Tiểu luận Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay

Đề tài “ mâu thuẫn biện chứng trong việc xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay” là một đề tài rộng, bao quát, cần có sự nghiên cứu sâu rộng lâu dài. Tuy nhiên với trình độ nhận thức hạn chế của bản thân, đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề tương đối tổng quát và sơ lược nhất. Đề tài gồm 3 chương: Chương I: Cơ Sở Của Đề Tài: Nêu những vấn đề cơ bản nhất về lý luận và thực tiễn của những mâu thuẫn tồn tại và chi phối nền kinh tế. Chương II: Thực trạng: Nêu một cách khái quát về các mâu thuẫn đang tồn tại trong nền kinh tế, tác động của chúng và những nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh các mâu thuẫn này. Chương III: GiảI pháp: Là những giải pháp cơ bản nhất để thúc đẩy và phát triển các mâu thuẫn để tạo nên sự phát triển toàn diện kinh tế.

doc30 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1508 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI Mở ĐầU Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con người, đặc biệt trong hoạt động kinh tế,chẳn hạn như cung cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá….Mâu thuẫn tồn tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành…. Nước ta trong 20 năm đổi mới đã phát sinh rất nhiều mâu thuẫn trong phát triển kinh tế xã hội; việc giải quyết những mâu thuẫn ấy mang tính chất quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế. Đề tài “Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay” Là cái nhìn tổng quát về những mâu thuẫn cơ bản đang tồn tại và chi phối nền kinh tế. Tiểu luận gồm ba chương: Chương I : Cơ sở của đề tài Chương II: Thực trạng của vấn đê Chương III: Các kiến nghị cơ bản Chương I: cơ sở của đề tài I/ Cơ sở lý luận 1. Lý luận về mâu thuẫn a-mặt đối lập-tính thống nhất và đấu tranh: Trong phép biện chứng duy vật khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó. Do đó cũng cần phân biệt rằng bất cứ mật đối lập nào cũng tạo nên mâu thuẫn . Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại hai mặt đối lập. Mặt lập tồn tại phổ biến và khác quan trong tất cả các sự vật hiện tượng và trong tư duy của con người. *Sự thống nhất của các mặt đối lập Mặt đối lập tồn tại trong tất cả các sự vật hiện tượng trong sinh vật có đồng hoá- dị hoá, trong kinh tế có cung- cầu… các mặt đối lập tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật hiện tượng như một chỉnh thể thống nhất nhưng luôn có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau khi có hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập. Sự "thống nhất" của hai mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải chung đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật nào. Ví dụ: Cung-cầu là hai mặt đối lập tạo nên sự tồn tại và phát triển của thị trường, hai mặt đối lập này tồn tại phủ định lẫn nhau. Nhưng nếu thị trường biến động làm cho cầu một loại hàng hoá giảm, hoặc bị triệt tiêu thì lúc ấy cung của loại hàng hoá ấy cũng giảm theo hoặc không tồn tại nữa lúc này thị trường hàng hoá đó cũng xẽ mất đi. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được của bất kỳ sự tồn tại nào. Sự thống nhất được thể hiện: + các mặt đối lập quy định lẫn nhau, sự phát triển của mặt này dẫn đến sự phát triển của mặt kia, nếu một trong hai mặt đối lập biến mất thì mặt còn lại cũng sẽ biến mất. Ví dụ: Lực lượng sản xuất phát triển kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất; đồng hoá tăng thì dị hoá cũng tăng. + Các mặt đối lập có những điểm tương đồng trên một số phương diện bởi vì chúng tồn tại không tách tời nhau. Với ý nghĩa đó “sự thống nhất của các mặt đối lập bao gồm cả sự “đồng nhất” giữa chúng, và đây là lý do tại sao các mặt đối lập có sự chuyển hoá lẫn nhau. + các mặt đối lập có tác động cân bằng: các mặt đối lập tồn tại và có tác động cân bằng trong mỗi sự vật hiện tượng chính sự tác động này đã làm cho sự vật hiện tượng giữ được sự ổn định trong một khoảng thời gian, không gian xác định. *Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: Các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà còn đấu tranh với nhau.Đấu tranh giữa chúng là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. Hình thức đấu tranh hết sức phong phú và đa dạng phụ thuộc vào tính chất, mối quan hệ qua lại giưã các mật đối lập . Sự thống nhất giữa các mặt đối lập không tách rời khỏi sự chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật nhưng không nằm yên mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo động lực phát triển cho bản thân sự vật. b-Mâu thuẫn Theo quan niệm đời thường mâu thuẫn là những gì đối lập nhau loại trừ lẫn nhau. Theo quan niệm của triết học duy vật biện chứng thì các mặt đối lập nằm trong sự qua lại tác động lẫn nhau tạo ra mâu thuẫn biện chứng,trong thế giới hiện thực bất kỳ mặt đối lập nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh giữa chuyển hoá giữa chúng tạo thành mâu thuẫn, nó là hiện tượng khách quan và phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết sự vật cũ mất đi sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh ra các mâu thuẫn thường xuyên biến đổi không ngừng. Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc động lực của sự phát triển. 2- Lý luận về cơ chế thị trường: a- Định nghĩa về cơ chế thị trường: Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra là để trao đổi và bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hoá không để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản suất mà để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Khi kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao mà toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường thì lúc ấy kinh tế thị trường xuất hiện. Dưới giác độ triết học kinh tế thị trường được tạo nên giữa hai mặt đối lập là cung và cầu. Hai mặt đối này với nhau tạo ra sự phát triển ngày càng cao của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường trong mỗi một loại hình thái kinh tế xã hội khác nhau thì khác nhau. ở nước ta có khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó được định nghĩa là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa có thể nói : kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là nội dung cơ bản tạo nên nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Còn vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yếu tốhình thức chỉ các tồn tại và phát triển, những mối liên hệ bền vững giữa kinh tế và chính trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. b-Những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường: +Các chủ thể có tính độc lập và quyền tự do kinh doanh: - Giá cả của hàng hoá do thị trường quyết định và hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ. --- Nền kinh tế vận động theo quy luật vốn có của thị trường. - Nền kinh tế có sự điều tiết của nhà nước. c- Tính khách quan: Kinh tế thị trường tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan bởi trong thời đại ngày nay lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển đến đỉnh cao hiện đại và năng động, sự phát triển ấy tất yếu sẽ kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất mới và chỉ có kinh tế thị trường mới là hình thái kinh tế phù hợp với quan hệ sản xuất mới hiện đại đang dần hình thành. 3/ Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần: - Định nghĩa thành phần kinh tế: Là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập, mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế. - Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh tranh. Nền kinh tế Việt Nam có 5 thành phần kinh tế a/kinh tế nhà nước: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm Nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. - Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế vì: + Nó nắm những ngành, những cơ sở kinh tế then chốt như: công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải, ngân hàng, tài chính, bưu điện… để đảm bảo cân đối chủ yếu của nền kinh tế là cơ sở để định hướng xã hội chủ nghĩa. + Được Nhà nước trực tiếp quản lý và giúp đỡ phát triển. + Xu hướng vận động của nó ngày càng được mở rộng và phát triển, tiến tới thống trị trong nền kinh tế. b/kinh tế tập thể TPKTTT dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, do những người lao động tự nguyện góp vốn vào để làm ăn tập thể dưới nhiều hình thức mà điển hình là các hợp tác xã . Hình thức quan trọng của kinh tế tập thể là hợp tác xã . Kinh tế hợp tác xã là những hình thức liên kết kinh tế có pháp nhân, tuân thủ những nguyên tắc, có tổ chức chặt chẽ và điều lệ hoạt động rõ ràng. Kinh tế HTX được phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao, từ nhóm tổ đến HTX theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi. Trong những năm đổi mới kinh tế HTX có những biến đổi căn bản: Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ , ruộng đất được giao sử dụng lâu dài. Thực tế xuất hiện những hình thức hợp tác xã giản đơn, từng khâu như hợp tác xã cổ phần, hợp tác xã dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát triển. c/kinh tế tư nhân TPKTTBTN dựa trên sở hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê, đầu tư vào những ngành vốn ít, lãi cao. Nó là những đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.. . d/kinh tế tư bản nhà nước: Là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước và hoạt động của các TPKTTBNN Tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước. Trong thành phần kinh tế này Nhà nước chiếm cổ phần chi phối ( trên 50%) e/kinh tế vốn đầu tư nước ngoài Nó bao gồm phần vốn của nước ngoài vào các cơ sở sản xuất kinh doanh của nước ta. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài , doanh nghiệp liên doanh giữa VN với nước ngoài. II- Cở sở thực tế: 1/Trước đổi mới: Việt Nam đã áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp theo mô hình của Liên Xô và các nước Đông Âu. Trong mô hình này sở hữu tư nhân và cá nhân bị xem nhẹ, nặng về mục tiêu phát triển quan hệ sản xuất, xác định nền kinh tế hầu như khép kín, không chú trọng phát triển quan hệ hàng hoá- tiền tệ và các yếu tố thị trường trong nền kinh tế. Tuy mô hình kinh tế này không phù hợp với điều kiền thực tiễn mới khi đã chuyển sang kiến thiết đất nước trong thời bình nhưng duy trì quá lâu trong quá trình phát triển điều đó khiến cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Thực tế này đòi hỏi Đảng ta phải tìm ra một mô hình kinh tế mới phù hợp với điều kiện đất nước. 2/Trong thời kỳ đổi mới: Tư duy về kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển. Nếu ở Đại hội VI, Đảng ta mới khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan hệ hàng hoá- tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội thì đến Đại hội VII và VIII Đảng khẳng định cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa…Đại hội Đảng IX tiếp tục đánh dấu thêm một bước phát triển mới trong lý luận của Đảng ta, đã xác định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát” trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghị quyết số 21- NQ/ TƯ về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do hội nghị lần thứ 6 "Mục tiêu hàng đầu trong việc phát triển các thành phần kinh tế được tóm tắt thành 3 điểm: Giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân. Mục tiêu cũng chính đã thể hiện nhất quán từ hội nghị Trung ương lần thứ VI khiến Đảng ta phải ban hành những chính sách để khuyến khích sản xuất "bung ra" và cho đến nay, trong chính sách phát triển 5 thành phần kinh tế chúng ta vẫn thấy cần thiết thực sự lưu ý đến các thành phần mà trước đây gọi là phi XHCN, là đối tượng phải cải tạo ngay khi bước vào thời kỳ xây dựng CNXH. Chẳng hạn như chính sách khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư lâu dài, mọi thành phần kinh tế được bình đẳng, vay vốn sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu và hợp pháp của các nhà tư bản, áp dụng phổ biến và phát triển đa dạng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước" Chương II: Thực trạng của vấn đề I/ Các mâu thuẫn cơ bản trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Nước ta Trong nền kinh tế nước ta hiện nay đang tồn tại rất nhiêu mâu thuẫn, song do tính nhỏ hẹp của đề tài không thể nghiên cứu hết toàn bộ các mâu thuẫn đang tồn tại trong nội bộ nền kinh tế vì vậy đề tài chỉ xin nghiên cứu một số mâu thuẫn điển hình : 1,Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế Các thành phần kinh tế tồn tại trong một thể thống nhất là nền kinh tế quốc dân, song mỗi thành phần kinh tế lại có quan hệ riêng về sở hữu tư liệu sản xuất. Chính vì vậy mỗi thành phần kinh tế ngoài các quy luật kinh tế chung còn có các quy luật kinh tế đặc thù riêng chi phối sự hoạt động phát triển. Mỗi thành phần kinh tế lại xẽ mang bản chất khác nhau có lợi ích kinh tế khác nhau thậm chí đối lập nhau. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tề thực chất là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế. VI.Lenin cho rằng: lợi ích của giai cấp này hay giai cấp kia được xác định một cách khách quan theo vai trò của họ trong hệ thống quan hệ sản xuất. Bởi vì lợi ích kinh tế là biểu hiện của quan hệ sản xuất và được quy định một cách khách quan bởi phương thức sản xuất. ở Nước ta hiện nay mâu thuẫn chủ yếu giữa các thành phần kinh tế là: " Mâu thuẫn giữa lợi ích xã hội với lợi ích cá nhân" 2/Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì vấn đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp. xét trên phương diện triết học, thì lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi, và là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất lúc này tỏ ra không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển thì cần thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nó là thước đo để đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. ở Việt Nam, mặc dù nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho LLSX – QHSX phát triển song song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi bắt tay vào xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường thì LLSX luôn tỏ ra mâu thuẫn với QHSX. Tính cạnh tranh và năng động là một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, thì ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn làm chậm. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, để hợp tác xã nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, cản trở sản xuất phát triển, chưa kịp thời đúc kết kinh nghiêm, giúp đỡ các hình thức kinh tế hợp tác mới phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kinh tế này. Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài còn nhiều sơ hở. Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, qui hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn yếu kém, thủ tục đổi mới hành chính chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây ra tác động xấu với sản xuất. Chế độ phân phối thu nhập còn bất hợp lý, bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn ... Đó là một số hạn chế của QHSX kìm hãm LLSX phát triển và điều đó làm cho quá trình xây dựng đất nước của ta gặp nhiều khó khăn. Một trong những vấn đề bức xúc đối với chúng ta hiện nay đó là việc làm, tình trạng thất nghiệp là một biểu hiện rõ ràng để chứng tỏ được rằng giữa LLSX – QHSX có sự mất cân đối. Khi QHSX phù hợp, nó không những giải phóng được sức sản xuất mà còn tạo tiền đề để thúc đẩy bước phát triển của LLSX. Vì vậy vấn đề đặt ra cần đặt ra là làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn này? Cần đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thức hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những sản xuất và dịch vụ quan trọng: Xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hưũ hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật,xoá bỏ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng, phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng qui mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với nền kinh tế thị trường Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả. có trật tự, kỉ cương trong môi trường cạnh tranh lạnh mạnh, công khai minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, thị trường lao động. Tạo điều kiện công ăn việc làm cho người dân, từ đó nâng cao đời sống xã hội. Và điều cuối cùng là việc đổi mới chế độ sở hữu, đó là mấu chốt quan trọng nhất trong việc cân bằng mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. Hiện nay ở nước ta, một số hình thức sở hữu đã được hình thành, một số hình thức khác đang được khôi phục hoặc mới bắt đầu hình thành. Chế độ nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế là hoàn toàn có cơ sở khách quan. Đó là những thay đổi diễn ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế. Trình độ phát triển LLSX và xã hội hoá sản xuất trong các khu vực kinh tế quốc dân không giống nhau. Có những khoảng cách đáng kể trong phát triển kỹ thuật ở các xí nghiệp, các ngành, các vùng khác nhau. Chính vì vậy mà cần điều chỉnh lại cơ cấu QHSH. Trong việc đổi mới các quan hệ sở hữu, xác lập nhiều hình thức sở hữu, cần phải xem xét, đánh giá đúng, tăng cường vai trò chủ đạo của các hình thức sở hữu thị trường theo đường lối của nhà nước, bằng cách cải tổ khu vực này: những xí nghiệp nào cần được duy trì, những xí nghiệp nào cần được giải thể và việc giải thể đó ra sao, là những vấn đề hết sức phức tạp. Chính vì thế trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi phải có sự điều hành hợp lý của Nhà nước. 3/ Mâu thuẫn giữa sự phát triển nhanh của các ngành nghề kinh tế với môi trường tự nhiên Nền kinh tế ngày càng phát triển, đặc biệt là các ngành công nghiệp đã làm cho môi trường ngày càng ô nhiễm. Trong suốt những năm qua, con người đã thường xuyên tác động trực tiếp tới thiên nhiên và cải biến môi trường sống. Con người đã khai thác than đá, sắt, và các kim loại khác, nắn dòng sông, đào kênh, bạt núi, xây dựng các trạm thuỷ điện với các hồ chứa nước nhân tạo… những hoạt động đó đã ảnh hưởng tới khí hậu, từ đó tác động mạnh tới sinh quyển. Trước đây, ở nước ta có 3/4 diện tích đất đai là rừng, nay chỉ còn 1/4 là rừng. Nhiều loại gỗ quý như gụ, lát hoa, giáng hương, sến, táu… đã bị khai thác đến mức gần như cạn kiệt. Rừng bị triệt hạ nhiều làm cho lượng ôxi trong không khí và lượng chất hữu cơ sản sinh bị giảm sút rõ rệt. Lượng nước dự trữ do rừng giữ lại ngày càng ít dần, làm cho quá trình sa mạc hoá và thảo nguyên hoá càng tăng nhanh. Quá trình đô thị hoá nhanh làm cho diện tích đất trồng ngày càng bị thu hẹp. Sự phân phối nước ngọt cho người và cho vật nuôi, cây trồng cũng bị hạn chế. Tiến bộ khoa học kĩ thuật được ứng dụng tích cực vào sản xuất đã kéo theo sự nhiễm bẩn của tất cả các quyển. Các chất thải của nhà máy làm cho các hồ ao, sông ngòi, cửa biển, cảng và biển cả bị nhiễm bẩn ngày càng nhiều. Các tầu biển đã thải ra biển và đại dương nhiều chất thải độc hại, làm chết nhiều sinh vật nổi và những sinh vật khác ăn sinh vật nổi cũng chết theo… Những khí thải của các nhà máy khi vào trong khí quyển đã làm tăng lượng khí CO và CO2 trong không khí gây hiện tượng hiệu ứng nhà kính, gây thủng tầng ôzôn, làm cho trái đất nóng lên dẫn đến băng ở hai cực Trái Đất tan ra, vì vậy nước biển sẽ dâng lên và nhấn chìm đất liền. Sự ô nhiễm bầu khí quyển làm cho trái đất ngày càng nóng lên dẫn đến sự thay đổi thời tiết, khí hậu ở Việt Nam cũng như ở các khu vực khác trên thế giới. Gần đây hiện tượng sóng thần đã gây thiệt hại nặng nề về người và của cho các nước ở khu vực Nam á và Đông Nam ở nước ta, tuy không nằm trong khu vực ảnh hưởng của sóng thần nhưng với thời tiết khô và nhiệt độ cao đã gây ra hàng loạt các vụ cháy rừng ở Sơn La và hạn hán ở Tây Nguyên, Ninh Thuận, Bình Thuận… Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì nó đã kéo theo hàng loạt các nhân tố gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Đây là vấn đề quan trọng được đặt ra không chỉ ở Việt Nam mà cả trên toàn thế giới. Nó đòi hỏi cần phải được giải quyết triệt để nếu không môi trường bị phá huỷ là con người sẽ tự huỷ hoại môi trường sống của chính bản thân mình. Sự phát triển của mỗi quốc gia chỉ có thể bền vững khi môi trường sống và thiên nhiên được bảo vệ tốt, duy trì được mối cân bằng sinh tháI, tránh bị ô nhiễm và biết cách khai thác, sử dụng, phục hồi một cách hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. 4/Tính tự phát và tính tự giác là hai mặt đối lập trong quá trình phát triển nền kinh tế . Nền kinh tế thị trường trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến, bởi thị trường hàng hoá luôn luôn biến động, đòi hỏi phải có sự thay đổi nhanh chóng về mẫu mã cũng như chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu dùng. Đối với đất nước ta trong điều kiện kinh tế như vậy thì tất nhiên chưa thể thoát khỏi tính tự phát TBCN. Ngay cả việc chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường cũng không phải là sự phát triển tự phát, mà là kết quả của sự nhận thức và vận dụng một cách tự giác xu hướng và quy luật khách quan của sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay. Như vậy, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tồn tại sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập đó là tính tự phát và tính tự giác. Chúng ta thừa nhận rằng, trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay thì tính tự phát vẫn còn là cái cần thiết và không tránh khỏi trong việc điều chỉnh các mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, trong vấn đề giải quyết những khó khăn về việc làm, trong lưu thông hàng hoá... Tuy nhiên, nếu để nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa trên tính tự phát thì không thể thực hiện được mục tiêu của CNXH. Còn hoạt động tự giác là hoạt động dựa trên sự nhận thức đúng đắn xu thế tất yếu và quy luật khách quan của đời sống xã hội, nhưng nếu có sai lầm trong nhận thức và nhất là sai lầm trên bình diện quốc gia thì, thì hậu quả của nó thật khôn lường. Trong hoạt động kinh tế cũng vậy, nếu nhận thức sai về quan điểm, đường lối phát triển, thì rất dễ rơi vào tình trạng phá sản, thất thoát tài sản quốc gia... Việc giải quyết mâu thuẫn giữa tính tự giác và tính tự phát trong phát triển kinh tế – xã hội là hết sức khó khăn và phức tạp. Không thể một lúc có thể xoá bỏ hoàn toàn tính tự phát, biến mọi hoạt động của con ngườithành hoạt động tự giác. Phải phát huy ngày càng cao tính tự giác trên cơ sở nâng cao năng lực nhận thức khoa học cũng như năng lực tổ chức, quản lý phối hợp hoạt động trên bình diện xã hội, hạn chế dần tính tự phát trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. II.Tác dụng của các mâu thuẫn trong phát triển nền kinh tế: 1. Thúc đẩy cạnh tranh trong nội bộ nền kinh tế. Khi muâu thuẫn về lợi ích kinh tế được đảy cao nó xẽ thúc đẩy sự cạnh tranh phát triển. Nhà kinh tế phải lựa chọn đầu tư vào đâu, đầu tư như thế nào,sản xuất sao cho tiết kiệm nguyên vật liệu, nhằm giảm giá thành để đạt được lợi nhuận tối đa trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Chính nhờ vậy mà mức phân phối vốn đầu tư ,lao động, được cân bằng.Sự canh tranh trong nội ngành, nền kinh tế đã đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá; hiện đại hoá đất nước. 2. Xác lập hình thức phân phối mới: phân phối theo lao động Nước ta có nhiều loại hìmh sở hữu khác nhau, nhiều phương thức sản xuất kinh doanh khác nhau; do đó, khác nhau về thu nhập. Vì vậy, nước ta có đa dạng các hình thức phân phối thu nhập khác nhau. Để đảm bảo sự thống nhất, ổn định trong nền kinh tế Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết qủa lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội( Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 26) Đảng ta vừa thừa nhận tính đa dạng về các hình thức phân phối, tức là thừa nhận mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế với nhau và mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX trong nền kinh tế, lại vừa xác lập hình thức phân phối mới “ phân phối theo lao động” nhằm giải quyết những mâu thuẫn trên một cách triệt để Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của từng người đóng góp cho xã hội. Đây là hình thức phân phối công bằng, hợp lý so với các hình thức phân phối khác trong lịch sử. Cơ sở của sự công bằng xã hội của sự phân phối, đó là sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. 3. Đẩy mạnh sự phát triển của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất: Với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kĩ thuật đòi hỏi người lao động có trình độ kĩ thuật ngày càng cao, trình độ nghiệp vụ chuyên nghiệp. Thêm vào đó cũng đòi hỏi sự quản lý hợp lý, bài bản để hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao. Chính mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX đã thúc đẩy sự phát triển của LLSX vốn đang còn ở trình độ thấp ở nước ta, đồng thời chính sự phát triển này lại kéo theo QHSX phát triển, nhờ đó có sự ổn định trong nền kinh tế. 4. Thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển Để giải quyết vấn đề trong nội bộ nền kinh tế và cũng để phát triển toàn diện nền kinh tế. Nhà nước ta đã tiến hành phát triển kinh tế đối ngoại 12/ 1987: Thông qua luật đầu tư nước ngoài 5/ 1988 : Nghị quyết trung ương 13 về chính sách kinh tế đối ngoại Ngày 3/2/1994 Tổng thống Mỹ Bill Clinton bãI bỏ lệnh cấm vận 11/7/1995 Bình thường hoá quan hệ Việt- Mỹ Kim ngạch buôn bán 2 chiều VIệt – Mỹ 2003: 6 tỷ USD Gấp 2 lần 2002: 2,878 tỷ USD Gấp 2,5 lần 2001: 1,5 tỷ USD Đầu tư Mỹ vào Việt Nam: 10-2004 đạt 1,5 tỷ USD với 206 dự án lớn nhỏ đứng thứ 11 trong tổng số các dự án đầu tư nước ngoài. Với Nga : kim ngạch trao đổi hàng hoá 1994: 500 triệu USD 2002: 700 triệu USD 2003: 651,3 triệu USD 2004: 700,01 triệu USD Với Nhật Hỗ trợ Việt Nam gia nhập APEC, ASEM, à Đứng đầu trong hỗ trợ ODA và nhà đầu tư với lượng vốn FDI 1995: 248 tỷ yên 2000: 497,4 tỷ yên 2004: 760,5 tỷ yên 1994: Việt Nam trở thành thành viên liên kết của Hội đồng kinh tế Thái Bình Dương 1996: tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAM 1998: tham gia tổ chức kinh tế Thái Bình Dương 5. Dần xoá bỏ sự trì trệ trong quản lý kinh tế Chính sự phát triển của mâu thuẫn trong nền kinh tế đã đòi hỏi một sự quản lý hợp lý, thống nhất của Nhà nước cũng như các chủ thể kinh tế với các tổ chức kinh tế trước sự biến động không ngừng của thị trường trong nước và ngoài nước. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp, Nhà nước phảI tìm cách làm giảm sự thất thoát trong đầu tư, xoá bỏ trì trệ trong quản lý giúp cho nền kinh tế hoạt động thông suốt hiệu quả. III. Nguyên nhân 1. Nước ta là một trong những nước đi đầu trong phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Trên thế giới Chúng ta đã chuyển một bước quan trọng sang kinh tế thị trường, nhưng chưa kết thúc bước chuyển đó. Do vậy còn đan xen những yếu tố của nền kinh tế chuyển đổi. Những yếu tố của nền kinh tế thị trường văn minh còn ít hơn là yếu tố sơ khai. Mặt khác trong xã hội chủ đã xuất hiện một số yếu tố đi quá xa(vượt khỏi giới hạn )khuôn khổ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những nhân tố của nền kinh tế maphia, tính trạng thương mại hoá giáo dục, nhân phẩm …là những thí dụ cho sự quá đà như vậy. Trình độ thấp kém, chưa đạt tới trình độ hoàn chỉnh của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay biểu hiện ở chỗ : giá cả hàng hoá dịch vụ bị bóp méo, độc quyền còn quá lớn, tỷ giá chưa phải do trị thường quy định; tiền lương chưa có tính thị trường …quyền kinh doanh trên thị trường còn hạn chế nhiều nên mất khả năng cạnh tranh. Các loại thị trường còn thiếu và chưa đồng bộ, trước hết là thiếu thị trường lao động, thị trường tiền tệ theo đúng nghĩa của nó. Các thể chế cho thị trường quá thiếu ; không ít những thể chế đã có chưa phù hợp, thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường chưa thật phù hợp thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, có tình trạng liên kết giữa bộ phận thoái hoá trong bộ máy nhà nước với những yếu tố tiêu cực của thị trường gây ra tham nhũng, nợ nần chồng chất. 2/Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ. Do giao thông vân tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất. Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn còn làm rối loạn thị trường) Thị trường hàng hoá sức lao động vẫn còn manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm. Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng trong két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đã đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa có nhiều “hàng hoá” để mua – bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ đIều kiện tham gia thị trường này. 3/Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta nhận định về vấn đề này như sau: “Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém; thủ tục hành chính… đổi mới chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý. bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy kiềm chế được nhưng còn chưa vững chắc”. Chương III: CáC GIảI PHáP CƠ BảN 1/ Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần Trước khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường, chúng ta thiết lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ, bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, điều đó sẽ đưa đến hình thành những chủ kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một trong những cơ sở của kinh tế hàng hoá. Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân là mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo tinh thần đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển. Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn của Nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh. Phát triển kinh tế kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng. Trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo Luật hợp tác xã. Khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển ở cả thành thị và nông thôn. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển có hiệu quả. Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà luật pháp không cấm. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và ngoài nước: tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, gắn thu hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại. 2/ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học – công nghệ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Vì vậy, để phát triển kinh tế hàng hoá phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Nhưng sự phát triển của phân công lao động xã hội do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội, cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại. Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hoá, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ: ứng dụng nhanh và phổ biến hơn ở mức độ cao hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Cùng với việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến hành phân công lại lao động và phân bố dân cư trong phạm vi cả nước, cũng như ở từng vùng, từng địa phương; hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. 3/Khắc phục mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với tính định hướng xã hội chủ nghĩa Trong nền kinh tế thị trường với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hưũ khác nhau thì kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bên cạnh việc phát triển kinh tế nhà nước để thành phần kinh tế này giữ vai trò chủ đạo cần giáo dục tư tưởng lý luận cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trí thức và những chủ thể sản xuất kinh doanh để họ nhận thức đúng đắn đường lối phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Từ đó họ có những phương thức sản xuất kinh doanh phù hợp với con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn. Cần nhận thức rõ ràng, mỗi thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có bản chất kinh tế - xã hội riêng, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng, nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế, còn có sự khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường của nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nhưng vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên chúng không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình; đồng thời Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô kinh tế – xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 4/Khắc phục mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với giải quyết công ăn việc làm. Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định đến phát huy nhân tố con người, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội và là vấn đề cấp bách hiện nay. Để thực hiện các mục tiêu đó, cần giải quyết hai vấn đề có tính chất quyết định: tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Bản thân sự tăng trưởng kinh tế đã bao hàm ý nghĩa xã hội sâu sắc là tăng thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, tạo tiền đề vật chất cải thiện đời sống của nhân dân. Vì vậy, cần tập trung nguồn lực, tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương và sự nỗ lực của các ngành, các địa phương thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2001–2005, nhờ đó tạo thêm việc làm. Việc thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần sẽ giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa các nguồn lực bên trong và bên ngoài vào phát triển kinh tế, tạo việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân. Để tạo việc làm cho người lao động có thể thực hiện một số giải pháp sau: -Phát triển khu vực kinh tế tư nhân: Phát triển khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng đối với việc tạo việc làm mới, giảm bớt đói nghèo. Các bộ phận chủ yếu của kinh tế tư nhân là các hộ gia đình, các trang trại, các doanh nghiệp tư nhân. Trong những năm gần đây, khả năng tạo việc làm mới cho người lao động của các doanh nghiệp tư nhân trong nước là rất lớn, mặc dù số lượng nhân công chỉ khoảng 0,5 triệu người, các hộ gia đình và trang trại khoảng 34 triệu người. Khu vực tư nhân phi nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng vì khu vực này chính là nơi có tiềm năng tạo việc làm lớn nhất. Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ của khu vực kinh tế tư nhân cũng là một giải pháp tốt để tạo việc làm. -Phát triển toàn diện kinh tế nông thôn: Để giải quyết việc làm ở nông thôn cần tập trung sức đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đó sẽ thu hút lao động vào các ngành, nghề. Vì thế, phát triển ngành, nghề nông thôn được coi là động lực trực tiếp giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. -Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Nước ta đang thiếu nghiêm trọng những lao động kỹ thuật cao thuộc các ngành mũi nhọn, lao động nông thôn chưa qua đào tạo là trở ngại cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Vì thế phải phát triển giáo dục - đào tạo, đặc biệt là nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới nội dung và cơ cấu ngành, nghề trong nền kinh tế thị trường; quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng một cách hợp lý. Làm như vậy sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. - Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và đào tạo chuyên gia: Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động cần phải tăng cường đào tạo nghề cho người lao động; mở rộng thị trường xuất khẩu lao động bằng cách tăng thị phần ở các thị trường hiện có, nghiên cứu mở rộng thị trường mới về xuất khẩu lao động; đa dạng hoá ngành nghề, hình thức và thành phần tham gia xuất khẩu lao động. Cần chấn chỉnh và xắp xếp lại các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động và tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp này, xử lý nghiêm các vi phạm để tránh gây thiệt hại cho người lao động. - Tăng quỹ quốc gia về hỗ trợ việc làm và sử dụng có hiệu quả quỹ đó, thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá giải quyết việc làm. Cần sử dụng tổng hợp các nguồn lực trong nước; sự đóng góp của các doanh nghiệp, các đoàn thể và cộng đồng; sự giúp đỡ của quốc tế để giải quyết vấn đề lao động và việc làm. KếT LUậN Đề tài “ mâu thuẫn biện chứng trong việc xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay” là một đề tài rộng, bao quát, cần có sự nghiên cứu sâu rộng lâu dài. Tuy nhiên với trình độ nhận thức hạn chế của bản thân, đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề tương đối tổng quát và sơ lược nhất. Đề tài gồm 3 chương: Chương I: Cơ Sở Của Đề Tài: Nêu những vấn đề cơ bản nhất về lý luận và thực tiễn của những mâu thuẫn tồn tại và chi phối nền kinh tế. Chương II: Thực trạng: Nêu một cách khái quát về các mâu thuẫn đang tồn tại trong nền kinh tế, tác động của chúng và những nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh các mâu thuẫn này. Chương III: GiảI pháp: Là những giải pháp cơ bản nhất để thúc đẩy và phát triển các mâu thuẫn để tạo nên sự phát triển toàn diện kinh tế. Sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta tuy còn có nhiều khó khăn và thử thách nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Bên cạnh đó thì vẫn còn tồn tại những hạn chế, mâu thuẫn cấp bách cần được giải quyết nhằm xây dựng một nền kinh tế ngày càng hoàn thiện hơn. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các chính sách kinh tế – xã hội để giải quyết những mâu thuẫn đó nhằm tạo ra một nền kinh tế ngày càng phát triển và hoàn thiện. Thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đưa đất nước vững bước phát triển theo con đường đã chọn. Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo 1/Văn kiện Đại hội Đảng VI, nhà xuất bản sự thật, H 1987 2/ Văn kiện Đại hội Đảng VII ,nhà xuất bản sự thật,H 1991 3/ Văn kiện Đại hội Đảng VIII, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, H 1996 4/ Văn kiện Đại hội Đảng IX, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, H 2001 5/ Văn kiện Đại hội Đảng X, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, H 2006 6/ viện quản lý kinh tế trung ương, CMI_2005 , nhà xuất bản chính trị 2006 7/Thông tấn xã Việt Nam, kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới,http//: www hanoi.vnn.vn/chuyên đề/2008/trang sử mới_21_htm 8/kinh tế Việt Nam năm 2006 ,Động thái và triển vọng, nhà xuất bản xã hội 2007 9/Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường địnn hướng XHCN Việt Nam Cập nhật ngày 21/3/2007 tạp chí cộng sản điện tử 10/Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam2006 www.chinhphu.vn mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10918.doc
Tài liệu liên quan