Tiểu luận Một số suy nghĩ về tác động của WTO đối với nông nghiêp Việt Nam hiện nay

I - Đặt vấn đề Ở Việt Nam, hiện lĩnh vực nông nghiệp đang là nguồn sinh kế chính của hơn 60% dân số cả nước. Kể từ năm 1989 đến nay, nước ta đã trở thành một quốc gia xuất khẩu nông sản, trong đó, gạo chiếm một tỷ lệ khá lớn. Ngành sản xuất nông nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 2/3 hộ gia đình làm nông nghiệp trong đó có 44% số hộ thuộc diện nghèo và có nguy cơ tiềm ẩn tái nghèo. Với vị trí quan trọng như vậy nông nghiệp là chìa khoá của sự ổn định và phát triển đối với người dân Việt Nam nói chung và nông thôn nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông nghiệp nước ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp. Nghiên cứu này đề cập đến những tác động đó.

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1893 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số suy nghĩ về tác động của WTO đối với nông nghiêp Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ TÁC ĐỘNG CỦA WTO ĐỐI VỚI NÔNG NGHIÊP VIỆT NAM HIỆN NAY I - Đặt vấn đề Ở Việt Nam, hiện lĩnh vực nông nghiệp đang là nguồn sinh kế chính của hơn 60% dân số cả nước. Kể từ năm 1989 đến nay, nước ta đã trở thành một quốc gia xuất khẩu nông sản, trong đó, gạo chiếm một tỷ lệ khá lớn. Ngành sản xuất nông nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 2/3 hộ gia đình làm nông nghiệp trong đó có 44% số hộ thuộc diện nghèo và có nguy cơ tiềm ẩn tái nghèo. Với vị trí quan trọng như vậy nông nghiệp là chìa khoá của sự ổn định và phát triển đối với người dân Việt Nam nói chung và nông thôn nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông nghiệp nước ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp. Nghiên cứu này đề cập đến những tác động đó. II- Bối cảnh kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời hội nhập. 2.1 – Vài nét về tình hình lao động nông nghiệp Việt Nam hiện nay 2.1.1 Sự biến đổi cơ cấu lao động nông nghiệp Việc sử dụng tốt các nguồn lực, nhất là lực lượng lao động nông nghiệp đem lại sự tăng trưởng cho kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ chất lượng nguồn nhân lực quyết định, và thúc đẩy sự tăng trưởng sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Theo tính toán từ số liệu thống kê cho thấy: so với tổng dân số của cả nước, hiện nay cứ bình quân 4 người sẽ có 1 lao động nông nghiệp; còn so chung với lao động đang làm việc trong nền kinh tế thì trong số 10 lao động có khoảng 5,6 lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Bảng 1: Số lượng lao động nông nghiệp hàng năm (nghìn người) Năm Số lao động nông nghiệp (nghìn) Năm Số lao động nông nghiệp (nghìn) 2001 24468,4 2004 24430,7 2002 24455,8 2005 24342,4 2003 2443,4 2006 24122,8 (ước tính) [Nguồn:Tổng cục Thống kê] Biểu 1: Tỷ lệ lao động của các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp (%) [Nguồn: Tổng cục Thống kê] Số liệu thống kê cho thấy tỷ trọng cơ cấu lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động kinh tế quốc dân nói chung còn chiếm đại đa số, đây là yếu tố ảnh hưởng nhất định đến định hướng phát triển trong quá trình hội nhập vào WTO. 2.1.2 - Trình độ kỹ thuật của đội ngũ lao động nông nghiệp, theo nhiều kết quả nghiên cứu về cho thấy, nhìn chung chất lượng lao động trong khu vực kinh tế nông nghiệp của nước ta còn thấp so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan và so với các nước thành viên WTO. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau: Hiện có tới 75,21% lao động chưa qua đào đào tạo nghề., trong đó phần lớn là lao động nông nghiệp. Đại bộ phận lao động nông nghiệp vẫn bị thói quen lao động theo mùa vụ, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, kỷ luật lao động lỏng lẻo, tuỳ tiện, thiếu trách nhiệm đối với công việc, … chi phối, chưa có tác phong lao động công nghiệp, nhất là nông dân. Trình độ văn hóa thấp, trình độ tay nghề chuyên môn chưa cao. Lao động sản xuất nông nghiệp mang nặng về kinh nghiệm sản xuất nhỏ, mang đậm nét truyền thống. Biểu đồ 2: Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân (%) [Nguồn: Tổng cục thống kê] 2.2 – Một số thành tựu của nền nông nghiệp Việt Nam những năm gần đây Theo số liệu thống kê hàng năm cho thấy trong giai đoạn 2001-2006 tăng trưởng kinh tế của cả nước dat bình quân (ước tính) 7,6%, riêng năm 2007 đạt mức thấp hơn (khoảng 7,1%).Về sản xuất nông nghiệp, số liệu thống kê hàng năm cho thấy: Sản lượng lương thực trong giai đoạn 2001-2006 tăng bình quân 1,32 triệu tấn/năm. Bảng 2: Giá trị sản xuất nông nghiệp Việt Nam 2001-2007 (nghìn tỷ đồng) Năm Tổng Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ 2001 130,2 101,4 25,5 3,3 2002 145,0 111,2 30,5 3,3 2003 154,0 116,1 34,5 3,4 2004 172,5 131,6 37,3 3,6 2005 184,8 138,0 43,4 3,4 2006 197,0 144,8 48,6 3,6 2007 200,0 114,3 29,2 3,3 [Nguồn: Tổng cục Thống kê] Sự phát triển kinh tế của Việt nam trong các năm qua đã góp phần xóa đói, giảm nghèo, đưa tỉ lệ người nghèo giảm từ 50% xuống còn 20%. GDP bình quân đầu người Việt nam hiện nay là 600US$ và tăng mỗi năm từ 50-100US$. Ở nước ta, hiện lĩnh vực nông nghiệp đang là nguồn sinh kế chính của hơn 60% dân số cả nước. Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam đang trên đà phát triển, nó đã cung cấp cho thị trường quốc tế những sản phẩm hàng hóa, nhất là lúa gạo. Kể từ năm 1989 đến nay, nước ta đã trở thành một quốc gia xuất khẩu nông sản, trong đó, gạo chiếm một tỷ lệ khá lớn. Ngành sản xuất nông nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 2/3 hộ gia đình làm nông nghiệp trong đó có 44% số hộ thuộc diện nghèo và có nguy cơ tiềm ẩn tái nghèo.Với vị trí quan trọng như vậy nông nghiệp là chìa khoá của sự ổn định và phát triển đối với người dân. Tổng giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp của nước ta liên tục tăng cao. Đặc biệt là xuất khẩu lúa gạo đã đạt hàng thứ hai trên thế giới (xem biểu sau) Biểu đồ 3: Xuất khẩu nông nghiệp trong những năm 2001-2007 [Nguồn: Tổng cục Thống kê] Theo báo cáo của Bộ NN và PT Nông thôn tháng 12 năm 2007 cho biết: Giá trị sản xuất nông lâm thủy sản ước đạt gần 200 nghìn tỷ đồng tăng 4,6% so với năm 2006, trong đó nông nghiệp đạt 146,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,87%, lâm nghiệp đạt 6,5 nghìn tỷ đồng, tăng 1,06%, thủy sản ước đạt 47 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2%. Tổng sản lượng lương thực có hạt ước đạt 40,17 triệu tấn, tăng 1,3% so với năm 2006. Tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt 4,1 triệu tấn, đạt 108% so với kế hoạch và tăng 11,6% so với năm 2006. Uớc kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2007 đạt 12,6 tỉ USD, vượt kế hoạch cả năm 16%, tăng 18,7% so với năm 2006. Theo ước tính, năm 2007 xuất khẩu gạo của Việt Nam ước đạt trên 4,53 triệu tấn, đạt kim ngạch 1,4 tỷ USD. Theo Tổng cục Thống kê, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quí I/2008 (theo giá cố định 1994) ước đạt 42.597,13 tỉ đồng Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm thuỷ sản toàn ngành quí I năm 2008 ước đạt 3,2 tỉ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ, trong đó các mặt hàng nông sản đạt 1,7 tỉ USD tăng 11,5%; thuỷ sản đạt gần 800 triệu USD cũng có mức tăng 11,5%; lâm sản đạt 712 triệu USD, tăng 12%. Xuất khẩu quí I/2008 tăng về kim ngạch so với cùng kì năm trước, nhưng số lượng nhiều mặt hàng có giá trị XK cao như: cà phê, tiêu, cao su, đồ gỗ...lại bị giảm. Đó là do giá trung bình của hầu hết các mặt hàng tăng từ 30 - 40%, mặt hàng thấp nhất cũng tăng 10%. Yếu tố tăng giá thế giới cũng làm cho kim ngạch nhập khẩu đối với một số nguyên liệu (yếu tố đầu vào) phục vụ sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, v.v... cũng tăng đáng kể, tạo sự mất cân bằng mới trong cán cân thương mại nông nghiệp. Biểu 4: [Nguồn: Bộ NN và PT nông thôn] Nông nghiệp Việt Nam hiện nay mang đậm những nét đặc trưng sau đây: Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm, đây là xu hướng tất yếu do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. tỷ lệ bình quân giảm ở mức 7,8% trong vòng 6 năm (2001-2006). Giảm số lượng và tỷ trọng nhóm hộ làm việc trọng các lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê tính đế nử nảm 2006, số hộ lao động trong nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ở nông thôn là 9,78 triệu hộ, giảm 7,9 triệu hộ so với năm 2001. Nhóm hộ trong lĩnh vực thuỷ sản tăng lên: Năm 1994 chiếm 2,3% tổng số hộ hoạt động trong ngành nông nghiệp trong cả nước; năm 2001 – 4,2%; năm 2006 đã chiếm 6,2%. Riêng khu vực đồng bằng sông Cửu Long tăng manh nhất – năm 2006 chiếm 15,1% (so với năm 2001 là 9,8%). Kinh tế trang trại phát triển. Đây là mô hình kinh tế theo hướng kinh tế hàng hóa, thị trường. Năm 2006 kinh tế trang trị đã tạo ra việc làm thường xuyên cho gần 400 nghìn lao động nông nghiệp ở nông thôn (gấp 1,7 lần so với năm 2001). Lao động kỹ thuật trong những năm qua có xu hướng tăng lên. Năm 2005, số lao động này chiếm 4,2% tổng số lao động nông nghiệp của cả nước. Lao động kỹ thuật bậc cao có tăng lên (năm 1999 – là 2,3%; năm 2005 – 3,8%). Tuy vậy, nếu nhìn toàn cục, thì đội ngũ có chất lượng lao động kỹ thuật cao chưa tăng mạnh mẽ. Xét tổng quát, sự chuyển đổi cơ cấu hộ gia đình từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sang các lĩnh vực kinh tế khác còn rất chậm. Và ở các vùng miền không đồng đều. Kinh tế nông thôn Việt Nam vẫn còn mang nặng tính chất thuần nông. Tình hình thất nghiệp trá hình còn lớn (do thừa lao động, do thiếu việc làm, nông nhàn, v.v.) . Theo thống kê của Bộ TBLĐ-XH thời gian làm việc bình quân của 1 lao động nông nghiệp chỉ chiếm 80% thời gian lao động cả năm. Còn trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp chỉ chiếm khảng 76%. Đây là một trong những nguyên nhân “đẩy” người dân nông thôn ra đô thị tham gia vào dòng chuyển cư nông thôn-đô thị, nông thôn-nông thôn, và một bộ phận tham gia vào xuất khẩu lao động. Bảng 3: Cơ cấu lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo thành phần kinh tế và phân theo ngành kinh tế % 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Sơ bộ 2006 TỔNG SỐ 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 Phân theo thành phần kinh tế Kinh tế Nhà nước 9.3 9.3 9.5 9.9 9.9 9.5 9.2 Kinh tế ngoài Nhà nước 90.1 89.7 89.4 88.8 88.6 88.9 89.2 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 0.6 0.9 1.1 1.3 1.5 1.6 1.6 Phân theo ngành kinh tế Nông nghiệp và lâm nghiệp 62.5 60.6 58.7 57.0 55.4 53.8 52.1 Thuỷ sản 2.6 2.8 3.2 3.3 3.4 3.5 3.6 Công nghiệp 10.3 11.0 11.5 12.3 12.7 13.5 14.3 Xây dựng 2.8 3.3 3.9 4.2 4.6 4.7 4.6 Thương nghiệp 10.4 10.5 10.8 11.2 11.5 11.6 11.7 Khách sạn, nhà hàng 1.8 1.8 1.8 1.8 1.8 1.8 1.8 Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc 3.1 3.1 3.0 2.9 2.9 2.7 2.6 Văn hoá, y tế, giáo dục 3.6 3.7 3.8 3.9 4.0 4.1 4.2 Các ngành dịch vụ khác 2.9 3.1 3.3 3.5 3.7 4.4 5.2 [Nguồn: Tổng cục Thống kê] 2.3 – Những cam kết Việt Nam phải thực hiện khi vào WTO Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông nghiệp nước ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có không ít những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực cho người nông dân, đặc biệt là người nông dân nghèo. Theo quy định của WTO về nông nghiệp, nước xin gia nhập vào tổ chức thương mại này phải thoả mãn 2 điều kiênh: Giảm trợ cấp nông nghiệp, bao gồm cả trợ cấp xuất khẩu và sản xuất, Tăng mức độ mở của thị trường của mình, hay nói cách khác, là tăng sự tiếp cận thị trường cho các quốc gia thành viên của WTO. Sau khi ký kết và trở thành thành viên WTO, Việt Nam đã cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp ngay sau khi gia nhập WTO. Việt Nam sẽ có 5 năm quá độ cho việc cắt giảm trợ cấp xuất khẩu dưới dạng khuyến khích đầu tư.Việt Nam đã cam kết thực hiện những điều khoản vệ sinh an toàn thực phẩm ngay sau khi hội nhập, đồng thời Việt Nam sẽ cắt giảm mức thuế quan đối với các mặt hàng nông nghiệp. Hiện tại mức thuế quan bình quân trong nông nghiệp của Việt Nam là 27%, rất nhiều khả năng mức thuế này sẽ bị cắt giảm xuống khoảng 15%. Một cam kết nữa là Việt Nam sẽ không được tiếp cận với cơ chế tự vệ đặc biệt nhằm giảm thiểu tác động của đột biến nhập khẩu đối với giá cả các mặt hàng chăn nuôi như thịt heo, thịt bò... điều này sẽ gây thiệt thòi cho người nông dân. Điều đó dẫn đề những thuận lợi và khó khăn cho nông nghiệp Việt Nam hội nhập vào WTO. 2.4 - Những thuận lợi, khó khăn khi Việt Nam đã là thành viên WTO Để thực hiện những cam kết và hội nhập vào sân chơi của WTO. Việt Nam đang gặp những 2.4.1- Sự cạnh tranh về giá cả trong thương mại Nhiều tổ chức thế giới đã và đang hỗ trợ giúp Việt Nam phát triển, trong đó có Ngân hàng thế giới (WB). Trong những công bố của mình (WB) luôn quan tâm khuyến cáo Việt Nam về những thách thức của WTO đối với Việt Nam, nhất là nông nghiệp và nông thôn, vì đây là khu vực dễ tổn thương nhất, trong đó nhấn mạnh sự cạnh tranh trong thương mại nông nghiệp. Theo WB, thử thách lớn của Việt Nam khi gia nhập WTO chính là sự chuyển động chậm chạp trong thương mại nông nghiệp của Việt Nam. Bởi khi vào WTO, nông sản sẽ hầu như lưu thông tự do với thuế suất giảm, thậm chí bằng 0, và do vậy, nước nào yếu kém hơn sẽ thua. Chính vì thế, Việt Nam phải thương mại hóa nông nghiệp hơn nữa: Gia nhập WTO sẽ tạo cơ hội cho việc tăng tốc trở lại của thương mại nông nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng đóng góp cho sự phát triển nông thôn và bổ sung cho nhu cầu của thị trường nội địa. Lý do là: Thế mạnh xuất khẩu nông nghiệp Việt Nam là lúa gạo. Song chỉ dựa vào lúa gạo thì chưa kích thích nổi vai trò của sản xuất của các ngành nghề khác. Những hàng hóa nông sản mà Việt Nam có sức cạnh tranh thấp, một số cây ưu tiên cho xuất khẩu (như cây bông vải), hoặc có thể gặp phải rủi ro do quá thiên lệch vào một số chủng loại như bắp/ngô, mà chưa chú trọng phát triển những cây trồng, vật nuôi có thế mạnh cho xuất khẩu như lạc, đỗ, bông v.v.). Vậy sản xuất cây công nghiệp của Việt Nam cần chú trọng không chỉ về số lượng mà cả năng suất nữa. Để bán hàng hoá WTO đòi hỏi không chỉ số lượng mà chất lượng sản phẩm, những với giá cạnh tranh. Việt Nam gia nhập WTO, hàng hoá nông nghiệp phải cạnh tranh khốc liệt, Việt Nam vẫn có những lợi ích mở rộng thị trường cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống. Đồng thời, Việt Nam có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Ngoài sản xuất khẩu gạo, Việt Nam còn rất nhiều sản phẩm nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh như cà phê, điều, hồ tiêu... các sản phẩm thuỷ sản )như cá tra, ba sa...). Đây là những sản phẩm mà các nước lớn hầu như có ít lợi thế. Tuy nhiên cần có hình thức trợ giúp người nông dân một cách hợp lý, và minh bạch những hình thức trợ giúp đó cho nông dân để tránh thiệt hại do bị kiện bán phá giá. 2.4.2 - Đất đai, thị trường lao động, di dân nông nghiệp thời hội nhập luôn di, biến động. Với tư cách thành viên WTO, vấn đề hết sức nổi cộm của nông nghiệp Việt Nam là: để sản xuất theo hướng hàng hóa trong sản xuất nông nghiệp, cần tập trung giải quyết bài toán ruộng đất: Do thực hiện khoán hộ trong quá trình Đổi mới nên nảy sinh một hiện trạng đất đai canh tác nông nghiệp quá “manh mún” không sản xuất lớn được. Hơn thế, việc thi hành Luật đất đai (1993 và 2003) cho thấy sự mâu thuẫn giữa nhu cầu sản xuất tập trung, chuyên canh trên diện tích rộng để cơ giới hoá nông nghiệp, với quyền sử dụng đất giao cho các hộ gia đình nên vấp phải vấn đề làm sao tích tụ đủ ruộng đất để có thể vận dụng được các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm tăng sản lượng, năng suất cho cây trồng, nhất là những cây xuất khẩu. Mặt khác, về khía cạnh xã hội, Việt Nam lại phải giải quyết các mâu thuẫn “điền chủ” trong xã hội nông thôn - vấn đề quyền sử dụng đất nông nghiệp. Hiện nay, trong nông thôn Việt Nam đang chuyển sang một giai đoạn mới thực thi chính sách quản lý đất đai với những điểm nổi bật sau: Một là, Tăng cường quản lý hành chính về đất đai như là một ưu tiên hàng đầu nhằm bảo vệ quyền sử dụng đất cũng như thị trường đất đai đã hình thành trước đây, cũng như việc thực hiện sự công bằng xã hội đối với đất đai bằng cách đưa tên người vợ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hai là, thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa cho phép xử lý vấn đề đất đai manh mún, một trong những khó khăn chủ yếu của phát triển sản xuất lớn để phát triển nông nghiệp trong hội nhập. Ba là, Dân số ở nông thôn sẽ không giảm, nên cách tiến hành cần mềm dẻo, linh hoạt, cần phát huy sức mạnh trí tuệ của cộng đồng, cũng như cần có những tác động hỗ trợ cần thiết khác để đạt được kết quả như mong đợi. Bốn là, Việc thực hiện chính sách đất đai ở nông thôn cũng là một vấn đề trọng điểm không chỉ ở đồng bằng mà cả ở vùng trung du, miền núi. Lý do là sự tác động của phong tục, tập quán, luật tục của bà con địa phương. Cần chú ý đến tập quán sử dụng đất này, bởi quyền sử dụng đất truyền thống có thể đóng góp tích cực vào quản lý rừng và giảm nghèo ở vùng cao nơi có nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số. Vậy, cần phải tiến hành thận trọng đối với đất rừng và đất chưa sử dụng tại vùng dân tộc thiểu số, nơi vẫn giữ các cơ cấu xã hội truyền thống, và hợp pháp hóa các diện tích đất đai mà trước đây chính quyền địa phương đã giao một cách không chính thức cho các cộng đồng (khoảng hơn 1 triệu ha). Cần tiến hành đồng thời cải cách các lâm trường quốc doanh”. Năm là, quá trình sử dụng đất đai và sự hiện diện của thị trường đất đai cho thấy sự báo động về những bất trắc một khi nông dân nghèo bán đất; mặt khác, khả năng tập trung đất từ nhiều trang trại nhỏ hiện nay là rất hạn chế. Hậu quả xã hội xảy ra một khi nông dân mất ruộng đất, kéo theo nó là những rủi ro và các vấn đề xã hội nảy sinh. III - Tác động của sự hội nhập vào WTO đến nông nghiệp Việt Nam hiện nay 3.1 - Những tác động lớn, toàn diện đến nên nông nghiệp Việt Nam Thứ nhất, Những cú sốc bắt nguồn từ bên ngoài giống như việc rớt giá các nông sản (từ toàn cầu hóa/gia nhập WTO), đặc biệt ở những vùng chuyên canh một vài loại cây trồng: việc sụt giảm thu nhập từ cà phê sau khi bị rớt giá vào cuối những năm 1990 nên các hộ sản xuất nhỏ sống dựa vào trồng cà phê phải tìm kiếm thêm việc làm khác để bổ sung thu nhập. Tương tự như vậy nhưng ở mức độ nhẹ hơn, nông dân ở các vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long cũng bị ảnh hưởng bởi sự rớt giá nông sản trên thị trường thế giới, và đã xuất hiện xu hướng thoát ly khỏi nông nghiệp và tăng việc làm công ăn lương. Tại các vùng khác, việc tăng lao động làm công phần nhiều do yếu tố hấp dẫn của các hoạt động phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn làm nông nghiệp. Những thay đổi này - bao gồm cả những thay đổi tích cực - đang dần rõ nét và mãnh mẽ hơn khi là thành viên WTO. Thư hai, Giá cả các loại hàng hóa khác thay đổi, nhất là vật tư nông nghiệp nhập từ thị trường thế giới, tất yếu gây ra những tác động của, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định sản xuất nông nghiệp của Việt Nam. Hệ quả là, chi phí đầu tư đầu vào và giá cả bán ra thị trường, nhất là hàng hóa nông nghiệp xuất khẩu, luôn bị điều chỉnh bởi các tác động này. Thứ ba, sự không ổn định của giá xăng dầu thế giới luôn làm thay đổi chi phí cho sản xuất nông nghiệp, và kéo theo là giá nông sản, thực phẩm lên xuống. Thứ tư, sự biến động này còn phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng của các nước khác. Chẳng hạn như, vào tháng 3/2008, Chính phủ đã yêu cầu giảm xuất khẩu lương thực không vượt quá 2,8 triệu tấn Bản tin VTV ngày 28 tháng 3 năm 2008. . Vấn đề ở đây là phải đảm bảo an ninh lương thực trong nước, đảm bảo lợi ích cho sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Thứ năm, trong cuộc chơi WTO còn có một số điểm ảnh hưởng đến cuộc sống và an ninh lương thực bởi: 1/ Sự trợ giá của các nước phát triển cho nông nghiệp, kìm hãm phát triển sản xuất ở các nước đang phát triển. Hiện vẫn còn nhiều nước phát triển vẫn duy trì các hình thức hỗ trợ, trợ cấp nông nghiệp ở mức cao, gây ảnh hưởng đến sự công bằng, kìm hãm phát triển sản xuất ở các nước đang phát triển. Sự trợ giá này có ảnh hưởng sâu sắc đến sự cạnh tranh của các mặt hàng nông sản của nước ta, đặc biệt ảnh hưởng tới các nhà sản xuất nhỏ. Sự cạnh tranh và thương mại bất bình đẳng có nguy cơ dẫn đến rủi ro mất sinh kế, hoặc mất các hoạt động sản xuất truyền thống. ở một số nước, chủ yếu là các nước phát triển, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân được Nhà nước cấp một khoản hỗ trợ nhằm tạo sự cân bằng thu nhập. Các khoản hỗ trợ có thể được thanh toán trực tiếp (tiền mặt) hoặc gián tiếp (trợ giá vật tư nông nghiệp, hoặc các chính sách ưu đãi khác). Cho dù tính theo cách nào thì các hình thức hỗ trợ này cũng khiến cho người nông dân sản xuất ngày càng nhiều nông sản, mà thực tế giá thành thực chất dưới giá trị của sản phẩm. Sự khuyến khích này dẫn đến sự gia tăng sản lượng nông nghiệp. Sự dư thừa trên thị trường nội địa của các nước phát triển dẫn đến nhu cầu xuất khẩu ngày càng lớn. Việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp được trợ cấp này chính là sự cạnh tranh phá giá đối với sản phẩm các nước đang phát triển. Với sự cạnh tranh dưới giá thành lớn như thế thì các nhà sản xuất nhỏ và đại bộ phận nông dân ở các nước đang phát triển khó có thể 'đứng vững' được. Vì các đối tượng này cơ bản thiếu vốn và thiếu trình độ kỷ thuật; thiếu kiến thức, kỹ năng, phương pháp liên kết và hợp tác. Những tổ chức như thế sẽ có nguy cơ phá sản rất cao. Các tổ chức này phá sản sẽ kéo theo hàng loạt người lao động có nguy cơ mất việc làm, mất nguồn thu nhập chính. Vì thế họ sẽ phải đứng trên bờ vực thẳm của sự nghèo nàn và tụt hậu. Sự phân hoá giàu nghèo sẽ có cơ hội phát triển.; 2/ Sự mở cửa thị trường nông phẩm, việc các tác nhân gây hại có điều kiện lây lan là không tránh khỏi. Tự do hoá thương mại làm cho một số loại sản phẩm nông sản có thể gây nên sự ngộ nhận về giá trị kinh tế ở các nước đang và chậm phát triển. Trong khi đó, các loại sản phẩm biến đổi gen, hoặc các loại sản phẩm chứa mầm gây bệnh có tác hại xấu đến sức khoẻ người tiêu dùng sẽ dễ dàng được nhập khẩu vào thị trường các nước đang phát triển hơn. Với hệ thống kiểm định chất lượng sản phẩm yếu hoặc chưa đồng bộ về phương tiện kỹ thuật, việc ngăn chặn các loại sản phẩm này là một vấn đề khó khăn cho các nước đang phát triển; 3/ Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng sẽ dẫn đến việc du nhập giống từ bên ngoài. Với hệ thống kiểm định chất lượng sản phẩm yếu và chưa đồng bộ về phương tiện kỹ thuật, việc ngăn chặn các loại sản phẩm này là một vấn đề khó khăn cho các nước đang phát triển nói chung và cho nước ta nói riêng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự bất ổn và không bảo đảm được an ninh lương thực và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người nông dân, nhất là nông dân nghèo. 3.2 - Những cơ hội và thách thức nông nghiệp Việt Nam với tư cách là thành viên WTO 3.2.1 - Những cơ hội cho phát triển nông nghiệp Việt Nam Khi Việt Nam (VN) gia nhập WTO thị trường sẽ mở rộng cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như nông nghiệp và thuỷ sản, đồng thời VN có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO giúp tránh được những xử kiện vô lý như cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ. Khi là thành viên của WTO, VN sẽ tiếp tục thu hút được đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng có tiếng nói cùng với 149 nước khác khi WTO thảo luận các quy chế mới của WTO. 3.2.2 - Những thách thức lớn đối với sản xuất nông nghiệp Việt Nam Tuy nhiên, thách thức đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt là đối với việc xoá đói giảm nghèo là rất lớn: Việt Nam là một nước có 69% lực lượng lao động thuộc lĩnh vực nông nghiệp và 45% dân số ở nông thôn sống dưới mức nghèo. i) Thách thức lớn nhất là nông nghiệp Việt Nam có sức cạnh tranh thấp, phải đương đầu với trợ cấp xuất khẩu của các nước giàu, Việt Nam chưa có kinh nghiệm thực thi các điều khoản cam kết, việc cắt giảm thuế quan và các trợ cấp nông nghiệp, việc Việt Nam không được tiếp cận đối với cơ chế tự vệ đặc biệt cho các sản phẩm chăn nuôi... Tất cả khó khăn là việc không thể giải quyết một sớm một chiều mà cần thời gian và sự hỗ trợ của các bên để giảm thiểu những rủi ro này. ii) Thách thức đối với sản xuất nông nghiệp nước ta Vi những nông dân đang trồng bắp, mía, cà phê, tiêu... thách thức nhiều hơn cơ hội. Nhất là nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh về giá vì giá bắp nhập về sẽ rẻ hơn do phải cắt giảm thuế quan, chẳng hạn hiện áp thuế với bắp nhập từ Mỹ là 10% sẽ không còn. iii) Những thách thức đối với ngành chăn nuôi bao gồm: Một là, đối với ngành chăn nuôi Việt Nam, theo đánh giá của tổ chức Oxfam Anh, đó là mức độ cạnh tranh trong ngành chăn nuôi của Việt Nam hiện tại rất là thấp. Cụ thể như năng suất sản xuất thấp hơn 30% so với mức sản xuất của thị trường quốc tế, chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm chăn nuôi thị trường nội địa đều có mức cạnh tranh thấp hơn so với cạnh tranh quốc tế. Hai là, Việt Nam sẽ phải đối mặt là trợ cấp của các nước giàu cho ngành chăn nuôi, ví dụ một con bò của EU được hưởng trợ cấp một ngày là 2,62 USD, nhiều hơn thu nhập của người nông dân nghèo Việt Nam. Như vậy, các sản phẩm chăn nuôi Việt Nam phải cạnh tranh với các nước giàu. Ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ phải đương đầu với hệ thống sản xuất rất tân tiến và hiệu quả của họ vì những nước có truyền thống phát triển nông thôn theo thông lệ quốc tế mà WTO đã áp đặt, và họ tuân thủ. Trong khi đó chăn nuôi ở Việt Nam còn mang nặng tính chất cá thể (chăn nuôi hộ gia đình); sự kiểm dịch còn hạn chế. Ba là, Việt Nam sẽ không được tiếp cận với cơ chế tự vệ đặc biệt để chống lại những đột biến về nhập khẩu cho những mặt hàng chăn nuôi (thịt heo, thịt bò, v.v.). Như vậy, trong trường hợp khi Việt Nam mở cửa thị trường một cách mạnh mẽ thì việc tăng các sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu có tiềm năng sẽ tác động đến giá của các mặt hàng trong nước. Trong khi đó, trình độ sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi của Việt Nam còn quá thấp, đặc biệt là của nhóm người nghèo thì họ phải cạnh tranh trên một sân chơi không bình đẳng; Bốn là, cam kết hội nhập yêu cầu Chính phủ Việt Nam sẽ phải cắt giảm trợ cấp nông nghiệp trong đó có trợ cấp của ngành chăn nuôi, cắt giảm thuế quan và như vậy có tác động đối với người chăn nuôi, đặc biệt là người chăn nuôi nghèo; Năm là, thách thức về thương mại đối với sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Ngân hàng thế giới (WB) đã khuyến cáo Việt Nam: Có thể sử dụng nhiều biện pháp xúc tiến thương mại (nhưng không bằng phương pháp hỗ trợ bao cấp xuất khẩu), đặc biệt thông qua hỗ trợ của Nhà nước cho các hiệp hội sản xuất hàng hóa nhằm hỗ trợ nông dân đối phó với những bất lợi trong thương mại, bằng cách hỗ trợ người nông dân bằng những hỗ trợ dài hơi hay ngắn hạn để có thể giúp nông dân nghèo trong trường hợp khẩn cấp như cung cấp các nguyên vật liệu đầu vào thiết yếu nhằm phục vụ sản xuất, cung cấp tín dụng ưu đãi, bằng các hỗ trợ dài hạn thông qua nghiên cứu và khuyến nông sẽ tạo cơ hội cho nông dân chuyển hướng ra khỏi những cây trồng không được thị trường ưa chuộng. iv) Khi hội nhập WTO, lao động nông nghiệp giảm, chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp, địch vụ. Theo Nghị định 66/2006/NĐ-CP, ngày 07 tháng 7 năm 2006, Chính phủ chủ trương phát triển các nghành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn, bao gồm: 1. Chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản; 2. Sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, cơ khí nhỏ; 3. Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; 4. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; 5. Gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh; 6. Xây dựng, vận tải trong nội bộ xã, liên xã và các dịch vụ khác phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn; 7. Tổ chức đào tạo nghề, truyền nghề; tư vấn sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn Nghị định 66/2006/NĐ-CP Về phát triển ngành nghề nông thôn, ngày 07 tháng 7 năm 2006. . Như vậy, sản xuất nông nghiệp sẽ chịu tác động của chính sách nay. Lý do một bộ phận lao động nông nghiệp có cơ hội chuyển sang hoạt động lao động sản xuất phi nông nghiệp. Những ngành nghề này một khi phát triển, làm tăng sự hội nhập vào thị trường quốc tế. Mặt khác, nền sản xuất nông nghiệp chịu thêm thử thách: một bộ phận nông dân có khả năng, trình độ sẽ bị thu hút vào lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp. Như vậy, sản xuất nông nghiệp đòi hỏi ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp theo đòi hỏi của WTO. Lối thoát nào để trợ giúp nông nghiệp? Về nguyên tắc, WTO không cấm tất cả các hình thức hỗ trợ của Chính phủ. Nhà nước vẫn có thể tiếp tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ nghiên cứu triển khai, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, đào tạo giáo dục phát triển nguồn nhân lực. WTO cũng cho phép nhiều hình thức hỗ trợ vùng nghèo và một số khâu trong sản xuất nông nghiệp. Như vậy, Nhà nước cần giúp cho nông dân tiếp cận các thông tin về thị trường bên cạnh việc định hướng thị trường sản xuất gì và làm ở mức độ như thế nào. Điều này sẽ tạo nhiều cơ hội cho nông dân trong việc cạnh tranh với các mặt hàng cùng loại. Do vậy, để phát triển nông nghiệp thời kỳ hội nhập vào WTO, việc tăng cường trang bị kiến thức, hỗ trợ kỹ thuật, cách thức sản xuất tiên tiến cho người dân nông thôn thông qua chính hoạt động của khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cần được đặt lên hàng đâu, có như thế mới bảo vệ được người nông dân trong sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. 3.3 - Tác động của việc gia nhập WTO đối với nguồn lực nông nghiệp Việt Nam Những cam kết và quy định của WTO đối với sản xuất, buôn bán, trao đổi, thương mại, nông nghiệp Việt Nam chịu những tác động sau đây: Chiểu theo cam kết, khu vực đầu tư nước ngoài buộc phải mở cửa thị trường và cắt giảm thuế quan; Khu vực nông nghiệp, nơi tập trung nhiều lao động, chịu sự tác động mạnh của các điều khoản về thương mại này; Việc gia nhập WTO đã và đang đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh cơ cấu lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế, và qua đó Việt Nam tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tron đó Việt Nam phát huy tiềm năng của Việt Nam mà các nước thành viên khác không có được. Vào WTO buộc Việt Nam phải thực hiện việc chuyển đổi lực lượng lao động dư thừa trong khu vực nông nghiệp sang làm việc ở các lĩnh vực phi nông nghiệp; đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức cho lao động nông nghiệp, nhất là nông dân; Kinh tế phát triển nên tăng nhu cầu về lao động và tạo thêm việc làm mới; Việc tăng số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang thu hút sự đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam tăng lên; hệ quả là làm cho hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế cũng tăng lên, mở ra cơ hội, việc làm và gia tăng thu nhập cho người lao động, tăng lượng xuất khẩu hàng hóa có nguồn gốc từ sản phẩm nông nghiệp, từ đó thúc đẩy nông nghiệp phát triển, Những cơ hội việc làm mở rông cùng với tiền công hấp dẫn hơn tạo ra sự di chuyển lao động từ nông thôn đến đô thị, từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp. từ nơi thu nhập thấp đến nơi thu nhập cao, … tạo ra sự di động lao động trong xã hội nông thôn Việt Nam; Hoạt động xuất nhập khẩu mở rộng, hàng hóa Việt Nam có nhiều cơ hội hội nhập vào các thị trường trên các nước khác nhau, làm tăng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu, nhất là đối với những sản phẩm nước ta có ưu thế cạnh tranh (hàng nông sản, dệt may,…), nhất là ngành sử dụng nhiều lao động như nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu; Hội nhập WTO làm tăng đầu tư nuớc ngoài vào các lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp, sơ chế biến nông sản, mở mạng những vùng đất hoang hóa, kích thích những sản phẩm nông nghiệp độc đáo mà họ đang có thị trường. Nhờ đó, lao động nông nghiệp Việt Nam có thêm việc làm; người tiêu dùng có thêm những sản phẩm rẻ, tốt hơn do cạnh tranh; Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nông thôn nói riêng cần phải cơ cấu lại để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài,. Điều đó làm nảy sinh cơ hội cho những hoạt động trong khu vực nông nghiệp chuyển sang khu vực dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp; Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay tạo đà cho quá trình đô thị nông thôn nhanh; mặt khác thu hút nhiều lao động dư thừ từ khu vực sản xuất nông nghiệp sang khu vực sản xuất phi nông, dịch vụ, thương nghiệp, v.v. đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Việc hội nhập WTO tác động đến chính bản thân lĩnh vực nông nghiệp: Từ chỗ, nông nghiệp Việt Nam là một nền sản xuất quan trọng, các khu vực trọng yếu được đầu tư phát triển để tăng cường sự thâm nhập vào thị trường các nước thành viên. Hệ quả là làm tái cấu trúc hoạt động sản xuất nông nghiệp theo những hướng mũi nhọn nhằm phục vụ và đáp ứng tiêu dùng nội địa, cũng như xuất khẩu đáp ứng nhu cầu từ các nước thành viên khác; Để ổn định hoạt động lao động của mình, người lao động nông nghiệp Việt Nam phải thay đổi cách nghĩ, cách làm, thay đổi cách thức sản xuất nông nghiệp từ thói quen sản xuất thủ công, phân tán, manh mún sang cách thức sản xuất hàng hóa, có tính chuyên môn hoá cao. Để đáp ứng điều đó, hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đóng một vai trò quan trọng. Dịch vụ này cần được hoàn thiện để xứng tầm với đòi hỏi phát triển nông nghiệp; Để tham gia có hiệu quả trong sân chơi WTO, trong khu vực nông nghiệp diễn ra quá trình tất yếu nhằm cơ cấu lại lực lượng lao động nông nghiệp, nâng cao trình độ lao động trong khu vực nông nghiệp, bởi vì: các tập đoàn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp đem theo những công nghệ mới, kể cả những công nghệ cao, … lực lượng lao động nông nghiệp Việt Nam cần được đào tạo để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Lý do là giá thành sử dụng lao động tại chỗ rẻ hơn so với giá thuê lao động từ nước khác đến làm việc tại Việt Nam; Sự tăng lên của đầu tư và thương mại trong nông nghiệp, nông thôn tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngay trong sản xuất nông nghiệp: cơ cấu lại vùng nguyên liệu, vùng sản phẩm, vùng cây trồng chuyên, chăn nuôi chuyên theo hướng hàng hóa, v.v. làm cho định hình những khu vực sản xuất có tính chất quy mô lớn; Bản thân việc tổ chức sản xuất, quản lý hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng thay đổi: Những thể chế quản lý mới ra đời, như là những hiệp hội, những mô hình liên kết sản xuất làm ăn, những hợp tác xã, những doanh nghiệp, kinh tế trang trại, kinh tế tiểu chủ,doanh nghiệp tư nhân, v.v. . Các thể chế kinh tế nông nghiệp này định hướng hoạt động một cách có tổ chức theo cơ chế thị trường, v.v. Tất cả những thể chế này sẽ làm đa dạng hóa, và tạo ra đa dạng hóa các cung cách tổ chức hoạt động kinh tế nông nghiệp ở nông thôn. Vấn đề là cần tạo ra môi trường pháp lý để họ tự chủ trong hoạt động, cạnh tranh lành mạnh với các doanh nghiệp nước ngoài. KẾT LUẬN Từ những khảo cứu trên chúng tôi đi đến một vài kết luận sau: Việt Nam là thành thành viên WTO, địa vị ấy đã và đang làm thay đổi những định hướng trong chính sách phát triển nông nghiệp; thay đổi nhận thức của người dân tham gia sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung. Khi hoạch định chính sách nông nghiệp luôn đòi hỏi và tính đến những yêu cầu khắt khe của sân chơi WTO; Hiện diện một đòi hỏi khách quan đối với nông nghiệp là sự đầu tư toàn diện, nhất là công nghệ và kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi cho phù hợp với những yêu cầu thương mại quốc tế; Để phát triển hàng hóa mặc trưng cho sức mạnh của Việt Nam, một hướng tất yếu là phát triển ngành nghề thủ công nghiệp truyền thống, do đó, nông nghiệp Việt Nam sẽ có sự di động của một bộ phận người làm nông nghiệp sang hoạt động thủ công nghiệp và công nghiệp. Hệ quả là sẽ có sự chuyển dịch nhanh chóng lực lượng lao động nông nghiệp. Để bù đắp cho sự khiếm khuyết này, nhưng vẫn giữ vững sự tăng trưởng, phát triển của sản xuất nông nghiệp cần trang bị tri thức và chuyên môn kỹ thuật cho người nông dân. Đây là tất yếu quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực cho nông nghiệp Việt Nam. Là thành viên WTO, nông nghiệp Việt Nam đang dần dần quy hoạch phát triển theo hướng hàng hóa xuất khẩu, cũng như đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa cũng như xuất khẩu với nguyên tắc là đảm bảo sức cạnh tranh ngay trên “sân nhà”. Có thể nói, nông nghiệp Việt Nam đang phải gấp rút tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc té. Vào WTO, cơ chế tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Việt Nam luôn phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc nâng cao ý thức pháp lý, kỷ cương lao động của những người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là cần thiết, để tránh những vụ kiện như đã từng xảy ra trươc khi hội nhập vào tổ chức quốc tế này. Tư cách thành viên WTO làm thay đổi cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, đổi mới cả về chủng loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm do sản xuất nông nghiệp tạo ra. Điều đó phải được thể hiện trên nhãn, mác hàng hóa nông nghiệp, bởi nhãn mác hàng hóa là thước đo uy tín trên thương trường WTO Kiến nghị: Để nền sản xuất nông nghiệp nước ta ổn định và phát triển bền vững, việc hoạch định chính sách nông nghiệp của Chính phủ cần đáp ứng những đòi hỏi sau: Cần thực hiện chiến lược sản xuất theo mô hình và kinh nghiệm của Trung Quốc, nghĩa là theo phương thức "ly nông bất ly hương", xây dựng các "khu công nghiệp làng" gồm các xí nghiệp nhỏ và vừa, mô hình sản xuất hộ gia đình, các làng nghề truyền thống... nhằm rút lao động khỏi nông nghiệp, đồng thời đầu tư cả vốn và kỹ thuật cho nông nghiệp nhằm tăng sức cạnh tranh cho họ; Chính phủ cũng cấn có chính sách để đẩy nhanh cổ phần hóa một loạt các doanh nghiệp kém hiệu quả. Đối với những vùng nông thôn ở xa, tập trung vào việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo cách thức sản xuất hàng hóa, nâng cao tính cạnh tranh bằng cách quy hoạch lại quy mô các vùng sản xuất. Cần có chính sách cụ thể, mãnh liệt để chuyển hẳn sang sản xuất hàng hóa thay vì sản xuất nhỏ lẻ như hiện nay; Muốn làm được việc đó, vấn đề quan trọng là cần thông tin đầy đủ cho người dân về những thách thức và cơ hội khi Việt Nam là thành viên WTO để những người có năng lực và kiến thức sẽ chuyển đổi sang cây trồng, vật nuôi có lợi thế xuất khẩu mà ít được các nước bảo hộ hiện nay có được ( như cà phê, điều, ca cao, hồ tiêu... ) Hội nhập và gia nhập WTO sẽ mở rộng nhiều cơ hội cho người dân, doanh nghiệp. Vấn đề cơ bản đối với người nghèo là thiếu khả năng đón bắt và tận dụng các cơ hội đó. Bên cạnh nỗ lực bản thân của họ thì Nhà nước có vai trò rất quan trọng: Một là tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, qua đó các doanh nghiệp, nhất là trong khu vực tư nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo công ăn việc làm cho người nghèo. Hai là có những chính sách và biện pháp hỗ trợ thích hợp, bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ thiết yếu để giảm thiểu khả năng dễ bị tổn thương của các nhóm người nghèo. Ba là đầu tư vào đào tạo giáo dục (học vấn, nghề, kỹ thuật, v.v.) để nâng cao năng lực cho người nghèo. Cần tập trung xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam để đảm bảo uy tín và cạnh trạnh trên thị trường quốc tế. Cần tạo ra môi trường pháp lý thật thuận lợi để đảm bảo các thể chế kinh tế (đã có và sẽ ra đời) trong khu vực nông nghiệp, nông thôn tổ chức hoạt động nông nghiệp theo hướng cạnh tranh và có lợi nhất cho Việt Nam; Bản thân người nông dân tự mình và tự mỗi người cũng cần nhanh chóng hoà vào vòng xoáy của luật lệ mà WTO áp đặt. Muốn vậy, họ thành công hay không phụ thuộc vào chính sự nỗ lực của bản thân. Muốn họ ý thức được điều đó, công tác vận động, thôn tin, tuyên truyền về những khó khăn và thuận lợi, những cơ hội và thách thức,… đến từng người lao động trong khu vực nông nghiệp phải được đặt lên hàng đầu trong giai đoạn nước ta mới trở thành thành viên WTO này./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII.  tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. CHIẾN LƯỢC  PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2001 – 2010. Thứ sáu, 28/03/2008 ; Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia (Bộ KH và ĐT). Tác động của việc gia nhập WTO đến lao động nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội, tháng 6/2007; và Bộ NN và PT nông thôn. Các chương trình triển khai trong kế hoạch 5 năm 2006-2010. “Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam. Kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn Việt Nam năm 2006 tại 12 tỉnh”. NXB Thống kê. Hà Nội, tháng 8 năm 2007. ISG, Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Báo cáo chuyên đề : Phân tích chính sách nông nghiệp Việt Nam trong khuôn khổ WTO. ADB. Bộ Tài liệu tham luận : “Nâng cao hiệu quả thị trường cho người nghèo”. Hà Nội 2006. Tổng cục thống kê. Số liệu báo cáo thống kê các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, tháng 3/2008. ngày 19/06/2006“Những khuyến cáo của WB về nông thôn hậu WTO”. ày 09/06/2006. Thách thức đối với an ninh lương thực và đời sống nông dân. Đoàn Ngọc Bông (nguyên Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)). “Ai sướng nhất, ai khổ nhất khi vào WTO?”, ngày 17/06/2006, vi.wikipedia.org/wiki/Thểloại: Bộ_Nông_nghiệp_và_Phát_triển_Nông_thôn_Việt_Nam. Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch tháng 12 và ước cả năm 2007 Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bộ NN và PT Nông thôn. Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch tháng 3 và quý I năm 2008 Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Khi nông dân “chen chân” vào siêu thị, ngày 16/06/2006. ninh lương thực. Phạm Quang Diệu (Viện Kinh tế Nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp & PTNT). Chiến lược công nghiệp hoá lan toả - chuyển đổi nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp. Nghị định 66/2006/NĐ-CP Về phát triển ngành nghề nông thôn, ngày 07 tháng 7 năm 2006.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ TÁC ĐỘNG CỦA WTO.doc