Tiểu luận Nghiên cứu, khảo sát các cách giật tít trên báo mạng điện tử - Những ưu điểm và hạn chế

Báo mạng điện tử là một loại hình truyền thông đại chúng đang có xu hướng phát triển mạnh cùng với sự bùng nổ của Internet. Độc giả báo mạng thường không đọc mà chỉ “lướt mắt”. Trong các thành tố cấu tạo nên một tác phẩm báo chí thì tít (đầu đề) là một thành tố mà độc giả đọc trước tiên, nó quyết định số phận của bài báo rằng độc giả có tiếp tục đọc hay không. Giật tít trên báo điện tử đang đặt ra rất nhiều vấn đề đặc biệt là việc sử dụng ngôn ngữ. Đã có những lời cảnh báo về việc sử dụng ngôn ngữ thiếu chọn lọc, thiếu sáng tạo trên tít báo. Xuất hiện ngày càng nhiều ngôn từ được tác giả sử dụng trong tít báo rất rối rắm, khó hiểu, nhiều từ chuyên môn mà chỉ những người hoạt động trong lĩnh vực chuyên nghành mới có thể hiểu được Trên cơ sở đó, tiểu luận đi sâu vào nghiên cứu cách giật tít và ngôn ngữ sử dụng trên tít báo mạng, dựa trên sự khảo sát 25 tít đăng trên báo mạng Vietnamnet. Từ đó chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của mỗi cách giật tít làm cơ sở để tìm ra giải pháp khắc phục. Việc nghiên cứu ngôn ngữ sử dụng trên báo chí nói chung, trên tít báo nói riêng là bức thiết để làm tài liệu tham khảo cho những người viết báo, đặc biệt là phóng viên trẻ học cách giật tít và tránh những lỗi khi giật tít. Quá trình nghiên cứu sử dụng kết hợp nhiều phương pháp: khảo sát, nghiên cứu tài liệu, so sánh, MỤC LỤC MỞ ĐẦU NỘI DUNG Chương I: Những vấn đề cơ bản của tít báo 1. Khái niệm: 2. Vai trò và chức năng của tít: 3. Các loại tít: 4. Các dạng tít: 5. Đặc trưng của tít báo mạng điện tử: 6. Thủ thuật đặt tít: 7. Tiêu chí giật tít: 8. Những tiêu chí đánh giá một tít hay: 9. Một số chỉ dẫn khi viết tít: Chương II: Khảo sát cách đặt tít trên báo mạng 1. Khảo sát: 2. Nhận xét hiệu quả sử dụng của các chất liệu để đặt tít: 3. Vấn đề đặt ra và giải pháp giải quyết: KẾT LUẬN

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3518 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu, khảo sát các cách giật tít trên báo mạng điện tử - Những ưu điểm và hạn chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN Khoa Phát thanh – Truyền hình TIỂU LUẬN TIN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ Đề tài: Nghiên cứu, khảo sát các cách giật tít trên báo mạng điện tử, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế. MỞ ĐẦU Báo mạng điện tử là một loại hình truyền thông đại chúng đang có xu hướng phát triển mạnh cùng với sự bùng nổ của Internet. Độc giả báo mạng thường không đọc mà chỉ “lướt mắt”. Trong các thành tố cấu tạo nên một tác phẩm báo chí thì tít (đầu đề) là một thành tố mà độc giả đọc trước tiên, nó quyết định số phận của bài báo rằng độc giả có tiếp tục đọc hay không. Giật tít trên báo điện tử đang đặt ra rất nhiều vấn đề đặc biệt là việc sử dụng ngôn ngữ. Đã có những lời cảnh báo về việc sử dụng ngôn ngữ thiếu chọn lọc, thiếu sáng tạo trên tít báo. Xuất hiện ngày càng nhiều ngôn từ được tác giả sử dụng trong tít báo rất rối rắm, khó hiểu, nhiều từ chuyên môn mà chỉ những người hoạt động trong lĩnh vực chuyên nghành mới có thể hiểu được…Trên cơ sở đó, tiểu luận đi sâu vào nghiên cứu cách giật tít và ngôn ngữ sử dụng trên tít báo mạng, dựa trên sự khảo sát 25 tít đăng trên báo mạng Vietnamnet. Từ đó chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của mỗi cách giật tít làm cơ sở để tìm ra giải pháp khắc phục. Việc nghiên cứu ngôn ngữ sử dụng trên báo chí nói chung, trên tít báo nói riêng là bức thiết để làm tài liệu tham khảo cho những người viết báo, đặc biệt là phóng viên trẻ học cách giật tít và tránh những lỗi khi giật tít. Quá trình nghiên cứu sử dụng kết hợp nhiều phương pháp: khảo sát, nghiên cứu tài liệu, so sánh,… NỘI DUNG Chương I: Những vấn đề cơ bản của tít báo 1. Khái niệm: Tít (Đầu đề) là tên gọi của tác phẩm, là cơ sở để phân biệt bài báo này với bài báo khác, giúp người đọc dễ dàng xác định mức độ quan trọng của thông tin và chọn đọc. Có thể nói tít là câu quan trọng nhất trong một bài viết trên báo, dù là một tin ngắn hay một phóng sự. Tít cho độc giả biết chuyện gì đã xảy ra và vì sao độc giả phải quan tâm tới nó. Tít là phần độc giả đọc trước tiên. Nếu tít hay, độc giả có thể sẽ tiếp tục đọc bài báo. Nếu tít hỏng, toàn bộ bài báo công phu rất có thể sẽ bị bỏ qua. 2. Vai trò và chức năng của tít: a. Vai trò: Tít là cơ sở để phân biệt bài báo này với bài báo khác dù cùng viết về một đề tài. Tít xác định mức độ quan trọng của thông tin giúp độc giả lựa chọn đọc. b. Chức năng: Giảng viên Fabienne Gérault thuộc Đại học Báo chí Lille, Pháp, nêu lên sáu chức năng chủ yếu của tít: Thu hút sự chú ý vào trang giấy Cung cấp thông tin chính trong một cái liếc mắt Giúp độc giả lựa chọn bài Khiến độc giả muốn đọc Tổ chức trang Sắp xếp thông tin 3. Các loại tít: - Tít phụ: thường đóng vai trò định vị sự việc: chỉ rõ thời gian và địa điểm hoặc đưa ra miền thông tin. Đôi khi chỉ rút lại thành một từ. - Tít chính: trình bày chữ to, chứa đựng những từ khóa. - Tít nhỏ: bổ xung thông tin cho tít (như thế nào, tại sao). - Tóm tắt: liệt kê những nội dung quan trọng được xử lý trong bài báo hoặc trong chùm bài. 4. Các dạng tít: Có hai dạng tít cơ bản: a. Tít có tính thông tin: - Trả lời phần nào cho các câu hỏi đặt ra (chủ yếu là ai, cái gì). - Loại bỏ những câu rườm rà, những từ không cần thiết, những thông tin bổ sung. - Dựa vào những tít khác, nhất là tít lớn. - Có hai cách: chủ ngữ-động từ-bổ ngữ hoặc câu không động từ. Mỗi một cách đều có cái hay riêng. Kiểu đầu chỉ rõ hành động. Kiểu thứ hai cô đọng, nhấn mạnh từ khóa. b. Tít gợi: Tít gợi không đưa ra thông tin chính của bài báo, nhưng nêu ý nghĩa chung của nó bằng cách kích thích người ta đọc bài báo. Chúng ta thường thấy kiểu tít này trong các tạp chí. Khi thông điệp chính đã được xác định, chúng ta sẽ tìm một hình thức khơi gợi, một câu ngắn gọn. Có rất nhiều cách để viết tin gợi: dùng từ gây sốc, từ đa nghĩa, câu gợi trí tò mò, một điều khó tin, một chuyện buồn cười, một mẫu nhân cách hóa, lối chơi chữ, một câu nói quen thuộc được sửa đi, một công thức, một câu ngạn ngữ… Dùng hỗn hợp hai loại tít sẽ càng hiệu quả: vừa dùng tít lớn có tính thông tin, vừa dùng tít có tính gợi. 5. Đặc trưng của tít báo mạng điện tử: - Tít trên báo điện tử thường xuất hiện không gắn liền với ngữ cảnh: không như báo viết là bài nào thì đi liền với tít đó, các tít trên báo điện tử có thể dưới dạng một danh sách các bài báo, trong một danh mục của công cụ tìm kiếm, hoặc trong phần bookmark của một trình duyệt. Một số tình huống xảy ra hoàn toàn chẳng liên quan đến một ngữ cảnh nhất định nào. Chẳng hạn những mục hiện lên trên danh sách khi tìm kiếm trên các trang Google, Yahoo, Vinaseek có thể liên quan đến một chủ đề bất kỳ, vì thế người sử dụng không dễ hiểu được ngay các tít nếu không có kiến thức cơ bản về một lĩnh vực nào đó. - Ngay cả khi tít đi liền cùng với bài, khó khăn của việc đọc chữ trên màn hình khiến người sử dụng khó nắm bắt được vấn đề. Đối với báo in, tít gắn chặt với nội dung, các bức ảnh, các tiểu mục - cả tờ báo lại nằm trên tay – nên chỉ cần liếc qua cũng hiểu. Đối với báo điện tử, trên màn hình chỉ nhìn thấy một lượng thông tin giới hạn, khi đọc lại có cảm giác nhức mắt và không thoải mái. Vì thế khi lướt qua một danh mục các tin tức, ví dụ trên trang news.com chẳng hạn, người sử dụng thường chỉ nhìn vào những tít nổi bật nhất và bỏ qua hầu hết các phần tóm tắt. Do những khác biệt như vậy, phần tít phải có khả năng đứng độc lập và dễ hiểu mà không cần nhìn vào toàn bộ phần nội dung. Đương nhiên, người sử dụng có thể click vào tít đó để đọc cả bài, nhưng nếu tít nào cũng phải qua động tác này thì quá mất thời giờ. 6. Thủ thuật đặt tít: - Dùng thủ pháp khác thường: “Kỵ sĩ trên mái nhà” - Thủ pháp nghịch lý: “Những xác chết biết nói” - Thủ pháp trích dẫn: trích dẫn lời của các nhân vật phỏng vấn hoặc các nhân vật có uy tín xuất hiện trong bài viết. - Thủ pháp chơi chữ: “Thanh Hóa: đầu tư từ đâu?” - Thủ pháp nói bóng gió: “Vành móng ngựa…” - Thủ pháp nhân cách hóa: lấy đồ vật hay khái niệm để thay thế con người, nói về con người. - Thủ pháp nhại lại: nhại khéo lại tên sách, tên phim, tên bài hát thành ngữ tục ngữ,… 7. Tiêu chí giật tít: Một tít phải đảm bảo 4 yêu cầu sau: trung thực, chính xác, hấp dẫn và trình bày đẹp. Tình trung thực: Tít phải phản ánh trung thực nội dung và sắc thái của câu chuyện và phải phù hợp với ảnh hoặc đồ họa kèm bài. Bài viết về vấn đề gì và mào đầu của bài viết như thế nào? Lấy ý tưởng từ mào đầu (vấn đề chính của câu chuyện) để viết tít nhưng không đơn thuần sao chép lại mào đầu. Đây là một câu chuyện vui, buồn, nghiêm túc hay nhẹ nhàng? Câu chuyện về một cá nhân hay là tin về một chính sách của chính phủ? Đây là tin thời sự hay một bài? Hãy cố gắng viết tít đúng với sắc thái của câu chuyện và tính chất của bài viết. Nếu có ảnh hoặc đồ họa kèm bài, phải đảm bảo rằng tít phản ánh đúng nội dung ảnh và đồ họa. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp có ảnh kèm bài vì các kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết độc giả sẽ nhìn ảnh trước tiên khi đọc trang báo. Sau đó họ đọc tít và rồi mới bắt đầu đọc bài báo. Nếu bài có tít phụ thì tít phụ phải phù hợp với tít chính và cùng sắc thái với tít chính, dù nội dung của tít chính và phụ hoàn toàn khác nhau. Chính xác: Tít phải chính xác. Chính xác ở đây bao hàm cả về nội dung, chính tả, ngữ pháp… Nếu tít của bài báo sai, độc giả sẽ nghĩ rằng toàn bộ bài báo cũng sai. Trước hết, phải đảm bảo chắc chắn rằng nội dung của tít là chính xác. Ngày tháng, số liệu, sự kiện, tên người… phải chính xác tuyệt đối như thông tin nêu trong bài. Hấp dẫn: Tít phải thu hút được độc giả, làm họ muốn đọc bài viết, vì vậy hãy dùng ngôn từ sắc sảo và hấp dẫn. Lựa chọn từ ngữ cho tít là vấn đề đóng vai trò quyết định trong việc thu hút độc giả đọc bài viết đó. Vì số lượng từ dành cho tít không nhiều, phải đảm bảo từng từ đều đáng giá. Khi bạn đọc bài viết, hãy viết ra những từ có thể dùng cho tít. Vì chỗ trên trang báo dành cho tít rất hạn chế nên phải tiết kiệm từ. Tránh dùng hai từ khi có thể dùng một từ. Các nhà báo cũng thường có xu hướng dùng những từ bóng bảy để gây ấn tượng cho độc giả. Cần tránh dùng từ bóng bảy khi có thể dùng từ đơn giản mà hiệu quả vẫn vậy. Trên thực tế, hầu hết độc giả là những người bình thường và bận rộn, họ muốn đọc ngôn từ đơn giản, dễ hiểu và không phải mất thời gian để nghĩ về chúng. Hình thức đẹp: Tít phải vừa vặn với khoảng trống dành cho tít trên trang báo, không được nén hoặc dãn chữ. Tít trông phải đẹp mắt và hợp với các tít khác trên trang báo và các tít phụ. Cần biết tít của bạn sẽ được dành bao nhiêu chỗ trên trang báo và hãy viết tít vừa vặn với khoảng trống đó. Đừng co hoặc kéo dãn chữ trên tít cho vừa với khoảng trống và phải biết rõ chỗ ngắt dòng là ở đâu (đối với đầu đề dài 2, 3 dòng), vì đôi khi ngắt dòng không đúng từ sẽ làm tít rất khó đọc. 8. Những tiêu chí đánh giá một tít hay: - Sáng sủa, dễ hiểu: dùng từ đơn giản, cụ thể, không viết tắt. - Ngắn, mạnh, trực tiếp: loại bỏ những chi tiết phụ, rườm rà. Đi thẳng vào vấn đề chính, dùng từ mạnh, liên quan đến bài, không dùng tính từ, trạng từ, dùng câu thể chủ động, khẳng định. Có thể bỏ qua động từ. Tránh dùng dấu chấm than vì nó không thay thế được những từ mạnh. - Chính xác, trung thực. Không thay thế nội dung bằng hình thức. Không nói quá. - Thích hợp, độc đáo: một tít chỉ được dùng cho một bài báo. Tít là riêng biệt. - Phù hợp với thể loại: tít phải phù hợp với bài báo, với giọng điệu của nó, với phong cách, với thể loại báo chí. Dùng trích dẫn đối với thể loại phỏng vấn, điều mắt thấy tai nghe với thể loại phóng sự hay công thức với xã luận. 9. Một số chỉ dẫn khi viết tít: Phần lớn người đọc chỉ quan tâm đến những tin bài mà họ cảm thấy có thể làm cho cuộc sống của họ thêm thú vị. Do đó trạng thái tâm lý của người đọc là điều mà phóng viên cần lưu ý khi đặt tít: - Thích cái mới: người đọc luôn dị ứng với một lời kêu gọi quá cũ mặc dù nó hoàn toàn đúng, một ý kiến cũ không bao giờ có thể tạo ra được một thái độ mới. - Thích cái lạ: người đọc thường chú ý tới những ý kiến, chi tiết độc đáo, sâu sắc hơn là những ý kiến chung chung, đúng đắn nhưng vô thưởng vô phạt, ghét những ngôn ngữ thô sơ, gây nhàm chán. - Người đọc thích tự phát hiện, ghét bị lên lớp vì vậy nhà báo không nên áp đặt quan điểm lộ liễu của mình ở ngay trên tít, tránh dùng những từ ngữ như cần, nên, thiết nghĩ, phải chăng,… - Thích tư duy lạc quan, hướng lên phía trước. Vì vậy nhà báo không được tỏ ra cao hơn độc giả: không dùng từ ngữ chuyên môn, nên nhớ là không phải cái gì mình biết thì độc giả cũng biết, thông tin nào người đọc thấy khó hiểu là họ bỏ qua ngay. Nên chọn ra vấn đề chính trong thông điệp: một tít hay là phần cốt yếu trong thông điệp này. Khi đã viết xong bài báo, cần đặt câu hỏi: mình cần nói điều gì với độc giả? Trước hay sau khi viết bài? Có những khi chúng ta tìm ra ngay được tít trước khi viết bài. Nhưng thông thường phải viết xong bài mới đến công đoạn tìm tít. Giải thích rõ ràng nội dung của bài báo bằng những ngôn từ gần gũi với người sử dụng. Tít phải là phần tóm lược cực ngắn của nội dung liên quan. Tránh dùng các câu sáo rỗng. Nên nhớ độc giả không hề quan tâm tới trình độ sử dụng ngôn ngữ của phóng viên mà họ quan tâm tới bản thân tin tức. Tránh chơi chữ, vì nó có thể phản tác dụng, đặc biệt đối với các đầu đề tin (đối với bài, hoặc một số phóng sự đặc biệt thì có thể chơi chữ). Nhưng nếu muốn chơi chữ thì phải đảm bảo dùng đúng cách. Hãy độc đáo khi dùng từ. Có một số từ thường được báo chí sử dụng quá nhiều trong tít. Nên tránh dùng những từ như vậy thì tít sẽ độc đáo hơn. Nên tránh dùng các từ viết tắt và nhiều dấu chấm, phẩy trong tít vì trông rối mắt và khó hiểu. Dùng động từ chủ động thay vì bị động. Điều này giúp tít ngắn gọn hơn và mạnh hơn. Viết đơn giản và đảm bảo rằng tít có nghĩa rõ ràng. Tránh đưa những thông tin phức tạp và các con số không cần thiết vào tít. Đừng phóng đại sự hấp dẫn để lôi kéo mọi người nhấn chuột nhằm tìm hiểu nội dung bài viết. Người sử dụng quá ngấy với cái trò đánh lừa này và rất khó chịu khi mất thời gian chờ download một trang web để rồi nhận ra đó không phải cái mà họ muốn. Trên báo in, sự tò mò có thể khiến người ta lật trang hoặc bắt đầu đọc một bài bái. Trên báo điện tử, nó sẽ làm người ta… phát điên. Trong khi cố gắng diễn tả đầy đủ nội dung, đừng quên là tít càng ngắn thì càng dễ đọc. Cố dùng những động từ, tính từ có thể giảm bớt giới từ kèm theo. Nên lưu ý một chi tiết “nhỏ mà không nhỏ” là khi người sử dụng các công cụ tìm kiếm thì tin tức sẽ xếp theo thứ tự chữ cái A, B, C. Tít tiếng Anh thì có thể bị mắc sai lầm vớ vẩn và bị tụt xuống cuối bảng vì có mạo từ “the” lên đầu câu. Tiếng Việt thì không có những từ kiểu này nhưng vẫn nên lưu ý thủ thuật nhỏ là đổi từ nếu có thể để tin “lên hàng” một chút. Từ đầu tiên nên là từ quan trọng nhất và mang nhiều thông tin nhất. Nó có lợi khi xếp “chỗ tốt” vị trí trong danh mục tìm kiếm và khi người sử dụng nhìn sẽ thấy dễ hơn. Chẳng hạn bắt đầu bằng tên công ty, tên người hay vấn đề được đề cập trong bài viết. Chớ đặt mấy tít liền bằng cùng một chữ, vì như thế khó nhận rõ sự khác biết khi lướt qua một danh mục. Nhờ đồng nghiệp góp ý kiến và nghiêm túc tiếp thu ý kiến của họ. Nếu họ thấy rằng tít bài rất hay nhưng chẳng có nghĩa gì thì nhiều khả năng độc giả cũng cảm thấy như vậy. Chương II: Khảo sát cách đặt tít trên báo mạng 1. Khảo sát: Khảo sát 25 tít trên báo mạng điện tử Vietnamnet (từ T2/2008 đến T5/2009): chỉ ra chất liệu sử dụng để đặt tít, nhận xét hiệu quả và nhược điểm của các cách sử dụng. STT TÍT CHẤT LIỆU SỬ DỤNG NHẬN XÉT 1 Cờ bạc, "sex show" - khi nào vào khuôn khổ? (Bùi Dũng – 04/02/2008) - Sử dụng từ tiếng anh: sex show - Sử dụng câu hỏi nghi vấn. - sex show là một từ ghép không có trong từ điển từ ghép tiếng anh. Từ ghép này ít được sử dụng bởi lẽ show có nghĩa là màn trình diễn, sự khoe khoang, phô trương, còn sex hiểu theo nghĩa danh từ có nghĩa là giới, giống, quan hệ tình dục. Show thường kết hợp với các từ như live show, game show, show room,.. chứ chưa thấy kết hợp sex show. - Việc sử dụng từ sex show trong tít này chưa phù hợp với quy luật từ ghép tiếng anh, vừa gây phản cảm với người đọc, cảm giác như tác giả đang học đòi dùng tiếng anh. Trong bài viết tác giả cũng không dành không gian để giải thích sex show có nghĩa là gì. Thông tin từ bài báo ta có thể hiểu sex show theo nhiều cách: hoạt động mại dâm, những buổi biểu diễn khoe cơ thể. Nên dùng từ thuần Việt thay thế vừa dễ hiểu vừa phù hợp với từ cờ bạc đã có trong tít: Cờ bạc, mại dâm - khi nào vào khuôn khổ? 2 "Vote for Vietnam" rồi... suy nghĩ (Phạm Hoàng Hải – 16/02/2008) - Sử dụng từ tiếng anh: vote for Vietnam - Dùng dấu chấm lửng - Vote for Vietnam là một cụm từ tiếng Anh có nghĩa là bầu chọn cho Việt Nam. - Dùng từ tiếng anh trong tít này là khá hợp lý vì việc bầu chọn Hạ Long là một trong các kỳ quan thiên nhiên của thế giới được thực hiện trên mạng và ngôn ngữ là tiếng anh, trong bài viết tác giả cũng đã giải thích ý nghĩa của cụm từ này sang tiếng việt. - Dấu chấm lửng dùng để nhấn mạnh từ “suy nghĩ”, thu hút độc giả vào từ này. Độc giả sẽ tò mò tại sao bầu chọn xong rồi lại phải suy nghĩ, suy nghĩ vấn đề gì, từ đó sẽ chú ý đọc nội dung bài báo. 3 DNNN VN không thể áp dụng mô hình chaebol Hàn Quốc (Phương Loan – 28/03/2008) - Sử dụng từ viết tắt - Sử dụng thuật ngữ chuyên ngành: chaebol - DNNN VN là viết tắt của cụm từ Doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam. Cụm từ viết tắt này không khó đoán nghĩa nhưng sử dụng từ viết tắt quá dài trên tít cũng gây phản cảm cho độc giả. Trong bài viết tác giả cũng không giải thích DNNN VN là viết tắt của cụm từ nào. - Chaebol là một mô hình tập đoàn kinh tế của Hàn Quốc. Trong bài viết, tác giả chỉ đề cập đến mô hình chaebol mà không giải thích mô hình đó là gì, kết cấu như thế nào. Vì vậy đọc xong cả bài báo mà độc giả vẫn chưa hình dung ra được mô hình chaebol như thế nào. - Đọc cả bài báo ta còn nhận thấy tít chính và tít phụ (tít xen) giống hệt nhau. Điều bất hợp lý nữa là hai tít này chỉ cách nhau một câu văn (sapo). 4 WB: VN không có thành tố của khủng hoảng tài chính (Phương Loan – 03/06/2008) - Sử dụng từ viết tắt: WB:VN - WB là viết tắt của hai từ World Bank (Ngân hàng Thế Giới). - VN là viết tắt của hai từ Việt Nam. - VN người đọc có thể đoán ngay ra nghĩa là Việt Nam, nhưng WB là từ viết tắt tiếng Anh rất ít người có thể đoán ra nghĩa. Vậy mà tác giả mặc nhiên nghĩ rằng ai cũng biết đến từ này nên trong bài viết vẫn tiếp tục viết tắt như vậy mà không hề có sự giải thích nghĩa. - Sử dụng hai cụm từ viết tắt liên tiếp, WB là từ viết tắt tiếng Anh làm cho tít báo không rõ ràng về mặt thông tin, hình thức không thu hút được sự chú ý của độc giả. 5 Sau "bùng nổ" hoa hậu là gì...? (Bùi Dũng – 25/06/2008) - Sử dụng dấu ngoặc kép, dấu chấm lửng và dấu hỏi. - Dấu ngoặc kép dùng để nhấn mạnh từ, muốn người đọc chú ý tới từ trong ngoặc “bùng nổ”. - Dấu chấm lửng gây sự chờ đợi, rằng câu hỏi sẽ được trả lời ở trong bài viết. Đồng thời dấu chấm lửng cũng thể hiện là sự việc được đề cập vẫn chưa kết thúc. - Tít cho độc giả biết vấn đề bài viết đề cập: chúng ta có gì sau những cuộc thi sắc đẹp. Tuy nhiên câu hỏi này chưa được trả lời ngay mà độc giả phải tự khám phá trong bài viết. Tít này sẽ thu hút những độc giả có tính tò mò, muốn khám phá, có nhiều thời gian đọc báo, những người cần nắm bắt thông tin nhanh, thông tin nóng rất dễ bỏ qua. 6 Không thể “vơ đũa cả nắm” giáo sư (Nguyễn Thành Lập – 29/08/2008) Sử dụng thành ngữ: vơ đũa cả nắm - Vơ đũa cả nắm là thành ngữ dùng để ví thái độ đánh giá xô bồ, coi tất cả như nhau, không phân biệt người tốt với người xấu, việc hay với việc dở. - Đây là bài báo phản hồi của độc giả tới Vietnamnet về cách đặt vấn đề “Giáo sư của ta thực tế chỉ là…danh” đăng trên báo Khuyến học và Dân trí số ra ngày 17/08/2008. Đọc tít báo ta có thể hiểu ngay quan điểm của người viết: không đồng ý với ý kiến “giáo sư của ta chỉ là danh”, phê phán thái độ đánh giá của bài báo trên là phiến diện, đồng thời độc giả này đưa ra quan điểm: vẫn có nhiều giáo sư thực thụ. 7 Sao phải "cố đấm ăn xôi"? (Bùi Dũng – 19/10/2008) - Sử dụng thành ngữ: cố đấm ăn xôi - Sử dụng câu hỏi nghi vấn - Cố đấm ăn xôi là thành ngữ dùng để chỉ sự bảo thủ, cố nhẫn nhục, chịu đựng để theo đuổi, hi vọng điều gì đó dù biết rằng đó là việc làm không hiệu quả. - Câu hỏi nghi vấn kết hợp với thành ngữ gây sự tò mò cho độc giả: ai “cố đấm ăn xôi”? tại sao lại phải như vậy? Độc giả tự trả lời câu hỏi bằng cách đọc nội dung bài báo. Đây là một cách khá hiệu quả để thu hút sự quan tâm của độc giả tới nội dung bài báo. 8 Xây TTTM 19-12: "Báo chí nói, chúng tôi mới biết"! (Linh Thủy – Phương Loan) – 17/12/2008 - Sử dụng từ viết tắt TTTM. - Sử dụng trích dẫn - Câu cảm thán - TTTM là từ viết tắt của cụm từ Trung tâm Thương mại. - Câu trích dẫn không biết là phát biểu của ai nên gây sự tò mò cho độc giả. - Trong bài báo đây là lời phát biểu từ HĐND thành phố Hà Nội. Câu cảm thán thể hiện sự phê phán điều mâu thuẫn trong lời phát biểu này. HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định những vấn đề quan trọng, phê duyệt, tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch ở địa phương. Vậy mà HĐND lại phát biểu việc xây dựng TTTM 19-12: “Báo chí nói, chúng tôi mới biết”. Đây là một dự án lớn và mang tầm quốc gia mà HĐND không biết thì thật là phi lý. 9 Gói kích cầu: Đừng để "nước chảy chỗ trũng" (Hương Lan – 19/12/2008) - Sử dụng thành ngữ: nước chảy chỗ trũng. - Nước chảy chỗ trũng là câu thành ngữ dùng để chỉ hiện tượng của cải, lợi lộc cứ dễ dàng vào tay kẻ giàu có (tựa như nước bao giờ cũng chảy vào và đọng lại ở chỗ trũng). - Tít báo cung cấp cho ta thông tin và thể hiện thái độ của tác giả: mong muốn sự minh bạch, công bằng giữa các doanh nghiệp, tránh tình trạng tiền lại rót về các doanh nghiệp nhà nước vốn đã được ưu đãi nhiều khi thực hiện gói kích cầu của chính phủ. 10 "Mật" và "không mật" (TS Nguyễn Ngọc Điện – 27/12/2008) - Sử dụng dấu ngoặc kép - Dấu ngoặc kép dùng để nhấn mạnh từ ngữ, gây sự chú ý cho độc giả. Tuy nhiên đọc xong tít báo độc giả chưa thể biết được nội dung bài báo đề cập đến vấn đề gì. Tít này chỉ thu hút được những người có trí tò mò, còn những người ít thời gian, muốn nắm bắt ngay thông tin thì sẽ bỏ qua. 11 "Sao" Việt với paparazzi: Không hớ hênh thì việc gì phải ngán! (Bùi Dũng – 31/12/2008) - Sử dụng tiếng Italya: paparazzi - Sử dụng dấu ngoặc kép - Câu cảm thán - paparazzi là từ tiếng Ý có nghĩa tiếng việt là các tay nhiếp ảnh của các tờ báo. Đây là một từ được sử dụng khá phổ biến trên báo chí, người đọc dễ dàng hiểu được nghĩa, nghĩa thông dụng nhất là: người săn ảnh. - Dấu ngoặc kép dùng để nhấn mạnh từ “sao” và muốn người đọc hiểu từ này theo nghĩa khác: không phải là ngôi sao mà là người nổi tiếng. Tuy nhiên đây là một từ rất phổ biến, được nhiều người dùng nên không nhất thiết phải để trong dấu ngoặc kép mọi người vẫn hiểu được nghĩa của từ. - Câu cảm thán tựa như lời phát biểu của nhân vật xuất hiện trong bài viết nên tạo ra sự khách quan (không phải ý kiến của người viết mà là ý kiến của người trong cuộc) 12 Những "hot boys", "hot girls" tại Oscar 2009 (Sao Linh – 23/02/2009) Sử dụng tiếng anh để đặt tít: hot boys, hot girls - Hot boy và hot girl là những từ tiếng anh được sử dụng rất phổ biến trên các trang báo, có nghĩa là những chàng trai, cô gái nổi tiếng trong một lĩnh vực nào đó, thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều người. - Hot boys và hot girls trong tít bài báo này dùng để chỉ những nghệ sĩ nổi tiếng đến dự lễ trao giải Oscar 2009. - Ở đây tác giả Sao Linh chưa dùng đúng từ bởi lẽ hot boys, hot girls ở dạng số nhiều, đã là những chàng trai, cô gái. Vì vậy việc xuất hiện từ “những” ở đầu câu là thừa. 13 Thứ trưởng Lê Tiến Thọ: Đây là một đề án... "nhạy cảm" (Khánh Linh – 23/02/2009) - Sử dụng dấu ngoặc kép và dấu chấm lửng. - Dấu ngoặc kép để nhấn mạnh từ ngữ trong ngoặc, muốn người đọc chú ý tới từ này. - Dấu chấm lửng gây sự chờ đợi, mục đích cũng để nhấn mạnh đến từ ngữ dùng sau dấu chấm lửng. - Tít gây sự tò mò cho người đọc: đề án này đề cập đến cái gì, tại sao lại nhạy cảm,…Lời phát biểu của một thứ trưởng cũng gây được sự quan tâm của độc giả. 14 Họ đang gìn giữ hay đang phá hoại (?) (Hạnh Nguyên – 27/02/2009) - Sử dụng dấu hỏi trong ngoặc đơn - Dấu hỏi trong ngoặc đơn vừa thể hiện sự nghi ngờ, vừa thể hiện thái độ châm biếm của tác giả. - Một tít gợi mở với dấu hỏi trong ngoặc đơn là cách tạo ra sự chú ý cho độc giả, là một biện pháp để bộc lộ quan điểm của tác giả và làm câu văn thêm sắc sảo, hấp dẫn. 15 Khủng hoảng, bi kịch khi không tiền và... có tiền (Bùi Dũng – 15/03/2009) - Sử dụng dấu phẩy và dấu chấm lửng - Dấu phẩy dùng để tách ý: khủng hoảng là chủ thể của vấn đề được đề cập, bi kịch khi không tiền và …có tiền là phạm vi vấn đề. - Dấu chấm lửng dùng để nhấn mạnh đến từ đứng sau dấu chấm lửng: có tiền - Đọc tít ta có thể xác định vấn đề bài báo đề cập là bi kịch của những người nghèo và người giàu trong cơn bão khủng hoảng trong đó tập trung vào bi kịch của người giàu. Khi đọc nội dung bài báo thì không khớp với tít bởi nội dung bài báo giới thiệu hai vở kịch kinh điển được viết cách đây nửa thế kỷ có liên quan đến các cuộc khủng hoảng. Sự không hài hòa giữa tít và nội dung bài báo sẽ tạo cho độc giả cảm giác bị đánh lừa. 16 "Hot girl" bị bêu xấu trên diễn đàn trường (Ngọc Khanh – 15/03/2009) - Dùng từ tiếng anh: hot girl - Hot girl là từ tiếng anh xuất hiện nhiều trên các trang báo đặc biệt là mục giải trí dùng để chỉ những cô gái có cá tính, gây được sự chú ý của mọi người. - Tâm lý của độc giả là thường chú ý tới người nối tiếng vì vậy cách đặt tít này khá hiệu quả, kích thích sự tò mò của người đọc: hot girl nào bị bêu xấu trên diễn đàn trường? và muốn biết câu trả lời thì đương nhiên độc giả sẽ đọc nội dung bài báo. 17 Sĩ tử cũng… sống thử (Cẩm Quyên – Lê Hoàng) – 05/04/2009 - Sử dụng dấu chấm lửng - Dấu chấm lửng gây sự chờ đợi, nhấn mạnh tớ từ đặt sau dấu chấm lửng đó là sống thử. - Tít cung cấp đầy đủ thông tin được đề cập trong bài viết đó là hiện tượng sống thử ở một bộ phận học sinh lên các thành phố lớn ôn thi đại học. Mặc dù đang phải tập trung cho kỳ thi vẫn có thể sống thử. Sống thử trong sinh viên, người đi làm trước khi kết hôn là hiện tượng không mới nhưng sống thử với đối tượng đang ôn thi đại học lại là vấn đề mới. Sự mới mẻ sẽ thu hút sự quan tâm của độc giả 18 "Teen" Hà Nội sôi nổi chữ "x" trên diễn đàn trường (Ngọc Khanh – 18/04/2009) Sử dụng từ tiếng anh: teen Sử dụng ký hiệu thay thế: chữ “x” - Teen (các thanh thiếu niên có độ tuổi từ 13 đến 19) là một từ tiếng anh được sử dụng rất nhiều trên mặt báo. - xxx là ký hiệu có ý nghĩa là quan hệ tình dục. - Cách sử dụng từ tiếng anh và ký hiệu thay thế giúp giảm đáng kể ký tự cho tít, tít ngắn gọn hơn. - Tuy nhiên trong bài viết tác giả chưa giải thích ý nghĩa của ký hiệu xxx (không phải bất cứ độc giả nào cũng hiểu được ý nghĩa của kí hiệu này) - Teen là một từ tiếng anh rất phổ biến và hâu như mọi độc giả đọc đều hiểu vì vậy việc để chữ teen trong ngoặc kép là không cần thiết (chỉ cho vào ngoặc kép với những từ cổ, lâu không được sử dụng hoặc sử dụng từ đó với nghĩa khác) 19 Các "nạn nhân" của Anti-fans nói gì? (Vĩnh Khang – 22/04/2009) - Sử dụng từ tiếng anh: Anti-fans - Tít câu hỏi - fan (người hâm mộ) là một từ tiếng anh không mới và được sử dụng khá rộng rãi trên báo chí. Tuy nhiên anti-fan (người ghét, phản đối) là một từ khá lạ đối với độc giả. - Việc sử dụng từ anti-fan làm cho tít ngắn hơn, tuy nhiên sẽ gây khó chịu cho những độc giả có vốn tiếng anh hạn hẹp, không hiểu nghĩa của từ này. Khi đọc vào bài báo, tác giả quên không giải thích rõ nghĩa của từ anti-fans. 20 Loay hoay "make up" hồ sơ (Như Quỳnh – 25/04/2009) - Sử dụng từ tiếng anh: make up - Make up là từ tiếng anh rất đa nghĩa, trong trường hợp này có nghĩa là hoàn chỉnh, tô vẽ hồ sơ. - Cách sử dụng từ tiếng anh khiến cho tít nghe khá lạ, tuy nhiên make up là một từ đa nghĩa, rất ít người hiểu hết các nghĩa của nó vì vậy sẽ gây khó hiểu cho độc giả, độc giả sẽ cảm thấy khó chịu và giảm sự thu hút đối với bài báo. Có thể thay thế từ make up bằng những từ thuần Việt như: soạn, thiết kế, trình bày,… 21 Phản biện hay "tát nước theo mưa"? (Thái Nam – 26/04/2009) - Sử dụng thành ngữ: tát nước theo mưa - Câu hỏi nghi vấn - Tát nước theo mưa là thành ngữ dùng để chỉ hành động lợi dụng cơ hội để làm việc kiếm lợi. - Sự kết hợp giữa thành ngữ và câu hỏi nghi vấn tạo nên một cái tít hấp dẫn, gợi mở: phản biện hay lợi dụng phản biện để đạt mục đích khác. Độc giả cũng tò mò muốn biết: phản biện cái gì, ai phản biện, ai nhận phản biện,…từ đó sẽ thu hút độc giả vào đọc nội dung tác phẩm. 22 NSND Lê Hùng: “Nếu giỏi thì cứ lobby đi” (Tuấn Hải – 07/05/2009) - Sử dụng từ tiếng anh dùng cho chuyên ngành: lobby - Trích dẫn câu nói của người nổi tiếng trong ngành. - Lobby là từ tiếng anh rất đa nghĩa rất ít người biết đến. Trong trường hợp này có nghĩa là vận động hành lang, thực hiện những chiến dịch thu hút sự chú ý của mọi người. - Tác giải bài báo sử dụng một từ tiếng anh đa nghĩa ở tít báo nhưng sau đó lại không có sự giải thích ở trong bài viết. Đọc cả bài báo mà độc giả vẫn chưa hiểu được lobby nghĩa là gì. - Tít có trích dẫn lời của nhân vật NSND Lê Hùng nhưng trong bài viết không giới thiệu rõ về nhân vật này, làm việc ở đâu, có chức vụ gì. Trong khi không phải bất cứ ai cũng nắm được thông tin về nhân vật này. Thông tin từ bài báo chỉ biết Lê Hùng là một đạo diễn có liên quan đến đề án “100 vở kịch kinh điển” do Nhà hát tuổi trẻ đề xuất. 23 Văn hóa phương Tây với chiến lược "mưa dầm thấm lâu" (Bùi Dũng – 17/05/2009) Sử dụng thành ngữ: mưa dầm thấm lâu - Thành ngữ mưa dầm thấm lâu ý nói là làm một việc gì dù khó khăn nhưng kiên trì thì sẽ thành công. - Đọc tít báo ta có thể hiểu ngay được là Phương Tây đang tuyên truyền cho văn hóa của họ bằng những chương trình có quy mô nhỏ nhưng diễn ra trong thời gian dài, được tổ chức nhiều lần qua các năm từ đó sẽ đạt được hiệu quả tuyên truyền. 24 Hồ Tây và bốn nguy cơ… (Minh Luận – 20/05/2009) Sử dụng dấu ba chấm Dấu chấm lửng có chức năng là gây sự chờ đợi. Hồ Tây và bốn nguy cơ… tạo cho người đọc tò mò muốn biết đó là những nguy cơ nào từ đó kéo người đọc vào nội dung bài báo. 25 Hàng không "khóc dở, mếu dở" với khủng hoảng (Hà Yên – 20/05/2009) Sử dụng thành ngữ: khóc dở mếu dở - Thành ngữ khóc dở mếu dở có nghĩa là lâm vào tình trạng oái oăm, không biết giải quyết thế nào. - Đọc tít báo ta có thể hiểu ngay là các hãng hàng không đang lâm vào tình trạng oái oăm và chưa tìm ra biện pháp giải quyết trước cơn bão khủng hoảng. - Việc sử dụng thành ngữ trong tít đã tạo nên sự gần gũi với độc giả, thu hút độc giả vào bài báo. 2. Nhận xét hiệu quả sử dụng của các chất liệu để đặt tít: a. Sử dụng thành ngữ tục ngữ: Thành ngữ, tục ngữ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ cho tít báo. Hiệu quả này chỉ có được khi nhà báo biết khai thác vận dụng thành ngữ, tục ngữ một cách linh hoạt, tức là phải biết lựa chọn một cách thông minh để có thể vận dụng thành ngữ, tục ngữ vào quá trình sáng tạo tác phẩm báo chí. Thành ngữ, tục ngữ là thể loại văn học truyền miệng được cô đúc từ nhiều thế hệ, nó là sản phẩm kết tinh của sự thông minh và minh triết của dân gian ngàn đời chính vì vậy mà thành ngữ, tục ngữ có tính dân tộc, đại chúng và tính biểu cảm rất cao. Để tạo nên hiệu quả thẩm mỹ, để khảm vào trí nhớ bạn đọc những thông tin nóng hổi, bất kỳ nhà báo nào cũng nên có ý thức sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong quá trình sáng tạo tác phẩm của mình, đặc biệt là trong việc đặt tên cho tác phẩm. Bằng vốn thành ngữ, tục ngữ phong phú và biết vận dụng chúng một cách linh hoạt, các nhà báo có thể rút tít rất nhanh, rất trúng chủ đề và tạo nên sự đồng thuận của dư luận, bởi bản thân những thành ngữ, tục ngữ này đã chứa đựng tính chân lý vì vậy bài báo có thể dễ dàng thuyết phục người đọc. Nhờ những câu tục ngữ, thành ngữ mỗi bài báo đã có thêm sức nặng và trở nên rất gần gũi với người đọc, chúng có khả năng biến những câu văn thông tấn vốn xa lạ ,không chỉ thành văn chương Việt, mà còn trở thành văn hoá Việt. Thành ngữ tục ngữ giúp cho ngôn ngữ báo chí trút bỏ những áo mũ cân đai, trở nên sinh động biến ảo giữa đời thường và có khả năng diễn đạt tối ưu những thông tin mà người viết muốn gửi gắm. Như vậy do khả năng khái quát cao của thành ngữ, tục ngữ mà thông tin trong tác phẩm báo chí thường được chuyển tải một cách hiệu quả: nhanh nhất, sâu sắc nhất, giàu giá trị biểu cảm và có lẽ cũng ngắn gọn giản dị dễ nhớ nhất; làm cho thông tin trong tít báo thường được trình bày không chỉ đúng mà còn hay, có khả năng thuyết phục người đọc. Những ưu thế này của tục ngữ, thành ngữ đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu của báo chí hiện đại- một loại hình thông tin đại chúng ở thời đại công nghệ thông tin. b. Từ tiếng Anh : Các từ tiếng Anh xuất hiện trên tít báo ngày càng nhiều. Một số từ phổ biến, nếu được sử dụng một cách sáng tạo và hợp văn cảnh thì sẽ tạo cảm giác mới mẻ cho độc giả, giảm lượng ký tự cho tít báo (một số từ tiếng Anh dùng thay thế cho tiếng Việt sẽ ít ký tự hơn) giúp tít ngắn gọn, dễ trình bày hơn. Tuy nhiên việc sử dụng tràn lan và không chính xác ngôn ngữ nước ngoài đặc biệt là tiếng Anh trên các tít báo thường tạo ra hiệu quả không tốt. Không phải độc giả nào cũng có vốn tiếng Anh tốt vì vậy khi gặp ngôn ngữ mình không hiểu xuất hiện ngay trên tít báo sẽ tạo ra cảm giác khó chịu, độc giả thấy như mình đang bị đánh đố và bài báo rất dễ bị bỏ qua. Dùng tiếng Anh pha tạp tiếng Việt trên tít báo cũng làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Các nhà báo nên hạn chế sử dụng từ tiếng Anh khi đặt tít cho báo. Với những trường hợp có thể dùng từ thuần Việt thay thế thì nên dùng: ví dụ như từ show-buổi diễn, single-đĩa đơn, fashion-thời trang,…. c. Dấu câu: - Dấu ngoặc kép: Dấu ngoặc kép dùng để trích dẫn hay thuật lại nguyên văn một câu nói, một từ ngữ, một tên gọi,… Tin trích dẫn đưa vào trong dấu ngoặc kép là tin dẫn theo phong cách ngôn ngữ trực tiếp, cũng gọi là lối nói trực tiếp. Trong trường hợp này, nhà báo không chịu trách nhiệm về nguồn tin cũng như về quan điểm trong tin ấy. Bình thường, không cần dùng dấu ngoặc kép nếu thấy tin không có vấn đề gì. Trong những trường hợp muốn diễn đạt thật rõ ràng hoặc muốn nhấn mạnh rằng đó chỉ là lời người khác chứ không phải là ý kiến của tôi thì chúng ta nên cho lời nói đó vào trong ngoặc kép. Ngoài ra dấu ngoặc kép còn có chức năng khác: Khi muốn dùng một từ ngữ không theo nghĩa thông thường thì từ đó sẽ được đặt trong dấu ngoặc kép. Sắc thái nghĩa của từ ngữ trong dấu ngoặc kép đã bị thay đổi. Dùng dấu ngoặc kép cho những từ chưa rõ nghĩa hoặc không còn thông dụng, chẳng hạn những tiếng lóng, những từ có nguồn gốc nước ngoài mới nhập hay đã quá xưa, nhằm tránh những hiểu nhầm không cần thiết. Khéo dùng kết hợp dấu ngoặc kép với những từ đồng nghĩa có sắc thái nghĩa khác nhau là một biện pháp để bộc lộ quan điểm, làm câu văn thêm sắc sảo, hấp dẫn. - Dấu chấm lửng: Dấu chấm lửng có chức năng là gây sự chờ đợi. Khi cần nhấn mạnh một từ, hãy đặt nó sau dấu chấm lửng. Dấu chấm lửng còn có một chức năng là sự việc được nói tới chưa kết thúc. Có thể dùng dấu chấm lửng để tạo ra ngụ ý của người viết. - Dấu chấm cảm, dấu hỏi: Đặt dấu hỏi và dấu chấm than trong ngoặc đơn để thể hiện thể hiện quan điểm của người viết. Dấu chấm than để phê phán. Dấu chấm hỏi bày tỏ ý nghi ngờ. Những bài báo có tit là câu hỏi thường viết về những sự việc chưa diễn ra. Thế nên nó thường là những bài bình luận đánh giá mà tác giả đưa ra những nhận xét của mình rồi đưa ra những dự đoán, người đọc sẽ chờ đón kì tiếp theo để biết được kết quả. d. Từ viết tắt, ký hiệu thay thế: Từ viết tắt và ký hiệu thay thế giúp tít ngắn gọn và dễ trình bày hơn. Tuy nhiên chỉ nên viết tắt với những từ thông dụng, độc giả dễ dàng đoán ra nghĩa, và trong bài viết vẫn phải giải nghĩa của từ viết tắt. Không nên sử dụng quá nhiều từ viết tắt trong tít báo sẽ gây cảm giác khó chịu cho mắt người đọc. 3. Vấn đề đặt ra và giải pháp giải quyết: Sử dụng ngôn ngữ trên báo chí là vấn đề đang được đặt ra gay gắt đối với người làm báo. Đã có những lời cảnh báo về việc sử dụng ngôn ngữ thiếu chọn lọc, thiếu sáng tạo của một số tác giả. Đã tìm thấy sự sáo mòn, nhàm chán và rập khuôn của nhau ở một số tác giả, họ tự tìm một mô thức có sẵn rồi lắp ghép câu chữ vào cho phù hợp với nội dung bài báo của mình. Chúng ta vẫn thường bắt gặp những ngôn từ được tác giả sử dụng trong tít báo rất rối rắm, khó hiểu, nhiều từ chuyên môn mà chỉ những người hoạt động trong lĩnh vực chuyên nghành mới có thể hiểu được… Ngôn ngữ của dân tộc ta là một loại ngôn ngữ đa bản sắc, là sản phẩm đặc trưng cho văn hóa đất nước, lại có sự kết tinh của ngôn ngữ hiện đại…Nhà báo là những người có khả năng khởi tạo dư luận, những gì họ viết ra được coi là những chuẩn mực nhất định để người ta nghe theo, học theo và làm theo. Chính vì vậy cần có sự sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ trên báo chí đặc biệt là cách giật tít. Hiện nay ở các cơ sở đào tạo báo chí chuyên nghiệp, vấn đề giảng dạy ngôn ngữ rất được đề cao bằng các chuyên đề riêng và lồng ghép trong các môn học nền tảng. Đó là những nỗ lực đáng ghi nhận nhằm tạo ra một đội ngũ nhà báo vừa vững về chuyên môn nghiệp vụ vừa có ý thức bảo vệ, gìn giữ và phát huy ngôn ngữ dân tộc trên mặt báo làm cho nó ngày càng phong phú hơn, giàu đẹp hơn. Các nhà quản lý nên có những quy chuẩn pháp quy, quy định cụ thể về việc sử dụng tiếng nước ngoài trên mặt báo, các tòa soạn báo nên tạo điều kiện, khích lệ để những nhà báo chưa được đào tạo căn bản về ngôn ngữ và nghiệp vụ có điều kiện học thêm. KẾT LUẬN 1. Tít là câu quan trọng nhất của bài báo, là công cụ để thu hút sự chú ý của độc giả. Cần chú trọng đến việc đặt và biên tập tít sao cho phù hợp với nội dung mà vẫn hấp dẫn độc giả. Tít trên báo mạng càng hiệu quả thì càng có nhiều cơ hội được các trang tìm kiếm để mắt đến. 2. Vấn đề giật tít cho báo mạng hiện nay còn rất nhiều khúc mắc. Việc sử dụng ngôn ngữ một cách tuỳ tiện trên các tít báo đang khá phổ biến và gây không ít bức xúc. 3. Trong thời đại kinh tế tri thức như ngày nay , trình độ dân trí và nhận thức của đại bộ phận nhân dân ta đã được nâng cao đáng kể, tuy vậy, vẫn chưa có sự đồng đều giữa các vùng miền, các nền văn hóa khác nhau. Việc lựa chọn những ngôn ngữ mang tính phổ quát để cho ai nghe cũng hiểu và làm theo là điều các nhà báo nên suy nghẫm khi đặt tít. 4. Sử dụng ngôn ngữ một cách có chọn lọc, có sáng tạo vừa thể hiện ý thức nghề nghiệp của người làm báo chân chính vừa góp phần giữ gìn và phát huy sự trong sáng của ngôn ngữ Tiếng Việt. 5. Tiểu luận mới chỉ xem xét đến một trong số những thành phần cấu tạo nên một tác phẩm báo chí đó là tít báo (đầu đề) nhưng cũng góp phần làm đầy hơn kho tư liệu nghiên cứu về các vấn đề của tác phẩm báo chí nói chung, tác phẩm báo mạng nói riêng. Hi vọng những công trình nghiên cứu, khảo sát sau sẽ bù đắp những thiếu sót và hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. GS. TS Nguyễn Đức Dân, Ngôn ngữ báo chí-những vấn đề cơ bản, NXB Giáo dục 2008. 2. Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, NXB Thông tấn 2007 3. TS Đức Dũng, Viết báo như thế nào, NXB Văn hoá thông tin 2006. 4. Nhiều tác giả, Sổ tay phóng viên – Thủ thuật làm tin, NXB Thông tấn 2007. 5. Hội nhà văn, Giáo trình kỹ thuật và thể loại tin. NXB Văn hoá Thông tin 2007. 6. Tạ Ngọc Tấn, Truyền thông đại chúng. NXB Chính trị quốc gia 2001. 7. PGS,TS Nguyễn Văn Dũng, Th.s Đỗ Thị Thu Hằng (Học viện báo chí và tuyên truyền), Truyền thông lý thuyết và kĩ năng cơ bản. NXB Lý luận chính trị 2006. 8. V.I.Lênin, Về vấn đề báo chí. NXB Sự thật 1970. 9. TS Hoàng Đình Cúc, TS Đức Dũng, Những vấn đề của báo chí hiện đại. NXB Lý luận chính trị 2007. 10. Nhiều tác giả, Báo chí, từ những điểm nhìn thực tiễn (2 tập), Khoa báo chí, Học viện báo chí và tuyên truyền. NXB Văn hoá thông tin 2000. 11. PGS.TS Lê Như Hoa (biên tập Nguyễn Hương Giang), Phát huy bản lĩnh văn hoá Việt Nam trước thách thức của xu thế toàn cầu hoá, Tạp chí Tia sáng. 12. Đinh Văn Hường, Các thể loại báo chí thông tấn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2006. 13. Trách nhiệm định hình ngôn ngữ của báo chí, đăng ngày 22/12/2004 14. Ngôn ngữ báo chí, đăng ngày 23/09/2008. 15. Ô hô cái sự viết tắt!, đăng ngày 06/01/2005. 16. Đau đầu dấu chấm câu, đăng ngày 05/09/2005. 17. Viết đơn giản - Điều không đơn giản, đăng ngày 22/12/2005. 18. Viết tắt vô tư, đăng ngày 24/11/2006. 19. Những chức năng của tít và cách viết tít hay, đăng ngày 03/08/2006. 20. Giật tít cho báo điện tử, 29/10/2004. 21. Đặt tít ngắn, đăng ngày 13/01/2005. 22. Nguyên tắc viết bài cho báo điện tử, đăng ngày 26/12/2004. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDBC1177.doc