Tiểu luận Phân tích và chứng minh: Người là hiện thân sáng chói của tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường đổi mới và sáng tạo

Trong thế kỷ XX, trên đất nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tiêu biểu nhất biết sử dụng những nhân tố hợp lý trong các học thuyết lớn của nhân loại, làm cơ sở cho hệ thống lý luận của mình. Và, điều quan trọng hơn cả là, Người luôn hướng tới cái mới, cái tiến bộ, mở rộng tầm nhìn ra thế giới để tư duy. Cái mới, cái tiến bộ là tài sản chung của nhân loại. Để nắm bắt được nó, đòi hỏi mỗi người cần phải có tri thức, nhất là để sử dụng, ứng dụng cái mới, cái tiến bộ vào cuộc sống càng đòi hỏi vốn kiến thức phải phong phú, đa dạng và sâu rộng. Bởi vậy với Chủ tịch Hồ Chí Minh con đường duy nhất để chiến thắng sự dốt nát, nhanh chóng tiếp cận với cái mới, cái tiến bộ là không ngừng học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, học trong các nhà trường và học ở ngoài đời. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh đã phản ánh đúng cuộc sống, phản ảnh đúng cái bất biến trong sự vạn biến sôi động của cuộc sống. .

doc20 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1640 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích và chứng minh: Người là hiện thân sáng chói của tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường đổi mới và sáng tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: Trong diễn văn tại lễ kỉ niệm 105 năm sinh ngày chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “Người là hiện thân sáng chói của tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ,tự lực tự cường đổi mới và sáng tạo” Hãy phân tích và chứng minh nhận định trên.Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện tại. BÀI LÀM I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng của Người là cách vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, và trong thực tế Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng Sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam. Nổi bật lên là tư tưởng “ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo ”. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Hồ Chí Minh -vị lãnh tụ,người cha già của dân tộc,người đã dành trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng,giành độc lập dân tộc-chẳng thế mà trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 105 năm ngày chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “Người là hiện thân sang chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ,tự lực tự cường đổi mới sang tạo” Câu văn gồm 2 vế,thể hiện 2 ý hoàn toàn độc lập về Bác vì vậy khi phát triển và chứng minh luận điểm này,ta hoàn toàn có thể xét từng vế một : +)Một là:Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội +)Hai là:Tinh thần độc lập tự chủ,tự lực tự cường đổi mới sáng tạo *)Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa xã hội được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu. Chủ nghĩa xã hội bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh tế-xã hội mà trong đó các sở hữu và các tài sản là thuộc quyền điều khiển của toàn thể cộng đồng nhằm mục đích tiến đến sự công bằng trong xã hội và trong kinh tế cũng như tiến đến một sự hợp tác tốt hơn.Quyền điềsự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội.Vì vậy muốn đạt tới lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên chống lại chủ nghĩa cá nhân.Những người theo chủ nghĩa cá nhân chủ trương không hạn chế mục đích và ham muốn cá nhân. Họ phản đối sự can thiệp từ bên ngoài lên sự lựa chọn của cá nhân - cho dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước, hoặc bất kỳ một nhóm hay một thể chế nào khác. Chủ nghĩa cá nhân do vậy đối lập với chủ nghĩa toàn luận, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cộng đồng, và chủ nghĩa công xã, tức là đối lập với những chủ thuyết nhấn mạnh đến việc công xã, nhóm, xã hội, chủng tộc, hoặc các mục đích quốc gia cần được đặt ưu tiên cao hơn các mục đích của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân cũng đối lập với quan điểm truyền thống, tôn giáo, tức đối lập với bất cứ quan niệm nào cho rằng cần sử dụng các chuẩn mực đạo đức hay luân lý ở bên ngoài, khách thể, để hạn chế sự lựa chọn hành động của cá nhân. Từ phương diện đạo đức, văn hoá,Hồ Chí Minh phát hiên ra rằng chủ nghĩa xã hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề phủ nhận cá nhân, trái lại, tôn trọng con người, phát triển mọi năng lực cá nhân vì phát triển xã hội và hạnh phúc của con người. Đây là chiều sâu trong tư duy biện chứng, trong nhãn quan văn hoá, đạo đức của Hồ Chí Minh.Vì vậy,người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới mong hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để có đạo đức cách mạng thì phải loại trừ mặt trái của nó là chủ nghĩa cá nhân. Đó là một kẻ thù nguy hiểm ngăn cản chúng ta đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng, tự mình phá huỷ sự nghiệp của mình. Đây chính là nỗi lo toan thường trực của Người. Từ đó,Người đưa ra lời khẳng định: “tư tưởng xã hội chủ nghĩa là chống tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách, bảo đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự hài hoà giữa cá nhân và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó mình vì mọi người, mọi người vì mình. Do đó, một trong những nét nổi bật của con người xã hội chủ nghĩa là phải đạt tới trình độ phát triển cao về đạo đức, về nhân cách, đủ sức chiến thắng chủ nghĩa cá nhân. Xã hội xã hội chủ nghĩa vừa đòi hỏi, vừa tạo ra những con người như thế và chăm lo giáo dục, phát triển con người 1à chiến lược quan trọng bậc nhất của chủ nghĩa xã hội. Song Hồ Chí Minh không bao giờ xem đạo đức là hiện tượng nằm ngoài tác nhân khác, gây nên sự chia cắt, đối lập giữa kinh tế với đạo đức. Người đề cao sức mạnh tinh thần đạo đức, nhưng không rơi vào duy ý chí, chủ quan hoặc chủ nghĩa trừu tượng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội luôn luôn nhất quán tính thống nhất biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và đạo đức. Từ cách tiếp cận đó về chủ nghĩa xã hội, thông qua hoạt động lý luận và thực tiễn hết sức phong phú, Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có khả năng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. u khiển có thể là trực tiếp qua một tập thể như hình thức công đoàn hay gián tiếp qua hình thức nhà nước. Nhìn theo khía cạnh kinh tế thì chủ nghĩa xã hội có đặc tính là sự sở hữu của các phương tiện sản xuất đã được "cộng đồng hóa". Sau khi nghiên cứu các học thuyết kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin,liên hệ cụ thể tình hình ở Việt Nam,Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp vô sản nhằm xoá bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài người. Đi sâu vào bản chất vấn đề này,Hồ Chí Minh phát hiện thấy và nhận ra rằng lý tưởng xã hội chủ nghĩa đã chung đúc tất cả lý tưởng,giải phóng dân tộc,giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội.Đó là ba mặt không thể tách rời,liên quan chặt chẽ đến nhau. Hồ Chí Minh làm phong phú thêm hướng tiếp cận chủ nghĩa xã Người nhìn nhận chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội bảo đảm. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đứng trước một thực tế là trở thành Đảng cầm quyền. Nỗi quan tâm lớn nhất của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hoá, biến chất làm mất lòng tin của dân. Đây là điều hệ trọng. thành Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh đòi hỏi sự tận tụy, hy sinh, sự mẫu mực trong sáng của Đảng và Nhà nước, biểu hiện không những ở tổ chức và thể chế, mà còn ở từng người, từng cán bộ, đảng viên của Đảng, những công chức của bộ máy chính quyền, những công bộc của dânluôn lấy cuộc sống hạnh phúc của nhân dân làm thước đo hiệu quả, làm căn cứ đánh giá công việc của Đảng và Nhà nước ta. Bản chất và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội có được bộc lộ ra không, có được phản ánh đúng đắn không là ở đó. Người viết: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” Người thấu hiểu sâu sắc rằng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi như vậy. Chính điều này làm sáng tỏ biết bao sự nhạy cảm và tinh tế của Hồ Chí Minh khi Người đặt lý luận về Đảng và Nhà nước của dân, do dân, vì dân vào vị trí cốt yếu của lý luận về chủ nghĩa xã hội và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng như vậy, Người xác định đạo đức và tư cách của Người cách mạng ở vị trí quan trọng hàng đầu quyết định thành bại của công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội. Mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Người nói:"Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"1. Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Từ cách đặt vấn đề này, theo Hồ Chí Minh, hiểu mục đích của chủ nghĩa xã hội, nghĩa là nắm bắt nội dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế chế độ xã hội mà chúng ta phấn đấu xây dựng. Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục đích là một nét đặc sắc, thể hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục đích của chủ nghĩa xã hội. Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: "Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động"2. Hoặc "Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân"3. Có khi Người diễn giải mục đích tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể: "chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội". Về động lực, nhất là động lực bên trong, nguồn nội lực thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã đưa ra những chỉ dẫn thiết thực và quý báu. Người khẳng định nhân tố, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự cố kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội. Người luôn luôn xây đắp khối đoàn kết dân tộc và nhấn mạnh: đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vô địch. Cùng với động lực tinh thần, Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất vì ích nước, lợi nhà. Người còn chủ trương áp dụng “Tân kinh tế chính sách” của Lênin khi Người khởi thảo điều lệ “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”. Dự cảm và trù tính về tương lai của Người là như vậy. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh văn hoá, giáo dục, khoa học là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người quan tâm đến vai trò của văn hoá ngày càng tăng trong sự phát triển, văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi; phải xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới. Đó là nguồn vốn, là của cải quý báu nhất của quốc gia. Ngoài các động lực bên trong, những nhân tố nội sinh là hết sức quan trọng, theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải kết hợp được với các nhân tố bên ngoài (ngoại sinh). Một trong những động lực bên ngoài là sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Độc Lập dân tộc Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản được thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau đây: Một là, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc.Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước luôn luôn đứng ở hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: "Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập...". Hồ Chí Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Đó không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng, nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử. Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ông ta mong muốn của mình và của nhân dân Việt Nam rằng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…” Hai là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Hồ Chí Minh đã khẳng định: Quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc, "dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng ở Hồ Chí Minh. Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nêu rõ : "Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc". Và tại Đại hội IX của Đảng lần này, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo Chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: "Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Nhìn ra bên ngoài và nhìn lại lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX vừa qua, chúng ta càng thấy rằng sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác. Như chúng ta đã biết, dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp mọi miền đất nước thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng, vẫn là nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu, các nhà lãnh đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có thừa trí dũng, không thiếu quyết tâm nhưng họ, cả giai cấp phong kiến và đại diện cho chế độ phong kiến, cả giai cấp tư sản và đại diện cho thế lực tư sản khi đó đều không giải quyết được vấn đề độc lập dân tộc ở nước ta. Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong "tình hình đen tối như không có đường ra". Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó ? Nhưng rồi chính lịch sử lại có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định : chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người và người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến, và đã bành trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển khi ấy đang trở thành "trung tâm vũ trụ", chi phối và làm mưa làm gió mọi mặt đời sống xã hội loài người. Nhưng chính thời điểm mà chủ nghĩa tư bản tưởng như đang cực thịnh ấy, thì Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra. Sự đột phá Tháng Mười mở đầu cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước Cách mạng Tháng Mười, chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển đến mức người ta rêu rao như một "định mệnh", như một "trật tự vĩnh hằng", thì sau Tháng Mười - 1917, không ai không thấy, cái "then" hãm thế giới ấy đã bị bẻ gẫy, điều định mệnh ấy thành ảo tưởng, cái trật tự ấy bị lật nhào, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Rõ ràng, tới những năm 20 của thế kỷ XX với những biến động to lớn và sâu sắc, đặc biệt với Cách mạng Tháng Mười Nga "rung chuyển thế giới", đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi; vì vậy con đường để giải quyết mâu thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng cũng thay đổi. Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính "sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi". Hơn ai hết, chính Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, bản lĩnh và tố chất đặc biệt Việt Nam đã "bắt gặp" chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nói như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - một cuộc gặp gỡ đẹp như cùng hẹn trước - đã chung đúc nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Với kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại : năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng tuyên bố : "Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Lời tuyên bố ấy cũng đồng nghĩa với lời bác bỏ thẳng thừng chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa; và nhìn rộng hơn, cũng bác bỏ bất cứ một thứ chủ nghĩa nào khác, bất cứ một con đường nào khác. Một cách tự nhiên là, ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi từ đó dọc thế kỷ XX, và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hòa bình, hạnh phúc của con người. Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam ta hôm nay và mai sau. Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp. Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là : Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Độc lập dân tộc thực sự đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do quốc gia - dân tộc đó giải quyết không có sự can thiệp từ bên ngoài. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về văn hóa, tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho nền tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập dân tộc càng đầy đủ và mạnh mẽ. Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng những khả năng và điều kiện bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.Bài học hàng đầu từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo đất nước là giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều này đã được cương lĩnh trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (1999) khẳng định: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Có thể nói độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là lý tưởng cao cả, mục tiêu cao đẹp của Đảng ta suốt 80 năm qua. Trong sự gắn bó này, độc lập dân tộc không thể bó hẹp trong phạm vi độc lập chủ quyền quốc gia, nhân dân thoát khỏi ách thống trị của bọn đế quốc mà còn đi đôi với giải phóng dân tộc và giải phóng con người thoát khỏi sự áp bức, bóc lột và có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Độc lập dân tộc là cơ sở và điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, chủ nghĩa xã hội bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Chính lý tưởng cao cả này đã soi sáng cho nhân dân ta lập nên những kỳ tích vang dội trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và trong công cuộc đổi mới đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay là một sự nghiệp đầy chông gai, thử thách nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà trong đó: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh! Muốn thực hiện được mục tiêu đó, đòi hỏi Đảng ta phải vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới; kiên định con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội! *)Độc lập tự chủ,tự lực tự cường đổi mới và sáng tạo Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập là không lệ thuộc, không phụ thuộc, không bắt chước, theo đuôi, giáo điều. Tự chủ là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu trách nhiệm trước dân, trước nước, biết làm chủ bản thân và công việc.Bác luôn cho rằng sự hỗ trợ của bạn bè năm châu là vô cùng quý báu nhưng giải phóng dân tộc giành độc lập tự do cho đất nước thì vẫn phải tự mình là chính,chúng ta cũng chọn con đường riêng cho đất nước mình trong tiến trình phát triển chung của nhân loại đó là con đường gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo. Sáng tạo là vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù; đồng thời cũng là tìm tòi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời được những đòi hỏi của cuộc sống đặt ra. Phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo của Hồ Chí Minh đã phát hiện ra những quy luật của cách mạng Việt Nam. Bằng phương pháp tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo,Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa Việt Nam-một nước kinh tế kém phát triền đi lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua chủ nghĩa tư bản trong điều kiện thế giới đầy biến động. Trong tham luận đọc tại Hội nghị Quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Cancútta (Ấn Độ), một giáo sư người Mỹ đã phát biểu: Hồ Chí Minh là một nghịch lý của lịch sử. Khi Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là đúng, nhưng Quốc tế Cộng sản (QTCS), vì chưa nhận thức rõ vấn đề dân tộc mà chỉ chăm chú vào giải phóng giai cấp công nhân toàn thế giới cho nên chỉ đạo thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) là chưa đúng. Đó là một nghịch lý. Hồ Chí Minh bị thực dân Anh bắt ở Hồng Kông ngày 6-6-1931, chúng không khai thác được gì ở Người mà còn định chuyển giao cho thực dân Pháp đưa Người về Đông Dương để thực hiện bản án tử hình đã tuyên tại Tòa án Vinh (Nghệ An) ngày 10-10-1929. Nhưng được sự giúp đỡ của vợ chồng Luật sư Lôgiơbai và những người bạn Anh, Người thoát khỏi nanh vuốt của kẻ thù. Tháng 7-1933, Người liên lạc với Pôn Vayăng Cutuyariê thông qua bà Tống Khánh Linh (số 29 - Môlie - Thượng Hải). Tháng 6-1934, Người về Liên Xô, ngay sau đó, được Ban phương Đông của QTCS điều đi nghỉ mát tại nhà an dưỡng Ximêít ở Crưm. QTCS đã nghi ngờ Bác: Tại sao Nguyễn Ái Quốc bị bắt lại được thả ra nhanh như vậy? Cho nên QTCS không phân công Người đi công tác nữa mà phân công Người về học trường Quốc tế Lênin theo Quyết định số 45, ngày 2-10-1934, số hiệu sinh viên 375. Một lần nữa, Hồ Chí Minh đúng, nhưng bị QTCS nghi ngờ. Người trở thành nghịch lý. Với ĐCSVN, do hiểu rõ vấn đề dân tộc trong hoàn cảnh lịch sử, khi cả dân tộc bị áp bức và nô lệ thì tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội đều là người dân mất nước, nô lệ. Vì vậy, vấn đề giải phóng dân tộc cao hơn vấn đề giải phóng giai cấp. Nếu không giải phóng được dân tộc thì không thể giải phóng được giai cấp. Cho nên Bác Hồ chỉ thành lập ĐCSVN hoạt động trên quốc gia Việt Nam chứ không thành lập ĐCSĐD theo sự chỉ đạo của QTCS. Bác đã xác định đúng cả mục tiêu, mâu thuẫn, phương pháp cách mạng, lực lượng cách mạng, lực lượng lãnh đạo cách mạng và tính chất quốc tế của Đảng Cộng sản ngay trong các Văn kiện vắn tắt tại Hội nghị thành lập ĐCSVN ngày 3-2-1930. Nhưng ngay sau đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10-1930 đã phê phán chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Bác, cho rằng đó là sai lầm về chính trị. Nếu Nguyễn Ái Quốc chủ trương cách mạng lấy công-nông làm gốc, phải đoàn kết với trung, tiểu địa chủ để tập hợp lực lượng về phía cách mạng, thì Hội nghị tháng 10-1930 phê phán Bác và nhận định về địa chủ: “Chúng nó đều thuộc về giai cấp địa chủ, là cừu địch của nông dân; mà đã thế thì phải đánh đổ và thâu hết ruộng đất của chúng nó”. Đối với giai cấp tư sản, trong các văn kiện thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc cũng chia ra loại tư sản mại bản, phản động cần phải đánh đổ, còn lại loại tư sản chưa rõ mặt phản động thì phải có sách lược lôi kéo làm cho họ giác ngộ đi theo con đường giải phóng dân tộc, con đường cách mạng. Nhưng Hội nghị tháng 10-1930 cho rằng, đã là tư bản dù to hay bé đều đánh đổ vì đó là kẻ thù của giai cấp công nhân “vẫn biết có bọn ấy, song chúng nó không đi một phe với mình được, mà cũng không thể lợi dụng chúng nó được; bọn ấy tốt nhứt chỉ là đứng về quốc gia cải lương, mà đã là quốc gia cải lương thì Đảng phải hết sức phá ảnh hưởng của nó trong quần chúng (đem thái độ mập mờ của chúng nó đối với phe đế quốc và địa chủ, và đối với phe công-nông để mà vạch mặt chúng nó ra). Nói rằng ít ra cũng phải làm cho nó trung lập, tức là như biểu Đảng đừng chủ trương công nhân tranh đấu với tư bổn bổn xứ. Đảng không có thể chủ trương như thế”. Vì vậy, “Án Nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của tháng 10-1930” đã quyết định: “Thủ tiêu chánh cương, sách lược vắn tắt và Điều lệ cũ của Đảng, lấy kinh nghiệm trong thời kỳ vừa qua mà thực hành công việc cho đúng như Án Nghị quyết và Thơ chỉ thị của QTCS”. Bỏ tên “Việt Nam Đảng Cộng sản” mà lấy tên “Đông Dương Cộng sản Đảng”. Trong thực tiễn, Bác đã nắm chắc lý luận Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam - lúc đó đang là thuộc địa của thực dân Pháp. Nếu giải phóng dân tộc mà chỉ có công nhân và nông dân làm thì không thể làm nổi. Công nhân, nông dân chiếm đại đa số trong dân cư, nhưng trình độ lý luận, tổ chức, tiềm năng kinh tế rất hạn chế. Mặt khác, khi đất nước bị giặc ngoại xâm đô hộ thì mọi người dân Việt Nam đều là người dân mất nước, đều căm thù quân xâm lược và cùng có chung mục tiêu giải phóng dân tộc. Cho nên rất cần thiết phải tập hợp và lôi kéo mọi tầng lớp nhân dân để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành một sức mạnh vô địch. Nếu không lôi kéo những lực lượng trung lập, những tầng lớp dân cư khác về với cách mạng mà coi họ là phần tử đối lập, thì họ sẽ đi về đâu? Cho nên chiến lược Hồ Chí Minh trong đường lối xác định lực lượng cách mạng là: tập hợp tất cả những lực lượng có thể tập hợp được, phân hóa các lực lượng có thể phân hóa được, lôi kéo những lực lượng có thể lôi kéo được, để thêm sức mạnh, thêm bạn, bớt thù. Điểm sáng tạo khi vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc là bắt đầu từ thực tiễn để vận dụng lý luận giải quyết vấn đề thực tiễn đó và từ thực tiễn bổ sung ngay vào lý luận chứ không phải bắt đầu từ lý luận áp đặt vào thực tiễn. Bác hiểu rất rõ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Mục đích của cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa trước hết phải xóa bỏ xiềng xích thống trị của chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tay sai, thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Ngay khi trở thành người đứng đầu Chính phủ nước Việt Nam độc lập, Người đã lãnh đạo Chính phủ bắt tay gây dựng một nền kinh tế tự chủ, sáng tạo và độc đáo bắt đầu từ con số không. Người kêu gọi toàn dân thực hiện các nhiệm vụ cấp bách, trước tiên là chống “giặc đói”, tổ chức “Tuần lễ vàng” và “Quỹ độc lập” để phục hồi sức người, sức của trong cảnh ngặt nghèo. Cùng với luận điểm độc lập dân tộc mới tạo nên nền kinh tế tự chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có những luận điểm cơ bản nữa về một nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển, đó là xây dựng nền kinh tế mở và xây dựng chiến lược con người, vì con người Tư duy của Hồ Chí Minh cho thấy, khi giành được độc lập, Việt Nam đã sẵn sàng hội nhập với thế giới trên tinh thần hiểu biết sâu sắc lẫn nhau và tầm nhìn hội nhập thời đại. Đó là một tư duy chiến lược về sự hợp tác nhằm mang lại những lợi ích thiết thực cho mọi quốc gia, dân tộc, xoá bỏ những hận thù, những âm mưu can thiệp vào công việc nội bộ và quyền tự quyết của quốc gia này với quốc gia khác. Nhưng tiếc thay, những tư duy cực đoan muốn đàn áp cai trị bằng sức mạnh, bằng vũ lực của chính quyền Pháp và Mỹ lúc bấy giờ đã làm mất đi cơ hội cho sự hợp tác và phát triển trong khoảng thời gian hàng chục năm, không những thế nó còn dẫn đến cuộc chiến tranh do kẻ địch “càng lấn tới” làm cho bao máu xương đã đổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc học không chỉ là để “tu dưỡng đạo đức cách mạng” mà còn “học để hành”. Cho nên, giáo dục đạo đức không chỉ là học đạo đức trong nhà trường mà phải gắn học với hành, gắn lý luận với thực tiễn. Thực tiễn bao giờ cũng là môi trường rèn luyện, thể hiện và thử thách những phẩm chất đạo đức của con người. Vì vậy, “Chúng ta không tin vào việc rèn luyện, giáo dục và học tập nếu những việc đó chỉ đóng khung trong các nhà trường và bị tách rời cuộc sống sôi nổi”. Để đảm bảo có hiệu quả cao, giáo dục đạo đức không chỉ là làm cho mọi người học thuộc lòng những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức mà phải làm cho người học nhận thức sâu sắc nội dung, ý nghĩa của nó và lấy đó làm cơ sở định hướng cho hành vi của mình. Trước đây, V.I.Lênin cũng đã từng nhấn mạnh rằng, giáo dục đạo đức cho con người không phải chỉ đơn giản là “nói cho họ nghe những bài diễn văn êm dịu hay những phép tắc đạo đức”. Bởi vì, nếu học nhiều và đọc nhiều nhưng không có khả năng kết hợp những kiến thức đã học vào hoạt động và những hành động của mình thì cũng chỉ là “những tên mọt sách hay những kẻ khoác lác” mà thôi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh, “học phải đi đôi với hành”, “lý luận đi đôi với thực tiễn”, lời nói phải đi đôi với việc làm; lý luận không có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng. Chính bản thân Người là bằng chứng sinh động và đầy thuyết phục của sự kết hợp tuyệt vời đó. Cho đến nay, vấn đề dân tộc là vấn đề hết sức nhạy cảm của các cộng đồng quốc gia. Nó sẽ còn tồn tại lâu dài trong tiến trình phát triển của nhân loại. Bác Hồ đã sớm thấy điều đó. Ngày nay trong xây dựng đất nước, bài học về tập hợp lực lượng toàn dân tộc của Bác đang soi sáng cho đường lối cách mạng Việt Nam. Chỉ có tập hợp được lực lượng, trí tuệ toàn thể dân tộc mới có thể hoàn thành được mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. *)Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay Nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa: Các nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách hiểu thông thường và truyền thống là một nền kinh tế phát triển toàn diện, có khả năng tự thỏa mãn những nhu cầu mọi mặt của đời sống xã hội, của an ninh, quốc phòng và quá trình tái sản xuất ; không bị lệ thuộc vào bên ngoài cả từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một cách bình thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an ninh quốc gia. Một nền kinh tế như vậy nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các quốc gia có đầy đủ mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí hậu lý tưởng, quy mô thị trường quốc gia đủ lớn, trình độ phát triển cao về khoa học – công nghệ và không cần phải có quan hệ kinh tế với nhau mà vẫn có thể tự tồn tại, phát triển được. Ngày nay, khi toàn cầu hóa đã phát triển ở mức cao, các thị trường quốc gia đã và đang tiếp tục mất đi những hàng rào ngăn cách quan trọng để từ đó tạo điều kiện hình thành thị trường thống nhất trên phạm vi các khu vực và toàn cầu, thì các luồng lưu chuyển khổng lồ về hàng hóa, dịch vụ, thông tin, vốn, công nghệ, nhân công và các mạng lưới công ty đa quốc gia rộng khắp toàn cầu đã gắn kết các quốc gia lại với nhau, làm cho chúng lệ thuộc vào nhau trong cả quá trình sản xuất lẫn quá trình tiêu thụ sản phẩm. Toàn cầu hóa càng phát triển thì sự tương tác, tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước càng tăng. Khủng hoảng kinh tế hay những chấn động kinh tế, tài chính xảy ra ở một nền kinh tế nào đó đều có tác động đến các nền kinh tế mà nó có quan hệ. Mức độ ảnh hưởng nhiều hay ít tùy thuộc vào quy mô của nền kinh tế đó và sức nặng của nó trong quan hệ với các nền kinh tế khác. Thực tế cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở một số nước Đông-Nam Á năm 1997 đã gây ra ảnh hưởng dây chuyền nghiêm trọng đối với tất cả các nước trong khu vực và cả nhiều nước khác trên thế giới. Suy thoái kinh tế ở Mỹ và một số nước khác năm 2001 cũng đã kéo theo suy thoái kinh tế ở rất nhiều nước trên thế giới và có tác động mạnh đến hầu hết các nước. Như vậy, rõ ràng một "nền kinh tế độc lập tự chủ" theo cách hiểu truyền thống không còn tồn tại trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay. Điều này buộc chúng ta phải có nhận thức mới phù hợp hơn với thực tiễn về khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ. Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá có thể được hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó ; trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu an ninh, quốc phòng của đất nước. Để có một nền kinh tế độc lập tự chủ, cần đáp ứng được những yêu cầu chủ yếu sau : - Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết. - Nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao. - Cơ cấu xuất nhập khẩu cơ bản cân đối ; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế ; cơ cấu thị trường quốc tế, đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu. - Đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong một ngành kinh tế, nhất là những ngành kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ lệ không thể chi phối nền kinh tế ; hạn chế hoặc không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành nhạy cảm. - Đảm bảo nền tài chính lành mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết trong cán cân thanh toán và có nguồn dự trữ quốc gia mạnh. Giáo dục: Xin được trích dẫn Báo Tuần Việt Nam (ngày 8-10-09) có đăng lại bản của Tia Sáng, với tựa đề Giáo sư Hoàng Tụy: Giáo dục không thể đổi mới vụn vặt Từ lâu ngành giáo dục đã có thói quen xem học sinh như những con chuột bạch để làm thí nghiệm thoải mái, mà điển hình là mười mấy năm liền thí nghiệm các chương trình phân ban trung học phổ thông. Thí nghiệm đi thí nghiệm lại không biết bao nhiêu lần, tốn kém bạc tỉ và không tính được hết thiệt hại cho các thế hệ học sinh nạn nhân thí nghiệm. Rất khó hiểu tại sao lợi ích của học sinh bị xem thường đến vậy. Thử nghĩ có hãng hàng không nào dám mạo hiểm đưa máy bay mới ra chỉ để thí điểm xem chở khách có an toàn không? Vậy tại sao Bộ GD-ĐT có quyền thực hiện thí điểm các chương trình phân ban cho hàng nghìn, thậm chí hàng vạn học sinh trong cả hơn chục năm trời ? Mỗi lần thí điểm đều kết luận chưa thành công, kết quả chưa tốt, thế mà người ta vẫn vô tư tiếp tục thí điểm. Quan điểm coi thường lợi ích của xã hội thể hiện trong nhiều chủ trương giáo dục mà nếu mô tả là “ngoan cố” có lẽ cũng không sai lắm. Về hàng loạt vấn đề quan trọng như quy chế công nhận, bổ nhiệm GS, PGS, quy chế tổ chức Hội Đồng Giáo Dục Quốc Gia, chuyện biên soạn, xuât bản và phát hành sách giáo khoa, chuyện thi cử, đào tạo Tiến Sĩ, Thạc Sĩ, v.v… đã có biết bao đề xuất hợp lý bị bỏ ngoài tai, phải chờ đợi đến cả chục năm trời hay hơn mới được nghiên cứu để tiếp thu. Có người khen Bộ GD-ĐT “trơ như đá, vững như đồng”, nhưng dù bậc trí lự cao siêu cũng không thể luôn luôn sáng suốt. Huống chi, nhìn vào bảng chi tiêu của ngành giáo dục thấy quá nhiều khoản chi lớn để “nâng cấp năng lực quản lý”, cử cán bộ đi tham quan, học tập kinh nghiệm ở các nước, chứng tỏ điều ngược lại có lẽ đúng hơn. Như đã nói trên, nguyên nhân sa sút của giáo dục là quản lý yếu kém, song cần nói cụ thể hơn là quản lý yếu kém như thế nào. Trong chiến tranh chống Pháp rồi chống Mỹ, giữa muôn vàn khó khăn, giáo dục nói chung và đại học nói riêng vẫn phát triển tốt là nhờ có được những vị tư lệnh hiểu biết sâu sắc giáo dục, có tầm nhìn xa, có uy tín cao trong ngành về cả đức độ và tài năng. Sau này chúng ta thường xuyên gặp khó khăn cũng chính là vì tâm và tầm của cơ quan quản lý giáo dục. Nếu xem giáo dục là quốc sách hàng đầu thì phải hết sức coi trọng nhiệm vụ lãnh đạo giáo dục. Người được giao phó nhiệm vụ này chẳng những phải hiểu biết sâu sắc giáo dục hiện đại mà còn phải có điều kiện tập trung toàn tâm toàn ý cho nhiệm vụ ấy. Không thể xem giáo dục là nơi học việc lãnh đạo, không thể giao những nhiệm vụ quan trọng trong quản lý giáo dục cho những người chưa biết việc, chưa thạo việc. Còn nếu ai chưa thạo việc, chưa biết việc thì hãy để họ học việc thành thạo rồi hãy giao việc. Đáng lo là ở nước ta có quá nhiều vị được giao nhiệm vụ rồi mới học việc, có khi học việc chưa xong chỗ này đã chuyển sang học việc chỗ khác quan trọng hơn, rốt cuộc biến mỗi ngành công tác thành một phòng thí nghiệm đồ sộ, một nơi thực tập, học việc cực kỳ tốn kém cho xã hội. Có những câu hỏi thật khó trả lời: tại sao sau ba mươi năm mà các quy chế đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ, hay công nhận, bổ nhiệm GS, PGS của ta vẫn còn nhiều điểm ấu trĩ so với ngay cả một số nước trong khu vực ? Tại sao nhiều quy định sai lầm đến buồn cười trong các quy chế ấy vẫn tồn tại dai dẳng thời gian dài trước đây và có nhiều cái tồn tại mãi đến tận hôm nay ? Có người bảo rằng ta không thể máy móc sao chép cách làm của nước ngoài cho nên phải sáng tác cách làm riêng phù hợp với điều kiện của ta. Nghe rất có lý, nhưng phải xét hậu quả thực tế là với cách quản lý ấy ta đã đào tạo ra hàng ngàn tiến sĩ giấy và xây dựng được một đội ngũ PGS, GS với trình độ, chất lượng ra sao ai cũng biết. Ngay gần đây tôi được biết chúng ta có cả những cơ sở đào tạo tiến sĩ về quản lý giáo dục. Cái tin ấy thật sự làm tôi ngỡ ngàng: rồi đây số tiến sĩ ấy đương nhiên sẽ đóng góp vào con số 20000 tiến sĩ ta dự định đào tạo trong 11 năm tới. III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Trong thế kỷ XX, trên đất nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tiêu biểu nhất biết sử dụng những nhân tố hợp lý trong các học thuyết lớn của nhân loại, làm cơ sở cho hệ thống lý luận của mình. Và, điều quan trọng hơn cả là, Người luôn hướng tới cái mới, cái tiến bộ, mở rộng tầm nhìn ra thế giới để tư duy. Cái mới, cái tiến bộ là tài sản chung của nhân loại. Để nắm bắt được nó, đòi hỏi mỗi người cần phải có tri thức, nhất là để sử dụng, ứng dụng cái mới, cái tiến bộ vào cuộc sống càng đòi hỏi vốn kiến thức phải phong phú, đa dạng và sâu rộng. Bởi vậy với Chủ tịch Hồ Chí Minh con đường duy nhất để chiến thắng sự dốt nát, nhanh chóng tiếp cận với cái mới, cái tiến bộ là không ngừng học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, học trong các nhà trường và học ở ngoài đời. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh đã phản ánh đúng cuộc sống, phản ảnh đúng cái bất biến trong sự vạn biến sôi động của cuộc sống. .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31546.doc