Tiểu luận Nguồn gốc và quá trình phát triển của cây lúa ở Việt Nam

MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU 1 B. PHẦN NỘI DUNG 2 CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRèNH PHÁT TRIỂN CỦA CÂY LÚA Ở VIỆT NAM 2 1.1 Nguồn gốc cõy lỳa. 2 1.2. Đặc điểm sinh lí của cây lúa. 2 1.3. Về giồng lỳa. 3 CHƯƠNG 2: QUÁ TRìNH PHÁT TRIỂN CỦA NGHỀ TRỒNG LÚA THỜI DỰNG NƯỚC 5 2.1. Thiên nhiên Việt Nam với sự ra đời của cây lúa. 5 2.2. Sự phỏt triển của nghề trồng lỳa. 6 1.3. Sơ đồ sự phán triển nghề lúa cổ truyền nước ta 9 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG THỨC KĨ THUẬT TRỒNG LÚA CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ 10 3.1. Biện phỏp kĩ thuật trồng lỳa. 10 3.2. Nụng cụ. 12 C. PHẦN KẾT LUẬN 15

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4691 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nguồn gốc và quá trình phát triển của cây lúa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU Nếu ai đó đã đến đền Hùng hẳn còn nhớ phía tây chân núi Hựng,ở cổng chính dẫn lên Đền Hựng cú câu nói giàu ý nghĩa: “Thỏi thủy khai cơ, tứ cố sơn hà quy bản tịch Đăng cao vọng viễn, quần phong la liệt tử thi tụn.” Nghĩa là: (...Mở lối đắp nền bốn mặt non sông quy một mối Lên cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con) Sự nghiệp tổ tiên ta thời đại Hùng Vương được Hồ Chủ Tịch cụ đỳc trong lời Người sâu sắc: “Cỏc vua Hựng đó có công dựng nước...” càng suy ngẫm càng thấy lạ, thấy hay, thấy nhiều hình nhiều vẻ, mà càng lùi xa nhìn ngắm từ vị trí của thề hệ mấy nghìn năm con cháu bây giờ, càng thấy trong đó nổi lên kì vĩ công trạng “mở lối đắp nền, bốn mặt non sông quy một mối” đúng như nhận thức mà người trước đã ghi ngay ở trước Đền Hùng để nhắc nhở người sau về buổi bình minh của lịch sử dân tộc. Trong những “cụng trạng kì vĩ ấy”, những đóng góp về mặt kinh tế của thời kì dựng nước đối với lịch sử dân tộc cực kì quan trọng. Nghiên cứu về nghề trồng lúa Việt Nam thời kì này có ý nghĩa to lớn trong việc dựng lại bộ mặt nền nông nghiệp Việt Nam thời kì dựng nước, từ đó có những đánh giá tổng quát về kinh tế Việt Nam thời kì này. Nghề trồng lúa Việt Nam cũng xưa như lịch sử chính nó và bản thân hoạt động trồng lúa này đã dần dần tạo nên ở đây một bức tranh về thiờn nhiờn, con người và xã hội rất độc đáo, rất Việt Nam. Tìm hiểu về Việt Nam dự trờn lĩnh vực nào, dù ở góc độ nào cũng không thể bỏ qua không tìm hiểu nền tảng cuộc sống của mọi sức sống đó: nghề trồng lúa và để hiểu tường tận không thể không tìm về cội nguồn của nó. B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1 NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CÂY LÚA Ở VIỆT NAM Nguồn gốc cây lúa. Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về nguồn gốc của cây lúa. Các ý kiến của các nhà khoa học đều có tính chất chung nhất là cho rằng cây lúa trồng có nguồn gốc ở Đông Nam Á. Coopeland E. B, Kirichenko K.S và nhiều tác giả khỏc đó cú những ý kiến cụ thể hơn về khả năng là Ấn Độ, Miến Điện và Việt Nam là những nơi đã xuất hiện nghề trồng lúa đầu tiên của loài người. Người ta còn cho rằng chính nền nông nghiệp của vùng phía đông bán đảo Đông Dương, từ thung lũng sông Menam tới thung lũng sông Hồng, bắt đầu cùng với những cây họ đậu, cây lúa trồng đã xuất hiện sớm hơn và cây lúa trồng cũng có thể được biết đến khá sớm, vào khoảng 5000-4000 năm TCN. Những phát hiện và khai quật khảo cổ học đã khẳng định người nguyên thủy đã sinh sống trờn vựng đất ngày nay là đất nước Việt Nam từ đầu thời đá cũ cách đây khoảng vài chục vạn năm. Chủ nhân của nền văn hóa Núi Đọ, văn hóa Sơn Vi sinh sống trên một địa bàn rộng rãi (bao gồm cả vùng thềm lục địa bây giờ) có thể tự do hái lượm cỏ cây phong phú, chim thú muôn loài, cỏ tụm đầy rạch. Nhưng rồi đợt biển tiến (xảy ra cách đây 17-7 nghìn năm) do băng hà tan dần...làm cho đất trồng và nơi ở bị thu hẹp, người bị dồn lên những dải đất cao ngày một đông đúc và nhu cầu tăng lương thực ngày một trở nên bức bách, con người văn hóa Hòa Bình phải thuần dưỡng cây trồng, thuần dường gia súc. Bằng kinh nghiệm hái lượm và trồng tỉa phong phú của mỡnh, trờn cơ sở nắm thành thạo kĩ thuật làm đá và những hiểu biết đầu tiên về kĩ thuật đúc đồng, người xưa hường công sức vào khai thác, tái tạo, mở rộng một loài hòa thảo có ích: cây lúa và từ đó cây lúa đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như người đồng hành của dân tộc này. Đến văn hóa Đông Sơn, hoạt động nông nghiệp đã phong phú và đa dạng và người ta có thể đã biết đến cây lúa. 1.2. Đặc điểm sinh lí của cây lúa. Cây lúa là loại Oryza sativa. Nó là một trong 28 loài Oryza L... Người ta thừa nhận trọng các loài Oryza L..., chỉ có hai loại lúa trồng là Oryza sativa và Oryza glaberrina. Loại 1 phổ biến ở Đông Nam Á. Loại 2 phổ biến ở Châu Phi nhưng ngày một bị tàn lụi đi và bị loại 1 thay thế. Loại 1 có tổ tiên trực tiếp là Oryza fatua, phổ biến ở Ấn Độ, Đông Dương và Nam Trung Quốc, nghĩa là ở khu vực nhiệt đới gió mùa. Đặc điểm: Cây lúa Oryza sativa L. là một loài cõy thõn thảo, sinh sống hàng năm với thời gian sinh trưởng từ 60-70 đến 220-250 ngày. Cây mọc thẳng đứng, bò dài, thường sống trong nước ngập một phần lớn. Thân dài 60-150 cm, đốt nhẵn bóng và thường cách nhau, lá phẳng hình dài, đầu lá nhọn, bề mặt lá và mộp lỏ đều rỏp, hỡnh mũi nác, chẻ đôi. Cụm hoa là một chùm thưa, thẳng, hẹp, đầu hơi cong xuống, dài 15-30 cm hoặc hơn. Hoa nhỏ, hình bầu dục thuụn, cú phỳn (ở loài mọc hoang) hoặc không (ở lúa trồng). Mày thuụn hỡnh mũi nác, nhọn nguyên hay chia răng ở đỉnh. Mày hoa khá dài, dai, màu hồng, vàng hoặc hơi tím, có lông mi cứng, phún rất dài và thẳng, hoa có 6 nhị, mảnh, bao phấn hình dài. Bầu hoa có vòi, nhụy ngắn, hai đầu nhụy có lông thò ra. Quả thuôn, bẹp, ở trong mày hoa có nhiều bột. Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã phát hiện được loại Oryza fatua ở Nam Bộ. Đó là loại “lỳa trời” hoặc “lỳa ma” có bông ngắn, hạt rất dễ rụng, cú sõu dài, gạo đỏ và cứng. Nhứng đặc điểm đó phù hợp với những đặc điểm của lúa Oryza fatua. Lúa ma sinh sôi tự nhiên ở khắp châu thổ sông Cửu long; ngoài ra còn thấy ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa cũng tìm thấy lúa ma tuy đặc tính không hoàn toàn giống lúa ma Nam Bộ, Nam Bộ cũn cú lỳa nổi hạt đỏ và cứng, bông thưa, mọc nhanh theo mức nước lên. Đó là loại Oryza sativa fatua và Oryza aqulia ở loại hình trung gian giữa Oryza fatua và Oryza sativa. Ở Hà Nam, Hải Hưng (Hải Dương), Hà Bắc(Bắc Giang)...cú giống lúa ngoi cũng có khả năng ngoi lên theo mực nước, tuy không nhanh như lúa nổi ở Nam Bộ. Sự tồn tại của các loại lúa đó chứng tỏ trên đất nước ta đã xảy ra quá trình phát triển liên tục từ cây lúa dại đến cây lúa trồng qua khâu trung gian là lỳa nổi.Khụng nghi ngờ gì nữa, Việt Nam là một trong những quê hương lâu đời nhất của cây lúa. Tổ tiên ta là người đã trực tiếp cải tạo cây lúa thành cây lúa trồng đưa lại cho nhân loại một nguồn lương thực ổn định, có năng suất cao. 1.3. Về giồng lúa. Căn cứ bào nhiều tài liệu: khảo cổ học, thư tịch, ngôn ngữ học, truyện cổ tích dân gian (truyện Bánh Chưng bánh Dày của dân tộc Việt, truyện Bú khõu quang của dân tộc tày...), phong tục (các nghi thức thờ cúng: lễ thượng điền, lễ hạ điền, lễ cơm mới, tục cúng tổ, thờ vỏ chấu...), các nhà khoa học đã đưa ra những kết luận về giống lúa. Theo kết quả của các tài liệu khảo cổ học, đến nay bản thân vết tích cây lúa phát hiện được chưa nhiều. Những hạt phấn hoa được gọi là của lúa ở Tràng Kênh cũng chưa rõ thuộc lúa hoang hay lúa trồng. Vết lỳa cũn in trên gốm ghi nhận được ở Gò Hện, Xuân Kiều, Từ Sơn, Đồng Dền. Thóc gạo than hóa thấy ở trờn cỏc hốc bếp Gò Mun, vỏ chấu lẫn trong các cục đất ở Gò Chiền, Trung Mầu, Đông Tiến,... hoặc trong khuôn đúc như ở làng Cả. Vết tích lúa xưa nhất và rõ ràng nhất kiện nay là những hạt thóc cháy đen thấy trong lớp thuộc gia đoạn Phùng Nguyờn muộn ở di chỉ Đồng Đậu. Kết quả khảo sát (Nguyễn Xuân Hiển: Kết quả khảo sát ở di chỉ Đồng Đậu. Bài trình bày ở hội nghị thông báo khảo cổ học lần thứ 14 năm 1979. Phòng Tư liệu, Viện Khảo cổ học) cho thấy chúng thuộc dạng dạt tròn. Từ gúc nhỡn khỏc, cỏc nhà khoa học có ý kiến cho rằng lúa nếp trồng phổ biến. Lĩnh Nam chớch quái (chép thế kỉ 15) ghi: “Đất nhiều gạo nếp lấy ống tre để nấu cơm”, xưa hơn nữa là Phạm Tử kế Nhiên cũng nói: “Phương Đông nhiều lúa gạo (gạo mùa tẻ), lúa mạch, phương Bắc nhiều lúa thỳc (thúc), trung ương nhiều lúa hòa, phương Nam nhiều lúa thử (nếp)”. Ngoài ra, ở phương Nam, căn cứ vào truyện Bánh Chưng bánh Dày..., các nhà nghiên cứu cho rằng lúc này người Việt Cổ ăn lúa nếp là chính, gạo tẻ chỉ xuất hiện khi dân số tăng lên, ruộng đất không đủ cung cấp lương thực, gạo tẻ cho năng suất cao hơn, độ nở lớn. Gắn với lúa nếp là lúa hạt tròn ở Việt Nam có sớm, vết tích đầu tiên thấy ở di chỉ Đồng Đậu trong lớp đất có niên đại 3.330 ± 100 cách ngày nay. Theo một số tư liệu khác cho rằng vào khoảng trước, sau công nguyên, ở nước ta đã gieo trồng nhiều giống lỳa khỏc. “Di vật chớ” của Dương Phù (thế kỉ 1) chép: “ Lúa ở Giao Chỉ mỗi năm trồng hai lần về mùa hè và mựa đụng”. Quách Nghĩ Cung thời Tây Tấn (280-304) ghi trong Quảng Chí: “ Phương Nam cú lỳa hổ chưởng, lúa tử amng, lỳa xớch khoỏng (lỳa sụ), lỳa thiền minh, lỳa cỏi hạ bạch, lúa thanh vụ, lúa lũy tử, lúa bạc mạc, lỳa cỏnh...”, Lê Quý Đôn trong “Võn Đài loại ngữ” cũng ghi: “ Người Nam Giao tiếp xúc với người Chiờm, nờn trồng được nhiều thứ lúa gạo chín về hạ gọi là lỳa Chiờm”. Người xưa còn ghi lại những thuộc tính của nhiều giống lúa khác nhau. Lê Quý Đụn đó mô tả cả hai loại lúa: ưa nước và chịu cạn. + Loại ưa nước cú lỳa chịu úng (như lúa chiêm di chịu ngập “ngâm nước một tháng vẫn kết hạt được”); lúa có nước ở chân (như “lúa bát ngoạt nên cấy vào ruộng không cao không thấp, gạo trắng, hạt tròn chín sớm, lúa di câu cũng cần ruộng cao”). + Loại chịu cạn cú lỳa mộ... nờn trồng ở đồi núi... ở đất bãi ngoài đờ; cách “trồng cũng như trồng lúa ngô”. Lúa lốc cũng ưa đất núi. Ngoài ra Lê Quý Đụn cũn giới thiệu các giống lúa tái sinh như “lỳa cái hạ trạch: trồng về tháng giêng đến tháng 5 được gặt, cắt ngọ rồi lúa lại mọc, tháng 9 lại cú lỳa gặt được”. Có thứ lúa gặt rồi mà gốc lại tòi đòng đòng lên, lại có bông, lại là tỏi thỳc đạo, hoặc là tỏi tiờn, gạo trắng mà to”. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng có nhiều tài liệu khác nhau nói về các giống lúa khác nhau. Ở phương Nam có nhiều giống lúa, lúc đầu là lúa nếp, sau có lúa tẻ với nhiều giống khác nhau. Nhiều giống lúa như vậy chứng tỏ con người đã phát triển hơn trước, dân số tăng lên và trình độ sản xuất của người dân cũng ngày một cao hơn. Chương 2 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NGHỀ TRỒNG LÚA THỜI DỰNG NƯỚC 2.1. Thiên nhiên Việt Nam với sự ra đời của cây lúa. Các nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng nhu cầu của cây lúa hoàn toàn được thiên nhiên Việt Nam thỏa mãn. Căn cứ vào những công trình sinh vật học hiện nay về cây lúa, cho thấy lúa thuộc loại hòa thảo, là loài cây ưa ẩm và ưa ánh sáng... Đầu tiên cây lúa lá loại cây ưa nóng, vì vậy yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến cây lúa là nhiệt độ. Nhiệt độ ảnh hưởng đến sức nảy mộng, các thời kì sinh trưởng ra hoa, kết hạt và chín. Nhiệt độ ở Đồng Bằng Bắc Bộ vào mùa mưa thay đổi từ 20-300 là hoàn toàn thích hợp cho cây lúa nước. Nhu cầu sinh lí thứ hai của cây lúa là nước. Có người tính: trung bình để tạo ra 1kg hạt cần từ 300-400 kg nước. Có người khỏc đó tỡnh lượng ước cần để lúa cấu tạo được 1gr chất khô là 710 gr, trong khi đó ngô chỉ cần 368 gr, tiểu mạch: 513 gr, đại mạch: 434 gr (Bùi Huy Đáp: Cây lúa miền Bắc Việt Nam, HN, 1964, tr.149). Số nước đó được lượng mưa phong phú mùa mưa nước ta cung cấp. Trên 1 cm2 mặt đất có thể có một lượng mưa từ 0,13-0,33 kg trong một năm. Toàn bộ khối nước mưa đó hoàn toàn thừa sức thỏa mãn nhu cầu nước của cây lúa nước nếu như được sử dụng cả. Dù cho trong điều kiện tưới nước kém phát triển hay giả thuyết là không có gì đi nữa, lượng mưa tự nhiên đó và nước các sông ngòi, đầm ao... cũng đủ để nuôi cây lúa nước. Tổ tiên ta đó đỳ kết thành kinh nghiệm: nước, phân, cần, giống. Nước được đặt lên hàng đầu là bằng chứng hiển nhiên về sự hiểu biết qua quan sát lâu ngày mày mò tích lũy để nắm vững yờu cầu sinh lí của cây lúa. Ngoài hai yêu cầu lớn trên, cây lúa còn nhiều nhu cầu sinh lí quan trọng khác như ánh sáng, độ chua... Các nhu cầu đú cỳng được thiên nhiên Việt Nam ưu đãi. Nhu cầu về đạm, lân, bồ tạt và một số khoáng chất khác cũng được phù sa sông Hồng, sụng Mó, sụng Lam... đáp ứng. Không như ngày nay do đê điều đã ngăn một lượng phù sa, đất bạc màu do quá trình thâm canh lúa thời kỡ Hựng Vương, chưa có một hệ thống đê điều hoàn chỉnh, nên hàng năm sông Hồng vẫn đưa được nhiều phù sa vào bón phân cho đồng ruộng. Trong kí ức nhân dân truyền tụng qua các đời nhắc nhở thời kì cha ông chúng ta làm ăn dễ dàng, hạt thóc to bằng bồ và tự lăn về nhà. Các sử gia phong kiến phương Bắc ghi chép về nước ta thời Giao Chỉ trở về trước đều ca tụng đất đai hết sức phì nhiêu, dõn khụng lo đói... Trên cơ sở điều kiện thiên nhiên thích ứng với yêu cầu sinh lí của cây lúa như thế, tổ tiên chúng ta đã khéo léo kết hợp hai nhân tố đó mà lại sáng tạo ra nghề trồng lúa nước chứ không phải đơn giản là hễ có thiên nhiên ấy, thực vật ấy tất có nghề ấy. Những di chỉ khảo cổ học Gò Mun, Đồng Đậu...chứng tỏ nghề trồng lúa nước đã chiếm vị trí chủ đạo trong sinh hoạt thời Hùng Vương. Thời hùng Vương biết làm lúa hai vụ: thủy triều thượng và thủy triều hạ. 2.2. Sự phát triển của nghề trồng lúa. a. Nếu xét một cách khái quát nhất, sự phát triển của nghề lúa trải qua các giai đoạn được thể hiện như sau: * Di chỉ phùng Nguyờn (Phỳ Thọ): Người phùng Nguyờn đó biết làm chủ vùng trung du và một phần đồng bằng Bắc Bộ, đưa nông nghiệp lên thành ngành sản xuất chủ yếu. Họ sống tập trung, định cư trên những khu vực lớn. Họ đã trồng được lỳa, dựng cuốc đá để vỡ đất, dao đá để gặt hái, dựng cỏc công cụ gỗ để khai thác lớp phù sa do lụt lội mang đến hàng năm. Sử sách xưa chộp: dõn Lạc theo nước triều lên xuống để khẩn ruộng mà làm ăn, ruộng ấy gọi là ruộng Lạc. Ruộng Lạc có nghĩa là ruộng nước (Theo Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc). Chăn nuôi gắn bó chặt chẽ với trồng trọt, đó là một đặc điểm mang tính quy luật trong lịch sử kinh tế nông nghiệp Việt Nam (Đặng Phong, Kinh tế thời nguyên thủy ở Việt Nam, Nxb KHXH, HN, 1970). * Di chỉ Đồng Đậu: Nghề trồng lúa tiếp tục được phát triển. Công cụ đá vẫn chiếm vị trí chủ đạo nhưng kém kinh tế hơn. Nghề đúc đồng đã bổ sung công cụ cho nông nghiệp khiến nông nghiệp phát triển cai hơn: nếu ở Phùng Nguyờn, người ta chỉ tìm thấy phấn hoa, cây lúa thì ở Đồng Đậu, người ta tìm thấy hạt gạo trắng. * Di chỉ Gò Mun: Đời sống chủ yếu bằng nghề nông trồng lúa nước. Đồ đồng thau Gò Mun đã được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp: những lưỡi hái đã được phát hiện, những chiếc rìu cũng đã được sử dụng như những nông cụ. Người ta tìm thấy những hầm lỳa đó mục nát, chứng tỏ đã co dự trữ lương thực. Qua đó có thể thấy nghề trồng lúa tiếp tục được phát triển hơn một bước. * Văn hóa Đông Sơn Nông nghiệp dùng lưỡi cày phổ biến qua sự phát triển một khối lượng lớn các loại lưỡi cày bằng đồng thau, là những lưỡi cày tiến bộ nhất trước khi xuất hiện lưỡi cày sắt vào những thế kỉ trước, sau công nguyên. Thời kỡ Đụng Sơn, nông nghiệp trồng lúa nước chiếm vai trò chủ đạo: thóc, gạo trở thành nguồn lương thực chính: những di tích làng Vạc phát hiện ra hạt thóc nằm trong nồi và vỏ chấu; tìm thấy rất nhiều công cụ gặt lúa: liềm, dao gập, nhíp đồng. Người Đông Sơn đã biết chế biến lương thực. Trờn cỏc mặt trống đồng ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà... có khắc hình những đôi trai gái dùng cối và chày tay giã gạo. trong lịch sử khoa học kĩ thuật, trước khi phát minh ra cối say và cối giã gạo theo nguyên tắc đòn bẩy thì đây là phương pháp gia công có năng suất cao thời bấy giờ. Hình ảnh những vụ mùa thắng lợi còn được thể hiện qua những hình kho lúa, với chim chóc vây quanh, chim đậu, chim bay rộn ràng, người đi lại rộn rịp khắc họa trờn cỏc mặt trống đồng. Một số nhà nghiên cứu đoán định rằng người Đông Sơn đã biết làm mỗi năm hai vụ lúa. Chăn nuôi trâu bò đã phát triển đảm bảo sức kéo cho nông nghiệp. Như vậy, qua các thời kì khác nhau, nghề lúa ngày càng phát triển hơn với sự tham gia của nhiều công cụ sản xuất tạo năng suất ngày một cao hơn, phục vụ cho số dân ngày một tăng. b. Để nghiên cứu quá trình phát triển của cây lúa về sự thích nghi của nó với những điều kiện sinh thái khác nhau, các nhà nghiên cứu đã khái quát tính trội về mặt sinh lí của cây lúa nhiệt đới là tính ưa nước với những tiềm năng đa dạng của nó là tính ưa ẩm dần khô và tính chịu ngập nước. Đó là cơ sở sinh lí học của việc đưa cây lúa trồng dần lên cạn và dần xuống đầm sâu, tạo ra 3 nhóm giống lúa cơ bản trồng ở 3 thế đất, 3 vi vùng sinh thái khác nhau trong 3 khu vực địa hình khác nhau của nước Việt Nam xưa và nay. Căn cứ vào độ ẩm ướt của đất, chính ngay trong một khu vực nhỏ, một cánh đầm lầy chẳng hạn, ta cũng thấy được 3 thế đất (chân ruộng sau này) hoặc vi môi sinh của cây lúa. Căn cứ vào mực nước ngầm lên xuống trong năm, ta có thể chia mặt phẳng nghiêng hoặc rìa đầm ra 3 khoảng: + Khoảng I: Khoảng mực nước thông thường ngập đủ để cây lúa sinh trưởng, đây là mực nước lí tưởng giả định trong mùa mưa. + Khoảng II: Trên mực nước khoảng I, sau những cơn mưa lớn thường bị ngập ít ngày, còn nói chung thì ướt và khụ, đõy cũng là khoảng đất cây lúa có khả năng sinh trưởng tuy có khó khăn. Rõ ràng cây lúa mọc ở khoảng đất này phụ thuộc mùa gieo trồng và có khả năng dần chịu cạn. + Khoảng III: Khoảng đất dưới mực nước thông thường về mùa hè và kề ngay trên mực nước rút thấp nhất thông thường về mùa đông. Khoảng đất này bình thường thỡ khụ hạn về mùa đông, song do không phải mùa đông nào cũng có nước khô hạn như nhau, ta giả định có một mùa đông nào đó mưa nhiều hơn, nước đầm dâng lên cao hơn mức thông thường thấp nhất của nó, trong điều kiện ánh sáng và độ ẩm đủ, hạt lúa chín rụng vụ mùa trước có thể nảy mầm và sinh trưởng. Đây là tiền đề của sự ra đời giống lúa Chiêm và là tiền đề sinh vật học cho việc đưa cây lúa xuống vùng trũng. Như vậy rõ ràng trong một vi vùng do có sự khác nhau về thế đất mà đã tạo ra những môi sinh cụ thể khác nhau. Trong giai đoạn thuần dưỡng sơ khai, nhờ tích lũy được kinh nghiệm gieo trồng, chọn giống và nhận thức về thuộc tính riêng của lúa mọc của từng khoảnh nhỏ mà trong những điều kiện lịch sử nhất định, con người có thể mở rộng diện tích canh tác ra các vùng đất khác nhau. Có thể nói ở ngay giai đoạn đầu của thuần hóa cây lúa, con người đã có mặt ở 3 vùng địa lí của đất nước: thung lũng-lũng chảo miền núi; cao nguyên, vùng trung du; và vùng đồng bằng. Tất nhiên vị trí lịch sử của 3 vùng này trong tiến trình lịch sử nghề trồng lúa và lịch sử xã hội dân tộc ta, từng có lúc khác nhau. Chính xuất phát từ quan điểm vi vùng này, ta không thể nói cây lúa phát triển đi từ vùng đồng bằng lên miền núi hay miền núi xuống đồng bằng. Đứng ở quan điểm sinh thái ta chỉ có thể nói cây lúa có xuất phát điểm là đầm lầy có nước về mùa hè, đi dần theo hai hướng lên cạn và xuống nước sõu. Cũn con đường đi cụ thể với cây lúa như thế nào trong việc mở rộng nghề lúa và quá trình chinh phục đất hoang thì lại do điều kiện lịch sử xã hội cụ thể quy định. Quá trình phát triển của nghề trồng lúa cổ truyền nước ta còn phản ánh qua phân bố các di tích khảo cổ học thời Hùng Vương (giới hạn ở sự khảo sát hệ thống các di tích khảo cổ học vựng sụng Hồng, Bắc Bộ là nơi việc nghiên cứu điền dã khảo cổ học được tập trung và đẩy mạnh hơn cả). Từ con số chung 149 di tích được biết, chúng ta thấy ở vùng núi có 15, vùng trung du và đồng bằng(cao): 145, vùng trung sông Hồng 19. Nếu xét theo giai đoạn phát triển thì ở giai đoạn sớm (các di tích thuộc các giai đoạn: Phùng Nguyờn-Đồng Đậu-Gũ Mun) các di tích phân bố như sau:vựng núi:7, trung du-đồng bằng (cao): 111, trong số này những di tích lùi về phía đông và nam (gần khu vực đồng bằng trũng) có 50. Đến giai đoạn muộn, tình hình phân bố di tích có khác đi, chúng ta thấy miền núi có 8, vùng trung du và đồng bằng (cao): 34, trong số này 28 di tích ở gần về phía khu vực trũng: vùng đồng bằng trũng :19. Đặc điểm các di tích và tình hình phân bố của chúng nói lên vị trí trung tâm của trung du (miền rìa nỳi và trước núi) xuất phát điểm và phương thức trồng lúa đầu tiên ở miền Bắc nước ta thể hiện ở việc khai thác các mảnh đất bãi bồi ven sông, hồ, đầm bằng phương thức sục bùn diệt cỏ-gieo hạt ở những khu đất cao gần hoặc xa nguồn nước sông. Hướng phát triển cơ bản của nghề trồng lúa thời Hùng Vương là đi từ trung du xuống đồng bằng, dần lấn những miền trũng và lấn biển, bên cạnh hướng phụ là trở lại miền núi ở những thời điểm muộn. Đó là điểm khác với quá trình phát triển nông nghiệp ở Trung Cận Đông và Capcadơ, ở đó nông nghiệp ra đời ở các thung lũng miền núi và giữa núi, sau đó phổ cập đến các đồng bằng chõn nỳi và đất hoàng thổ và muộn hơn tiến ra khoảng không gian rộng của các đồng băng phù sa lớn. 1.3. Sơ đồ sự phán triển nghề lúa cổ truyền nước ta Thế đất Loại đất Độ ẩm ướt Hình thức canh tác Vụ chính Niên đại bắt đầu Hướng phát triển Giống trội Bằng chứng lịch sử Bằng chứng khảo cổ Cao II Đồi Cạn quanh năm.Khô về đông xuân,ẩm hè thu Phát,đốt, trọc lỗ, tra hạt.Phát,đốt cây gieo hạt Mùa SCN III Ưa cạn,hạt tròn Nương ruộng miền núi.Ruộng rẫy người Mèo Rìu,cuốc,cày,liềm sắt Đồng Khô về đông xuân.Ẩm,đôi khi có nước về hè thu. Phát,đốt, cuốc hoặc cày, gieo hạt Nt Thiên kỉ III TCN I Chịu cạn,hạt tròn,hạt dài Đao canh hỏa chủng(Lĩnh Nam chích quái) Rìu,cuốc bằng đá,đồng,sắt.lưỡi cày đồng,nhíp,dao gặt,liềm đồng. Thóc hạt tròn,than lúa ở Đồng Đậu Bãi Khô về đông xuân.Ẩm về hè thu Nt Thấp I Bãi ven sông, đầm, hồ Ẩm ướt về đông xuân.Có nước về hè thu Gieo hạt, be bờ, giữ nước Nt Thiên kỉ I TCN Xuất phát điểm lúc trồng loại phổ biến Ưa nước hạt dài Hỏa canh thủy nậu Rìu,cuốc đá,Dao gặt bằng đá,vỏ trai? Đồng Ngập nước về hè thu, ít nước đến se cạn về đông xuân Cuốc, gieo hạt Nt Nt Rìu,cuốc đá,rìu đồng,dao gặt đồng,cày đồng,liềm đồng,sắt Đồng Ngập nước về hè thu, ít nước đến se cạn về đông xuân Cày, cấy,dẫn hoặc tháo nước Ruộng Lạc,cấy 2 vụ(Di vật chí). Làm ruộng theo thủy triều(Giao Châu ngoại vực kí) Sâu III Đồng trũng Nước nhiều về hè thu.Nước rút về đông xuân Cuốc hoặc cày cấy Chiêm Thiên kỉ I TCN II Ưa nước, hạt dài Đao canh thủy nậu(Tiền Hán thư) Cuốc gỗ,cày đồng,liềm đồng,liềm sắt Đồng lầy Nước đủ về đông xuân Cuốc,sục bùn(dùng sức trâu hoặc sức người san cấy) Chiêm SCN III Ruộng dẫm của người Bana-Monông Cuốc gỗ,liềm sắt,cày,hái sắt Chương 3 PHƯƠNG THỨC KĨ THUẬT TRỒNG LÚA CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ 3.1. Biện pháp kĩ thuật trồng lúa. Nhiều nghiên cứu chứng tỏ nhờ sử dụng công cụ kim loại, cư dân Đông Sơn đã đẩy mạnh khai phá đất đai, mở rộng địa bàn cư trú: ở trung du, đồng bằng, ven biển, họ biết trồng lỳa trờn ruộng nước, trờn bói, trờn nương rẫy. Người Việt biết làm ruộng và làm rẫy. Từ đó hình thành hai phương pháp canh tác phù hợp với các loại ruộng: đao canh hỏa chủng và đao canh thủy nậu. Nông nghiệp lúa nước đòi hổi phải tiến hành công tác thủy lợi: đắp đe phòng lụt, chống hạn: chứng cứ trong thư tịch cổ, do nhu cầu thủy lợi mà các bộ lạc phải liên kết với nhau qua truyền thuyết Sơn Tinh. Thủy Tinh,... Đó là hai phương pháp chủ yếu, cùng với nó, nguyên nhân phát sinh một số biện pháp kĩ thuật trồng lúa được lí giải như sau: * Tái tạo cây mới qua nhận biết dùng hạt chính nó. Trong quá trình thu lượm hạt lúa hoang, nhờ quan sát nhiều lần đã tạo ra những hiểu biết đầu tiên về quá trình sinh trưởng của cây lúa là từ hạt nảy mầm mà ra đã dẫn tới biện pháp kĩ thuật gieo trồng đầu tiên tuy hết sức thô sơ nhưng đã là có bàn tay can thiệp của con người vào quá trình sinh vật này. Đó là công việc tiến hành gieo vãi hạt khụ trờn những mảnh đất tự nhiên vốn lầy đó khụ và lụi cỏ ngay trước mùa mưa. * Diệt cỏ dại. Qua quan sát cạnh tranh sinh tồn giữa lúa trồng và cỏ hoang người ta nhận thấy trong nhiều trường hợp cỏ mọc lẫn lúa ở những nơi có cỏ có thể khiển lúa lụi chết đi hoặc cằn cỗi cho mùa màng thấp kém. Điều đó dẫn tới nhận thức sự cần thiết phải diệt cỏ. Người xưa đã nghĩ ra nhiều cách diệt cỏ, như diệt cỏ trước khi trồng bằng cách đốt cỏ ở những nơi đã khô cứng: “Cửu Chõn cú tục đốt cỏ mà trồng trọt ở ruộng” (Hậu Hán thư) hoặc vùi ngầm dưới nước với đất cũn bựn ướt (phương pháp thủy nậu của đồng bào Tày ở Việt Bắc)... Diệt cỏ trong quá trình sinh trưởng của cây lúa bằng cách nhổ xới ở chân ruộng khô hoặc vơ ở chân ruộng nước, hoặc bằng cách bừa như cách làm ruộng ở đất cát của đồng bào Nghệ An mà Lê Quý Đụn đó ghi trong điều 162 của mục Phẩm vật trong “Võn Đài loại ngữ” hoặc như cách làm của đồng bào Thanh Hóa ở những chân ruộng xạ. * Làm đất. Đào hốc, bổ khóm là phương thức làm đất của người làm vườn trồng cây ăn quả lâu năm và trồng bầu bí. Tập quán này được áp dụng khi cư dân trồng củ chuyển sang trồng lúa. Ban đầu họ cũng không cuốc toàn thể bề mặt canh tác mà chỉ trọc những lỗ nhỏ vừa đủ tra các hạt thóc nhỏ xíu. Phương thức này chẳng mấy chốc tỏ ra kém hiệu lực ở những mảnh đất canh tác hoặc đất thịt ở nơi thấp vì đất không được đào xới sẽ dễ bị rẽ, chặt, không thích hợp cho loại rễ chùm ăn nông, rộng của cõy lỳa.Chớnh trong quá trình diệt cỏ đã mang lại hệ quả tự nhiên là làm cho đất tơi xốp nhờ đó mà cây lúa mọc tốt hơn, mùa màng thu hoạch cao hơn. Từ biện pháp đó, người xưa dần tiến tới biết làm tơi xốp đất ở những nơi đất khô hoặc sục bùn làm nhuyễn đất ở những nơi đất lầy trước khi gieo cây trồng, đầu tiên bằng cuốc, dũi đất, sau biết dùng cày lật đất. Ngoài ra trong quá trình sinh trưởng của cây lúa, người xưa còn biết vun xới và sục bùn khiến cho đất luụn thoỏng, cỏc chất hữu cơ, đạm, lân, kali...thức ăn cần thiết cho cây lúa được lắng xuống dễ dàng tới bộ phận rễ của cây lúa. * Chăm sóc cây và thay đổi cách trồng. Phương thức trồng thô sơ đơn giản nhất là gieo vãi hạt một cách thoải mái. Tự do trên mặt đất trồng và để kệ cho hạt lúa mọc tự do thành cây. Từ ngẫu nhiên biết cho tới quan sát nhiều lần thấy hạt lúa nằm phần trên mặt đất thường dễ bị sâu, kiến, chim phá hoại. Để tránh thiệt hại này , người xưa khi gieo biết dựng chõn gạt cành cây có nhều nhánh hoặc lỏ hộo để lấp hoặc chọc lỗ bỏ hạt. Do việc lấp hạt để bảo về cõy, trờn cơ sở đào hốc trồng cây của làm vườn, người xưa đã biết chọc lỗ bỏ hạt. phương thức này được coi là biến dị của phương thức trồng cây lâu năm. Từ chọc lỗ bỏ hạt trên ruộng khô, người xưa đó đó vận dụng trên ruộng nước thông qua biện pháp cấy mói, tức dùng một đoạn cây (như thanh kiếm gỗ) chọc xuống bùn rồi tiếp đó đặt cây mạ xuống. Việc cấy mói trờn ruộng nước này được thực hiện ở những thửa ruộng có đất thịt tương đối nặng và lối cấy này là phản ánh của quá trình cây lúa phát triển một bước từ ruộng bãi xuống ruộng nước sõu. Chớnh lối cấy mói này đã thấy ở những chân ruộng bãi được làm đất qua, thậm chí không cày bừa chỉ dựng mói chọc lỗ rồi cấy. Biện pháp cấy lúa là hiện tượng tương đối muộn khi nông nghiệp đồng bằng trũng được chiếm lĩnh và khi khâu làm đất ở những cánh đồng thấp và cao không kịp với gieo trồng, người ta phải nghĩ cách gieo mạ riêng ra một khu để kịp làm đất đại trà. * Từ be bờ giữ nước tới tưới tiêu nhân tạo. Những ruộng nước đầu tiên là những ruộng nước chờ mưa mùa hè. Do phát hiện được thuộc tính ưa nước, người xưa đã tìm cách giữ lại nước mưa) tự nhiên ở chân cây lúa bằng cách be bờ và sau đó tích cực hơn là biết tát nước, tháo nước, dẫn nước cho chảy vào ruộng bằng hệ thống gàu, mương phai. Nhu cầu đắp đê là để ngăn lũ lụt song lại mang lại hệ quả là giảm cho nước sông không chảy được vào đồng nữa. Điều đó cũng thúc đẩy quá trình xây dựng hệ thống kênh mương nhân tạo. Dần trong biện pháp canh tác nông nghiệp lúa, yếu tố nước được đề lên hàng đầu. nước có ảnh hưởng khá quyết định đến kết quả mùa màng và năng suất cây lúa. * Hệ quả của đắp đe và nhu cầu phân bón. Hệ quả của đắp đê không chỉ là thúc đẩy sớm ra đời hệ thống tưới nước nhân tạo mà còn nhăn chặn việc bồi đắp đất phù sa màu mỡ cho những cánh đồng trong đê. Việc đó khiến cho đất dần bạc màu và khiến người ta phải nghĩ cách tăng độ phì cho đất bằng cách khác. Đó là nguồn phân hữu cơ: những cây xanh mục nát. Đồng thời kết quả quan sát những đám ruộng có cây xanh mủn nát hoặc phân gia súc rơi vãi tự nhiên, cũng khiến người xưa nghĩ ra cách tăng độ phì cho đất bằng việc dùng cả phân bón hữu cơ và được coi là biện pháp thứ hai của kĩ thuật sản xuất nông nghiệp. * Mối quan hệ giữa thời vụ với cây trồng và thu hoạch. Yếu tố thời vụ có vai trò quan trọng trong sản xuất ông nghiệp trồng lỳa. Lỳa thuộc loại cây ngắn ngày, sinh trưởng nhanh và cho mùa màng sớm. Muốn đảm bảo cho cây lúa sinh trưởng đúng với bản chất trong môi sinh của nó, phải tuân theo thời vụ một cách chặt chẽ. Chỉ cần cấy chậm một tuần hoặc nửa tháng, hay thu hoạch sớm muộn cũng khoảng thời gian ấy là có thể thấy ảnh hưởng xấu đến ngay năng suất thu hoạch mùa màng. Chính vì vậy mà nông lịch ra đời với ý nghĩa người hướng dẫn cách làm nông sao cho khoa học. Thời vụ trở thành yếu tố không thể thiếu đối với sản xuất nông nghiệp. Trên đây chúng ta đã tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện phát sinh các biện pháp kĩ thuật trồng lúa. Bốn biện pháp kĩ thuật cơ bản bao trùm – được khái quát thành châm ngôn nông nghiệp – nước, phân, cần, giống, phản ánh tri thức nông nghiệp cao, đáng tự hào của nhân dân ta thời xưa – đã được dần hình thành trong quá trình lịch sử tiến triển của nghề trồng lỳa. Nó khụng dơn thuần chỉ là kĩ thuật mà có thể nói đó là toàn bộ qớa trỡnh sản xuất, là bản thân của sự sản xuất. Nó phản ánh sinh động và đầy đủ mối quan hệ biện chứng giữa cây trồng, môi sinh và kĩ thuật, mối quan hệ nhân quả chằng chéo phức tạp của một hiện tượng vừa là tự nhiên, vừa là xã hội. 3.2. Nông cụ. Bổ sung cho tư liệu về cây trồng còn nghèo nàn, những tập hợp nông cụ mà khảo cổ học biết được tới nay khá phong phú, có thể gợi ý về dạng cây trồng và đất đai canh tác. Công cụ sản xuất phổ biến của hệ thống di tích Phùng Nguyờn, Đụng Sơn là những lưỡi rìu bằng đá, rồi bằng đồng, bằng sắt. Tuy là công cụ vạn năng song xét ở góc độ 1, chúng trước hết là những công cụ để chặt cây, phá rừng (rừng khi ấy còn phủ phần lớn cả đồng bằng) tạo ra và mở rộng diện tích trồng trọt. Công cụ là đất rõ ràng đầu tiên còn lưu lại là những lưỡi cuốc đá và sau đó là cuốc bằng kim loại. Ở giai đoạn tiền Phùng Nguyờn và Phùng Nguyờn, cuốc đá thường có kích thước nhỏ, loại lớn ít hơn, chúng thường có dạng dẹt, mỏng, thích hợp cho vun xới ở đất cát nhẹ tơi xốp, phần lớn là những bãi bồi phù sa ven sông, biển. Giai đoạn Đồng Đậu – Gò Mun cuốc trở nên hiếm hơn. Điều đó có thể phản ánh một thực tế lịch sử lúc đó là bên cạnh việc tiếp tục canh tác các ruộng bãi, người thời đú đó đẩy mạnh quá trình khai phá đồng bằng, chiếm lĩnh cỏc vựng đất mới có cây cối phủ rậm rạp mà phương thức canh tác ban đầu ở các khu đất đó có thể là do canh hỏa chủng. Sang giai đoạn Đông Sơn khi ruộng đất ở đồng bằng đã được khai phá ít nhiều thuần thục, đất đã không còn rễ, gốc cây, đất thịt nhiều sét khỏ rắn và ít nhiều đã mất màu, đòi hỏi bề dày canh tác lớn hơn khiến có nhu cầu dùng cuốc đá canh tác dạng nặng hơn. Nhờ có kĩ thuật canh tác cũng như phát triển mạnh mẽ của kĩ thuật luyện kim, có thể đẩy mạnh việc sử dụng loại hình nông cụ mới: lưỡi cày. Đến giai đoạn Đông Sơn, chúng ta thấy các miền khác nhau của nước Văn Lang đã xuất hiện các kiểu lưỡi cày khác nhau thích hợp cho từng loại đất. Lưỡi cày hình tim kiểu Cổ Loa, hình tam giác kiểu Vạn Thắng tồn tại ở vùng đất thịt nặng, đồng bằng Bắc Bộ, lưỡi cày hình bướm, hình xẻng ở Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh thích hợp với loại đất phù sa thành phần cơ giới nhẹ. Cuối giai đoạn Đông Sơn khi những đồng trũng được khai phá, người Việt xưa lại làm ra một loại công cụ bằng gỗ thích hợp dùng để cuốc, san bùn được gọi là cuốc. Đó là những lưỡi cuốc Châu Can, Tiền Phong... Công cụ thu hoạch luôn là điểm sáng của khảo cổ học nước ta một thời gian dài, nghiên cứu lịch sử công cụ thu hoạch thời Hùng Vương, chúng ta chỉ biết tời hai lưỡi liềm đồng ở Gò Mun và Gũ Chựa Thụng và thực ra chức năng cỏt lỳa của hai hiện vật này cũng còn nhiều ý kiến nghi ngờ xem là vũ khí dùng để chém bổ (A.I. Mu-khơ-li-nốp: Nguồn gốc và các giai đoạn sớm của lịch sử tộc người của dân tộc Việt Nam. Maxcơva, 1977, tr.94). Gần đõy nhân việc phát hiện ra hai lưỡi nhíp đồng ở Thọ Vực, một số địa điểm khảo cổ học thuộc văn hóa Đông Sơn, nhận thức của giới khảo cổ học nước ta về các loại công cụ thu hoạch nâng lên một bước mới. Cho đến nay, những nhíp kiểu Thọ Vực thấy tồn tại ở Xóm Nhồi, Đình Tràng, Vinh Quang, Đồng Dền, Quả Cảm... Đó là những công cụ hình bán nguyệt hoặc bầu dục cú rìa tác dụng sắc cạnh nhờ trên mặt có những đường gân đúc nổi song song chéo nhau từ trái qua phải tạo ra những răng cưa li ti như chấu liềm. Ở các địa điểm Đông Sơn, Thiệu Dương cũng thấy một loại hiện vật tương tự song không có gân và có gắn thêm quai sỏ ngón tay, phải chăng nó cũng có chức năng cắt gặt. Việc phát hiện ra mảnh đồng hình chữ nhật có kích thước dài 3,7cm, rộng 2,6cm, dày 0,15cm, có lưỡi vồng ở lớp văn hóa Đồng Đậu của địa điểm Đồi Đà, gợi ý cho sự tìm tòi về một loại nhớp thỏp cỏn gỗ. Bên cạnh các kiểu nhíp khác nhau còn có khả năng tồn tại một loại hình dao gặt lưỡi cong như các tiêu bản thấy ở Đồng Đậu, Quỳ Tử... Dạng dao gặt này là tiền thân của liềm kiểu Gò Mun. Trong quá trình tiến triển đã dẫn tới xuất hiện những lưỡi liềm sắt kiểu Đông Sơn tương tự lưỡi liềm hiện đại. Chúng cũng có tiền thân là dao đá. Sự tồn tại các kiểu loại công cụ khác nhau nói lên quá trình cải tiến kĩ thuật. Song ở những thời điểm nhất định sự tồn tại song song của chúng cũng gián tiếp gợi ý suy nghĩ về sự tồn tại của các giống lúa và các phương thức canh tác khác nhau. C. PHẦN KẾT LUẬN Như vậy nghề trồng lúa ở nước ta ra đời khá sớm. Vào buổi đầu thời Hùng Vương, nghề trồng lỳa đó phát triển khá cao thành ngành sản xuất chủ yếu của dân tộc. Lúa gạo đã trở thành nguồn lương thực chính nuôi sống con người. Nó tác động mạnh đến đời sống vật chất và tinh thần của người Việt. Đầu công nguyên, nghề trồng lúa ở Giao Chỉ, Cửu Chõn đó có thể nuôi được 912.286 người, chứng tỏ nghề trồng lỳa đó phát triển khá dưới thời Hùng Vương. Đặc biệt, Giao Chỉ đó bỏn lương thực cho Cửu Chân và Hợp Phố vào những thế kỉ đầu công nguyên như Phạm Việp đã ghi trong “Chuyện Nhõm Diờn và Mạnh Thường”. Lúa là lương thực đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của con người, nó cũn in dấu ấn sâu sắc lên toàn bộ đời sống xã hội. Việc trồng cấy lúa nước qua chặng đường lịch sử dài dặc trở thành sở trường của người nông dân Việt, họ có được cả kho tàng kinh nghiệm phong phú về việc trồng cấy lúa nước theo mùa vụ đã được đúc kết thành nông lịch, họ tạo chọn được hàng trăm thứ giống lúa khác nhau ứng hợp với nhưng loại đất khác nhau về độ phì cao thấp trong những điều kiện khác biệt, thời gian sinh trưởng dài ngắn không giống nhau. Phải nói rằng kĩ thuật thâm canh cây lúa nước của người Việt đã đạt tới trình độ cao. Những biện pháp kĩ thuật liên hoàn được cụ đỳc thành câu tục ngữ: nhất nước, nhỡ phõn, tam cần, tứ giống. Trong hàng ngàn năm qua, trồng cấy lúa nước làm ra thóc gạo đó là sự lựa chọn và ứng xử tuyệt vời của người Việt với môi trường nhằm khai thác thuận lợi những ưu thế của thiên nhiên. Trồng cấy lúa nước trở thành ngành kinh tế cơ bản của người Việt, trở thành tập quán kinh tế tương đối ổn định. Nghề trồng lỳa cũn quy định quá trình tụ cư của người Việt cổ. Ngay từ hậu kỡ đỏ mới-sơ kì đồng thau, do thay đổi phương thức sống, trung tâm quần cư đã rời khỏi vùng núi hiểm trở, chuyển ra miền trước núi mà một trong các động lực chính của quá trình đó là sự phát triển dần mạnh mẽ của nghề trồng lúa. Đến khi nền nông nghiệp thủy lợi dùng cày và sức kéo gia súc ra dời vào những thế kỉ cuối cùng trước công nguyên lại tạo ra tiền đề cho sự di chuyển trung tâm quần cư mới từ trung du xuống đồng bằng: một diện mạo văn minh nông nghiệp đã hình thành. Nghề trồng lúa với nhu cầu thủy lợi của nó đã tạo ra sự cố kết cộng đồng vì công việc trị thủy đòi hỏi sự hợp lực của đông đảo mọi người... Nghề lỳa cũn có ảnh hưởng đến tổ chức xã hội, tõm lớ xã hội của người Việt. Sự tồn tại dai dẳng của các công xã láng giềng, mật độ dân cư đông đặc ở Đồng bằng Bắc Bộ, ý thức công xã ràng buộc người nồn dân Việt Nam với xóm làng, tõm lớ không thích tiến lên vùng trung du hoặc rẻo cao mà phát triển theo dọc biển, cuộc sống phụ thuộc vào thiên nhiên, tư tưởng bảo thủ, cố hữu của người nông dân... đều có liên quan đến nghề lúa nước. Tuy nhiên ở những lĩnh vực này cần có nhiều nghiên cứu sâu hơn ở các đề tài khác. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTuyenbtl.doc