…) -Chi NSNN là một bộ phận cấu thành luồng vận động tiền tệ và nó gắn liến với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, tiền lương, tín dụng, thuế, tỉ giá hối đoái… 3.Nội dung: Do tính đa dạng và phức tạp nên chi NSNN có rất nhiều khoản mục khác nhau bao gồm : - Chi đầu tư phát triển: bao gồm các khoản chi cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; chi cho các chương trình, mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước; chi hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn liên doanh, liên kết; chi bổ sung dự trữ nhà nước. -Chi sự nghiệp kinh tế. -Chi cho y tế. -Chi cho giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học. -Chi cho văn hóa thể dục thể thao. -Chi về xã hội. -Chi quản lí Nhà nước, Đảng, đoàn thể. -Chi cho an ninh, quốc phòng. -Chi khác như chi viện trợ, cho vay, trả nợ gốc và lãi. II.Những nguyên tắc tổ chức chi NSNN. Chi NSNN có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Việc bố trí các khoản chi NSNN một cách tùy tiện, thiếu sự phân tích hoàn cảnh cụ thể sẽ có một ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy, việc tổ chức các khoản chi NSNN phải đươc tổ chức theo những nguyên tắc nhất định. 1.Gắn chặt khoản thu để bố trí các khoản chi. Chi NSNN dựa trên cơ sở có nguồn thu thực tế từ nền kinh tế. Nó đòi hỏi mức độ chi và cơ cấu các khoản chi phải dựa vào khả năng tăng trưởng GDP của đất nước . Nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ dẫn đến tình trạng bội chi NSNN, một nguyên nhân dẫn đến bùng nổ lạm phát, gây mất ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội. 2.Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các khoản chỉ tiêu của NSNN. Các khoản chi NSNN nói chung có đặc điểm là bao cấp với khối lượng chi tiêu lớn. Và lại, trong thực tế, trải qua một thời gian dài với quan điểm chi với bất cứ giá nào đã gây ra tình trạng lãng phí, kếm hiệu quả trong việc sử dụng các khoản chi NSNN, đặc biệt là các khoản chi xây dựng cơ bản. Do vậy cần phải quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong các khoản chi NSNN. 3.Tập trung có trọng điểm. Nguyên tắc này đòi hỏi việc phân bổ nguồn vốn NSNN phải căn cứ vào chương trình trọng điểm của nhà nước, vì việc thực hiện thành công các chương trình này có tác động dây chuyền, thúc đẩy các ngành, các lĩnh vực phat triển. 4.Phân biệt rõ nhiệm vụ kinh tế - xã hội của các cấp chính quyền theo luật định để bố trí các khoản chi chồng chéo, khó kiểm tra, giám sát, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các cấp. 5.Tổ chức chi NSNN trong sự phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỉ giá hối đoái để tạo nên công cụ tổng hợp cùng tác động đến các vấn đề của kinh tế vĩ mô. III.Bội chi NSNN. Thăng bằng giữa thu và chi NSNN, cân đối NSNN, là nguyên tắc quản lý NSNN xuất phát từ yêu cầu khách quan của ổn định tiền tệ, ổn định sản xuất, đời sống và nó còn là điều kiện để tạo dựng môi trường tài chính vĩ mô ổn định.Vì vậy, thăng bằng thu chi NSNN phải được coi trọng và giữ vững. Tuy nhiên, số thu NSNN có hạn, trong khi đó, nhu cầu chi tiêu của Nhà nước lại không ngừng tăng lên, dẫn đến sự mất cân bằng giữa thu và chi, bội chi NSNN xảy ra. Bội chi NSNN là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu. Bội chi NSNN có thể xảy ra do sự thay đổi chính sách thu – chi cua nhà nước, người ta gọi là bội chi cơ cấu; hoặc có thể do sự biến động của chu kỳ kinh tế, người ta gọi là bội chi chu kỳ. Ngày nay, bội chi NSNN trở thành phổ biến đối với hầu hết các quốc gia, tuy ở những mức độ khác nhau. Bội chi NSNN trên quy mô lớn, tốc độ cao được coi là một nguyên nhân trực tiếp và quyết định gây ra lạm phát, tác hại đến sự phát triển kinh tế, đến đời sống của dân cư. IV.Vai trò của chi NSNN. 1.Điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế. Ngân sách quốc gia là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động cuả các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà Chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Thông qua hoạt động chi NSNN, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và tránh cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. 2.Giải quyết các vấn đề xã hội: Chính sách ngân sách, cụ thể là chính sách thuế và chính sách chi ngân sách, góp phần làm giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về thu nhập và tiền lương giữa những người làm việc trong khu vực sản xuất kinh doanh, khu vực hành chính, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng; giữa những người sống ở thành thị, nông thôn, miền núi, hải đảo nhằm ổn định đời sống của các tầng lớp dân cư trong phạm vi cả nước. Nhà nước trợ giúp trực tiếp giành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ…. 3.Góp phần ổn định thị trường chống lạm phát. Đối với thị trường hàng hóa, hoạt động điều tiết của Chính phủ được thực hiện thông qua việc sử dụng các quỹ dự trữ của Nhà nước (bằng tiền, bằng ngoại tệ, các loại hàng hóa, vật tư chiến lược...) được hình thành từ nguồn thu của NSNN. Một cách tổng quát,cơ chế điều tiết là khi giá cả của một loại hàng hóa nào đó lên cao, để kìm hãm và chống đầu cơ,Chính phủ đưa dự trữ hàng hóa đó ra thị trường để tăng cung, trên cơ sở đó sẽ bình ổn giá cả và hạn chế khả năng tăng giá đồng loạt, gây lạm phát chung cho nền kinh tế. Và khi giá cả của hàng hóa đó giảm mạnh, có khả năng gây thiệt hại cho người sản xuất và tạo ra xu hướng di chuyển vốn sang lĩnh vực khác, Chính phủ sẽ bỏ tiền ra để mua các hàng hóa đó theo một giá nhất định nhằm đảm bảo cho người sản xuất. Đối với thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động,…hoạt động điều tiết của Chính phủ thông qua việc thực hiện một cách đồng bộ giữa các công cụ tài chính, tiền tệ giá cả…trong đó công cụ ngân sách với các biện pháp như phát hành công trái, chi trả nợ, các biện pháp chi tiêu dùng của Chính phủ cho toàn xã hội, đào tạo… Còn khi có lạm phát xảy ra, giá cả hàng hóa tăng lên do cung mất cân đối (cung nhỏ hơn cầu), Chính phủ có thể sử dụng biện pháp thuế như tăng thuế tiêu dùng giảm thuế đối với đầu tư và thắt chặt chi tiêu của NSNN, nhất là các khoản chi cho tiêu dùng để nâng đỡ cung và giảm bớt cầu. 4.Tăng cường sức mạnh của bộ máy Nhà nước, bảo vệ đất nước và giữ gìn an ninh. NSNN là công cụ tài chính quan trọng nhất để cung ứng nguồn tài chính cho hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến xã, phường ở nước ta, nguồn NSNN hầu như là nguồn duy nhất để phục vụ cho các hoạt động của bộ máy nhà nước đến các cơ quan quyền lực,cơ quan hành chính Nhà nước đến các cơ quan tư pháp. NSNN còn cung ứng nguồn tài chính cho Đảng cộng sản lãnh đạo hoạt động, tài trợ cho các tổ chức xã hội mà nguồn tài chính của các tổ chức này không đảm bảo. Như vậy chi NSNN có vai trò quan trọng trong việc quản lý và duy trì hệ thống chính trị của nước ta. B. Thực trạng chi NSNS I.Bảng cân đối NSNN 1.Thu NSNN Đơn vị : tỷ đồng STT Nội dung DT 2007 UTH 2008 DT 2008 A B 1 2 3 A THU CÂN ĐỐI NSNN 281.900 287.900 323.000 I Thu nội địa 151.800 159.500 189.300 1 Thu từ kinh tế quốc doanh 53.954 53.963 63.159 2 Thu từ DN có vốn ĐTNN ( không kể dầu thô) 31.041 30.378 40.099 3 Thuế CTN và dịch vụ NQD 27.667 30.508 38.347 4 Thuế sử dụng dất nông nghiệp 81 97 82 5 Thuế thu nhập với người có thu nhập cao 6.119 6.859 8.135 6 Lệ phí trước bạ 3.750 4.493 5.194 7 Thu phí xăng dầu 4.693 4.640 4.979 8 Các loại phí, lệ phí 3.885 4.364 4.889 9 Các khoản thu về nhà, đất 18,.43 21.724 21.792 _ Thuế nhà đất 584 644 698 _Thuế chuyển quyền sử dụng đất 1.249 1.739 1.974 _Thu tiền thuê đất 967 1.600 1.569 _Thu tiền sử dụng đất 14.500 16.000 16.500 _Thu bán nhà ở thuộc sở hữu NN 843 1.741 1.051 10 Thu ngân sách khác 1.804 1.811 1.937 11 Thu đất công ích, hoa lợi công sản tại xã 663 663 687 II Thu từ dầu thô 71.700 68.500 56.600 III Thu cân đối ngân sách từ hoạt động XNK 55.400 56.500 64.500 1 Tổng số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 69.900 74.000 84.500 _Thuế XNK và TTĐB hàng hoá nhập khẩu 23.800 25.000 26.200 _Thuế GTGT hàng hoá NK 46.100 49.000 58.300 2 Hoàn thuế GTGT và kinh phí quản lý thu thế 14.500 17.500 20.000 IV Thu viện trợ 3.000 3.400 3.600 B THU CHUYỂN NGUỒN 19.000 23.940 9.080 C THU QUẢN LÝ QUA NSNN 32.616 26.550 47.698 D VAY VỀ CHO VAY LẠI 11.650 28.100 12.800 TỔNG CỘNG (A+B+C+D) 345.166 366.490 392.578 2. Chi NSNN Đơn vị: tỷ đồng STT Nội dung chi DT 2007 UTH 2007 DT 2008 A B 1 2 3 A Chi cân đối ngân sách 357.400 368.340 398.980 I Chi đầu tư phát triển 99.450 101.500 99.730 Trong đó :chi đầu từ phát triển cơ bản 95.230 97.280 96.110 II Chi trả nợ và viện trợ 49.160 49.160 51.200 1 Trả nợ trong nước 37.990 37.990 39.700 2 Trả nợ ngoài nước 10.400 10.700 10.700 3 Chi viện trợ 770 770 800 III Chi thường xuyên 174.550 206.000 208.850 1 Chi SN giáo dục- đào tạo 47.280 53.720 54.060 2 Chi y tế 14.660 16.425 16.643 3 Chi dân số KHH gia đình 590 602 615 4 Chi khoa học, công nghệ và môi trường 3.580 3.700 3.827 5 Chi văn hoá thông tin 2,250 2.374 2.440 6 Chi phát thanh và truyền hình 1.310 1.397 1.420 7 Chi thể dục, thể thao 820 880 880 8 Chi đảm bảo xã hội 26.800 36.310 35.793 9 Chi sự nghiệp kinh tế 12.830 14.609 15.647 10 Chi quản lý HC, Đảng đoàn thể 24.800 28.075 28.438 11 Chi bù giá hàng chính sách 690 750 763 12 Chi sự nghiệp bảo vệ môi trường 3.500 3.637 3.883 IV Chi tinh giảm biên chế, lao động dôi dư 500 500 _ V Hỗ trợ tài chính kinh doanh xăng dầu _ 2.000 _ VI Chi dự phòng 9.040 0 10.700 VII Chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính 100 100 100 VIII Chi cải cách tiền lương 24.600 0 28.400 IX Chi chuyển nguồn _ 9.080 _ B QUẢN LÝ QUA NSNN 32.616 26.550 47.698 C VAY NN VỀ CHO VAY LẠI 11.650 28.100 12.800 TỔNG CỘNG (A+B+C) 401.666 422.990 459.478 II.Phân tích đánh giá chi NSNN 1. Đánh giá chung: Báo cáo của Bộ Tài Chính cho biết tổng chi ngân sách Nhà nước trong tháng 8 ước đạt 29.105 tỷ đồng, tăng 1.440 tỷ đồng so với thực hiện tháng 7; luỹ kế chi đến hết tháng 8/2007 ước đạt 221.630 tỷ đồng, đạt 62% dự đoán, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2006. Chi cho đầu tư phát triển ước đạt 55,7% dự đoán, tăng 12,9%; chi trả nợ và viện trợ ước đạt 69,3% dự đoán, tăng 21,2%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, Đảng, toàn thể (bao gồm chi cải tiến tiền lương và thực hiện chính sách với lao động dôi dư) ước đạt 65,9%, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 2006. Về những thống kê trên, Bộ Tài Chính cho rằng thu – chi ngân sách Nhà nước đó chịu tác động của nhiều yếu tố và dự báo sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng trong những tháng cuối năm. 2. Chi đầu tư phát triển Dự đoán 99.230 tỷ đồng, ước cả nắm đạt 101.500 tỷ đồng, tăng 2,1% (2.050 tỷ đồng) so với dự đoán, chiếm 27,6% tổng chi NSNN và đạt 8,9% so với GDP. Chi đầu tư phát triển từ NSNN 2007-2008 Nội dung chi Dự đoán 2007 Ước thưc hiện 2007 Dự đoán 2008 Tổng chi cân đối NSNN 357,400 368,340 398,980 Tổng chi đầu tư phát triển 99,450 101,500 99,730 Tỷ lệ chi phát triển so với GDP (%) 8.7 8.9 7.5 Trong đó, chi đầu tư XDCB 95,230 97,280 96,110 Tỷ lệ chi XDCB trong tổng chi ĐTPT(%) 95.8 95.8 96.4 2.1 Chi đầu tư XDCB: Dự đoán 95.230 tỷ đồng, ước cả năm đạt 97.280 tỷ đồng, tăng 2,2% (2.050 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 19% so với năm 2006. Vốn đầu tư XDCB năm 2007 được ưu tiên thực hiện các công trình, dự án kết cấu hạ tầng quan trong phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, phát huy lợi thế từng vùng, từng ngành. Nhất là hạ tầng các tỉnh miền núi phía Bắc, miền núi phía tây các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên, Tây Nam bộ; các địa phương sử dụng dự phòng NSĐP và nguồn vượt thu NSĐP (nhất là vượt thu tiền sử dụng đất) để đầu tư cho các công trình hạ tầng quan trong trên địa bàn theo đúng chế độ quy định. Trong tổ chức thực hiện, do nhiều nguyên nhân khác nhau như : giá nguyên vật liệu tăng , quy định của pháp luật hướng dẫn triển khai các dự án đầu tư XDCB còn vướng mắc, năng lưc của các đơn vị đầu tư còn hạn chế, giải phóng mặt bằng chậm… nên vấn đề thực hiện và giải ngân vốn đầu tư XDCN những tháng đầu năm 2007 còn chậm. Sau khi Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị số 836/CTT-TTg ngày 02/07/2007 về tăng cường quản lý đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước 6 tháng cuối năm 2007, với giải pháp mạnh mẽ để khắc phục những yếu kém trong quản lý đầu tư và xây dựng, giảm thiểu sự chồng chéo trong kiểm tra, xét duyệt giữa khâu kiểm soát chi với khâu xét duyệt khác… thì tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đã được đẩy nhanh hơn. Nhờ vậy, dự kiến đến hết năm 2007 nhiều dự án quan trọng sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng, phát huy tác dụng tốt cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội. Năm 2007 huy động trái phiếu Chính phủ để đầu tư các công trình giao thông, thuỷ lợi trọng điểm và tái định cư phục vụ xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La, thuỷ lợi miền núi và đường giao thông đến các trung tâm các xã. Tuy nhiên, do khả năng hấp thụ vốn không cao và tiến độ giải ngân vốn chậm, nên vốn trái phiếu Chính phủ thực hiện trong năm ước đạt trên 70% mức dự kiến đầu năm. Kết hợp nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, nguồn đầu tư từ xổ số kiến thiết với nguồn vốn bố trí trong cân đối NSNN, thì tổng chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước năm 2007 ước đạt 31,7% tổng chi NSNN, chiếm 10,8% GDP. Nguồn vốn đầu tư của NSNn, cùng với vốn của cá nhân nhà đầu tư trong và ngoài nước đã góp phần đưa tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2007 đạt 40,4% GDP, tăng 16,2% so với năm 2006. Theo bộ kế hoạch và đầu tư, trong mười năm gần đây, Nhà nước đã đầu tư gần 85 tỷ đồng cho đầu tư cải tạo, nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông, trong đó NSNN hơn 49 nghìn tỷ đồng. Nguồn vốn có tính chất ngân sách gần 33 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn tín dụng gần 9 nghìn tỷ đồng, vốn đặc biệt hơn 5 nghìn tỷ đồng, vốn trái phiếu Chính phủ 17 nghìn tỷ đồng và vốn đầu tư bán quyền thu phí 1 nghìn 5 trăm tỷ đồng. Nhờ được quan tâm đầu tư, nâng cấp, chất lượng đường giao thông được nâng lên một bước. Hiện mạng lưới đường bộ cả nước có 233 nghìn km, trong đó có 17 nghìn km đường quốc lộ, chiếm 7,63; tỉnh lộ 23 nghìn km, chiếm 10,37% , còn lại là đường đô thị, đường chuyên dụng và đường xã. Một số dự án Nhà nước đầu tư vào lĩnh vực giao thông: Đường cao tốc vành đai 3 Hà Nội : đoạn Nội Bài-Mai Dịch. Vốn đầu tư dự kiến là 540 triệu USD, hình thức đầu tư BOT Đường cao tốc Tp HCM-Thủ Dầu Một, đoạn Tp HCM- Bình Dương với chiều dài 40km, 4-6 làn xe. Vốn đầu tư dự kiến 125 USD, hình thức đầu tư BOT. Đường cao tốc Nội Bài- Hạ Long- Móng Cái, Hà Nội-Bắc Ninh- Quảng Ninh với chi tiết Nội Bài- Hạ Long 110 km, 4 làn xe, vốn đầu tư dự kiến 655 triệu USD hình thức đầu tư BOT. Đường cao tốc Hà Nội-Lạng Sơn: đoạn đường Hà Nội-Bắc Ninh-Lạng Sơn với 118 km, 4 làn xe, vốn đầu tư dự kiến 855 triệu USD. Tuyến đường sắt Bảo Lâm-Phan Thiết : đoạn đường Bình Thuật- Lâm Đồng chiều dài 110 km, vốn đầu tư dự kiến 500 triệu USD. 2.2 Đầu tư đặc thù kinh tế. -Khu kinh tế mở Chu Lai: Nhà nước đầu tư một phần và tạo điều kiện để thu hút đầu tư vào 3 dự án lớn : Dự án xây dựng và sửa chữa máy bay hạng nặng tái sân bay Chu Lai với tổng nguồn vốn đầu tư 500 triệu USD; Nhà máy sản xuất phân đạm và máy nông nghiệp với vốn đầu tư 400 triệu USD và nhà máy dệt công suất 300 MW, tổng vốn đầu tư hơn 400 triệu USD. Toàn bộ 3 dự án này đang được xúc tiến đầu tư và triển khai đồng bộ trong năm 2005. Được biết, các dự án này khi đi vào hoạt động sẽ giải quyết cho khoảng 10000 lao động tại chỗ, đóng góp khoảng 21000 tỷ đồng Việt Nam mỗi năm. -Khu kinh tế mở Dung Quất: Theo báo cáo ban đầu của Ban Quản Lý khu kinh tế Dung Quất, tính đến giữa tháng 8/2007, khu kinh tế này đã thu hút nguồn vốn đầu tư hơn 5,4 tỷ USD của 119 dự án đầu tư trong và ngoài nước. Trong đó có 34 dự án đã đi vào hoạt động, 45 dự án đang triển khai xây dựng. Khu kinh tế Dung Quất là địa điểm thu hút vốn đầu tư cao nhất hiện nay trong 8 khu kinh tế được thành lập trên toàn quốc, với tổng số vốn đăng kí đạt 3,4 tỷ USD với 94 dự án. Tính đến thời điểm hiện nay tại khu kinh tế Dung Quất đã có 27 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư khoảng 647.040 tỷ VND, giải quyết việc làm cho hơn 20000 lao động. Bên cạnh đó, hơn 29 dự án đã được cấp phép đầu tư và 45 dự án đã được chấp thuận đầu tư, trong tương lai khi đi vào hoạt động các dự án này sẽ giải quyết việc làm cho hơn 30.000 lao động. 2.3 Đầu tư cơ sở hạ tầng doanh nghiệp Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố được tính đến khi quyết định đầu tư các dự án. Bởi vậy, phát triển cơ sở hạ tầng cũng chính là bước tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối mặt với khó khăn lớn là cơ sở hạ tầng chưa đủ đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Trước nhu cầu phát triển nhanh của đất nước, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng còn góp phần làm nên diện mạo mới cho các đô thị. Hiện nay, nhiều yếu tố phục vụ kinh doanh như điện năng có thời điểm vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất cho các trung tâm công nghiệp. Bên cạnh đó là hàng loạt các hạn chế như: chi phí cho điện năng và viễn thông vẫn còn cao; chất lượng đường xá kém và không đồng đều; cấp thoát nước thiếu đồng bộ…. Do đó ngoài việc lập quy hoạch sớm, các ngành chức năng cần có sự phối hợp để cùng triển khai các dự án hạ tầng, tránh tình trạng lãng phí. Trong thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên về đầu tư cơ sở hạ tầng thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia. Đặc biệt là ngày 26/09/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành danh mục 136 dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010. Danh mục này chính là sự cụ thể hoá các kế hoạch thu hút đầu tư nước ngoài đã được đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010. Đây là những dự án quan trong đã được Chính phủ phê chuẩn về phương thức đầu tư. Trong đó tổng số vốn đầu tư cho các dự án ước tính trên 61 tỷ USD bao gồm: khoảng 53 tỷ USD cho 109 dự án công nghiệp- xây dựng; trên 7,8 tỷ USD cho 47 dự án thuộc lĩnh vực du lịch- dịch vụ; số còn lại dành cho 6 dự án nông- lâm- ngư- nghiệp. Từ những số liệu này cho thấy điểm nhấn quan trọng nhất của danh mục thu hút đầu tư là ưu tiên các dự án phát triển cơ sở hạ tầng; đặc biệt là có 47 dự án thuộc lĩnh vực giao thông vận tải. Trong danh sách này, nhiều dự án kêu gọi lương vốn đầu tư rất lớn như: nhà máy lọc dầu Nghi Sơn( Thanh Hoá) khoảng 5 tỷ USD, Nhà máy lọc dầu số 3 (Bà Rịa- Vũng Tàu) cần 5-6 tỷ USD; dự án sân bay quốc tế Long Thành (Đồng Nai) khoảng 5 tỷ USD cho giai đoạn I; Khu càng Lạch Huyền (Hải Phòng) khoảng 2 tỷ USD; Đường vành đai 3 Tp HCM ước tính khoảng 1,55 tỷ USD…. Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% nhất là việc gia nhập WTO, nhu cầu đầu tư vào các cơ sở hạ tầng của Việt Nam sẽ phải tăng lên khoảng 11-12% GDP thay vì 9-10% như hiện nay. Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực huy động nguồn lực từ ngân sách và vốn ODA nhưng vẫn chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng. Với những hạn chế về ngân sách và nhất là khi Việt Nam sắp hết hạn hưởng nguồn tài chợ ưu đãi thì khả năng tìm kiếm nguồn vốn từ các nhà đầu tư tư nhân cho cơ sở hạ tầng (ước tính khoảng 2,5 tỷ USD mỗi năm ) sẽ trở thành vấn đề cấp bách. 3.Các khoản chi NSNN khác 3.1 Chi trả nợ và chi viện trợ: Dự đoán 49.160 tỷ đồng, ước cả năm đạt 49.160 tỷ đồng, bằng mức dự đoán, đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ nợ đến hạn NSNN, không để tác động đến kinh tế vĩ mô.. 3.2 Chi thường xuyên: Bao gồm: Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế, giáo dục-đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, thể dục thể thao, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả cải cách tiền lương). Chi tiết các khoản mục chi thường xuyên của NSNN 2007: Dự toán 2007 Ước thực hiện 2007 Thực hiên so với dự toán 2007 (%) Dự toán 2008 Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tổng chi thường xuyên 174.550 100 206.000 100 118 100 Chi đảm bảo xã hội 26.800 15,4 36.310 17,6 135,5 17,1 Chi sự nghiệp kinh tế 12.830 7,4 14.609 7,1 113,9 7,5 Chi giáo dục đào tạo 47.280 27,1 53.720 26,1 113,6 25,9 Chi quản lý h/c Đảng, đoàn thể 24.800 14,2 28.075 13,6 113,2 13,6 Chi y tế 14.660 8,4 16.425 8 112 8 Chi bù giá chính sách 690 0,4 750 0,4 108,7 0,4 Chi thể dục thể thao 820 0,5 880 0,4 107,3 0,4 Chi phát thanh và truyền hình 1.310 0,8 1.397 0,7 106,6 0,7 Chi văn hoá thông tin 2.250 1,3 2.374 1,2 105,5 1,2 Chi bảo vệ môi trường 3.500 2 3.637 1,8 103,9 1,9 Chi khoa học công nghệ 3.580 2,1 3.700 1,8 103,4 1,8 Chi dân số KHH gia đình 590 0,3 603 0,3 102,0 0,3 Dự toán 199.150 tỷ đồng (đã bao gồm chi tiêu thực hiện tiền lương tối thiểu theo mức 450.000 đồng/ tháng); ước thực hiện chi cả năm đạt 206.000 tỷ đồng, tăng 3,4 % (6.850 tỷ đồng) so với dự toá, tăng 26,7% so với năm 2006; đảm bảo các nhiệm vụ chi theo dự toán như: chi cho lĩnh vực đào tạo đạt 20%; chi cho khoa học công nghệ cao đạt 2% và chi sự nghiệp môi trường đạt 1% tổng chi NSNN; đồng thời tăng chi để đáp ứng những nhiệm vụ mới phát sinh hoặc nhiệm vụ đã bố trí dự toán nhưng chưa đủ so với yêu cầu thực tế, như: khắc phục hậu quả thiên tai (hạn hán, lũ lụt….); phòng chống bệnh dịch với gia súc gia cầm… Năm 2007, nhiều chế độ chi tiêu NSNN và đổi mới quản lý tài chính trong các đơn vị sử dụng ngân sách đang được hoàn thiện hoặc triển khai, bước đầu đã có những kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh đó, việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nươc theo nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/09/2005 của Chinh phủ; cơ chế giao quyền đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 và nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 25/05/2006 của Chính phủ; chính sách khuyến khích xã hội hoá, thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cung ứng dịch vụ ngoài công lập theo Nghị định số 53/2006/NĐ-Cp ngày 25/05/2006 của Chính phủ đã được chú trọng, tạo bước chuyển mới trong hoạt động và quản lý tài chính với khu vực này. Công tác kiểm tra thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng NSNN và tài sản công được tăng cường, góp phần củng cố kỷ cương , kỷ luật tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngấn sách. 4. Bội chi ngân sách nhà nước Từ các số liệu trên, có thể tính lại các số liệu theo mục tiêu năm 2007 như sau: Tổng thu ngân sách nhà nước là 298 nghìn tỷ đồng ( tăng 15,5% so với năm 2006), so với GDP đạt khoảng 26,3% (chứ không phải 24,2% như mục tiêu; năm 2006 cũng đã đạt 26,6%). Bội chi NSNN cân khống chế ở mức 5% nên mức bội chi sẽ khoảng 57 nghìn tỷ đồng ( bằng mức bội chi năm 2006, nhưng tỷ lệ bội chi so với GDP thì thấp hơn). Với mức bội chi nhu trên thì tồng ngân sách nhà nước sẽ vào khoảng 355 nghìn tỷ đồng( Bằng 298 nghìn tỷ đồng cộng với 57 nghìn tỷ đồng), tăng 12,7% so với năm 2006. GS-TSKH Tào Hữu Phùng, Phó Chủ Nhiệm Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc Hội nêu rõ: Cân đôi NSNN đã được đảm bảo bằng các quy phạm mang tính nguyên tắc. Tuy nhiên, việc thực hiện Luật NSNN đã xuất hiện mốt số vướng mắc, tồn tại, trong đó vấn đề về phạm vi cân đối và cách tính bội chi NSNN còn có một số điểm chưa rõ ràng, chưa đúng với quy định với luạt NSNN, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Thứ trưởng Bộ Tài Chính Đỗ Hồng Anh Tuấn nểu rõ cách xác định bội chi NSNN hiện nay của Việt Nam bao gồm toàn bộ các khoản vay để bù đắp, có nghĩa là chi ngân sách đối với các khoản vay này được thực hiện 2 lần: Lần thứ nhất sử dụng nguồn vay cho các mục tiêu nhiệm vụ của NSNN; Lần thư 2 bố trí chi ngân sách để trả nợ (gốc và lãi) khi các khoản vay đến hạn trả. Do đó, mức bội chi ngân sách của Việt Nam thường cao hơn so với phương pháp tính bội chi theo thông lệ quốc tế và trùng lặp khi bố trí chi ngân sách 2 lần đối với các khoản vay bù đắp bội chi. Theo thông lệ quốc tế, việc xác định bội chi chỉ bao gồm trả nợ lãi trong và ngoài nước, không bao gồm trả nợ gốc, nhưng bao gồm cả các khoản vay để cho vay lại III.Hiệu quả chi tiêu NSNN ở một số nước Châu Á: Niên giám thống kê các chỉ số chủ chốt của các nước đang phát triển Châu Á- Thái Bình Dương 2002 của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) xuất bản năm 2002 có số liệu thống kê các hoạt động kinh tế của 38 nước đang phát triển trong khu vực: Tăng trưởng Chi thường xuyên Chi đầu tư Tổng chi ĐT và TX Chi TX/chi ĐT(lần) Hàn Quốc Singapore Đài Loan Inđônêxia Malaixia Thái Lan Ấn Độ Bănglađét Srilanka Nêpan Philipin Tonga Fiji 7,03 6,92 6,65 6,56 6,26 6,14 5,38 4,47 4,23 4,20 2,87 2,15 1,82 14,12 15,39 11,40 10,96 20,03 12,57 15,21 6,56 21,67 7,90 15,23 33,16 29,48 3,01 6,49 4,34 7,71 6,60 4,15 2,24 5,87 8,04 11,64 2,71 5,92 5,18 17,1 21,9 15,7 18,7 26,6 16,7 17,4 12,4 29,7 19,5 17,9 39,1 34,7 4,7 2,4 2,6 1,4 3,0 3,0 6,8 1,1 2,7 0,7 5,6 5,6 5,7 Sắp xếp theo thứ tự giảm dần của tốc đọ tăng trưởng kinh tế giữa các nước trong bảng số liệu này, có thể thấy rằng trong vòng 20 năm qua, chi tiêu chính phủ của 13 nước Châu Á hoàn toàn không tương đồng với tốc độ phát triển. Mức chi cao, đặc biệt là khoản chi thường xuyên thể hiện ảnh hưởng tiêu cực rõ ràng đến tăng trưởng kinh tế. Gần 20 năm là quãng thời gian đủ dài để các dự án đầu tư phát triển về kinh tế, xã hội phát huy tác dụng của chúng; thế nhưng tốc đọ chi tiêu cao liên tục trong thời gian ấy không đẩy mạnh được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở những quốc gia này. Trong đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX, một số điều kiện kinh tế, xã hội của Philipin không khác biệt lớn so với Inđônêxia và Đài Loan. Tuy nhiên, có thể thấy rằng qui mô chi tiêu của chính phủ Philipin là khá lớn, đặc biệt Philipin có mức chi thường xuyên cao gấp 5,6 lần mức chi cho đầu tư. Tỷ lệ này của Inđônêxia hoặc Đài Loan chỉ là 1,4 và 2,6 lần. Mức chi thường xuyên cao đặc biệt có thể thấy được ở Tonga và Fiji, tuy khoản chi đầu tư của 2 nớưc này không nhỏ. Qua số liệu ta có thể thấy rõ ảnh hưởng của khoản chi thường xuyên làm hạn chế tốc độ tăng trưởng. Gwartney, Lawson và Holcombe (1998) nghiên cứu về mối quan hệ giữa chi tiêu của chính phủ và tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp phát triển đã chỉ ra rằng: sau khi loại trừ ảnh hương của các yếu tố như quyền sở hữu, lạm phát, giáo dục và đầu tư; mức chi tiêu cao của chính phủ có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng GDP. Nghiên cứu này còn cho thấy 5 quốc gia có mức phát triển nhanh nhất thế giới trong khoảng 1980-1995 có mức chi tiêu chính phủ trung bình là 20,1% thấp hơn một nửa mức chi tiêu trung bình của các nước OECD. Một kết luận quan trọng trong nghiên cứu này là: chính phủ các nước OECD chỉ sử dụng 15% GDP vào các chức năng đích thực của chính phủ. Việc chi tiêu vượt quá các chức năng chủ chốt này đều đem lại hiệu ứng tiêu cực cho nền kinh tế. Như vậy có thể thấy rằng có sự nhất quán giữa sự chi tiêu chính phủ của các nước đang phát triển cũng như phát triển liên quan tới vấn đề hiệu quả chi tiêu. Qua số liệu hoạt động chi tiêu trung và dài hạn của 13 nước Châu Á, có thể thấy rằng tình trạng chi tiêu thiếu hiệu quả của các nước này thể hiện qua tác động tiêu cực rõ rệt của qui mô tổng chi ngân sách và tỷ trọng của khoản chi thường xuyên. Khoản chi thường xuyên thể hiện sự can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh tế, xã hội, trong đó có việc cung cấp các hàng hóa công không thuần tuý cho xã hội. Phần chi tiêu này càng lớn càng gây thất thoát và tổn hại lớn cho nền kinh tế.Chính phủ buộc phải tăng chi tiêu nói lên nhiều vấn đề, trong đó một mặt phản ánh áp lực chính trị xã hội buộc chính phủ phải tăng cường các chức năng không đích thực của mình, mặt khác phản ánh nguy cơ giảm hiệu quả của chính phủ cùng với chiều hướng phát triển tham nhũng, quan liêu. Từ việc phân tích các lí luận và thực tế của 13 nước Châu Á, rút ra kết luận: qui mô chi tiêu của chính phủ, đặc biệt là phần chi thường xuyên càng lớn càng làm hạn chế tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Trong thực tế của Việt Nam hiện nay, chi đầu tư phát triển có mức tăng thấp (chỉ tăng 2,1% so với dự toán) do tỷ lệ giải ngân các dự án đầu tư năm 2007 đều ở mức độ rất thấp, nhất là các dự án giao thông. Các hạng mục khác thực hiện thấp hơn dự toán là do không thực hiện các khoản chi cải cách tiền lương như dự toán đã bố trí 24.600 tỷ đồng. Tổng chi thường xuy ên tăng 18% (thực hiện so với dự toán 2007) chủ yếu là do tất cả các hạng mục chi thường xuyên đều thực hiện vượt dự toán, trong đó các hạng mục có qui mô lớn tăng mạnh hơn các hạng mục có qui mô nhỏ. Mức độ bố trí tăng chi 2007-2008 (%) Thực hiện 2007 so với dự kiến 2007 Dự toán 2008 so với dự toán 2007 Dự toán 2008 so với thực hiện 2007 Chi đầu tư phát triển Chi thường xuyên Chi trả nợ và viện trợ Các hạng mục khác Tổng cộng 102,1 118,0 100,0 34,1 103,1 100,3 119,7 104,1 114,5 111,6 98,3 101,4 104,1 335,6 108,3 Dựa vào các số liệu trên ta thấy, mức độ bố trí tăng chi NSNN ở nước ta chưa phù hợp với xu hướng chung. Tốc độ tăng chi thường xuyên còn cao hơn rất nhiều so với chi đầu tư. Do đó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế trong thời gian trung và dài hạn. C. Giải pháp nâng cao hiệu quả chi NSNN Từ những nhận xét trên, cần đưa ra những giải pháp để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực để thực hiện chi ngân sách một cách có hiệu quả hơn. 1/ Xác định mục tiêu chiến lược quản lý chi tiêu công Với tư cách là một công cụ trọng tâm của chính sách tài chính quốc gia, liên quan đến việc thực hiện phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính công, nên vấn đề xuyên suốt của quản lý chi tiêu công phải thực hiện các mục tiêu Đại hội Đảng lần thứ IX của Việt Nam đề ra, đó là: Giữ kỉ luật tài chính tổng thể. Đảm bảo qui mô chi NSNN vào khoảng 24-25% GDP, trong đó chi đầu tư phát triển chiếm 25-25%, chi trả nợ 17-18% và chi thường xuyên 57-58%. Theo đó, khống chế bội chi NSNN 4-5% GDP; bù đắp bội chi ngân sách bằng nguồn vốn trong nước khoảng 3-5% GDP và vay nước ngoài 1-1,5% GDP. Phân phối nguồn lực tài chính phù hợp với những ưu tiên chiến lược về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo; đảm bảo công bằng phù hợp với thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Nâng cao tính trách nhiệm, minh bạch, dân chủ trong chi tiêu công; đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực cảu những chương trình và cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cho xã hội; chi tiêu công thực sự trở thành thước đo năng lực, hiệu lực quản lí kinh tế xã hội của nhà nước. 2/ Quan điểm xây dựng chiến lược quản lí chi tiêu công Cải cách quản lí chi tiêu công phải đặt trong bối cảnh hành chính công tổng thể và nâng cao năng lực quản lí của Chính phủ. Với quan điểm này, yêu cầu nhà nước phải làm cho năng lực quản lí của mình phù hợp với năng lực đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, cụ thể là phải xây dựng các thể chế nhằm tạo ra một khu vực công năng động, bao gồm xây dựng về các thể chế về chính sách; chính quyền có khả năng xây dựng và phối hợp chính sách trong việc lựa chọn mục tiêu chiến lược; phân bổ nguồn lực gắn kết với kế hoạch và chính sách; thực hiện, kiểm soát và đánh giá các kết quả các hoạt đông; công chức phải có động cơ và năng lực quản lí tốt; ngăn chặn tham nhũng…. Quản lí chi tiêu công cần dựa trên những hệ thống nguyên tắc lập ngân sách và quản lí tài chính tốt. Những nguyên tắc đó là: Tính tổng thể và tính kỉ luật: Tính tổng thể đòi hỏi một sự tiếp cận đối với những vấn đề chi tiêu công đang tồn tại, hiểu biết tất cả những mối liên kết và đánh giá những trở lực thuộc về định chế và sau đó tìm ra những điểm tiếp cận thích hợp để đẩy mạnh quá trình cải cách chi tiêu công theo từng giai đoạn. Ngân sách phải bao quát tất cả những hoạt động tài chính của Chính phủ. Trong ngân sách, những quyết định tài chính mà chính phủ đưa ra cần phải dựa vào cơ sở giới hạn cứng của ngân sách và có sự cạnh tranh, đánh đổi giữa các nhu cầu và mục tiêu. Tính kỉ luật, đi đôi với nó là tính tiết kiệm, hàm ý rằng ngân sách chỉ nên tập trung những nguồn lực vừa đủ ở mức cần thiết để thực hiện tốt những chính sách Chính phủ. Tính linh hoạt: Tính linh hoạt có liên quan đến vấn đề đưa những quyết định đến tất cả các nơi mà thông tin hợp lí có thể có. Thuộc về hoạt động, Những người quản lí cần có quyền lực đối với quyết định quản lí; thuộc về chương trình, các cá nhân Bộ trưởng cần được trao thêm quyền lực đối với những quyết định chương trình. Những vấn đề này phải được đi kèm tính minh bạch và tính trách nhiệm, đông thời đòi hỏi phải một chiến lược chặt chẽ. Tính tiên liệu: Trong quản lí chi tiêu công, tính tiên liệu đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu quả và hiệu lực. Ở những quốc gia mà có sự ổn định kinh tế vĩ mô và chính sách chiến lược thì ở đó khu vực công sẽ thực hiện tố hơn chức năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Vấn đề này đòi hỏi cần chú ý đến sự cân đối giữa ngắn hạn và dài hạn. Chính sách tài khoá phải chú ý đến nhu cầu để làm chắc chắn dòng chảy của các quĩ tiền tệ đến các chương trình, dự án đúng lúc. Điều này đòi hỏi phải cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều chỉnh những mất cân đối ngân sách và đánh giá chương trình. Tính trung thực: Tính trung thực yêu cầu ngân sách nên xuất phát từ những dự toán không có sự thiên vị cả thu lẫn chi. Sự thiên vị này có thể bắt nguồn từ những vấn đề thuộc về chính trị lẫn kĩ thuật. Những dự toán quá lạc quan sẽ làm mềm đi giới hạn ngân sách và dẫn đến sự thất bại trong việc thực hiện những chiến lược chính sách ưu tiên. Thông tin: Thông tin tốt sẽ làm vững chắc thêm tính trung thực và đưa ra quyết định tốt. Thông tin chính xác và kịp thời về chi phí, đầu ra và kết quả là rất cần thiết trong quản lí chi tiêu công. Tính minh bạch và tính trách nhiệm: Tính minh bạch và tính trách nhiệm yêu cầu các quyết đinh, cùng với cơ sở và kết quả chi phí của nó có thể tiếp cận rõ ràng và được thông tin rộng rãi cho công chúng. Tính minh bạch đòi hỏi những người ra quyết định phải có tất cả những dữ liệu và thông tin thích hợp. Người ra quyết định phải có trách nhiệm về thực thi quyền lực đã được trao. Quản lí chi tiêu công cần đặt trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn. Với việc thiết lập khuôn khổ chi tiêu trung hạn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lí chi tiêu công: Tăng cường năng lực của Chính phủ trong soạn lập ngân sách, đặc biệt là khả năng dự báo khi phân bổ ngân sách. Tăng cường kỉ luật ngân sách và tính minh bạch cũng như trách nhiệm giải trình trong sử dụng nguồn lực công. Tăng cường chất lượng những thông tin ngân sách, tính rõ ràng của các mục tiêu chính sách. Hướng sự tập trung của các quan chức Chính phủ vào thời kì trung hạn chứ không chỉ một năm ngân sách hiện hành. Cho phép chính phủ tập trung nhiều hơn vào những ưu tiên mang tính chiến lược mà vẫn làm cho qui trình ngân sách toàn diện hơn. 3/ Các nội dung đổi mới quản lí chi tiêu công - Xác lập lại vai trò và cấu trúc của Nhà nước. Nội dung chiến lược này là nhằm hướng vào xác lập lại qui mô khu vực công và phạm vi can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế cho phù hợp với năng lực quản lí, thông qua các chính sách cổ phần hoá DNNN, tự do hóa kinh tế, xã hội hoá các dịch vụ công. - Nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lí và đơn vị sử dụng ngân sách. Cung cách quản lí tập trung, quan liêu là đặc tính của hệ thống lập ngân sách theo truyền thống mà kết quả của nó là nguồn lực tài chính công sử dụng kém hiệu quả và hiệu lực, các cơ quan Nhà nước không chịu trách nhiệm về hàng hóa, dịch vụ công cung cấp cho xã hội. Những người quản lí và sử dụng ngân sách hoạt động trong một môi trường kiểm soát hết sức cứng. Những công cụ truyền thống để thực hiện kiểm soát là định mức và khoản mục hoá các khoản chi tiêu, mua sắm đầu vào. Thế nhưng, chính sự kiểm soát đầu vào đã gây ra tính kém hiệu quả trong hoạt động bởi vì nó không khuyến khích tiết kiệm, không tạo ra sự gắn kết giữa khối lượng chi tiêu với khối lượng đầu ra. Từ những hạn chế đó, để nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động, quản lí chi tiêu đòi hỏi: Những người quản lí được trao quyền tự chủ trong việc điều hành hoạt động của họ và nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của họ về kết quả. Những kết quả cần được chi tiết hoá trong ngân sách và trong những kế hoạch tài chính có liên quan, qua đó tạo điều kiện cho những người quản lí thấy trước kết quả thực hiện và giúp cho chính phủ so sánh được kết quả mục tiêu và kết quả thực tế. Những người quản lí có năng lực đủ mạnh trong việc chủ động đề ra những giải pháp để giảm bớt chi phí hoạt động và nâng cao khối lượng hoặc chất lượng đầu ra. Tạo ra những đòn bẩy kinh tế khuyến khích những người quản lí cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động. - Chuyển sang lập kế hoạch dài hạn với những giới hạn ngân sách bằng việc xây dựng khuôn khổ chi tiêu trung hạn nhằm ràng buộc các cấp chính quyền từ TW đến địa phương sử dụng các nguồn lực tài chính phải gắn liền với các ưu tiên tổng thể của quốc gia. Trong năm 2002, dưới sự hỗ trợ của UNDP (dự án VIE/96/028) Chính phủ đã bắt đầu thực hiện thí điểm xây dựng khuôn khổ chi tiêu trung hạn trong ngành giáo dục- đào tạo. Trên cơ sở kinh nghiệm tích luỹ được từ việc thực hiện thí điểm này, Chính phủ cần triển khai rộng rãi cho các ngành khác. - Từng bước chuyển quản lí ngân sách theo đầu vào sang quản lí ngân sách theo đầu ra. Một khi đã thay đổi qui trình lập ngân sách theo khuôn khổ chi tiêu trung hạn, thì phương thức quản lí ngân sách cũng phải có những thay đổi nhất định cho tương hợp. Quản lí ngân sách theo kết quả đầu ra là một hoạt động quản lí dựa vào cách tiếp cận thông tin đầu ra qua đó giúp cho chính phủ và các cơ quan sử dụng ngân sách phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính hiệu quả và hiệu lực hơn. So với phương thức quản lí ngân sách theo đầu vào, quản lí ngân sách theo đầu ra có nhiều ưu điểm. Trong năm 2002, Chính phủ đã thực hiện mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lí hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước (theo QĐ 192/2001 ngày17/12/2002). Cũng cần thấy rằng, cơ chế khoán chi này chỉ là bước đi ban đầu của quá trình chuyển đổi cung cách quản lí ngân sách theo đầu vào sang quản lí ngân sách theo đầu ra. Do đó, việc thiết lập hoàn chỉnh một qui trình quản lí ngân sách theo đầu ra trong thời gian tới là rất cần thiết (bao gồm quy trình lập, đánh giá, hệ thống báo cáo). - Phát triển hệ thống thông tin quản lí tài chính và hệ th ống kế toán công. Những vấn đề này là trong số các yếu tố cơ bản góp phần làm nâng cao năng lực của chính phủ để phân phối và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả và hiệu lực. Kết luận Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, NSNN là công cụ qu ản lí vĩ mô chi phối toàn diện các quan hệ kinh tế, là một quỹ tiền tệ lớn, tham gia trực tiếp vào quá trình điều tiết kinh tế qua các chính sách động viên và bố trí cơ cấu chi. Cơ cấu chi NSNN phản ánh chiến lược, chính sách phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững…. Trong những năm qua việc chi NSNN ở nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể đến như: chi NSNN góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế-xã hội; góp phần phát triển kết cấu cơ sở hạ tầng của một số lĩnh vực quan trọng; đảm bảo trả nợ nguồn vay nợ và viện trợ của nước ngoài; đảm bảo quản lí nhà nước và xã hội ngày càng tốt hơn; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; tạo động lực để tăng đầu tư toàn xã hội; đảm bảo công bằng xã hội, xoá đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt đ ược, chi NSNN vẫn còn nhiều vấn đề chưa hợp lí cần xét đến như: chi NSNN vẫn trong khuôn khổ ngắn hạn, có lúc còn mang nặng tính đối phó tình thế, thiếu tính chủ động bền vững; cơ cấu chi NSNN không được xác định dứt khoát, còn lúng túng trong lựa chọn mục tiêu ưu tiên cho từng giai đoạn, từng thời kì; phân cấp quản lí nhà nước chưa đúng mức, còn có sự lồng ghép trong nhiệm vụ chi ở các cấp chính quyền; chưa có sự đầu tư thoả đáng cho công tác qui hoạch tổng thể, qui hoạch vùng, miền, lãnh thổ, ngành dẫn đến chi NSNN cho đầu tư còn phân tán dàn trải, trùng lặp, hiệu quả thấp; những khoản chi vì lợi ích lâu dài như chi GDĐT, chi cho KHCN, chi bảo vệ môi trường,…. chưa được quan tâm đúng mức; còn tình trạng phân bổ không đúng mục đích, chi tiêu vượt quá dự toán, lãng phí thất thoát trong chi tiêu ngân sách; bố trí và vận hành cơ cấu chi NSNN theo cảm tính gây bất lợi cho nền tài chính quốc gia. Thấy được các thành tựu của chi NSNN cũng như những hạn chế trong việc chi tiêu ngân sách ở nước ta hiện nay, chúng em đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chi NSNN sao cho đáp ứng được mục đích mà chính phủ đề ra và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Do việc tìm hiểu và nghiên cứu còn hạn chế nên các giải pháp trên chỉ mang tính đóng góp và nhằm hoàn thiện hơn việc chi tiêu của chính phủ. Tài liệu tham khảo Hiệu quả chi tiêu ngân sách và chức năng chính phủ ở 1 số nước trên thế giới (Bùi Đại Dũng). Tạp chí kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchi_ngan_sach_nha_nuoc_679.doc