Tiểu luận Hình thái Kinh tế xã hội đối với sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta

Có một nhà báo đã nhận định về nước ta rằng Việt Nam "con Rồng nhỏ đang chuyển mình". Theo em, nói như vậy hoàn toàn không phải là sai. Nước ta với biết bao tiềm năng sẽ trở thành giàu mạnh nếu phát triển đúng hướng của những con đường duy nhất đó là tiến lên chủ nghĩa xã hội như Đảng và Nhà nước ta đã chọn thông qua việc công nghiệp hoá kết hợp khôn ngoan với hiện đại hoá là một cơ hội để nước ta phát huy hết khả năng, khẳng định vị trí của mình trong khu vực và trên thế giới. Và quả thực từ một nước rất nghèo nàn lạc hậu đến nay ta đã không còn là nước nghèo trong các nước nghèo nữa, chúng ta đã đạt được những thành quả nhất định trong nhiều lĩnh vực.

doc35 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hình thái Kinh tế xã hội đối với sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay chỉ là tạm thời so với tất yếu khách quan của cuộc sống nhưng quan hệ sản xuất sẽ là xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Phù hợp có thể hiểu ở một số nội dung chủ yếu là: cả ba mặt của quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sản xuất và kết hợp với tối ưu giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, bảo đảm trách nhiệm từ sản xuất mở rộng. Mở ra sau những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần với người lao động. Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của người sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác động của quy luật này xã hội là sự phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của các phương thức sản xuất hay chính alà của các hình thái kinh tế - xã hội. Dưới những hình thức và mức độ khác nhau thì con người có ý thức được hay không và quy luật cốt lõi này như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy tiến hoá của lịch sử không chỉ những lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh vực ngoài kinh tế, phi kinh tế. 2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mỗi hình thái kinh tế - xã hội Không chỉ đặc trưng bằng quan hệ sản xuất mà nó còn đặc chưng bởi một kiến trúc thượng tầng xây dựng trên những quan hệ sản xuất của chính nó. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tạng của thượng tầng, đó là những quan điểm tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và các thể chế tương ứng như Nhà nước Đảng phái, giáo hội và các đoàn thể quần chúng. Kiến trúc thượng tầng được hình thành trên tổng hợp toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một chế độ xã hội nhất định người ta gọi đó là cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống trị nền kinh tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn dư và những quan hệ sản xuất mới là quan hệ mầm mống của xã hội sau. Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm những thành phần kinh tế khác nhau, mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền với một kiểu quan hệ sản xuất trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các thành phần kinh tế khác. ở xã hội có giai cấp đối kháng giai cấp này nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, từ những mâu thuẫn và xung đột kinh tế. Đó chính là cơ sở nẩy sinh giai cấp đối kháng trong kiến trúc thượng tầng, giai cấp thống trị về kinh tế sẽ thống trị về chính trị và thiết lập cả sự thống trị về mặt tư tưởng đối với xã hội, trong đó hệ tư tưởng chính trị và bộ máy quản lý nhà nước có vị trí quan trọng nhất. a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng được thể hiện ở một số mặt: Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó (giai cấp nào giữ vị trí thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất cả các lĩnh vực khác). Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc thượng tầng tương ứng. Mâu thuẫn giai cấp mâu thuẫn giữa các tập đoàn trong xã hội và đời sống tinh thần của họ đều xuất phát trực tiếp và gián tiếp từ mâu thuẫn kinh tế, từ những quan hệ đối kháng trong cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng. Quá trình đó diễn ra ngay trong những hình thái kinh tế xã hội cũng như khi chuyển tiếp từ hình thái này sang hình thái kinh tế xã hội khác trong các xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng được biểu hiện là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp mâu thuẫn của cơ sở hạ tầng được biểu hiện là mâu thuẫn của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Khi hạ tầng cũ bị xoá bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và thay thế vào đó là kiến trúc thượng tầng mới được hình thành từng bước thích ứng với cơ sở hạ tầng mới. Sự thống trị của giai cấp thống trị cũ đối với xã hội cũ bị xoá bỏ, thay bằng hệ tư tưởng thống trị khác và các thể chế tương ứng của giai cấp thống trị mới. Đương nhiên không phải "khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì lập tức sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng". Trong quá trình hình thành và phát triển củ kiến trúc thượng tầng mới, nhiều yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại gắn liền với cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra nó. Vì vậy giai cấp cầm quyền cần phải biết lựa chọn một số bộ phận hợp lí để sử dụng nó xây dựng xã hội mới. Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đên sự biên đổi về kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra hết sức phức tạp, thường trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính chất phức tạp ấy được thể hiện qua các cuộc đấu tranh giai cấp. Tính chất này được bộc lộ rõ nét nhất phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn thấp nhất là xã hội chủ nghĩa) giai cấp cách mạng phải thực hiện cuộc đấu tranh lật đổ kiến trúc thượng tầng cũ thiết lập hệ thống chuyên chính của mình, sử dụng nó như là một công cụ từng bước đấu tranh cải tạo định hướng xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng mới, đồng thời với việc xác lập, củng cố và xây dựng kiến trúc thượng tầng tương ứng. Đó là quá trình đấu tranh lâu dài trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. b) Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng. Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải phụ thuộc một chiều vào cơ sở hạ tầng mà trong quá trình phát triển, chúng có những tác động qua lại với nhau và ảnh hưởng lớn đến cơ sở hạ tầng cũng như các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện trên các mặt sau: Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là thực hiện nhiệm vụ đấu tranh thủ tiêu cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, xây dựng bảo vệ củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng mới. Kiến trúc thượng tầng chính là công cụ của giai cấp thống trị, các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng cũng có tác dụng mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng nhưng thường những tác động ấy phải thông qua hệ thống chính trị, pháp luật hay các thể chế tương ứng khác. Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng không giảm đi, mà ngược lại tăng lên và tác động mạnh đến tiến trình lịch sử. Ví dụ: ở các nước tư bản, một mặt giai cấp tư sản đẩy mạnh chạy đua vũ trang tạo thế áp đảo quân sự mặt khác ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào quản lý kinh tế, xã hội phân hoá đội ngũ công nhân, lôi kéo một bộ phận trí thức công nhân kỹ thuật lành nghề tham gia vào việc phân chia lợi nhuận dưới hình thức các Công ty cổ phần. Trái lại kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng xã hội mới, chính mục đích đó quyết định tính tích cực càng tăng của kiến trúc thượng tầng của xã hội chủ nghĩa. Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được thể hiện trong hai trường hợp trái ngược nhau nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với quan hệ kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội. Ngược lại nếu kiến trúc thượng tầng là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế xã hội, những sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời sớm muộn cũng sẽ bị cách mạng khắc phục về cơ bản, bản chất giữa cơ sở hạ tầng và cơ sở thượng tầng chính là bản chất giữa kinh tế và chính trị trong đó kinh tế đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và có tác dụng mạnh mẽ trở lại. Cần tránh khuynh hướng quá thổi phồng hoặc hạ thấp vai trò của kiến trúc thượng tầng. nếu tuyệt đối hoá vai trò của kiến trúc thượng tầng thì sẽ rơi vào tả khuynh còn ngược lại sẽ rơi vào hữu khuynh. II. Sự vận dụng hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam Dựa trên cơ sở những lý luận chung trên đây, phần tiếp theo của đề tài xin phép được đi sâu vào vấn đề "hình thái kinh tế xã hội với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam". Tính tất yếu của mục tiêu và thực trạng ở nước ta trong công cuộc xây dựng phát triển kinh tế xã hội - xã hội chủ nghĩa. 1. Tính tất yếu Loài người đã phải trải qua 5 hình thái kinh tế. Mỗi hình thái sau tiến bộ hơn, văn minh hơn hình thái trước. Đầu tiên là hình thái kinh tế tự nhiên (cộng sản nguyên thuỷ) con người chỉ biết săn bắn hái lượm, ăn thức ăn sống cuộc sống của họ phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, họ chưa biết chăn nuôi, trồng trọt, chưa biết tích luỹ thức ăn. Họ cùng làm cùng hưởng sống theo chế độ quần hôn. Có thể nói đây là thời kỳ sơ khai một thời kỳ mông muội của loài người. Sau đó đến hình thái kinh tế xã hội: Chiếm hữu nô lệ con người đã văn minh hơn họ không còn ăn tươi sống và đã biết lao động tạo ra của cải, xã hội chế độ tư hữu. Xã hội bắt đầu phân chia thành kẻ giầu người nghèo, thay thế chế độ quần hôn bằng chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, quan hệ giữa hai giai cấp đó là quan hệ bóc lột hoàn toàn của cải vật chất và con người. Nô lệ biến thành công cụ lao động. Vấn đề giai cấp khi lên đến xã hội phong kiến bản chất vẫn là quan hệ bóc lột những sự bóc lột thể hiện qua sự cống nạp. Người nông dân, tá điền phải làm thuê và nộp tô thuế cho quan lại, địa chủ, song họ có một chút quyền lợi là được tự do. Hình thái kinh tế xã hội: Tư bản chủ nghĩa ra đời đưa loài người lên nấc thang cao hơn của nền văn minh. Xã hội đã phong phú hơn về giai cấp. Giai cấp thống trị là giai cấp cơ bản. Thủ đoạn bóc lột của chúng tinh vi hơn rất nhiều lần so với sự bóc lột trước đó trong các xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Người công nhân làm thuê bị bóc lột sức lao động qua giá trị thặng dư, sự làm việc quá sức... Mặc dù tư bản xã hội chủ nghĩa tạo ra một lượng của cải vật chất rất lớn cho xã hội, nhưng bản chất bóc lột cùng những mâu thuẫn khác là không thể điều hoà. Phần đông con người trong xã hội tư bản chủ nghĩa đều bị mất quyền lợi mất bình đẳng. Cả ba chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa có những đặc điểm riêng nhưng nó đều là chế độ có khác những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, và dựa trên sự tư hữu về sản xuất. Giai cấp bóc lột là giai cấp thống trị, mọi hoạt động về mặt kinh tế chính trị xã hội đều chỉ phục vụ cho quyền lợi của chính họ. Một hình thái kinh tế xã hội tồn tại được thì nó phải có những mặt tốt nhất định của nó chúng ta cũng không thể phủ nhận những thành quả mà các hình thái kinh tế xã hội nói trên đã đạt được. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế độ xã hội đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của loài người. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ giai cấp thống trị bắt đầu tích luỹ của cải cho xã hội, quan trọng nhất là nó đưa con người ra khỏi thời kỳ mông muội hoang dã. Xã hội phong kiến là bước trung gian để loài người chuyển sang một nền văn minh mới nó hình thành những tiền đề tốt cho sự ra đời của xã hội tư bản chủ nghĩa. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không chỉ còn là sản xuất nông nghiệp, con người đã được tiếp cận với sản xuất công nghiệp với những thành tựu khoa học kỹ thuật nó đã tạo ra những khả năng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, nó tạo ra một khối lượng của cải vật chất cho nhân loại bằng tất cả các xã hội trước cộng lại. Song một tấm huy chương luôn có hai mặt của nó. Mặc dù các xã hội nói trên đã đạt được những thành quả trong lịch sử phát triển loài người như những mặt trái của nó cùng những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Nền văn minh đảm bảo sự công bằng cho xã hội. Hình thái kinh tế xã hội là chế độ xã hội bước đầu vừa phát huy thừa kế những thành quả của chủ nghĩa tư bản, đồng thời khắc phục những mâu thuẫn những hạn chế của tư bản chủ nghĩa. Một xã hội mà quyền lực nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động - một tầng lớp đông đảo của xã hội. Mọi hoạt động kinh tế - văn hoá - chính trị phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội. Không còn tình trạng bóc lột, mọi người đều bình đẳng, sinh hoạt lao động dưới sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ tập chung dân chủ công bằng xã hội. Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển cao cơ sở hạ tầng phù hợp với kiên trúc thượng tầng. Đây là hình thái kinh tế xã hội ưu việt một đỉnh cao của văn minh loài người. Từ hai con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, một con đường tư bản chủ nghĩa và con đường đi từ tiến tư bản chủ nghĩa. Nhân loại đã chứng kiến nhà nước, dân tộc do điều kiện lịch sử riêng của mình đã bỏ qua 1, 2 giai đoạn lịch sử nào đó đển tiên lên giai đoạn lịch sử cao hơn dưới hình thức này hay hình thức khác tức là "rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ". Việt Nam là một trong số những nước đó. Song Việt Nam từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát ra khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ một nước phát triển bằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 2. Mục đích: Mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định là: Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu kinh tế lập hiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, và nước ta đã chuyển sang một thời kỳ phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đây là những nhận định rất quan trọng đối với những bước đi tiếp theo trong sự nghiệp đổi mới. Thuộc phạm trù lực lượng sản xuất và vận động bên ngoài biện chứng nội tại của phương thức sản xuất vấn đề công nghiệp hoá ngày nay gắn chặt với hiện đại hoá trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học Mác xít chứ không phải là từ tư duy kinh tế hay tư duy nào khác. Công nghiệp hoá là một quá trình nhằm đưa nước ta từ một nền công nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại. Hiện đại hoá là một mục tiêu cơ bản của văn minh hiện đại, thể hiện xu hướng lịch sử tiến bộ và phát triển. Đó là nhiệm vụ quan trọng có tầm cỡ to lớn, đòi hỏi phải đi từ cái cụ thể đến cái tổng thể. Trước hết cần hiểu rõ thực trạng và những định hướng trung của Việt Nam trình độ lực lượng sản xuất ở mức thấp, quá độ lên chủ nghĩa xã hội lại không phải từ chủ nghĩa tư bản mà từ bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ xã hội. Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ và sáng tạo các quy luật khách quan, trong đó quy luật sản xuất phù hợp với tính chất trình độ lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất nhằm cải tạo các thành phần kinh tế khai thác mọi tiềm năng sản xuất. Phát huy tính chủ động sáng tạo của chủ thể các thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế quốc doanh phải phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả để thực sự có tác dụng chủ đạo với các thành phần kinh tế khác. Chúng ta phải khắc phục quan niệm bỏ qua chủ nghĩa tư bản một cách giản đơn. Phải khai thác sử dụng tối đa chủ nghĩa tư bản làm khâu "trung gian" để chuyển nền sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội như Lênin đã chỉ ra. Chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và việc sử dụng các hình thức kinh tế trung gian quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà Đại hội VI vạch ra là đúng đắn. Đại hội VII của Đảng cũng đã chỉ rõ "... phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất thiết lập từng bước quan hệ sản xuất từ xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng sản xuất chủ nghĩa tiên hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước". Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của kinh tế quốc doanh. Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Đó là một trong những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước ta. Từ chủ trương đúng đắn đến chủ trương đi vào đời sống là một bằng chứng. Độ dài ngắn của bằng chứng này phụ thuộc vào các nhân tố chủ quan. Trước hết là năng lực lãnh đạo. Tổ chức quản lý kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Ngày nay trên phạm vi toàn thế giới công nghiệp hoá hiện đang được coi là phương hướng chủ đạo, phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối với nước ta, khi những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế được nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với tư cách là cơ sở lý luận của sự công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, thì một mặt chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp này trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại cho chế độ xã hội mới bởi nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu kinh tế kém phát triển quan hệ sản xuất mới không thể thiết lập trên nền tảng của lực lượng cũ. ở đây công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp bằng nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghiệp, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc doanh. Hơn nữa sự vận dụng đúng đắn của các quy luật quan hệ sản xuất, phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là cần thiết. Bên cạnh đó từng bước cơ sở xây dựng hạ tầng và cơ sở thượng tầng. Đặc biệt là xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thực hiện đa dạng hoá về tình hình sản xuất quản lý và phân phối theo lao động. 3. Thực trạng sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam Trước đây trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã xác định công nghiệp hoá "là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" song nước ta vẫn mắc phải sai lầm bằng cách nhận thức về công nghiệp hoá. Từ cuối những năm 70, đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội với những khó khăn gay gắt lạm phát phi mã (năm 1986 là 774,7%). Khi đó do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý luận và thực tiễn có khoảng cách quá xa tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất, chế độ bao cấp dẫn đến tình trạng trì chệ trong công việc: ỷ lại lười nhác, phụ thuộc vào Nhà nước. Không năng động sáng tạo bằng công tác được giao, không cần quan tâm đến kết quả đạt được. Việc theo giờ giấc thậm chí đến muộn về sớm, không có sự cố gắng hoàn thành nhiệm vụ chưa nói đến việc làm ăn, làm hình thức hiện tượng về tổ chức vô kỷ luật khá phổ biến. Kết quả dẫn đến trong công tác hành chính thì bảo thủ, quan liêu do chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý điều hành không nhạy bén, nên từ trên xuống dưới hoạt động không thống nhất. Đặc biệt là ở địa phương tình trạng lợi dụng cơ sở để mưu lợi ích cá nhân và lợi ích cục bộ (đục nước béo cò). Trong sản xuất sản phẩm làm ra không đủ chất lượng lạm phát càng tăng. Kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước đời sống xã hội thấp kém, nghèo khó. Trước đây chúng ta do không thấy được quy luật lực lượng sản xuất phát triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên chúng ta đã đi ngược lại quy luật này và muốn áp đặt một quan hệ sản xuất để kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sau khi tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân theo đúng quy luật, chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động trên cơ chế thị trường làm cho năng suất lao động tăng, lực lượng sản xuất phát triển do đó quan hệ sản xuất càng phát triển theo. Mặt khác phải tạo ra yếu tố tích cực biến các yếu tố chủ quan vì nó có tính độc lập tương đối vì rằng ý thức có tính vượt trước nên quan hệ sản xuất có khả năng vượt so với sản lượng sản xuất vượt trước ở đây là sự vượt trước có tính phù hợp, vượt trước dựa trên cơ sở suy luận khoa học lôgic, dựa trên các quy luật và cao hơn là sự vượt trước kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng. Nó cũng phải dựa trên sự phù hợp với quy luật và cơ sở lý luận khoa học logic. Đáng tiếc là chúng ta vì muốn rút ngắn thời kỳ quá độ chúng ta đã tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần nội dung và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Mặt khác quan trọng hơn là do chưa hiểu thấu đáo về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã hành động trái quy luật, đã không làm những việc phải làm, vận dụng một cách dập khuôn máy móc, giáo điều mô hình kinh tế của người khác, trong khi những mô hình kinh tế đó chỉ là sản phẩm của tưởng tượng chủ tư tưởng quan duy ý thức. Cả một thời gian dài chúng ta đã quá đề cao vai trò của quan hệ sản xuất. Chúng ta đã không thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nên tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và bắt về thực chất là theo đường lối "đẩy mạnh xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, thiết lập chế độ công hữu với thuần nhất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể" đây là một sai lầm làm sai quy luật do đó mà ta cần có quan niệm cho đúng về quan hệ sở hữu và quan hệ khác (quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội. Trong nhận thức chúng ta coi các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là phi xã hội chủ nghĩa, bị ép buộc cải tạo một cách sống sượng và chỉ nhìn thấy mặt tích cực của nó. Kinh tế quốc doanh thì được thừa nhận nên phát triển tràn lan, bất chấp điều kiện về vật chất trình độ quản lý thấp kém hiện có. Kết quả cuối cùng đem lại là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả còn kinh tế ngoài quốc doanh lại bị kìm hãm không ngóc đầu lên được. Nền kinh tế tuy đạt được độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có phát triển vì dựa vào bao cấp, bởi chi ngân sách lạm phát vay nợ nước ngoài. Con người không được giải phóng và bị lầm vào tình trạng khủng hoảng lạc hậu trì trệ làm tăng chi phí lớn của cải xã hội. Do tư tưởng chủ quan duy ý chí nông nổi đi lên chủ nghĩa xã hội nên đã mở rộng kinh tế quốc doanh quá mức chịu đựng của các nguồn lực hiện có và khả năng điều hành quản lý của các cấp ngành (1976 có 7000 xí nghiệp đến 1986 có 12.000 xí nghiệp). Trong lĩnh vực nông nghiệp. Nông nghiệp nước ta nhiều năm lâm vào khủng hoảng. Trước đây do nóng vội, gượng ép và vi phạm nguyên tắc cơ bản của HTX là "tự nguyện" mang tính chất cương hữu, ồ ạt mọi người không làm nghề gì cũng đều phải vào HTX. Mà quá trình hình thành nền tập thể này lại chưa được chuẩn bị kỹ, một mặt dựa vào kinh tế quốc dân, mặt khác lại dựa vào bao cấp nên dẫn đến tình trạng vốn liếng nhỏ bé, trang bị đơn giản. Trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh kém. Cụ thể là sản lượng gạo, lương thực sản xuất ra không đủ để cung cấp trong nước đời sống người dân khổ cực. Hạt vừng hạt lạc trở nên hiếm hoi nên thị trường trên các chợ (do kế hoạch sản xuất tập trung của HTX, không khuyến khích mà còn cấm đoán mà các hình thức xen canh gối vụ trên đồng ruộng). Nông nghiệp lạc hậu làm cho sử dụng lãng phí nguồn đất đai, sức lao động vốn cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội, làm cho thị trường rộng lớn của nông thôn không phát triển và từ đó làm hãm các ngành khác phát triển. Về xã hội sự lạc hậu của nông nghiệp và nông thôn làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Đồng thời còn làm tăng thêm các làn sóng di dân từ nông thôn vào thành thị tạo nên những tệ nạn xã hội, ảnh hưởng trật tự an ninh. Đến khi áp dụng chính sách khoán đất cho nhân dân tự trồng trọt, phá bỏ hợp tác thì nên Nhà nước đã có những bước chuyển mình rất rõ rệt. Lương thực bình quân năm từ 13,3 triệu tấn trong thời kỳ 1976-1980, lên 17,6 triệu tấn trong thời kỳ 1981-1988 và 22,7 triệu tấn 1989-1993. Năm 1993 lương thực đạt gần 25 triệu tấn gần bằng mức đề ra cho 1995, đảm bảo cho nhu cầu trong nước đã có dự trữ và xuất khẩu. Trong 3 năm gần đây bình quân năm xuất khẩu được 1,6 triệu tấn. Có lượng xuất khẩu thức ăn sau dầu mỏ. Nước ta từ một nước thiếu lương thực đã vươn lên đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Nhà nước phát triển thúc đẩy sự phát triển trong các ngành cơ bản quen như công nghiệp, thương mại dịch vụ. Sản lượng lương thực năm 1993 là 24,5 triệu tấn vượt mức dự tính (23 triệu tấn/95) với khoảng 7 triệu tấn lương thực hàng hoá sản lượng thịt hơi 1 triệu tấn, sữa tươi 15 nghìn tấn. Trong công nghiệp. Trong lựa chọn bước đi, đã có lúc chúng thiên về "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng coi đó là giải pháp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công nghiệp. Mà không coi trọng đúng mức của phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. công nghiệp hoá cũng được hiểu một cách giản đơn là quá trình xây dựng một nền sản xuất được cơ khí hoá trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Chúng ta thực hiện chủ nghĩa xã hội ồ ạt với quy mô lớn. Quốc hữu hoá toàn bộ các xí nghiệp tư nhân. Kế hoạch kinh tế của nước ta hầu như dậm chân tại chỗ với những viện nghiên cứu bao cấp chỉ đạo thì làm sao không thể phát huy được năng lực sáng tạo với đồng vốn ít không đủ để cho nghiên cứu không cung cấp đầy đủ kinh phí cho các việc ứng dụng nó vào thực tiễn sản xuất. Trong khi đó nhìn ra bên ngoài khoa học kỹ thuật của các nước phát triển như vũ bão và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thấm vào tất cả các yếu tố của con người. Một hạn chế nữa là chúng ta mắc phải đó là ta đã phủ nhận quy luật giá trị sản xuất hàng hoá kinh tế thị trường. Thực chất ở đây cũng là do những nhận thức sai lầm, chủ quan nóng vội mà chúng ta đã cho rằng kinh tế nước ta phải tuân theo quy luật giá trị sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường mà không hiểu điều quy luật nhất đó là: nước ta mới ở giai đoạn của thời kỳ quá độ. 4. Một số biện pháp Để thực hiện được mục tiêu Đảng đề ra là làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, đất nước chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội thì đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất, vì không có lực lượng sản xuất hùng hậu với năng suất cao thì không thể nói đến công nghiệp xã hội. Mà muốn có lực lượng sản xuất hùng hậu và năng suất lao động cao thì không chỉ dựa vào nông nghiệp, sử dụng lao động thủ công mà phải phát triển mạnh công nghiệp đi lên đối với việc đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh hiệu quả và sự phát triển bền vững toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác là phải tiến hành theo hàng hiện đại hoá. Đó là bước đi tất yếu của một quốc gia muốn đi lên từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và đó cũng là xu thế chung của lịch sử. Một lần nữa ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc CNH - HĐH ở Việt Nam. CNH - HĐH đưa nước ta vượt qua một chặng đường dài đi lên công nghiệp xã hội tính được tình trạng chung đó là sự tụt hậu ngày càng xa của các nước đang phát triển so với các nước phát triển . CNH - HĐH là để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, CNH - HĐH đất nước thì có tránh được nguy cơ tụt hậu về kinh tế và sự lạc hậu về tiến bộ xã hội. Nhận định được những điều nói trên và những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế ở Việt Nam thì năm đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định lại tư tưởng nhận thức một cách đúng đắn hơn: "Không thể nhảy vọt lên một hình thức cao trước khi điều kiện vật chất bảo đảm cho nước ta chưa được chuẩn bị đầy đủ "phải luôn hướng vào lực lượng về học thuyết kinh tế xã hội của Mác. Xác định được đây mới là giai đoạn đầu của kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, và để thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH phải có những cơ sở phù hợp hơn, đúng đắn hơn. Tất cả phải xuất phát từ thực trạng những điều kiện và thuận lợi trước mắt. * Khó khăn: Một vấn đề nổi cộm "chúng ta còn quá lạc hậu, cần phải trang bị mới hiện đại". Về nông nghiệp: cho đến nay chúng ta vẫn trong tình trạng lạc hậu về năng suất vẫn thấp (một lao động trong nông nghiệp trung bình nuôi 2,5 -3 người so với ở Mỹ, một lao động nông nghiệp nuôi 30 - 40 người). Nông nghiệp chưa thể là chỗ dựa để nâng nhu cầu bình quân đầu người một cách đáng kể nông sản hàng hoá vẫn chưa trở thành nguồn chính mà ta có thể dựa vào đó để xây dựng công nghệ và cơ cấu hạ tầng. Thuế thu nhập từ nông nghiệp không đáng kể. ở Hải Phòng và Hà Nội: 178,1 tỉ đồng Đồng bằng sông Hồng 4,6 tỉ. TP. Hồ Chí Minh và vùng ngoại thành là 655 tỉ - SCL 131,8 tỉ. Về công nghiệp: Chiếm 19% tổng sản phẩm quốc nội, công nghệ chế tạo 10% tỉ trọng công nghiệp. Theo đúng quá trình của Bộ KHCN và môi trường. Trình độ công nghệ của công nghiệp thuộc giai đoạn 1,2 (thấp) trong giai đoạn phát triển công nghiệp gồm 7 giai đoạn. Sự đóng góp của công nghệ trong công nghiệp trong giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp (10-20%). Trình độ hiện đại của thiết bị tính chung cả nước (hiệu quả 16%). Hệ số hiện đại của thiết bị tính chung cả nước chỉ đạt 7% năm (bằng 1/2 tối thiểu của các năm). Tốc độ phát triển của công nghiệp nặng vẫn nhanh hơn công nghiệp nhẹ. Công nghiệp ở khu chế tạo tiếp tục tăng: 1989/1988: 81,76% 1990/1989: 95,80% 1991/1990: 99,26% + Do chúng ta tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại nên đã gặp nhiều thử thách gay gắt. Kết cấu kinh tế ngày càng tăng giữa các nước giàu và nghèo. Ta mất dần lợi thế các tài nguyên và lao động. Sự chênh lệch khá lớn về mức sống. Kết cấu khoa học - kỹ thuật ngày càng lớn. Nhưng nước ta có những thuận lợi sau: Nhờ chuyển giao công nghệ nên ta chỉ việc ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ. Có thể chọn công nghệ mới, phù hợp để phát triển. Ta có những bài học kinh nghiệm từ các nước đi trước, không mắc phải sai lầm như những nước đó... Dễ hợp tác để tiến hành công nghiệp hoá. Chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, con người Việt Nam thông minh sáng tạo lại có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước thông qua pháp luật. * Chính sách cụ thể của Nhà nước ta Sự phát triển của các nước trên thế giới và sự nghiệp đổi mới ở nước ta củng cố cho chúng ta những bài học lớn về nhận thức. Đó là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn - quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít - cũng như nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Mục tiêu mà Đại hội Đảng lần VIII của Đảng đề ra chính là sự cụ thể hoà hợp thống nhất về hình thức kinh tế - xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của xã hội chủ nghĩa. Ta phải luôn nhận thức vận dụng đúng đắn sáng tạo hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ bản chất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự đổi mới với tính chất mới mẻ khô khan và phức tạp của nó - đòi hỏi phải có lí luận khoa học soi sáng. Song phải kết hợp hài hoà giữa lí luận và thực tiễn. Lý luận không phải bỗng nhiên mà có, không phải từ trên trời rơi xuống và không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lực lượng rồi mới tiến hành đổi mới công cuộc không cho phép ta chờ đợi như vậy. Hơn nữa thực tiễn lại là cơ sở của nhận thức của lí luận phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, có cơ sở để khẳng định thành lý luận. Trong thời hiện đại nay mọi quy luật phát triển đều chịu sự tác động mạnh mẽ của khoa học - xã hội vì vậy trình độ phát triển kinh tế và văn minh xã hội giữa các nước phát triển và chậm phát triển có xu hướng chênh lệch ngày càng tăng. Ngày nay dựa vào các lý thuyết lợi thế so sánh lợi thế tuyệt đối các nước đi sau như Nhật, các nước NICS châu á để rút ngắn đáng kể thời gian cần thiết để tiến lên trở thành nước có nền kinh tế phát triển từ một nước lạc hậu, chậm phát triển. Và con đường mà họ đi là con đường công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá thông qua công nghệ. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước đã nhận định và đánh giá tình hình một cách đúng đắn, điều này ở ĐH Đảng khoá VII đã nêu rõ ràng: trong xu hướng quốc tế hoá sản xuất và đời sống khoa học - công nghệ trên thế giới ngày một gia tăng thì công nghiệp hoá phải gắn liền với HĐH, nâng cao trình độ công nghệ... "Tận dụng lợi thế của nước đi sau chúng ta tập trung trước hết cho việc tiếp thu các thành tựu khoa học của thế giới, ứng dụng mở rộng và làm chủ. Đồng thời phải biết dành nỗ lực nhất định cho những mũi nhọn phát triển, tìm cách đi tắt, đón đầu tạo nên lợi thế cạnh tranh cả về phương diện kinh tế và công nghiệp tạo nên sự phát triển nhanh và nắm vững của nền kinh tế". Chuyển giao công nghệ, nhập công nghệ hiện đại đi đôi phát triển nội sinh là biện pháp hữu hiệu để trang bị thích hợp do nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế tăng gia trong xu hướng quốc tế ngày càng cao. Đảng cũng đưa ra một số giải pháp mấu chốt để tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật công nghệ trong CNH - HĐH đất nước như thu hút qua đầu tư trực tiếp của các nước công nghiệp phát triển thu hút vốn đầu tư kinh tế từ các NIC châu á; kỹ thuật công nghệ còn có thể được đưa vào qua con đường mua và bán thị trường thế giới. Kênh chuyển giao khoa học công nghệ còn được thực hiện dưới hình thức trao đổi thị trường, đào tạo các huấn luyện cán bộ khoa học, nhân viên kỹ thuật, công nhân làm nghề. Song điều kiện phải có là trình độ đầu tư cao và ham hiểu biết, bảo đảm tốt việc tích luỹ và đầu tư trong nước; bảo đảm công nghệ giữa nước xuất và nhập công nghệ không chênh lệch nhu nhiều; nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước. Như vậy, ở phần này ta đã đi sâu vào cốt lõi của vấn đề là cần như thế nào để công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Đó là phát triển khoa học công nghệ, đi thẳng vào thành tựu mới về khoa học công nghệ của thế giới và nhờ vào việc chuẩn bị tốt năng lực nội sinh về khoa học công nghệ chúng ta triển khai công nghệ mới đó ở trong nước. a) Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới. Công nghiệp hoá hiện đại hoá ngày nay không thể hiểu như trước kia. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay không phải đơn thuần là sự phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự đổi mới cơ bản về kinh tế và công nghiệp hiện đại hoá tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Từ đó tạo ra được sự cân đối hài hoà giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc doanh. Mà "cơ cấu CN-ND và dịch vụ" là cốt lõi. Từ đó mới có thể tạo ra được sự tăng trưởng cao và phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta. Kinh nghiệm của chính nước ta đã cho thấy trong những năm xây dựng theo đuổi một cơ cấu kinh tế "phát triển ưu tiên công nghiệp nặng hàng đầu", không phù hợp với điều kiện nước ta là một nước nghèo nàn, nông nghiệp lạc hậu, yếu kém, lao động tập trung tới 80% ở khu vực Nhà nước. Kết quả là không đủ tiêu dùng, xuất không đủ nhập, không tạo được tích luỹ nội bộ nền kinh tế quốc dân, nó thể hiện sự yếu kém nhất định. Cần phải đổi mới cả tư duy nếp nghĩ và hành động. Công cuộc đổi mới Đảng đã chọn là đúng đắn. Con đường đó là công nghiệp hoá - hiện đại hoá với nội dung chủ yếu trong đó có việc hình thành và chuyển dịch kinh tế với những nội dung chủ yếu trong đó có việc hình thành và chuyển dịch kinh tế gắn với tổ chức và phân công lại lao động xã hội và điều chỉnh lại cơ cấu đầy đủ. Phương hướng cụ thể. Điều đầu tiên cần phải giải quyết là chuyển đổi cơ cấu "công - nông nghiệp và dịch vụ" phù hợp với xu hướng "mở" của nền kinh tế. Vấn đề này được giải quyết tạo nền tảng vững chắc cho việc phân công lại lao động hợp lí trong các ngành kinh tế và điều chỉnh hợp lí với cơ cấu đầu tư. Hướng chuyển dịch đó là giá trị các ngành dịch vụ tăng nhanh, tỉ lệ sản lượng chiếm phần lớn trong GDP. Tỉ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp giảm dần (nhưng lượng tuyệt đối tăng hàng năm). + Nông nghiệp (kể cả lâm ngư nghiệp): trong một số năm trước mắt vẫn được coi là mặt trận hàng đầu. Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích đầu tư vốn khoa học công nghệ nhằm phát huy thế mạnh tiềm năng của các vùng, hình thành những vùng chuyên canh... tạo cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lí đa dạng phù hợp với điều kiện sinh thái ở nước ta. + Công nghiệp: hình thành một số ngành công nghệ hiện đại có hàm lượng khoa học - công nghệ hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở những tiền đề cần phải đạt được đó là: điện tử tin học, công nghiệp sinh học, vật liệu mới và cơ khí chính xác. Các ngành thuộc kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước gồm năng lượng (Điện than, dầu khí) giao thông vận tải. Từ nay đến năm 2010 phải phát triển tiếp một số ngành như sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu đi đôi với việc hình thành một số công nghiệp tư liệu cần thiết. + Công nghiệp chế biến nông thổ thuỷ hải sản: cần được chú trọng nhằm nâng cao giá trị của các mặt hàng lương thực thực phẩm nhằm thu hút khách hàng trên thị trường quốc tế. + Dịch vụ: Đối với ta hiện nay phải hết sức coi trọng và phát huy thế mạnh của các hoạt động dịch vụ đặc biệt là dịch vụ có thu ngoại tệ mạnh. Cần nâng cao năng lực và trình độ hiện đại các ngành dịch vụ kỹ thuật, ngân hàng, bưu chính viễn thông. Các dịch vụ về hàng hải và hàng không có triển vọng to lớn, chúng ta cần chú trọng phát triển cụ thể như các dịch vụ vận tải biển, dịch vụ thương mại quá cảnh. Ngoài ra vấn đề phân công lại lao động xã hội và tranh thủ vốn đầu tư Nhà nước cũng như vấn đề cần giải quyết sớm để phát triển kinh tế. b) Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. (Sự cần thiết): Nước ta hiện nay là một Nhà nước so với 80% dân cư đang sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp. Đây là một địa bàn tập trung đại bộ phận người nghèo. Vì vậy, phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn đã đang và sẽ là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Song nông nghiệp không thể tự mình thay đổi, đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ, không có khả năng tăng trưởng nhanh để tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nông dân mà phải có tác động mạnh mẽ của công nghiệp, dịch vụ... chỉ có như vậy sẽ xoá bỏ được trạng thái trì trệ của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ xoá đói giảm nghèo nâng cao mức tạo nhập bình quân. Phần trên đã cho thấy thực tế trong mấy năm chuyển đổi sản xuất nông nghiệp được phát triển rõ rệt. Nhà nước chuyển biến đáng kể (xuất khẩu lương thực, thực phẩm...) Hơn nữa theo kinh nghiệm của các nước châu á - TBD sự phát triển công nghiệp giai đoạn đầu chủ yếu được đưa vào nền tảng của nông nghiệp. Công nghiệp hoá phải tạo cơ sở cho công nghiệp nông thôn phát triển. ấn Độ tổ chức tới 102 ngành công nghiệp nông thôn tạo công ăn việc làm ngăn chặn di cư từ nông thôn lên thành thị. Hàn Quốc: khuyến khích cơ sở công nghiệp nông thôn thu hút công nghiệp chế tạo và dịch vụ qua phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Chính vì những bước đó mà việc phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội ở nông thôn là một việc làm cần thiết trong thời gian trước mắt nhằm đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta. Chính sách đường lối phát triển: Trong khu vực nông thôn và nông nghiệp phương hướng hàng chiến lược đó là thay thế nhập khẩu và có hiệu quả thấp đến hàng mạnh ra xuất khẩu. Nhiều người cho rằng đây là hướng sai lầm nhưng thực tế không phải vậy. Nông nghiệp là ngành sản xuất có đặc trưng là sản phẩm của nó cần thiết cho mọi cuộc sống hàng ngày. Phát triển sản xuất nông nghiệp cung cấp sản phẩm đủ trong nước rồi mới xuất khẩu là một lẽ đương nhiên những công cụ sản phẩm chỉ trong nước còn với xã hội là một lẽ đương nhiên bởi ta không thể nhập lương thực mà lại không tự sản xuất được ra. Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp cần được quá trình đầu tư khoa học - công nghệ để đem lại chất lượng sản lượng cao cho sản phẩm. Công nghiệp nhẹ cần được phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp là công nghệ để sản xuất thuốc trừ sâu phân bón vi sinh không gây độc hại. Cơ khí hoá là điều kiện đưa kỹ thuật máy móc vào sản xuất nông nghiệp. c) Xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế Kết cấu hạ tầng vừa là điều kiện vừa là mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để chuẩn bị cho nền kinh tế phát triển cao hơn vào những năm bước sang thế kỷ 21 thì cơ sở hạ tầng cần phải được hiện đại hoá một phần đáng kể đó là: hệ thống giao thông vận tải phải được nâng cấp cao hơn nữa, hiện đại hoá sớm hệ thống bưu chính viễn thông trong và ngoài nước, bảo đảm cung cấp điện cho đô thị, cho sản xuất công nghiệp phải liên tục, phải điện khí hoá một phần quan trọng vùng nông thôn, cung cấp nước sạch cho đô thị từng bước hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng cho từng vùng lãnh thổ, trước hết là các khu vực công nghiệp, các đô thị lớn. Từ nay đến năm 2010 và sau đó chúng ta có nhiều dự án xây dựng kết cấu hạ tầng quy mô lớn như: xây dựng tuyến đường quốc lộ 1A, tuyến đường huyết mạch nối liền Bắc - Trung - Nam nên đạt tiêu chuẩn quốc tế, luận chứng kinh tế khoa học đã phê duyệt với trên 50 Công ty trong và ngoài nước tham gia và đấu thầu với số vốn hơn 2 tỷ USD. Một loạt các cảng biển được xây dựng mới, nâng cấp (cảng Dung Quất được đầu tư hơn một tỷ USD trong tương lai sẽ tính thành cảng biển lớn vào bậc nhất ĐNA...) Nhìn lại cơ sở hạ tầng của nước ta, một số đã phát huy hiệu quả kinh tế của nó. Như nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, khu gang thép Thái Nguyên đang đi vào đổi mới công nghệ, nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch... Trong tương lai ta sẽ xây dựng trung tâm Đại học, khoa học - công nghệ,y tế thể dục, trung tâm quốc gia... d) Phát triển kinh tế nhiều thành phần Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Sau những năm mở cửa, nền kinh tế cùng với những chính sách của Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển không như trước kia ngày nay các thành phần kinh tế từ quốc doanh đến tư nhân phát huy hết tiềm năng của mình nằm trong nền kinh tế thị trường tầng chúng bổ sung cho nhau cạnh tranh nhau tạo nên một sự phát triển có hiệu quả đẩy nước ta lên một nấc thang cao hơn của công nghiệp hoá - hiện đại hoá xây dựng đất nước. Kinh nghiệm của chính nước ta đã chứng tỏ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Có như vậy chúng ta mới phát huy được tư tưởng Hồ Chí Minh "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết..." Trong thời gian tới để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy tính năng động của người trong công cuộc đổi mới vào xây dựng tổ chức chúng ta cần tăng cường quản lý chỉ đạo thống nhất quá trình mở cửa, chuẩn bị tốt các chương trình kế hoạch, dự án hợp tác với bên ngoài... Đồng thời phải quán triệt các quyết định chủ trương đã đề ra. * Đó là vấn đề trọng tâm nhất của chính sách đổi mới mà Đảng ta đề ra song ta cần phải kết hợp với những chính sách khác như phát triển công nghiệp trên các địa bàn thuận lợi có điều kiện. Hiện nay ta đang chủ trương đầu tư thúc đẩy mạnh công nghiệp ở các ngành công nghiệp chế biến nông lâm, thuỷ sản, cơ khí, điện tử tin học; các ngành nguyên vật liệu... Địa bàn đang thực hiện các khu chế xuất, đô thị công nghiệp có tính tập trung cao. - Chú ý đến việc tạo nguồn vốn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn và vấn đề môi trường. * Một số vấn đề cần lưu ý: Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, do đó ở nước ta khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng phải đặt trong quy luật vận động đó, muốn tạo ra những bước chuyển biến tích cực của nền kinh tế nước ta đòi hỏi các nội dung của công nghiệp hoá cũng như phải thường xuyên thay đổi và bổ sung. Các nội dung trong công nghiệp hoá phải liên hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau quan trọng nhất là luôn phải chú ý đến việc xây dựng quan hệ sản xuất để phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng... Trong quá trình tiến hành cần phải đưa con người lên vị trí trung tâm. Đặc biệt là con người lao động. Đối với các nước đang phát triển, để xây dựng một nền kinh tế mạnh bền vững, không thể chỉ dựa vào vay mượn hay bỏ tiền ra mua công nghệ của nước ngoài, mà phải dựa trên cơ sở khả năng, trí tuệ, phải bằng tư tưởng văn hoá của mình mới có thể biến công nghệ hiện đại của thế giới thành cái của mình. Không thể dựa trên vài nguồn tài nguyên thiên nhiên hay vào số lượng những: mỏ than, giếng dầu, đồn điền cao su hay ruộng đồng có sẵn mà phải biết phát huy yêu tố con người. Đây cũng là bài học rút ra từ thực tiễn của nhiều nước trên thế giới có kinh tế phát triển: Như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông... phát triển con người trở thành xu thế khách quan trong xã hội hiện đại, là cơ sở tiền đề và thước đo cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Đây là chuyên đề rộng lớn và toàn diện bao trùm toàn bộ sự phát triển xoay quanh con người. Nước ta coi phát triển con người là một mục tiêu đầu tiên, là động lực căn bản để phát triển xã hội, lấy việc nâng cao mặt bằng dân trí và đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển và xem đó là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân của tất cả thành phần kinh tế, trong đó nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cán bộ và công chức nhà nước nói chung, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế nói riêng là phương pháp chủ yếu và quyết định. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xây dựng nhiệm vụ chiến lược chế độ nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng thành thạo chuyên môn nghiệp vụ có khả năng và trình độ để đáp ứng nhu cầu của tình hình nhiệm vụ trong thời kỳ mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Trong quá trình tiến hành cách mạng có những lúc thuận lợi, bên cạnh đó có rất nhiều khó khăn đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn nhận và phương pháp khoa học sáng tạo, phải có quan điểm khách quan toàn diện phát triển đưa chính sách cụ thể là thực tiễn. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn (chẳng hạn nên áp dụng cơ chế một giá hay 2 giá, vấn đề chống lạm phát, vấn đề khoán trong Nhà nước...) phải trải qua thử nghiệm trực tiếp, phải làm rồi mới biết phải học trong thực tiễn quá trình đó không tránh khỏi việc trả giá cho những khuyết điểm lệch lạc nhất định. ở đây việc làm sát thực tiễn sâu sát, tổng kết thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan trọng. Luôn luôn đề cao vai trò thực tiễn nhiều không coi nhẹ lí luận. Phải luôn xây dựng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng của Đảng làm kim chỉ nam cho công nghiệp ta, cho cách mạng nước ta, cho dân tộc, phát triển đổi mới kinh tế tư duy ở nước ta, đưa nước ta lên con đường xã hội chủ nghĩa. Một điều quan trọng nữa là phải khắc phục một số tư tưởng hữu khuynh không tiến hành cách mạng, tả khuynh chủ quan nóng vội, duy ý chí... Bệnh chủ quan, duy ý chí là sai lầm khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây, gây tác hại nghiêm trọng với xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sai lầm là ở lối suy nghĩ và hình thức giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan thể hiện trong một số chủ trương và chính sách xã hội với hiện thực khách quan. Để khắc bệnh này cần sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết là đổi mới tư duy, lý luận, nâng cao nhân lực trí tuệ trình độ lý luận của Đảng. Trong hoạt động trực tiếp phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải đổi mới cơ chế quản lý và đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, chống bảo thủ, trì trệ quan liêu. Song để làm được tất cả những chính sách đề ra, phải có một Nhà nước chuyên chính vô sản, một nhà nước thực sự của dân do dân và vì dân. Cho đến nay, không phải mọi vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hoá ở nước ta đều được hoàn toàn làm rõ, thậm chí nhiều vấn đề còn trở nên phức tạp hơn so với sự trù liệu ban đầu. Chẳng hạn làm sao kết hợp kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội; quan hệ giữa chế độ kinh tế trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần với chế độ chính trị: làm sao cho kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo; các chặng đường của thời kỳ quá độ các bước đi của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đối với nông nghiệp nông thôn... Để làm sáng tỏ những vấn đề chắc chắn phải vừa vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vừa đổi mới trong thực tiễn, tiến hành tổng kết thực tiễn, khắc phục các khuynh hướng sai lầm như giáo điều, xét lại, chủ quan duy ý chí... Đó cũng tức là phải vận dụng sáng tạo quán triệt hơn nữa phép biện chứng Mác xít trong quá trình đổi mới. c-kết luận Có một nhà báo đã nhận định về nước ta rằng Việt Nam "con Rồng nhỏ đang chuyển mình". Theo em, nói như vậy hoàn toàn không phải là sai. Nước ta với biết bao tiềm năng sẽ trở thành giàu mạnh nếu phát triển đúng hướng của những con đường duy nhất đó là tiến lên chủ nghĩa xã hội như Đảng và Nhà nước ta đã chọn thông qua việc công nghiệp hoá kết hợp khôn ngoan với hiện đại hoá là một cơ hội để nước ta phát huy hết khả năng, khẳng định vị trí của mình trong khu vực và trên thế giới. Và quả thực từ một nước rất nghèo nàn lạc hậu đến nay ta đã không còn là nước nghèo trong các nước nghèo nữa, chúng ta đã đạt được những thành quả nhất định trong nhiều lĩnh vực. Song sẽ là ảo tưởng nếu mù quáng cường điệu và chỉ nhìn vào những thành tựu có được mà không tiếp xúc nhận thức tình hình thực trạng nước ta so với nước khác tiến bộ hơn để vận động đưa ra những giải pháp đúng đắn thì nước ta sẽ tiếp tục tụt hậu và rơi vào tình trạng đói nghèo. Hiện tượng con rồng châu á không thể xảy ra nếu còn rất nhiều khó khăn, lạc hậu, nợ nần chồng chất, bùng nổ dân số, xung đột triền miên về tôn giáo và sắc tộc... Cho nên một lần nữa đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt, linh hoạt trong sự đổi mới nhưng luôn luôn phải bám sát lý luận hình thái kinh tế - xã hội Mác - Lênin Danh mục tàI liệu tham khảo Giáo trình triết học Mác – Lê Nin tập 2. (Nhà xuất bản chính trị Quốc gia) Tạp chí triết học số1 (101) tháng 2-1998. Tạp chí triết học số2 (96) tháng 4-1997. Tạp chí triết học số1 (107) tháng 2-1999. Tạp chí triết học số3 (103) tháng 6 -1998. Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường . (Học viện chính trị Quốc gia) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII . (Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Hà nội 1996 ) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII . (Nhà xuất bản sự thật Hà nội 1991 ) Hồ Chí Minh toàn tập . (Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Hà nội ) 10. Bài phát biểu của tổng bí thư Đỗ Mười nhân dịp về giỗ tổ Hùng Vương , ngày 1 tháng 4 năm 1995 . (Báo nhân dân ngày 8 tháng 4 năm 1995)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34866.doc
Tài liệu liên quan