Tiểu luận Phát triển dịch vụ ngân hàng Việt Nam trong giai đọan 2009 - 2011

LỜI MỞ ĐẦU Quá trình tự do hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang phát triển ngày càng mạnh mẽ cả về quy mô và tốc độ. Không nằm ngoài xu hướng đó, Việt Nam cũng đang rất tích cực tham gia vào quá trình này. Dịch vụ ngân hàng là một trong những ngành dịch vụ quan trọng, nhạy cảm có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của nền kinh tế và sự thành công của tiến trình hội nhập. Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế đất nước, dịch vụ ngân hàng không ngừng tăng trưởng, vững mạnh về quy mô, mạng lưới giao dịch, năng lực tài chính, năng lực điều hành, số lượng và chất lượng sản phẩm ngày càng đa dạng, Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, dịch vụ ngân hàng Việt Nam còn bộc lộ những mặt hạn chế, thực sự chưa đáp ứng được yêu cầu của giai đọan hội nhập kinh tế quốc tế như từng dịch vụ của ngân hàng thương mại chưa tạo dựng được thương hiệu riêng, quy mô của từng dịch vụ còn nhỏ, chất lượng dịch vụ thấp, sức cạnh tranh yếu, hoạt động marketing ngân hàng chưa mạnh Trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), dịch vụ ngân hàng được dự báo sẽ là dịch vụ cạnh tranh rất khốc liệt khi “vòng” bảo hộ cho ngân hàng thương mại trong nước không còn. Vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng Việt Nam đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài trong giai đoạn hội nhập, Em chọn đề tài “Phát triển dịch vụ ngân hàng Việt Nam trong giai đọan 2009 - 2011” làm bài tiểu luận Tài chính doanh nghiệp. Hi vọng đề tài sẽ góp phần nhỏ giúp cơ quan hữu quan định hướng và có cơ sở giải quyết các vấn đề về hoạt động dịch vụ ngân hàng trong giai đoạn mới. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VÀ XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 2 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP 5 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP 22 KẾT LUẬN 25

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1479 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phát triển dịch vụ ngân hàng Việt Nam trong giai đọan 2009 - 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Quá trình tự do hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang phát triển ngày càng mạnh mẽ cả về quy mô và tốc độ. Không nằm ngoài xu hướng đó, Việt Nam cũng đang rất tích cực tham gia vào quá trình này. Dịch vụ ngân hàng là một trong những ngành dịch vụ quan trọng, nhạy cảm có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của nền kinh tế và sự thành công của tiến trình hội nhập. Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế đất nước, dịch vụ ngân hàng không ngừng tăng trưởng, vững mạnh về quy mô, mạng lưới giao dịch, năng lực tài chính, năng lực điều hành, số lượng và chất lượng sản phẩm ngày càng đa dạng,… Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, dịch vụ ngân hàng Việt Nam còn bộc lộ những mặt hạn chế, thực sự chưa đáp ứng được yêu cầu của giai đọan hội nhập kinh tế quốc tế như từng dịch vụ của ngân hàng thương mại chưa tạo dựng được thương hiệu riêng, quy mô của từng dịch vụ còn nhỏ, chất lượng dịch vụ thấp, sức cạnh tranh yếu, hoạt động marketing ngân hàng chưa mạnh… Trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), dịch vụ ngân hàng được dự báo sẽ là dịch vụ cạnh tranh rất khốc liệt khi “vòng” bảo hộ cho ngân hàng thương mại trong nước không còn. Vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng Việt Nam đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài trong giai đoạn hội nhập, Em chọn đề tài “Phát triển dịch vụ ngân hàng Việt Nam trong giai đọan 2009 - 2011” làm bài tiểu luận Tài chính doanh nghiệp. Hi vọng đề tài sẽ góp phần nhỏ giúp cơ quan hữu quan định hướng và có cơ sở giải quyết các vấn đề về hoạt động dịch vụ ngân hàng trong giai đoạn mới. CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VÀ XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ I. Khái quát về dịch vụ ngân hàng 1. Dịch vụ ngân hàng truyền thống Các dịch vụ ngân hàng truyền thống có quá trình hình thành và phát triển lâu dài như: Thực hiện trao đổi ngoại tệ, chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại, huy động vốn, bảo quản vật có giá, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cung cấp các tài khoản giao dịch, cung cấp các dịch vụ uỷ thác. +. Thực hiện trao đổi ngoại tệ +. Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. +. Huy động vốn. +. Bảo quản vật có giá trị. +. Tài trợ các hoạt động của chính phủ +. Cung cấp các tài khoản giao dịch. +. Cung cấp dịch vụ ủy thác. 2. Dịch vụ ngân hàng hiện đại a. Khái quát về dịch vụ ngân hàng hiện đại - Dịch vụ ngân hàng hiện đại là: dịch vụ ngân hàng truyền thống được nâng cấp, phát triển trên nền tảng công nghệ hiện đại (process innovation) và những dịch vụ hoàn toàn mới được cung cấp nhằm đem lại những tiện ích mới cho người sử dụng (product innovation) như các dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ ngân hàng trực tuyến, dịch vụ ngân hàng bán lẻ, các dịch vụ tư vấn và môi giới tài chính, bảo hiểm… - Sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng hiện đại không hoàn toàn là sự thay thế các sản phẩm truyền thống mà nó mang tính kế thừa, thậm chí là sự nâng cấp của các sản phẩm truyền thống. Với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại thì những quan hệ giao dịch trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng ngày càng thu hẹp lại và thay thế vào đó là các giao dịch ngân hàng tại nhà (Home Banking), ngân hàng qua Internet (Internet Banking), ngân hàng qua điện thoại (Phone/Mobile Banking)... Trong một nền kinh tế năng động, một xã hội phát triển và thịnh vượng thì nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại là rất lớn. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam có thể thấy các nhu cầu này chưa nhiều, song trong định hướng lâu dài thì nhu cầu này sẽ không ngừng tăng lên theo tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, doanh số và lợi nhuận của mảng hoạt động này sẽ dần chiếm tỷ trọng đáng kể và trở nên quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. b. Các sản phẩm dịch vụ cung ứng tại Việt Nam +. Dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ ngân hàng trực tuyến với những tiện ích vượt trội, khách hàng có thể mở tài khoản ở một nơi nhưng thực hiện giao dịch ở bất kỳ chi nhánh nào thuộc hệ thống. +. Các dịch vụ thanh toán tiếp tục duy trì xu hướng gia tăng, đặc biệt là các dịch vụ thanh toán có ứng dụng công nghệ cao, trong đó dịch vụ thẻ vẫn tiếp tục phát triển mạnh. +. Dịch vụ mở và thanh toán qua tài khoản cá nhân đang trong xu thế phát triển nhanh chóng, với sự tham gia ngày một gia tăng lượng khách hàng vào thị trường chứng khoán +. Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ ngày càng được các NHTM Việt Nam quan tâm phát triển với nhiều chủng loại đa dạng và tiên tiến. Nhiều tiện ích của sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ đã được khai thác áp dụng cho toàn bộ các sản phẩm chuyển tiền, tiền gửi, tiền vay, đầu tư dài hạn vào giấy tờ có giá, các nghiệp vụ giao dịch ngoại hối như: Hợp đồng giao ngay (Spot), Hợp đồng kỳ hạn (Forward), Hợp đồng hoán đổi (Swap)... Đây là những dịch vụ tiên tiến đã được kiểm chứng và đánh giá là an toàn về chất lượng cung ứng dịch vụ, tiện lợi trong giao dịch, hiệu quả trong kinh doanh, đầu tư. II. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng 1. Xu hướng của quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng - Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng của một nền kinh tế được thể hiện thông qua mức độ mở cửa về hoạt động Ngân hàng giữa nền kinh tế đó với cộng đồng tài chính, tiền tệ khu vực và quốc tế. Mức độ mở cửa hội nhập quốc tế về hoạt động Ngân hàng là mức độ quan hệ giao lưu về ngân hàng (gồm các quan hệ tín dụng, tiền tệ và dịch vụ ngân hàng) của một nền kinh tế với phần còn lại của thế giới, là quá trình tự do hóa khu vực tài chính tiền tệ, tín dụng ngân hàng, tháo dỡ các rào cản ngăn cách khu vực này với phần còn lại của thế giới. 2. Tác động cơ bản của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng a. Tác động tích cực +. Tạo ra nguồn vốn mới và đưa đến các thông lệ quốc tế trong hoạt động giám sát ngân hàng. +. Nguồn vốn được phân bố hiệu quả hơn +. Cải thiện sự hiệu quả của hệ thống ngân hàng trong nước +. Nâng cao trình độ quản lý của các ngân hàng trong nước +. Cải thiện sự ổn định của hệ thống ngân hàng trong nước +. Chất lượng dịch vụ tài chính tốt hơn với chi phí thấp hơn b. Tác động tiêu cực +. Tác động tiêu cực tới hệ thống tài chính và nền kinh tế trong nước +. Tác động đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng trong nước +. Tác động đến danh mục tín dụng của các ngân hàng trong nước +. Tác động đến nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao + Tác động đến hoạt động quản lý, giám sát trong hoạt động ngân hàng. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP I. Thực trạng thị trường dịch vụ ngân hàng Việt Nam 1. Khái quát tình hình thị trường một số sản phẩm dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian qua a. Thị trường tài chính Trong thời gian qua, cùng với các TCTD là những chủ thể chính trong cung cấp dịch vụ ngân hàng, đã xuất hiện thêm nhiều trung gian tài chính của các chủ thể nước ngoài, các tổ chức khác không phải ngân hàng cũng tham gia cung cấp dịch vụ ngân hàng. Tất cả đã tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên thị trường Tài chính Việt nam trong thời gian qua. Đối tượng được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế được mở rộng hơn, bên cạnh các khách hàng là doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức kinh tế đã xuất hiện rất nhiều khách hàng là các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Môi trường pháp lý cho hoạt động cung cấp các dịch vụ ngân hàng đã được hình thành và đang ngày càng hoàn thiện đã góp phần hoàn thiện khuôn khổ thể chế về dịch vụ ngân hàng, nhằm định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng và góp phần điều chỉnh phù hợp hành vi của các chủ thể tham gia trên thị trường Việt Nam. HUY ĐỘNG VỐN TỪ NGUỒN KINH TẾ Đơn vị: Nghìn tỷ đồng. Nhìn chung, đóng góp cho tổng nguồn vốn huy động cho nền kinh tế từ các tổ chức tín dụng tăng đều qua các năm, năm sau cao hơn năm trước. Tính đến cuối năm 2010, tăng trưởng huy động vốn của toàn hệ thống TCTD đạt 47,64%, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng 36,53% của năm 2009 và 32,08% của năm 2008. Trong đó huy động vốn bằng VND tăng 53,99%, tăng mạnh so với mức 41,15% của năm 2009; huy động ngoại tệ đạt 29,66%, tăng so với mức 25,31% của năm 2009. Tăng trưởng huy động vốn của khối ngân hàng cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các TCTD phi ngân hàng mạnh nhất, đạt 101,85%, huy động vốn của khối NHTM nhà nước cũng đạt tốc độ tặng 24,45%. Theo thống kê mới nhất thu thập được từ ngân hàng nhà nước, tỷ lệ tăng trưởng vốn huy động của cả nước năm 2009 tiếp tục tăng mạnh. Tính đến tháng 10/2009 tổng vốn huy động đạt mức tăng trưởng hơn 22% so với thời điểm cuối năm 2008. Vào thời điểm từ nay đến cuối năm, các ngân hàng thương mại liên tục tăng cao lãi suất huy động và áp dụng nhiều hình thức quảng bá, khuyến mãi nhằm hút lượng tiền gửi đáp ứng cho nhu lớn lượng tiền nhàn rỗi của tổ chức kinh tế và trong dân cư.cầu vốn lớn của các doanh nghiệp vào thời điểm cuối năm nên triển vọng tốc độ tăng trưởng 22% sẽ còn tăng cao. Trước áp lực cạnh tranh với các kênh huy động khác như thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, trái phiếu chính phủ, …, các TCTD đã có nhiều giải pháp tăng cường huy động vốn như đa dạng hoá các hình thức huy động thông qua việc tăng lãi suất, mở tài khoản thanh toán, dịch vụ thẻ hấp dẫn, … Ngoài ra việc mở rộng mạng lưới chi nhánh phòng giao dịch của hệ thống TCTD trong năm qua đã góp phần thu hút được khá. b. Thị trường tín dụng Năm 2010, dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng 53,89% so với năm 2009, cao hơn nhiều so với mức tăng 25,44% của năm 2009, góp phần đáp ứng có hiệu quả nhu cầu vốn của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế. Tăng trưởng tín dụng cao nhất tập trung ở khối NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các TCTD phi ngân hàng, đạt mức tăng 105,27%, khối NHTM nhà nước có tốc độ tăng 31,09%. TÍN DỤNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ Đơn vị: Nghìn tỷ đồng Tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông thôn (gồm ngành nông – lâm – thuỷ sản) chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu cho vay theo ngành của hệ thống ngân hàng, khoảng 28,92%. Tỷ trọng cho vay ngành công nghiệp và thương nghiệp đã cải thiện hơn so với năm trước, chiếm 26,02% và 18,24%; tỷ trọng cho vay ngành xây dựng được duy trì ở mức như năm 2009, chiếm 14,15% trong tổng dư nợ. Theo thống kê từ VCCI đến hết tháng 10/2010, tổng dư nợ tăng trên 33% so với cuối năm 2009. Tỷ lệ này hiện đã cao hơn tốc độ tăng vốn huy động so với năm 2009 là 22%, vượt 3% so với kế hoạch tăng trưởng tín dụng đến cuối năm 2010 cuối chính phủ. Mức tăng trưởng này theo các chuyên gia phân tích là chưa đáng lo ngại so với tỷ lệ nợ xấu vẫn được khống chế dưới mức 3%. Tuy nhiên, cần kiểm soát tăng trưởng tín dụng chặt hơn từ nay đến cuối năm để tránh tình trạng tăng trưởng nóng tín dụng gây ra nguy cơ lạm phát cho nền kinh tế. c. Thị trường dịch vụ thanh toán Cơ cấu TPTTT có thay đổi tích cực, tiền gửi vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng phương tiện thanh toán, chiếm 83,64%. Trong đó tỷ trọng tiền gửi bằng VND chiếm 64,46%, tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm 19,18%. Tỷ trọng tiền mặt chiếm 16,36% và liên tục giảm dần từ trong những năm gần đây. Tuy tỷ trọng hàng năm đã giảm nhưng còn ở mức cao hơn so với thế giới; tỷ trọng này ở các nước tiên tiến như Thụy Điển là 0,7%, Na Uy là 1%, còn Trung Quốc là nước phát triển trung bình nhưng cũng chỉ ở mức là 10%. Một trong các phương tiện thanh toán khá phổ biến hiện nay là thẻ thanh toán giao dịch qua máy ATM, máy POS; tuy số lượng thẻ, máy ATM, máy POS do các ngân hàng thương mại phát hành, lắp đặt ngày càng tăng nhưng tác dụng giảm khối lượng tiền mặt vào lưu thông còn rất khiêm tốn. CƠ CẤU TỔNG PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN Ở nước ta, thanh toán bằng séc đã ra đời từ những năm 1960 nhưng đến nay, phương tiện thanh toán này ngày càng giảm. Mặc dù thanh toán bằng séc có nhiều thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua bán, người mua hàng ký séc đưa cho người bán và người bán chỉ cần cầm séc và CMND ra ngân hàng là có thể nhận được tiền hoặc chuyển vào tài khoản nhưng hiện nay, tỷ lệ thanh toán bằng séc mới chiếm khoảng 2% trong tổng thanh toán phi tiền mặt d. Thị trường dịch vụ ngoại hối Thị trường ngoại hối Việt Nam trong 3 năm gần đây có những nét chính như sau: - Năm 2008, thị trường ngoại hối có 1 số đặc điểm: Cung ngoại tệ trên thị trường lớn Lượng đầu tư gián tiếp tăng 6,5 lần so với năm 2007 và gây ra hiện tượng thừa ngoại tệ tại một số thời điểm. - Sang năm 2009, thị trường ngoại hối từng có những đợt biến động mạnh và căng thẳng; tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do có lúc lên sát 19.000 VND. Những diễn biến này được đặt trong những áp lực cơ bản: nhập siêu tăng kỷ lục và lạm phát tăng rất mạnh. - Trong hơn 10 tháng đầu năm 2010, thị trường ngoại hối Việt Nam có nhiều khó khăn. Nhiều thời điểm thanh khoản ngoại tệ trên thị trường có dấu hiệu khan hiếm, nổi lên tình hình căng thẳng về ngoại tệ kinh doanh của các ngân hàng thương mại, có người gọi đó là "tình trạng đóng băng thị trường ngoại hối", gây áp lực lên tỉ giá và các chính sách quản lý ngoại hối của NHNN. Tuy nhiên, trong tháng 8 vừa qua, theo thông tin từ lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, tình hình cung – cầu ngoại tệ trên thị trường đã bớt căng thẳng; doanh nghiệp và người dân cũng đã bắt đầu bán ra USD thay vì chủ yếu găm giữ trước đó. Và tính đến thời điểm hiện nay, thị trường ngoại hối của Việt Nam đã dần lấy lại được sự ổn định sau khi chính phủ và Ngân hàng nhà nước cam kết thực hiện các biện pháp can thiệp mạnh mẽ. - Nhìn chung, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách ngoại hối đã có những thay đổi quan trọng, một số quy định đã thông thoáng hơn như: Biên độ của tỷ giá mà SBV quy định được nới rộng dần theo thời gian trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới của kinh tế Việt Nam. Ban đầu tỷ giá là cố định, sau đó tỷ giá có biên độ dao động từ mức +/- 0.25%; +/-0.3% … và hiện nay +/- (3%-5%) Mở ra nhiều nghiệp vụ mới, đặc biệt là các nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Tuy nhiên cho đến nay, ở Việt Nam các nghiệp vụ phái sinh vẫn còn sơ khai, kém phát triển thể hiện ở doanh số giao dịch thấp, thậm chí ở một số NHTM mặc dù đã triển khai nghiệp vụ option nhưng không có giao dịch. Mặc dù trên thế giới các nghiệp vụ phái sinh để bảo hiểm rủi ro tỷ giá như forward, swap, futures, option đã được sử dụng phổ biến từ rất lâu với doanh số hàng ngày lên tới hàng trăm tỷ USD. Chính vì vậy, việc ứng dụng các công cụ phái sinh nhằm bảo hiểm rủi ro tỷ giá tại Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn Có thể nói, thị trường ngoại hối Việt Nam sau 19 năm (kể từ năm 1990) hoạt động đã có nhiều sự phát triển nhưng chúng ta vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết như ngoại tệ trôi nổi ngoài sự kiểm soát, quản lý hoạt động kinh doanh của các ngân hàng,... e. Thị trường dịch vụ khác Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng khác hiện đang được triển khai tại Việt Nam có thể kể đến đó là các dịch vụ ngân hàng điện tử - các sản phẩm dịch vụ nâng cấp từ các sản phẩm dịch vụ chính yếu của ngân hàng (như internet-banking; home-banking; phone-banking; sms,mobile-banking, …) và các sản phẩm dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư, kinh doanh bảo hiểm, … - các sản phẩm kết hợp dịch vụ tài chính phi ngân hàng - Dịch vụ ngân hàng điện tử Hiện nay, Ngân hàng điện tử tồn tại dưới hai hình thức: hình thức Ngân hàng trực tuyến, chỉ tồn tại dựa trên môi trường mạng internet, cung cấp dịch vụ 100% qua môi trường mạng; và mô hình kết hợp giữa hệ thống ngân hàng thương mại truyền thống và điện tử hóa các dịch vụ truyền thống, tức là phân phối những sản phẩm dịch vụ cũ trên những kênh phân phối mới. Ngân hàng điện tử. Ngân hàng điện tự Việt Nam chủ yếu phát triển theo mô hình này. Từ năm 1994, NH ngoại thương Việt Nam triển khai dịch vụ Home-banking. Đến năm 1999, NH ngoại thương VN thực hiện dịch vụ Ngân hàng bán lẻ đầu tiên ở VN với hệ thống VCB vision 2010. Đến tháng 11/2002, NH Công Thương VN khai trương dịch vụ này. Hiện nay đối với dịch vụ PC-banking, trên thị trường còn khá nhiều NHTM trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ Ngân hàng điện tử (như Vietcombank, Techcombank, ACB, Eximbank, Đông Á, ANZ, Citibank…). - Các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư, bán bảo hiểm qua kênh ngân hàng (bancassurance) Trong thời gian qua, các sản phẩm dịch vụ này vẫn còn khá mới mẻ trên thị trường tài chính Việt Nam nên cũng chỉ mới phát triển trong giai đoạn thử nghiệm, vẫn chưa được phân phối rộng khắp trên toàn hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên cũng cho những kết quả khả quan như các sản phẩm tư vấn tài chính cá nhân của ACB, kết hợp bán các sản phẩm bảo hiểm giữa techcombank và AIA… 2. Những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động của thị trường DVNH VN a. Những hạn chế Các dịch vụ mà hệ thống NHVN cung cấp trên thị trường chủ yếu vẫn là các dịch vụ truyền thống như huy động vốn và cấp tín dụng đối với nền kinh tế. Điều này thể hiện: Doanh thu từ hoạt động tín dụng chiếm hơn 70% trong nguồn thu dịch vụ của ngành ngân hàng, tỷ lệ thu nhập từ những loại hình dịch vụ ngân hàng khác trong nguồn thu dịch vụ của các ngân hàng VN vì thế thấp hơn nhiều so với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và càng thấp hơn nếu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sự đơn điệu được thể hiện ngay cả trong các loại hình dịch vụ ngân hàng truyền thống : huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi, còn cấp tín dụng chủ yếu dưới dạng cho vay. Thị trường dịch vụ ngân hàng phát triển dưới mức tiềm năng. Mức độ thoả mãn nhu cầu xã hội nói chung và đặc biệt nhu cầu của dân cư về dịch vụ ngân hàng còn nhiều hạn chế do khả năng cung ứng dịch vụ ngân hàng còn chưa vươn kịp với nhu cầu của xã hội: Đa số các ngân hàng quan tâm nhiều tới dịch vụ ngân hàng bán buôn, dịch vụ ngân hàng bán lẻ bước đầu đã được chú trọng và hiện nay còn rất nhiều tiềm năng cần phát triển đặc biệt là đối với dịch vụ thanh toán thẻ trong dân cư. Với hơn 82 triệu người dân, theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, thị trường Việt nam sẽ có khoảng hơn 10 triệu người có khả năng sử dụng các loại thẻ thanh toán - trong khi hiện nay số lượng khách hàng sử dụng thẻ mới đạt tới con số 2 triệu. Đây là cơ hội và cũng là những thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Rất nhiều dịch vụ ngân hàng bán lẻ đã được các TCTD triển khai như dịch vụ tài khoản, séc, thẻ, quản lý tài sản, tín dụng, cầm cố, tín dụng tiêu dùng... Các dịch vụ ngân hàng của các TCTD thiếu sự liên kết, hợp tác đã làm giảm đáng kể hiệu quả kinh doanh của cả hệ thống ngân hàng. Chưa có sự tương thích, liên kết trên diện rộng giữa các hệ thống phát hành các loại thẻ của các ngân hàng khác nhau, dịch vụ thẻ ATM chưa kết nối chung toàn ngành Ngân hàng vì thế đã vừa gây tăng chi phí, vừa hạn chế việc đáp ứng các nhu cầu về sử dụng thẻ một cách dễ dàng và đa tiện ích trong dân cư. Máy ATM hay bị trục trặc, tiền không được đưa vào máy kịp thời làm cho người sử dụng đôi khi không rút được tiền khi cần. Mặt khác việc hạn chế số tiền rút/lần và số lần rút/ ngày cũng làm giảm đi tính tiện ích của dịch vụ ATM. Cơ sở hạ tầng của các ngân hàng phát triển không đồng đều, hệ thống chuyển mạch của các ngân hàng cũng không đồng bộ nên không kết nối được theo mô hình thanh toán quốc gia. Vấn đề về bảo mật thông tin cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, nạn hacker đối với phần mềm ngân hàng vẫn xảy ra, nguy cơ rủi ro vẫn còn tiềm ẩn với cả khách hàng và ngân hàng. Các TCTD chưa đáp ứng căn bản nhu cầu về dịch vụ ngân hàng của các nhóm đối tượng khác nhau, trong đó phải kể tới các đối tượng là người có thu nhập thấp, người nghèo, người dân ở vùng sâu, vùng xa rất khó tiếp cận với dịch vụ ngân hàng. Qui mô của từng dịch vụ ngân hàng còn nhỏ, chất lượng dịch vụ thấp, sức cạnh tranh yếu, tính tiện ích của một số dịch vụ đối với khách hàng chưa cao trong khi hoạt động Marketing ngân hàng còn hạn chế nên tỷ lệ khách hàng là cá nhân tiếp cận và sử dụng dịch ngân hàng còn ít. Đối tượng sử dụng thẻ thanh toán chủ yếu vẫn là tầng lớp công chức trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân hàng, du lịch…Séc thanh toán, chuyển khoản, thanh toán điện tử… hầu như chỉ có các cơ quan, tổ chức sử dụng, còn cá nhân thì rất ít (đến nay chưa có séc cá nhân tại Việt Nam). Thẻ ngân hàng được một phần nhỏ dân số tại các thành phố lớn sử dụng còn dân chúng vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa hầu như chưa sử dụng phương tiện này. b. Nguyên nhân Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp, trình độ dân trí của số đông dân cư về các hoạt động ngân hàng còn hạn chế. Với thu nhập bình quân đầu người ước đạt 630USD thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển trong khu vực, nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa vượt ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp và là nứớc có nền kinh tế sử dụng phương tiện thanh toán bằng tiền mặt là chủ yếu. Thói quen của người dân Việt nam khi sử dụng tiền mặt trong thanh toán chưa thể thay đổi được một mặt do các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt nam chưa thực sự tiện ích và chưa tiếp cận được mọi người dân. Đại đa số công chúng Việt Nam chưa sử dụng nên chưa biết được các tiện ích của dịch vụ ngân hàng; các dịch vụ ngân hàng (nhất là dịch vụ thẻ thanh toán) chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn với các loại hình kinh doanh chủ yếu là nhà hàng, khách sạn, các hãng sản xuất lớn…nên còn xa lạ với số đông người Việt Nam. Các cơ sở cung ứng hàng hoá, dịch vụ nhiều khi cũng có ý muốn thu tiền mặt cho nhanh, gọn, tránh sự kiểm soát của nhà nước, vì vậy hiện nay thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm đến trên 30 % trong bán buôn và 95% trong bán lẻ ở Việt Nam… Một nguyên nhân nữa cũng khiến cho người dân ít quan tâm tới các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt là người dân phải công khai thu nhập của mình qua việc phải mở tài khoản tại ngân hàng. Tâm lý e ngại sợ người khác biết thu nhập cùng với việc các thủ tục giao dịch ngân hàng còn rườm rà, chưa thuận tiện cho khách hàng, phong cách phục vụ mang tính quan liêu hành chính, thiếu sự đề cao khách hàng ở một số ngân hàng thương mại cũng trở thành rào cản hạn chế khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng của bộ phận dân cư người dân Việt Nam hiện nay. Những nguyên nhân như lòng tin, lạm phát, lãi suất, công cụ huy động vốn, thời gian làm việc, mức độ cạnh tranh…cũng khiến cho nhiều tầng lớp dân cư không muốn gửi tiền vào ngân hàng. Thị trường tài chính Việt nam chưa hoàn thiện, chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của các tổ chức tín dụng về huy động vốn và đầu tư làm hạn chế khả năng cung cấp dịch vụ ngân hàng của các TCTD. Thị trường tài chính phát triển thiếu cân bằng ( nhất là thị trường vốn dài hạn) không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu vốn rất lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước; việc hoạt động ngân hàng chủ yếu là tín dụng và vấn đề tăng trưởng tín dụng quá nóng (đặc biệt rủi ro sai lệch kỳ hạn và rủi ro thanh khoản ngày càng lớn khi các TCTD mở rộng cho vay trung, dài hạn không tương xứng với cơ cấu nguồn vốn) đã tạo ra áp lực cho hệ thống ngân hàng phát triển kém bền vững. Bên cạnh đó, mặc dù tiến trình hội nhập đang tiến đến rất gần nhưng mức độ mở cửa và cạnh tranh của các ngân hàng trong nước chưa cao. Chưa có sản phẩm dịch vụ ngân hàng nào của Việt Nam chiếm được chỗ đứng và có thị phần đáng kể trên thị trường tài chính - tiền tệ của khu vực và trên thế giới. Khuôn khổ thể chế liên quan đến phát triển dịch vụ ngân hàng còn bất cập, chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong việc hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến dịch vụ ngân hàng nhưng hệ thống pháp luật ngân hàng hiện nay chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, chưa đủ khả năng bao quát hết các vấn đề và phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, ngân hàng điện tử …Luật NHNN, Luật các TCTD, Luật Lao động, Luật Phá sản,… còn nhiều điểm bất cập, chưa tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho hoạt động của NHNN và các TCTD trong cơ chế thị trường. Luật Kế toán (năm 2004) chậm được hướng dẫn triển khai và còn bất cập so với yêu cầu ứng dụng quản trị ngân hàng theo chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Một số dịch vụ ngân hàng phổ biến trên thị trường quốc tế dự kiến sẽ được phát triển ở Việt Nam theo Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và sau khi gia nhập WTO (các công cụ phái sinh; công cụ về tỷ giá, lãi suất; thanh toán quốc tế; bao tiêu; môi giới tiền tệ,…) chưa được thể chế hoá phù hợp, đồng bộ Năng lực điều hành CSTT và lãi suất của NHNN còn hạn chế: Tính hiệu ứng, tính lan toả của một số công cụ CSTT chưa mạnh; Cơ chế điều hành lãi suất chưa được vận hành hữu hiệu, thiếu hệ thống lãi suất chủ đạo để định hướng lãi suất thị trường. Cơ chế điều hành lãi suất Đồng Việt Nam và lãi suất ngoại tệ chưa gắn kết chặt chẽ với nhau và chưa được đặt trong quan hệ hợp lý với điều hành tỷ giá khiến cho nhu cầu đầu tư, thanh toán, nắm giữ tài sản và tích trữ giá trị bằng bất động sản, vàng, ngoại tệ còn khá phổ biến và tình trạng đô la hoá còn ở mức rất cao so với các nước trong khu vực; Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá còn bất cập, chưa khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch trên thị trường ngoại hối: Chính sách quản lý ngoại hối chậm được đổi mới theo hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai và nới lỏng kiểm soát các giao dịch vốn đối với việc cung ứng của các TCTD và các nhu cầu của các tổ chức, cá nhân về dịch vụ ngân hàng (thanh toán, chuyển tiền, tín dụng và đầu tư quốc tế). Hiệu lực chính sách quản lý ngoại hối chưa cao, chưa thu hút được một khối lượng đáng kể ngoại tệ đang trôi nổi trên thị trường, ngoài tầm quản lý, kiểm soát của ngân hàng. Cơ chế điều hành tỷ giá còn có những bất hợp lý, chưa mang tính thị trường cao làm tăng rủi ro tỷ giá cho các giao dịch ngoại hối, đầu tư và việc nắm giữ tài sản bằng ngoại tệ; Cơ chế quản lý, giám sát hoạt động ngân hàng chưa theo kịp tiến trình hiện đại hoá ngân hàng và chưa phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế: NHNN đã từng bước hình thành môi trường chính sách thông thoáng cho hoạt động ngân hàng, nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu thực tế đặt ra, nhất là về tiếp cận cung cấp dịch vụ ngân hàng, bao gồm cả điều kiện, thủ tục cấp phép đối với cung cấp dịch vụ mới và thành lập tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng. Chính sách quản lý dịch vụ ngân hàng chưa thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của dịch vụ ngân hàng mới (chính sách phí dịch vụ ngân hàng không có sự phân biệt giữa dịch vụ ngân hàng truyền thống dựa trên chứng từ giấy và dịch vụ ngân hàng mới dựa trên chứng từ điện tử; thiếu cơ chế xử lý rủi ro dịch vụ ngân hàng trên nền tảng công nghệ mới). Các qui định về an toàn hoạt động ngân hàng (vốn, dự phòng rủi ro, các giới hạn an toàn hoạt động ngân hàng) và hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng còn bất cập và chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế (Basel). NHNN còn hạn chế về khả năng giám sát cung ứng dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là chưa có khả năng cảnh báo sớm về những rủi ro trong hoạt động ngân hàng và chưa thiết lập được hệ thống giám sát hữu hiệu. Hạ tầng công nghệ nói chung,công nghệ thông tin nói riêng và viễn thông quốc gia còn nhiều bất cập, phân tán, nhỏ lẻ và thiếu đồng bộ do đó đã không thể hỗ trợ cho quá trình phát triển, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng. Mặc dù đã có những cải tiến đáng kể song tốc độ phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngân hàng còn chậm, cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông tin truyền thông còn yếu, dung lượng đường truyền thấp, giá thành đắt, chất lượng dịch vụ không ổn định chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện hoạt động ngân hàng cũng như yêu cầu về hội nhập với khu vực và quốc tế. Mức độ tự động hoá các giao dịch ngân hàng còn thấp, nhiều qui trình nghiệp vụ ngân hàng được xây dựng trên nền tảng xử lý thủ công hoặc cơ giới hoá chưa phù hợp với phương thức tự động hoá. Hiện tại, hệ thống thanh toán quốc gia và hệ thống thanh toán trong nội bộ các ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập và chưa được hiện đại hoá đồng bộ, hệ thống chuyển mạch của các ngân hàng cũng không đồng bộ nên không kết nối được theo mô hình nhất thể hoá mạng thanh toán quốc gia. Hệ thống thông tin quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh doanh và hoạch định chiến lược. II. TÁC ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ THÔNG QUA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐẾN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM 1. Tác động của việc gia nhập WTO a. Tình hình dịch vụ ngân hàng trước xu thế hội nhập WTO Theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, từ ngày 1/4/2007, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã được phép thành lập tại Việt Nam, nhưng đến ngày 8/9/2008, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới cho phép Standard Chartered Bank và Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải (HSBC) được thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam. Đến ngày 6/1/2009, Ngân hàng Shinhan và Hong Leong cũng đã được cấp phép. Như vậy là cùng với Standard Chartered, HSBC, hiện đã có 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa là bức tranh hệ thống ngân hàng Việt Nam không phải chỉ có 4 mảng màu cơ bản đại diện cho 4 khối: NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài mà đã có thêm một màu mới. Sắp tới mảng màu này sẽ ngày càng đậm lên, không chỉ mang tính đơn sắc thuần túy mà là sự pha trộn đa sắc một cách có chủ đích. Bởi không chỉ các ngân hàng nước ngoài, tuy âm thầm nhưng cũng rất quyết liệt, tăng cường thâm nhập thị trường Việt Nam mà cả các ngân hàng trong nước cũng đang rất nỗ lực chuẩn bị trước sự đổ bộ này. (*) Về phía các ngân hàng nước ngoài Các ngân hàng nước ngoài chuẩn bị cho sự thâm nhập vào thị trường Việt Nam bằng rất nhiều cách khác nhau. Đó có thể là việc chuyển trụ sở về nơi tiện nghi hơn ở khu vực đẹp hơn để có thể khuyếch trương và thu hút sự chú ý của người tiêu dùng nội địa như HSBC đã làm. Đó cũng có thể là triển khai và cho ra mắt các dịch vụ mới như ANZ hay Standard Chartered đã thực hiện. Tuy nhiên, tất cả những sự kiện đó có thể chỉ là một phần trong kế hoạch của các ngân hàng ngoại tại Việt Nam chuẩn bị trước cho thời điểm 1/1/2011, khi các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam sẽ được đối xử quốc gia đầy đủ như đối với các NHTM trong nước. - Thứ nhất, chiếm lĩnh thị trường dịch vụ ngân hàng (DVNH) bán lẻ Để chuẩn bị cho chiến lược này, ngày 10/7 vừa qua, Ngân hàng ANZ Việt Nam đã giới thiệu dịch vụ mới mang tên “dịch vụ ngân hàng tận nơi”. Đây là kênh dịch vụ hoàn toàn miễn phí nhằm đáp ứng tất cả các khách hàng không có thời gian đến ngân hàng để giao dịch. Trước mắt dịch vụ này sẽ được triển khai tại Hà Nội và Tp. HCM. Trong thời gian tới, ANZ sẽ hướng trọng tâm tới thị trường thẻ tín dụng và internet banking - lĩnh vực mà ANZ đánh giá là có nhiều tiềm năng. HSBC cũng đã được chấp thuận đề nghị được cung cấp sản phẩm tiền gửi kết hợp quyền chọn tiền tệ nhằm khuyến khích các NHTM và doanh nghiệp áp dụng các nghiệp vụ phái sinh để hạn chế rủi ro trong hoạt động, giúp người gửi tiền phòng ngừa rủi ro về tỷ giá, đa dạng hóa DVNH. Thực hiện nghiệp vụ này, khách hàng và tổ chức tín dụng thoả thuận với nhau về một giao dịch tiền gửi thông thường kèm theo một hợp đồng quyền chọn. Bất chấp những khó khăn kinh tế hiện tại của Việt Nam, Standard Chartered vẫn tin tưởng vào tầm nhìn trung và dài hạn đối với thị trường Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng, đặc biệt là mảng DVNH bán lẻ. Vì thế, Standard Chartered sẽ hướng tới cung cấp DVNH bán lẻ cho người tiêu dùng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) với mạng lưới toàn cầu và chất lượng dịch vụ cao. Standard Chartered triển khai khá thành công chuỗi sản phẩm quản lý tài sản, chương trình tiết kiệm đa ngoại tệ. Không chịu thua kém, nhiều “đại gia” ngoại khác như Ngân hàng DBS của Singapore đã khai trương văn phòng đại diện tại Hà Nội đầu tháng 7/2008; Commonwealth Bank (Úc) đã đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam 14 năm, nay chính thức được mở chi nhánh tại Tp.HCM. Còn các ngân hàng khác như ING (Hà Lan), Barclays (Anh), Sumitomo Mitsui Financial Group (Nhật Bản), Deutsche Bank, Societe Generale và Maybank... dù chưa có sự hiện diện đáng kể tại Việt Nam vẫn đang hướng tầm nhìn vào các ngân hàng trong nước. - Hai là, tham gia mua cổ phần của các NHTM Việt Nam Không đợi đến khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn lĩnh vực ngân hàng, nhiều ngân hàng nước ngoài đã tham gia vào thị trường tài chính Việt Nam thông qua việc góp vốn vào các ngân hàng nội địa, thông qua các ngân hàng nội để tiến sâu hơn và vững chắc hơn vào thị trường Việt Nam. Đầu tư của các ngân hàng nước ngoài ở các NHTM Việt Nam NHTMCP Việt Nam Ngân hàng nước ngoài Ngày công bố Tỷ lệ sở hữu Tổng tài sản (Nghìn tỷ) 1 Techcombank HSBC 07/08/2008 20% 51,8 2 SeABank Societe Generale S.A (Pháp) 18/08/2008 15% 19,6 3 VP Bank OCBC (Singapore) 04/08/2008 15% 20,4 4 ACB Standard Chartered Bank 24/7/2008 15% 103,0 5 AnBinh Bank Maybank (Malaysia) 28/05/2008 15% 15,6 6 Eximbank Sumitomo Mitsui (Nhật Bản) 31/07/2007 15% 44,4 7 Habubank Deutsche Bank 01/02/2007 10% 16,5 8 Phương Nam UOB (Singapore) 25/01/2007 10% 17,6 9 Phương Đông BNP Paris (Pháp) 17/11/2006 10% 10,7 10 Sacombank ANZ Bank 24/3/2005 10% 75,0 Dù phạm vi hoạt động chưa rộng, khối ngân hàng ngoại đã đạt tốc độ tăng trưởng tài sản có và dư nợ tương ứng khoảng 33% và gần 50% so với mức tăng chung toàn hệ thống ngân hàng tương ứng là 8% và gần 20%. Đến nay, khối ngân hàng này tuy chỉ chiếm 9,3% tổng dư nợ cho vay (cả VND và USD), nhưng chiếm tới 29,5%/tổng dư nợ cho vay bằng USD của toàn hệ thống ngân hàng. Căn cứ vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, các luồng chu chuyển vốn quốc tế, thanh toán quốc tế và lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam ngày càng tăng, nhiều chuyên gia tài chính cho rằng áp lực của các ngân hàng nước ngoài đối với các ngân hàng trong nước thời gian tới thực sự không nhỏ. (*) Về phía các ngân hàng trong nước - Thứ nhất, các ngân hàng trong nước đã chủ động tăng vốn điều lệ Trước các đối thủ cạnh tranh không những nhiều kinh nghiệm mà còn mạnh về tài chính, việc chủ động tăng tiềm lực tài chính mà các NHTM đang triển khai là bước đi cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm rủi ro. Chưa bao giờ vốn điều lệ của khối NHTMCP lại tăng mạnh như trong năm 2008. ACB phát hành thêm gần 3.733 tỷ đồng cổ phiếu từ quỹ thặng dư bổ sung vốn điều lệ; Eximbank đã tăng vốn điều lệ từ 2800 tỷ đồng lên 7.380 tỷ đồng; Sacombank cũng tiếp tục tăng vốn điều lệ từ 4.449 tỷ đồng lên 6.093 tỷ đồng trong tổng số 8530 tỷ đồng vốn điều lệ đến cuối năm 2008,… Cùng với việc tăng vốn điều lệ, các NHTMCP cũng chủ động mở rộng mạng lưới hoạt động để tăng khả năng huy động vốn vì thực tế hiện nay số lượng chi nhánh bình quân của 1 NHTMCP đô thị cũng chỉ có 18 chi nhánh, thấp hơn nhiều so với con số 97 chi nhánh của khối các NHTM Nhà nước. Song việc mở rộng mạng lưới cần tiến hành một cách thận trọng, tránh ồ ạt dẫn đến việc tăng quá nhanh chi phí hành chính. - Thứ hai, bán cổ phần cho các đối tác nước ngoài Các ngân hàng trong nước là người hiểu rõ hơn ai hết điều cần làm để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, và một khả năng “hợp lực” đang được xem là một giải pháp hợp lý trong bối cảnh hiện tại và những năm tới. Việc các ngân hàng, tập đoàn tài chính nước ngoài mở rộng hoạt động tại thị trường Việt Nam thông qua con đường sở hữu vốn cổ phần trong các NHTM Việt Nam đem lại nhiều lợi ích cho cả hai bên. Với các đối tác nước ngoài, họ có thể tận dụng mạng lưới sẵn có, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực và số lượng khách hàng đông đảo của các NHTM Việt Nam. Còn các NHTM Việt Nam thì không những nâng cao được năng lực tài chính mà còn có điều kiện tiếp tục hiện đại hoá công nghệ đổi mới quản trị điều hành, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và mở rộng kinh doanh trên thị trường quốc tế. - Thứ ba, hợp tác với các ngân hàng nước ngoài để đa dạng hoá DVNH Citibank kết hợp với NHTMCP Đông Á về phát triển DVNH, nhất là DVNH bán lẻ và kết nối hệ thống thanh toán thẻ. Ngân hàng ACB kết hợp với Western Union. Ngân Hàng Công Thương Việt Nam (VietinBank) và Standard Chartered hợp tác phát triển dịch vụ thanh toán, các sản phẩm đầu tư, thị trường vốn, kinh doanh ngoại tệ, các sản phẩm phái sinh,… với quy mô hợp tác trước mắt khoảng 600 triệu USD; VietinBank kết hợp với Ngân hàng Công thương Trung Quốc cung cấp dịch vụ thanh toán biên mậu qua Internet, triển khai dịch vụ kiều hối với sự hợp tác của Wells-Fargo (Mỹ), Cathay United Bank (Đài Loan), Kookmin Bank (Hàn Quốc),… Các tập đoàn thẻ tín dụng quốc tế như Master Card, Visa, America Express,... mở rộng đại lý phát hành và thanh toán thẻ với hàng loạt NHTM của Việt Nam. Nhiều công ty chuyển tiền, đặc biệt là Western Union của Mỹ cũng mở rộng đại lý chi trả kiều hối và chuyển tiền với màng lưới hàng nghìn chi nhánh của các NHTM trên toàn lãnh thổ Việt Nam. b. Thuận lợi Hội nhập quốc tế đồng nghĩa với việc tăng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhất là trên thị trường tài chính khu vực. - Đối với NHNN, hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành và thực thi chính sách tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường. Hội nhập cũng là cơ hội để NHNN tăng cường phối hợp với các NHTW và các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi thông tin và ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động của thị trường tài chính quốc tế và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTM trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của NHNN và Chính phủ. - Đối với các TCTD, hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các ngân hàng trong nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại, đồng thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ quản trị điều hành và phát triển dịch vụ ngân hàng. Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính trong nước, môi trường kinh doanh bình đẳng sẽ được hình thành và từng bước phân chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng hơn, thị phần của NHTMNN có thể giảm và nhường chỗ cho các nhóm ngân hàng khác, nhất là tại các thành phố và khu đô thị lớn. Tùy theo thế mạnh của mỗi ngân hàng, sẽ xuất hiện những ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên môn hóa như ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, đồng thời hình thành một số ngân hàng qui mô lớn, có tiềm lực tài chính và kinh doanh hiệu quả. Kinh doanh theo nguyên tắc thị trường cũng buộc các tổ chức tài chính phải có cơ chế quản lý và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm thu hút lao động có trình độ, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh trên thị trường tài chính. - Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức tài chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính – ngân hàng, các ngân hàng trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào tạo thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế. - Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính quốc tế một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp phần nâng cao chất lượng và loại hình hoạt động. Các ngân hàng trong nước sẽ phản ứng, điều chỉnh là hoạt động một cách linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. c. Khó khăn - Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về mở chi nhánh và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng khách hàng và tiền gửi được phép huy động, khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng, trong khi các tổ chức tài chính Việt Nam còn nhiều yếu kém về nhiều mặt. - Vì thế, các NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối, nhất là sau năm 2010, khi những hạn chế nêu trên và sự phân biệt đối xử bị loại bỏ căn bản. Sau thời gian đó, qui mô hoạt động và khả năng tiếp cận thị trường, các nhóm khách hàng, chủng loại dịch vụ do các ngân hàng nước ngoài cung cấp sẽ tăng lên. Đáng chú ý, rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tăng lên do các ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài chính trong nước thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh; một số tổ chức tài chính trong nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh tranh kém và không có khả năng kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt động ngân hàng quốc tế. - Mở cửa thị trường tài chính trong nước làm tăng rủi ro do những tác động từ bên ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế giảm dần. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng phải đối mặt với các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng. Trong trường hợp đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống ngân hàng phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây lên. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP I. Giải pháp phát triển sản phẩm dịch vụ Tiếp tục phát triển các dịch vụ truyền thống và đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ hiện đại hướng đến mục tiêu phát triển hệ thống ngân hàng bán lẻ rộng khắp trên cả nước. 1. Phát triển dịch vụ huy động vốn Mỗi ngân hàng phải chủ động xây dựng chiến lược phát triển vốn dài hạn phù hợp với nhu cầu và khả năng của mình, đặc biệt chú trọng khai thác huy động vốn trong dân cư - thị trường đầy tiềm năng. Một số định hướng về phát triển dịch vụ huy động vốn trong dân cư là: - Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để huy động tối đa các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư hiện nay đang được tích trữ dưới dạng vàng, các loại ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế đồng thời làm chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng tiền đồng trong tổng nguồn vốn. - Tăng cường mở rộng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch, mở các trung tâm liên hệ giữa ngân hàng với khách hàng để có thể phục vụ các tầng lớp dân cư một cách tốt nhất. 2. Phát triển dịch vụ tín dụng Phát triển rộng rãi dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong đó chú trọng phát triển các dịch vụ tín dụng tiêu dùng như cho vay thế chấp nhà, cho vay tín chấp, cho vay trả góp, cho vay thấu chi qua thẻ tín dụng, cho vay cầm cố sổ tiết kiệm…Cần có một chính sách khách hàng nhất quán để có thể quản lý tập trung và phân đoạn khách hàng theo từng mạng lưới chi nhánh; Phát triển các sản phẩm tín dụng mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại như: tài khoản cá nhân kết hợp với các dịch vụ gia tăng như trả lương, thẻ, sao kê, trả các hoá đơn dịch vụ; các sản phẩm đầu tư, quản lý tài sản, tài khoản đầu tư tự động, quản lý vốn tập trung, phát triển các tiện ích mới của thẻ ATM , phát triển các dịch vụ cho vay bảo lãnh, các sản phẩm cho vay cầm cố, thế chấp. Tiếp tục mở rộng tín dụng và tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng vay thuộc mọi thành phần kinh tế đặc biệt cho đối tượng là các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng trên nguyên tắc thị trường. Đa dạng hoá các dịch vụ tín dụng dành cho các doanh nghiệp và dân cư, tạo cơ hội cho mọi tổ chức cá nhân có nhu cầu vay vốn, làm ăn hợp pháp và có đủ điều kiện trả nợ ngân hàng đều được tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng một cách thuận lợi. 3. Phát triển dịch vụ thanh toán Phát triển mạnh các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt trên cơ sở hệ thống công nghệ kỹ thuật và hệ thống thanh toán ngân hàng hiện đại, an toàn, tin cậy, hiệu quả, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Nâng cao các tiện ích thanh toán qua ngân hàng để khuyến khích các thành phần kinh tế, đặc biệt là các tầng lớp dân cư sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng nhằm giảm thiểu lưu thông tiền mặt. Ngành Ngân hàng phải sớm hình thành Trung tâm thanh toán quốc gia để nhất thể hóa phương tiện thanh toán điện tử qua Ngân hàng - Tăng cường sự liên kết và hợp tác của các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán, đặc biệt sớm hình thành hệ thống chuyển mạch thanh toán thẻ thống nhất để trung tâm này sớm thực sự trở thành trung tâm kết nối thanh toán giữa Doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với các nhân, giữa các nhân với nhau và giữa ngân hàng với ngân hàng. Đồng thời, số lượng các đơn vị chấp nhận thẻ cần phải được tăng nhiều hơn nữa để đảm bảo cho các chủ thẻ có thể dùng thẻ của mình thanh toán ở tất cả các trung tâm thương mại, nhà hàng, siêu thị…bằng cách có sự kết hợp chặt chẽ giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng với các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức cung ứng dịch vụ, hàng hoá tiêu dùng trong xã hội. 4. Phát triển dịch vụ ngoại hối Tập trung tối đa các nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng để đáp ứng tốt nhất các nhu cầu chi tiêu ngoại tệ hợp lý của các doanh nghiệp và cá nhân, đồng thời kiểm soát một cách có hiệu quả chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế để góp phần giảm bớt tình trạng đô la hoá. Bảo đảm quyền sở hữu, mua, bán và sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp và cá nhân theo quy định của pháp luật. II. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của NHTM 1. Tăng cường năng lực tài chính 2. Tăng cường sự hợp tác giữa các ngân hàng 3. Nâng cao năng lực quản trị ngân hàng 4. Nâng cao chất lượng nguồn lực 5. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán 6. Đa dạng hóa hơn nữa dịch vụ ngân hàng, chú trọng tới các DVNH hiện đại 7. Marketing và quảng bá thương hiệu ngân hàng III. Hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao vai trò của NHNN - Nâng cao vị thế và tính độc lập, tự chủ của Ngân hàng nhả nước trong việc xây dựng, điều hành Chính sách tiền tệ, nhằm tăng cường hiệu lực của các công cụ Chính sách tiền tệ. - Nâng cao năng lực thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước đối với hoạt động ngân hàng. Để làm tốt việc này, cần khẩn trương tiến hành cải cách thanh tra ngân hàng theo hướng tập trung hoá, hình thành Tổng Cục Giám sát Ngân hàng có chi Cục ở một số khu vực, đồng thời thay đổi phương pháp tiếp cận, quy trình nghiệp vụ thanh tra giám sát. - Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và đối xử bình đẳng hơn giữa các loại hình tổ chức tín dụng. KẾT LUẬN Ngân hàng là một trong những ngành nhiều rủi ro, vì vậy, cần có một cơ chế giám sát rủi ro. Các sản phẩm của thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất sơ khai, nhưng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các sản phẩm này sẽ được đa dạng hóa và phát triển rất nhanh. Vì vậy, Nhà nước cần có một cơ chế giám sát theo kịp với sự biến đổi của thị trường này, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ổn định của ngành ngân hàng. Trên thực tế, hệ thống quản lý rủi ro của các ngân hàng trong nước chưa được chú ý một cách thích hợp, đặc biệt tại các ngân hàng mới thành lập, do áp lực của lợi nhuận và doanh số. Hiện nay, ở nước ta, chưa có cơ quan quản lý dịch vụ tài chính một cách độc lập, Ngân hàng Nhà nước vẫn phải làm công việc này. Trước mắt, Ngân hàng Nhà nước nên có một bộ phận chuyên trách thông tin để chủ động cung cấp những nguồn tin chính thức và trung thực cho công chúng. Việc giám sát cũng còn nhiều hạn chế, mặt khác, pháp luật về ngân hàng của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện, do vậy, sự tự giác, tự giám sát của bản thân các ngân hàng càng trở nên quan trọng trong bối cảnh hiện nay. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH015.doc
Tài liệu liên quan