Tiểu luận Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Hệ thống tài chính quốc gia vẫn còn là một nền tài chính non trẻ ngay cả ở trong khu vực và trên thếgiới. Xuất phát từ một xuất phát điểm rất thấp (sau kháng chiến 1945 tình hình tài chính đầt nước ở trong tình hình nguy cấp, ngân khố đất nước gần như trống rỗng. Đất nước chưa có một đồng tiền chung để thống nhất việc mua trao đổi hàng hóa trong phạm vi toàn quốc, đội ngũ cán bộ còn thiếu thốn, còn thiếu kinh nghiệm và năng lực ) Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và chính phủ, Nhà nước đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường có sự định hướng của Nhà nước. Trải qua hơn 15 năm đổi mới có thể nói cho đến nay nền tài chính quốc gia Việt Nam thực sự ngày càng gia tăng về quy mô cũng như về chất lượng. Các công cụ tài chính ngày càng phát huy sức mạnh. Cho dù đồng tiền Việt Nam vẫn chưa được sử dụng làm phương tiện trao đổi thương mại quốc tế nhưng phải khẳng định một điều là nước ta có một đồng tiền ổn định và một hệ thống tài chính vững chắc ngày càng gia tăng về quy mô, đồng bộ về cơ cấu, hiện đại về công nghệ, nghiệp vụ và cũng ngày càng khẳng định đậm nét hơn vị thế không thể thiếu được trong tổng thể nền kinh tế thị trường, đặc biệt tạop định hướng và sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên trong nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xét về tổng thể hệ thông tài chính quốc gia về các công cụ tài chính vẫn còn tồn tại một số nhược điểm như chưa phát huy được nhiều sức mạnh của các công cụ tài chính trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, hệ thống văn bản pháp quy quy định , trách nhiệm chức trách và sức mạnh của các công cụ còn nhiều bất cập, mang nặng tính thủ tục, còn chưa đi sâu vào thực tế. Vì vây để đạt được những mục tiêu kinh tế từ 2001_2005 chúng ta cần tiếp tục công cuộc đổi mới hệ thống tài chính cả về chất và lượng. Đào tạo đội ngũ cán bộ tài chính giàu năng lực giỏi chuyên môn và tận tâm với công việc, xât dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật các hoạt động tài chính đồng thời tạo một cơ chế mở để kích thích thị trường tài chính và các công cụ tài chính phát triển. Đồng thời phải biết kết hợp nhịp nhàng các công cụ tài chính và huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước, đạt được những mục tiêu đề ra của Đảng và Nhà nước, nhanh chóng giúp đất nước có nền kinh tế có thể trở thành một con Rồng Châu Á.

doc31 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế, điều này phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường, tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất kinh doanh trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh và đặt ra đòi hỏi các dịch vụ doanh nghiệp quốc doanh phải vươn lên hoạt động có hiệu quả khắc phục dần hiện tượng ỷ lại vào Nhà nước. Thuế góp phần điều hòa thu nhập thực hiện công bằng xã hội trong phân phối Trong nên kinh tế thị trường nếu không có sự can thiệp của Nhà nước để tự thị trường điều chỉnh thì việc phân phối của cải và thu nhập sẽ càng tập trung tạo ra hai cực đối lập nhau, một số người sẽ giàu có lên nhanh chóng và đa số người nghèo cuộc sống sẽ không được cải thiện. Tình trạng trên chẳng những làm mất đi ý nghĩa cao cả của việc phát triển kinh tế của một đất nước. Trong thực tiễn sự phát triển kinh tế của một quốc gia là kết quả của nỗ lực cồng đồng của toàn dân, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đống góp nhất định của họ. Thành quả của sự phát triển kinh tế nếu không chia sẻ cho mọi người cùng hưởng thì rõ ràng là mất đi sự công bằng, bởi vậy cần có sự can thiệp của Nhà nước trong sự phân phối thu nhập trong xã hội, đặc biệt thông qua công cụ thuế. Việc điều hòa thu nhập được thể hiện qua thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế đánh cao vào những mặt hàng dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu nhập của người giầu hoặc thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của công ty hoặc các nhân có thu nhập. Nhìn chung đối tượng có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, có thu nhập thấp thì nộp ít, thu nhập chỉ đủ đảm bảo cuộc sống bình thường thì không phải nộp thu. Số tiền Nhà nước thu được sẽ được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng xã hội như trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa, người tàn tật… Cơ chế thuế như vậy sẽ tạo điều kiện để chuyển dịch thu nhập của người cao sang người có thu nhập thấp để rút ngắn khoảng cánh của người giàu và người nghèo, góp phần để điều hòa thu nhập và thực hiện công bằng xã hội. 4.3 Tiền tệ, tín dụng 4.3.1 Khái niệm về chính sách tiền tệ và tín dụng Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận cấu thành quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô có vai trò trọng yếu trong việc ổn định nền tiền tệ quốc gia và phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia làkiểm soát chặt chẽ lạm phát, tưng bước tăng cường tính ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đông tiền, tào điều kiện huy động vốn góp phần cho một mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đó cùng là điều kiện quan trọng để củng cố uy tín và phát triển hoạt động của hệ thống ngân hàng, nhanh chóng hòa nhập quốc tế, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế đáp ứng ngày càng cao dịch vụ tài chính của nền kinh tế. 4.3.2. Cơ chế quản lý và thực trạng. Các nhà kinh tế và học giả Phương Tây đã quan niệm và thừa nhận tiền tệ như một sản phẩm kì diệu trong số những phát minh kì diệu của nhân loại, đóng vai trò như người mửo đầu, người nâng đỡ, người điều chỉnh, người tham gia và người quyết định đối với mọi quá trình sản xuất. Để thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô của công cụ tiền tệ, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều thông qua các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (thay Ngân hàng Trung ương), trong đó, các chính sách tiền tệ đều hướng vào mục đích chủ yếu là tạo ra và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, kiểm soát lạm phát và ổn định tiền tệ. Tuy nhiên trong điều kiện và hoàn cảnh kinh tế thị trường ở từng nước trình độ quản lý và các chính sách tiền tệ được các Chính phủ hướng đến sẽ không giống nhau song tựu trung lại thì mục tiêu cao nhất của chính sách tiền tệ là hướng và tăng trưởng kinh tế vì rằng mục tiêu này là mục tiêu bao trùm để giải quyết hàng loạt các mục tiêu khác. Một nền kinh tế không thể tăng trưởng nếu như không có sự thúc đẩy của Chính phủ thông qua vai trò của công cụ tiền tệ. Bởi vì tiền tệ không để đơn thuần là nhiệm vụ thước đo giá trị của quá trình tái sản xuất giản đơn, nó còn thể hiện trong quá trình tái sản xuất mở rộng thông qua phần tích lũy tiền tệ từ kết quả thặng dư được dồn tích tái đầu tư mở rộng sản xuất, góp phần làm tăng tổng sản phẩm quốc dân và nhờ đó kinh tế tăng trưởng. Vai trò của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng hết sức quan trọng trong việc huy động và tập trung các nguồn vốn thặng dư nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới hình thức "đi vay" để tái phân phối các nguồn này cho các nhu cầu vần vốn để phát triển kinh tế của các thế nhân và pháp nhân dưới dạng cho vay. Phục vụ góp phần phát triển kinh tế. Chính phủ thường thông qua ngân hàng Trung ương để có một chính sách lãi suất để điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lãi suất có vai trò kích thích hoặc hạn chế đầu tư mở rộng hoặc thu hẹp đầu tư ở ngành này lĩnh vực này. Mục tiêu thứ hai trong chính sách tiền tệ của Chính phủ là tạo công ăn việc làm, đây cũng là mục tiêu chung của bất kỳ nền kinh tế của các Quốc gia nào, nhất là các quốc gia chậm phát triển với nguồn nhân lực ngày càng gia tăng nhanh hơn số lượng việc làm dẫn đến tình trạng thất nghiệp và bán thất nghiệp. Chính phủ của rất nhiều các quốc gia đã thi hành các chính sách và nhiều biện pháp trong đó chính sách tiền tệ chỉ có thể được sử dụng hướng vào đầu tư phát triển để tăng trưởng và tạo thêm công ăn việc làm. Điều này là một logic hiển nhiên bởi vì khi nền kinh tế phát triển thì ngàgnh nghề được mở mang công ăn việc làm được tạo ra nhiều hơn từ đó thất nghiệp giảm đi và ngược lại làm nền kinh tế trì trệ, lạm phát sẽ đi liền với thất nghiệp gia tăng, đồng tiền không ổn định. Thực hiện chương trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, Nhà nước đã thực thi đổi mới chính sách tiền tệ trong đó cải cách lãi suất tín dụng theo hướng lãi suất được sử dụng như một cong cụ quan trọng của chính sách tiền tệ, chuyển từ lãi suất bao cấp sang lãi suất thị trường đã có tác dụng giảm cầu trên thị trường, góp phần ổn định giá cả, nâng cao sức mua của đồng tiền. Nhà nước thông qua vai trò của hệ thống Ngân hàng đã hình thành thị trường tiền tệ ngắn hạn. Tín dụng Ngân hàng đã mở rộng ra các thành phần kinh tế, phát triển các hìnht hức cho vay tới hộ nông dân và người sản xuất thru công, dịch vụ. Nhà nước lại thông qua chính sách tiền tệ tín dụng đã góp phần xắp xếp lại các Xí nghiệp quốc doanh như xoá dần tín dụng bao cấp. Để khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ đã thay đổi các điều chỉnh tỷ giá hối đoái góp phần tạo nguồn ngoại tệ bù đắp thiếu hụt cán cân thanh toán quốc tế. Mặt khác, chính sách quản lý ngoại hối đã được đổi mới và hoàn thiện, Ngân hàng Nhà nước đã mở rộng 2 Trung tâm giao dịch ngoại tệ ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nhằm kiểm soát việc cung ứng ngoại theo cơ chế thị trường. Bên cạnh đổi mới hệ thống Ngân hàng chuyển từ Ngân hàng một cấp thành Ngân hàng hai cấp. Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, Chính phủ cũng đã áp dụng các giải pháp cho vay trong và ngoài nước qua hệ thống kho bạc Nhà nước. Các phương tiện huy động tiền tệ đó được phát triển như tín phiếu kho bạc với các lãi suất và thời hạn khác nhau để tạo nguồn vốn đầu tư cho các dự án ngành, nghề thực hiện các mục tiêu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội của Nhà nước. 4.4. Dự trữ tài chính và bảo hiểm. 4.4.1. Khái niệm sự cần thiết phải có. Trong quá trình sản xuất và hình thành của cải vật chất, do nhận thức thiếu đầy đủ các quy luật thiên nhiên và các đối tượng khác mà con người chưa kiểm tra được , nên tác động của những yếu tố đó (thiên nhiên, xã hội, và kxy thuật), đã làm cho con người sản xuất không thu được những kết quả đã dự tính từ trước, làm mất cân đối quá trình sản xuất xã hội. Đó chính là tiền đồ khách quan cần thiết phải lập quỹ dự trữ. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người , nhu cầu lập qũy dự trữ ngày càng tăng. Nhưng trong hệ thống qũy dự trữ thì qũy dự trữ tài chính đóng vị trí đặc biệt quan trọng. Chúng cho phép sử dụng một cách linh hoạt và có hiệu quả trong phạm vi cả nước trong việc phát triển nền kinh tế của từng vùng và đặc biệt chúng có khả năng bù đắp những thiệt hại do thiên tai hoặc tai nạn bất ngờ một cách nhanh chóng. Đây chính là yếu tố cơ bản nhất nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối nền kinh tế xã hội. Quỹ bảo hiểm là một thành phần trong hệ thống dự trữ Nhà nước được hìnht hành do thu phí bảo hiểm bằng tiền hoặc hiện vật từ người tham gia bảo hiểm cho những cá nhân hay đơn vị pháp nhân có tham gia lập quỹ. Về nội dung kinh tế thì qũy Bảo hiểm là một thành phần cần thiết của qũy dự trữ và giữa chúng có liên hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên giữa chúng có sự khác nhau về mục đích về hình thức sử dụng chung. Mục đích của qũy dự trữ là khắc phục những thiệt hại do bất kì nguyên nhân nào, mà không cần một điều kiện gì khi cần thiết. Còn qudỹ bảo hiểm chỉ dùng để khắc phục những thiệt hại do trường hợp bất ngờ và thiên tai đặc biệt chúng được lập nên trong những mục đích nhất định đã được ổn định và đạt điều kiện từ trước. Tất cả các quỹ dự trữ và bảo hiểm nói trên có quan hệ mật thiết với nhau. Sự tương quan tỷ lệ giữa các loại qũy đó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển xã hội khác nhau. Nghiên cứu và phân tích nội dung kinh tế của các qũy dự trữ và bảo hiểm ta thấy chúng có những sự giống nhau cơ bản đó là sự thống nhất của các qũy trên được hình thành từ một nguồn cơ bản - sản phẩm thặng dư, tức là khi con người đã sản xuất ra số sản phẩm nhiều hơn sự cần thiết để duy trì cuộc sống hàng ngày và phần sản phẩm dôi ra đó con người dùng để bù đắp cho sự hao mòn tư liệu sản xuất và ngoài ra còn để tích luỹ cho những lúc khó khăn không ngờ tới. 4.4.2. Phân loại. Trong mối liên quan đến nhiều nguyên nhân xã hội khác nhau, phần đảm bảo nhu cầu bảo vệ sản xuất với những phạm vi thiệt hại khác nhau và điều kiện để phục vụ hồi sản xuất một cách nhanh chóng thì các khoản dự trữ của mỗi quốc gia lập nên không chỉ một mà là cả một hệ thống các quỹ dự trữ và bảo hiểm. Ngoài hệ thống các qũy dự trữ và bảo hiểm người ta còn lập qũy dự phòng. Hai loại quỹ trên có đặc điểm chung là: cùng lập ra với mục đích chi cho những trường hợp không lường trước được. Tuy nhiên chúng có những khác biệt cơ bản về nguồn hình thành và về phạm vi, thời gian hoạt động. Người ta phân loại các quỹ dự trữ theo nhiều cách khác nhau. Căn cứ vào hình thức lập qũy ta có thể chia ra thành: qũy dự trữ bằng hiện vật và quỹ dự trữ bằng tiền. Nhưng để phân biệt rõ phạm vi, mức độ và tác dụng cụ thể các quỹ dự trữ các nhà kinh tế thế giới còn phân loại các quỹ dự trữ theo phạm vi hình thành và sử dụng chúng như sau: Quỹ dự trữ tập trung và quỹ dự trữ phân tán. Trên cơ sở các nguyên tắc phân loại nói trên, một quốc gia dự trữ và bảo hiểm khác nhau dựa vào nguyên tắc chung đó có thể chia chúng thành: - Các quy dự trữ bằng hiện vật tập trung của Nhà nước. - Các quỹ dự trữ tài chính tập trung của Nhà nước. - Các quỹ dự trữ phân tán bằng hiện vật và bằng tiền được lập ở từng đơn vị kinh tế, Xí nghiệp, từng vùng nhỏ (xã, huyện, vùng và dân cư). Quỹ bảo hiểm: Đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế theo chiều dâu hiện nay, các hình thức hoạt động của bảo hiểm cũng đa dạng thêm cả về chiều rộng và chiều sâu. Từ những năm 1970 đến nay người ta có xu hướng liênhập khẩuết giữa loại hình bảo hiểm bắt buộc với bảo hiệm tự nguyện và giã các loại bảo hiểm khác nhau với nhau. Xuất phát từ nội dung kinh tế từng đối tượng của thị trường bảo hiểm ta có thể chia thành các loại bảo hiểm sau. Bảo hiểm tài sản - đối lượng là tất cả các giá trị vật chất có thể. Bảo hiểm nhân thọ - là bảo hiểm là cơ sở quan hệ kinh tế của nó là những trường hợp xảy ra đối với con người. Bảo hiểm trách nhiệm - phục vụ cho những khách thể và khả năng bắt buộc người tham gia bảo hiểm phải bồi thường cho người thứ ba. Người ta còn căn cứ trên lĩnh vực kinh tế và phi kinh tế mà phân loại bảo hiểm thành bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hểim nhân thọ, và ngoài ra còn căn cứ trên cơ sở thời hạn tham gia bảo hiểm người ta còn chia ra thành các loại hình bảo hiểm dài hạn và các loại hình bảo hiểm thông thường (ngắn hạn). 4.4.3. Vai trò của quỹ dự trữ và bảo hiểm. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới, quỹ dự trữ được tập trung tgại một mối để quản lý và sử dụng. Sự quản lý tập trung qũy dự trữ ch phép Nhà nước thực hiện chính sách tài chính thống nhất, đảm bảo khả năng và xã hội và củng cố khả năng quốc phòng của Nhà nước khi cần thiết. Trong quá trình cải cách kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã gặp không ít khó khăn, trong đó trước hết cần nói đến những khó khăn về tài chính của quốc gia. Để thiết lập một hình thức tài chính ổn định yêu cầu phải phát triển nhưng công cụ tài chính: Ngân sách Nhà nước, thuế, tiên tệ và tín dựng , dự trữ và bảo hiểm… Nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ trênmà Nhà nước có thể tiến hành điều tiết thị trường thông qua việc phân phối hợp lý các khoản chi Ngân sách Nhà nước, điều tiết lưu thông và sản xuất bằng các chính sách thuế, đưa ra những tỷ lệ lãi hợp lý, mềm dẻo nhằm thu hút ngày càng nhiều số tiền nhân dântỏng dănmỏ thêm những hình thức thanh toán tiên tiến trong nước (Ngân phiếu…) khi cần có thể tung dự trữ để ổn định giá cả. Vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước còn biểu hiện qua việc hạn chế sự mất cân đối trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách lấy từ qũy dự trữ tài chính quốc gia để bù đắp cho những thiệt hại lớn có thể ảnh hưởng đến dây truyền sản xuất làm mất sự ổn định chung cho toàn xã hội. Bên cạnh đó bảo hiểm không những đóng vai trò là người bảo vệ che chắn cho người sản xuất, kinh doanh dịch vụ khỏi bị tác động ngoài ý muốn của họ mà còn thu hút một nguồn vốn đáng kể từ các tư nhân và các doanh nghiệp để đầu tư cho các chương trình kinh tế thông qua thị trường tài chính. Ngoài ra trong nến kinh tế thị trường một lúc có nhiều thành phần tham gia kinh doanh bảo hiểm cạnh tranh lẫn nhau đẫn đến nhu cầu cần có một tổ chức bảo hểim đứng giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm làm môi giới cho người tham gia bảo hiểm tìm tôn trọng bảo hiểm một người bảo vệ tốt nhất phù hợp với khả năng tài chính của họ. Do đó dịch vụ bảo hiểm ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu bảo hiểm của các cá nhân các tổ chức có nhu cầu. 4.4.4. Thực trạng. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tẹ 1997 - 1998 đã ảnh hưởng đến phạm vi rộng trong đó không loại trừ việc gây ảnh hưởng tới nền tài chính của Việt Nam. Từ đó trửo đi Nhà nước cũng tích cực tăng cường công tác dự trữ bảo hiểm. Tỏng một vài năm trước ta có tình trạng mọi người mua vàng và đô la để dự trữ cho sự mất giá của đồng tiền, Nhà nước đã đối phó với tình hình ấy đã đưa ra những chính sách tiền tệ tín dụng linh hoạt nhằm chống lại lạm phát như: Chinh sách tỉ giá linh hoạt và tăng lãi suất tiết kiệm cao hơn tăng giá hàng. Do đó lượng tiền gửi tiết kiệm tăng nhanh và giảm dần cơn sốt lạm phát. Trong những giai đoạn cần thiết Nhà nước cần trong dự trữ để mau dự phòng vật tư, máy móc nông nghiệp, nhằm cung cấp cho bà con nông dân những vật tư máy móc với giá cả phải chăng, như vậy sẽ không làm ảnh hưởng đến việc tăng chi phí sản xuất nông nghiệp. Trong những năm gần đây thị trường bảo hiểm của nước ta đã phát triển rất mạnh mẽ, xuất hiện nhiều Công ty bảo hiểm đa quốc gia đã có mặt trềnt Việt Nam, các Công ty bảo hiểm với vốn đầu tư nước ngoài đã làm cho thị trường bảo hiểm thêm sôi động và có rất nhiều loại hình mới ra đòi đáp ứng được nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng của mọi tầng lớp dân cư và các tổ chức. Tuy nhiên hoạt động bảo hiểm vẫn còn nhiều mặt hạn chế bởi vẫn tồn tại một số độc quyền trềnt bảo hiểm. II. Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. 1. Quá trình chuyền nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang nặng tính tự túc, tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội sản xuất hàng hoá. Trước hết cần nghiên cứu một số đặc trưng cơ bản của cơ chế kế hoạch hoá tập trung - cơ chế quản lý kinh tế đã tồn tại ở nước ta trước đổi mới. Đó là cơ chế quản lý mà Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một Trung tâm. Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình. Trong nền kinh tế này bỏ qua quan hệ hàng hoá tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hoạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn. Từ những đặc điểm trên đã dẫn đến bộ máy quản lý rất cồng kềnh có nhiều cấp trng gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hìnht hành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được Đại hội VI của Đảng xác định là tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định: "Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sự chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường là một sự cần thiết khách quan với cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là: Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chru sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá. Thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật -công nghệ, về trìngh độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau. Đồng thời trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá, tiền tệ. Như vậy, kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan, không thể lấy ý chủ quan mà xoá bỏ nó được. 2. Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp như trước đây nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách của các nước tư bản, tức là không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách của các nước tư bản, tức là không phải kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bởi vì chúng ta còn đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có, vừa chưa có đầy đủ yếu tố xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một mặt vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường. Một là các chru thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh tế. Hai là giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân bổ các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Ba là nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Bốn là nếu là nền kinh tế thị trường hệin đại thì còn có sự điều tiét vĩ mô của Nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá. Các chính sách kinh tế. Mặt khác kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghãi có những đặc trưng sau: Nềnks thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chru đạo. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại 3 loại hình sở hữu cơ bản là: Sở hữu toàn dân; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản). Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh các thành phần kinh tế đó là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên tồn tại một cách khách quan và là những bộ phần cần thiết nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển chung nền kinh tế của đất nước nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân. Do đó không chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độcông hữu là thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu phát triển để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ tự hữu, các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước…Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, và vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để phát triển. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu. Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghãi xã hội, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tạ: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả của sự xâm nhập giữa chúng. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc phân phối tương ứng với nó, vì thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối thu nhập. Nước ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chứ không phải là kinh tế thị trường định hướng tư bản chru nghĩa. Chúng ta lấy phát triển kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện . Vì vậy mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sốg nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Việc phân phối thông qua các qũy phúc lợi xã hội và tập thể có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu đó. Một đặc trưng nữa của kinh tế thị trường ở nước ta là cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự qp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường. Trong điều kiện ngày nay hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của Nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó. "Những thất bại của thị trường" tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nến kinh tế của nước ta là ở chỗ Nhà nước quản lý nền kinh tế không phải là Nhà nước tư sản, mà là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nâHà Nội dân, do vân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm sửa chữa những thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân cơ chế thị trường, không thể làm được, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệtlà đảm bảo công bằng xã hội. Không ai ngoài Nhà nước có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường. Bên cạnh những đặc trưng trên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập. Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nềnks thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới. đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong đièu kiện toàn cầu hoá kinh tế.l Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đang diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phục thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Với những nét đặc trưng riêng biệt nền kinh tế thị trường ở nước ta đang từng bước phát triển vững chắc trên con đường xây dựng chủ nghãi xã hội. Đạt được những thành tựu ban đầu trong mục tiêu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. 3. Thực trạng chung về tình hình tài chính ở Việt Nam. Ưu điểm: Cùng với quá trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tiêu chính Việt Nam cũng tiến hành cải cách đổi mới.. Hơn 15 năm cải cách và đổi mới nền tài chính của cơ ché kinh tế thị trường đã được thiết lập. Tài chính đã làm tốt vai trò động viên, phân phối nguồn lực, quản lý kiểm soát và giám sát vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Cùng với sự đổi mới về tư duy quản lý kinh tế, những quan điểm, những nhận thức mới, trong kinh tế thị trường ở Việt Nam đã được hình thành đặc biệt là quan điểm về động viên và phân phối nguồn lực. Tài chính đã động viên hợp lý sức người, sức của trong cả nước, thu hút có chủ định các nguồn vốn từ nước ngoài để phát triển kinh tế. Tiềm lực tài chính của đất nước đã được tăng cường hoạt động tài chính đã lành mạnh hơn. Lạm phát phí mã trong những năm đầu cải cách đã được kiềm chế. Tỷ giá hối đoái dần dần ổn định. Lạm phát bị đẩy lùi từ 774% năm 1986 xuống còn 76% năm 1991; 12,7% năm 1995; 3,6% năm 1998 và đã giảm phát trong những năm gần đây. nam 2002 tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 34,2% GDP, tăng 12,4% so với năm 2001. Tỷ lệ động viên từ GDP vào ngân sách Nhà nước (NSNN) từ 13% giai đoạn 1986 - 1990 đã đạt 19,4% giai đoạn 1997 - 2000, và năm 2001 đạt 20,7%. Bằng chính sách phù hợp đã thu hút đáng kể lượng vốn đầu tư nước ngoài. Đến ngày 20/12/2002 có 4.582 dự án được cấp giấy phép theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký 50,277 tỉ USD. Tỏng đó có 2.663 dự án còn hêịu lực, có tổng số vốn đang kí tren 39 tỉ úD; tổng vốn đầu tư thực hện trên 20,7 tỉ USD. Đến nay có khoảng 18.000 dự án, với tổng số vốn đăng kí 24.500 triệu USD đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đã thiết lập và hoàn thiện từng bước hệ thống pháp lý và hệ thống chính sách tài chính. Các quy định pháp lý về chính sách tài khoá, NSNN, thuế, tài chính doanh nghiệp đã được ban hành. Tài chính Việt Nam luôn hướng về phục vụ, khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát triển NSNN đã được cơ cấu lại, tập trung xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, giữ vững an ninh quốc phòng, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Tài chính không chỉ chăm lo cho sản xuất phát triển, chăm lo động viên nguồn lực tài chính, mà còn coi trọng phân phối sử dụng sao cho có hiệu quả, tiết kiệm. * Nhược điểm: Bên cạnh những thành công của công cuộc đổi mới kinh tế tài chính qucố gia vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần được quân tâm khắc phục. Thứ nhất đó là chiến lực tài chính quốc gia còn chưa được định hướng rõ ràng và thiếu những giải pháp tài chính mang tỉnh tổng thể, liên hoàn và đồng bộ. Chiến lược phát triển kinh tế của Đảng là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chiến lược tài chính quốc gia phải phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế, phải có những chiến lược cụ thể trong chiến lược tổng thể. Một vấn đề nổi cộm là chưa nhận thức được tính đồng bộ. Tính liên tục, độ trễ của chính sách để có thể kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn giữa định hướng, giải pháp và chính sách tài chính dài hạn mang tính chiến lược với giải pháp tài chính tác nghiệp phục vụ những yêu cầu, nhiệm vụ bức xúc trước mắt. Cụ thể về ngân sách Nhà nước: chính sách chế độ thu nhiều nhưng vẫn sơ hở, chồng chéo, chắp vá và chưa bao quát hết các nguồn thu trong điều kiện nền kinh tế thị trường, chưa tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển. Hệ thống chính sách theo ban hành không đồng nhất, chủ yếu ban hành bằng các văn bản pháp quy dưới luạt, chưa đúng với hiến pháp nên tính pháp lý không cao, hiệu lực thi hành bị hạn chế. Do cơ chế phân cấp quản lý NSNN hiện hành nên hệ thống quỹ NSNN bị cất khúc quá nhiều tầng nấc, Trung ương không điều khiển được, tạo nên những khó khăn căng thẳng giả tạo trong quản lý và điều hành ngân sách. Chính sách chế độ chưa hoàn chỉnh, chưa có định hướng đúng điểm nên thường xảy ra tình trạng thay đổi quá nhanh cơ cấu thu chi làm cho việc lập Ngân sách rơi vào tình trạng thứ bị động con số kế hoạch khác con số cần thiết thực tế dẫn đến tính hình thức, tuỳ tiện của lập ngân sách. Vì vậy khi dự án được tổng hợp và trình ra quốc hội để quyết định phân bố Ngân sách cũng mang nặng tính hình thức và chung hung. ở đây vai trò của Quốc hội trong việc quyết định và phân bố ngân sách chưa được thể hiện đầy đủ thời gian để thảo luận NSNN và các thông tn cho các đại biểu Quốc hội quá ít và với rất nhiều nội dung thảo luận khác nhau, các đại biểu Quốc hội không có đủ điều kiện để kiểm tra xem xét những vấn đề của NSNN để có ý kiến chính xác. Bên cạnh những tồn tại trong NSNN thì hệ thống pháp luạt về thuế còn chưa đồng bộ, thời điểm ban hành giữa luật thuế, pháp lệnh thuế và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành chi tiết chính sách thuế vẫn còn xa nhau nên đã làm cho người thi hành phải chờ đợi khá lâu, không những làm cho việc thu thuế bị trậm trễ mà còn làm cho tác dụng của pháp luật bị hạn chế. Hơn nữa điều này còn tạo ra tâm lý coi trọng thông tư hơn luật, pháp lệnh, coi trọng cơ quan hành pháp hơn cơ quan lập pháp. Quan điểm này hoàn toàn xa lạ với những tiêu chuẩn Nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng. Sự thống nhất của pháp luật không được thực hiện nghiêm chỉnh, vẫn còn tình trạng ngành chỉ tự quản, tự hướng dẫn các đơn vị trực thuộc thi hành nộp thuế khác với luật quy định làm rối loạn lệ phí. Bên cạnh đó vai trò của Nhà nước trong việc xử lý và cưỡng chế thi hành luật và pháp lệnh còn bị xem nhẹ nên vấn đề dây dưa nợ thuế, thất thu còn xảy ra rất đa dạng và phức tạp. Nhìn chung tài chính của chúng ta sau hơn 15 năm đổi mới đã bước đầu gặt hái được những thành công đáng kể góp phần quan trọng phát triển kinh tế đất nước. Tuy vẫn còn tòn tại nhiều hạn chế cần khắc phục nhưng đó cũng chính là những bài học để chúng ta có thể hoàn thiện hơn nữa hệ thống tài chính, góp phần đưa nền kinh tế vững bước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. III.Phương hương và giải pháp đổi mới hoạt động tài chính ở Việt Nam 1. Mục tiêu tài chính trong năm tới. Trong đời sống thực tế mọi người luôn thấy sự hiện diện của chính sách tài chính. Nếu tài chính làm một phạm trù kinh tế khách quan thì chính sách tài chính của Nhà nước là thái độ định hướng của Nhà nước về sử dụng tài chính - phạm trù kinh tế khách quan này. Trong thực tế chính sách tài chính của Nhà nước lâu nay được hiểu theo nghĩa hẹp - đó là định hướng của Nhà nước về sử dụng khâu tài chính của mình - Ngân sách Nhà nước. Trên góc độ này, chính sách tài chính của Nhà nước thường được hiểu là bao gồm chính sách thuế, chính sách chi tiêu ngân sách, phân cấp, ngân sách.. tức là bao gồm những khía cạnh nhiều mặt gấp với việc tạo ra và sử dụng quỹ Ngân sách Nhà nước. Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường Nhà nước có chức năng và vai trò điều hoà kinh tế vĩ mô, Nhà nước phải có định hướng sử dụng toàn bộ các khâu của hệ thống tài chính để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng đó lúc này Nhà nước cần có chính sách tài chính quốc gia phù hợp với giai đoạn lịch sử trước mắt. Chính sách tài chính qucố gia là một bộ phận quang trọng của chính sách kinh tế, là tổng thể của các chính sách và giải pháp về tài chính tiền tệ trong việc khai thức, động viên và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh, quốc phòng, ổn định moi trường kinh tế vĩ mô, nâng cao tiềm lực của nền tài chính quốc gia, từng bước đưa nước ta trở thành một nước giàu mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Chính sách tài chính quốc gia có phạm vi rất rộng lớn và bao gồm nhiều nội dung phức tạp mang ý nghĩa tổng hợp về chính trị, kinh tế, xã hội. Chính sách tài chính quốc gia giai đoạn 2001 - 2010 ở nước ta có một số mục tiêu chủ yếu: 1. Tiếp tục xây dựng một nền tài chính quốc gia vững mạnh nhằm động viên, phân phối và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực tài chính trong nước, ngoài nước để đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng cao, ổn định và bền vững, đồng thời đáp ứng yêu cầu quốc phòng, an ninhv à chiến lược phát triển con người, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Bảo đảm phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của tài chính Nhà nước, làm cho tài chính trở thành công cụ của Nhà nước trong việc kiểm soát, quản l‎ý vĩ mô nền kinh tế, thông qua việc sử dụng có hiệu quả các chính sách, luật pháp tài chính, các công cụ tài chính. 3. Lành mạnh hoá môi trường kinh tế vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế chuyển mạnh sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, phù hợp với điều kiện và đặc điểm của Việt Nam. Để thực hiện các mục tiêu chính sách tài chính quốc gia phải thể hiện được 5 quan điểm sau: Đảm bảo khai thác tối đa các nguồn lực tài chính trong nước, kết hợp với huy động các nguồn lực bên ngoài, có nguồn tài chính trong nước là quyết định, nguồn tài chính nước ngoài là quan tọng, từng bước tăng tỉ trọng nguồn tài chính trong nước nhằm xây dựng nền tài chính quốc gia ổn định lành mạnh, vững chắc. Gắn việc đổi mới cơ chế tài chính với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nói chung, đồng thời thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế toàn diện và sâu sắc. Phát huy vai trò của các công cụ tài chính - tiền tệ trong nền kinh tế, thực hiện việc điều chỉnh và giám sát kinh tế ở tầm vĩ mô. Chính sách tài chính quốc gia phải được hoạch định trên csc đảm bảo các mối quan hệ kinh tế, các cân đối lớn của nền kinh tế. Chính sách tài chính quốc gia phải hướng vào mục tiêu phát triển và đa dạng hoá các loại thị trường vốn với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Nó phải được thực hiện phù hợp với nền kinh tế mở cửa ra bên ngoài. Nền tài chính quốc gia phải được quản lý bằng pháp luật. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện nguyên tắc tiét kiệm và có hiệu quả trong quản lý tài chính. Những mục tiêu kể trên của chính sách tài chính quốc gia những năm 2000 - 2004 là thể hiện các quan điểm chủ yếu của Nhà nước về sử dụng phạm trù tài chính khách quan trong điều kiện cụ thể của đất nước giai đoạn này. 2. Phương hướng đổi mới hoạt động tài chính. * Mở rộng phạm vi hoạt động của các công cụ tài chính. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế sự hoạt động của tài chính có một vai trò vô cùng quan trọng không thể phủ nhận. Đồng thời trong hệ thống tài chính các công cụ tài chính được rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu. Để đổi mới tài chính thì các công cụ tài chính cần phải mở rộng hơn nưa xphạ vi hoạt động của mình, nhằm khai thác những điểm mạnh tổng hợp của mọi nguồn lực tài chính. Xây dựng nền tài chính quốc gia có tiềm lực đủ mạnh, đảm bảo chiến lược tăng trưởng kinh tế nhanh, bề vững phục vụ sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa bảo vệ tổ quốc. Các nguồn lực tài chính rất đa dạng. Để thực hiện mục tiêu này trong thời gian tới Nhà nước cần ban hành cơ chế chính sách để cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế đẩy mạnh đầu tư phát triển kinh doanh. Xây dựng hệ thống chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực phát triển cho cả nước. Phát triển mạnh mẽ thị trường vốn và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất. Hoàn thiện quản lý ngân sách Nhà nước, tránh thất thoát vốn. Tiếp tục cải thiện thuế giai đoạn II và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế theo hướng đảm bảo nguyên tắc quản lý thống nhất, công bằng về thuế đối với các thành phần kinh tế, thực hiện giảm sự chênh lệch giữa các mức thuế suất và số lượng thuế suất, mở rộng phạm vi đối tượng nộp thếu. Đổi mới cơ cấu NSNN trếnc xác định rõ các nội dung chi mà Nhà nước phải đảm bảo để thực hiện ưu tiên chỉ có chọn lọc theo thứ tự, giảm dần và tiến tới xoá bỏ các khảon chi mang tính bao cấp. Chúng ta phải biết phát huy mọi nguồn lực tài chính mới có thể hoàn thiện hệ thống tài chính phục vụ phát triển kinh tế. * Đổi mới quy chế và hoạt động tài chính. Các quy định về hoạt động tài chính tuy là ngày càng được hoàn thiện, bổ xung và đáp ứng ngày càng tốt hơn với yêu cầu đặt ra của thực tế. Nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều nhược điểm. Vì vậy phương hướng đổi mới vẫn chú trọng việc tiếp tục nghiên cứu ban hành chính sách tài chính nhằm tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh, khắc phục tình trạng phân biệt đối xử trong kinh doanh giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện chính sách quản l‎ý tài chính về nguồn vốn vay nước ngoài của chính phủ, đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch sử dụng nguồn vốn ODA nhằm vào mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và mục tiêu xoá đói giảm nghèo, xây dựng cơ chế chính sách cho vay lại đối với khu vực tư nhân. Hoàn thiện hệ thống giám sát và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả các dự án và các chương trình sử dụng vốn vay nước ngoài, đảm bảo khả năng thu hồi vốn trả nợ nước ngoài có hiệu quả. Phương hướng đổi mới hoạt động tài chính trên nhằm mục đích từng bước, dần dần hoàn thiện hệ thống tài chính, xây dựng hệ thống tài chính vững mạnh, phát triển nhanh, bền vững từ đó góp phần phát triển kinh tế đất nước. 3. Một số giải pháp cơ bản cho quá trình đổi mới. Từ thực tế tành công và chưa thành công của công cuộc đổi mới kinh tế, đổi mới tài chính quốc gia rút ra một số giải pháp sau: Thứ nhất: Tôn trọng và tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tài chính, coi trọng sự phối hợp đồng bộ các chính sách các công cụ kinh tế - tài chính. Duy trì và đảm bảo nền tài chính quốc gia là một tổng thể thống nhất, giữ vững kỉ cương, kỉ luật trong chỉ huy, trong điều hành. Phên phán và lên án mọi tư tưởng, mọi việc làm vô kỉ luật không chấp hành nghiêm các quy định về thu, chi, về điều tiết ngân sách, về quản lý và sử dụng ngân quỹ quốc gia. Chống tư tưởng, việc làm cục bộ, vì quyền lợi ngành, địa phương gây tổn hại lợi ích chung đặc biệt trong việc chấp hành chế độ, chính sách và kỉ luật hành chính. Mạnh dân phân cấp, trao quyền và phát huy tính chất tự chủ, sáng tạo của các ngành, các địa phương trong công tác tài chính, đặc biệt trong nuôi dưỡng, khai thác nguồn thu, đảm bảo nhiệm vụ chi. Mở rộng quyền hạn đi đôi với tăng cường trách nhiệm, tạo dựng cơ chế, kỉ luật phối hợp hài hoà giữa các nội dung hoạt động, giữa các mảng công tác tài chính, tạo nên một sức mạnh tổng thể, hỗ trợ, kích thích và làm tiền đồ cho nhau cùng đạt hiệu quả, kinh nghiệm cho thấy, mọi sự rời rạc, chia cắt… trong giải pháp, trong chính sách tài chính trong điều hành hoạt động tài chính đều không đem lại kết quả. Đấy là chưa nói đến những hậu quả khó lường. Xử lý tốt hài hoà mối quan hệ giữa thu và chi NSNN giữa động viên thu nhập, huy động nguồn lực và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển nuôi dưỡng nguồn thu, giữa bảo hộ sản xuất trong nước và yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp; giữa tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp… Thứ hai: Mọi giải pháp tài chính về mọi hoạt động tài chính phải hàm chứa và tính đến các yếu tố chính trị kinh tế và xã hội, phải xuất phát từ cuộc sống và phải giải quyết cho được những vấn đề của cuộc sống thực tế. Đời sống kinh tế - xã hội rất phong phú, đa dạng và luôn vận động, phát triển, đòi hỏi công tác tài chính phải bám sát thực tế. Mọi giải pháp tài chính cần được thực tế kiểm nghiệm và đánh giá. Thực tế của công cuộc đổi mới đã chỉ ra bài học là cần nhanh nhạy, linh hoạt triển khai và điều chỉnh các chủ trương, giải pháp tài chính, cần cân nhắc tính toán mọi yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội trong từng giải pháp, từng quyết sách. Hoạt động chính sách tài chính lf hoạt động nghệ thuật. Mọi sơ suất, sai lầm, chậm chễ trong từng quyết sách sẽ gây hậu quả xấu không chỉ về kinh tế - tài chính mà có thể cả chính trị - xã hội. Thứ ba: Thiết lập, vận hành và nâng cao hiệu lực kiểm tra, kiểm sáot và giám sát tài chính đối với toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Yêu cầu của tài chính trong nền kinh tế nó là an ninh, an toàn và lành mạnh hơn lúc nào hết, cùng với sự thiết lập các khuôn khổ pháp lý, cho hoạt động tài chính, cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hệ thống giám sát bằng nghiệp vụ, bằng tổ chức có sẵn trong bản thân công tác tài chính, bản thân từng quy trình chuyên môn. Thường xuyên rà xoát, thiết lập các quy trình, các cơ cấu tổ chức có tính kháng thể cao với các hành vi, việc làm gây tổn hại tài chính Nhà nước. Tăng cường và nâng cao tính hiệu lực của hệ thống giám sát nội bộ, bộ máy và quy trình kiểm soát nội bộ, bảo đảm mọi hoạt động tài chính, sự luân chuyển của từng đồng tiền của Nhà nước, của ngân quỹ quốc gia được giám sát thường xuyên, liên tục hoạt động tài chính - tiền tệ của các tổ chức tài chính, các quỹ Nhà nước, các trung gian tài chính phải được giám sát từ xa. Có hệ thống cảnh báo. Công khai tài chính là biện pháp hạn chế tiêu cực, là viẹc làm thể hiện bản lĩnh của các cơ quan, tổ chức và cũng là tièn đồ cho sự sôi động của thị trường tài chính mở. Công khai tài chính một trong những điều kiện cực kỳ quan trọng cho chủ trương thực hiện dân chủ từ cơ sở, dân chủ trực tiếp theo phương châmn: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, bảo đảm Nhà nước pháp quyền Việt Nam thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cần tạo dựng thói quen công khai tài chính trong đời sống xã hội, coi đó vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của cả người cung cấp thông tin và sử dụng thông tin. Kiểm toán Nhà nước phát triển và phục vụ tốt nhất cho các quyết định của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân các cấp. Tạo môi trường pháp lý cho thị trường dịch vụ kiểm toán, nâng cao trách nhiệm và độ tin cậy đối với những thông tin tài chính đã được kiểm toán. Thứ 4: Thường xuyên chăm lo hoàn thiện và nâng cao năng lực bộ máy tổ chức ngành tài chính. Cải cách mạnh thủ tục hành chính, thủ tục nghiệp vụ, tối ưu hoá các quy trình công tác, quy trình quản lý và cấp phát vốn. Mở rộng phân cấp, phân quyền và nâng cao trách nhiệm cho các cấp trong công tác chuyên môn, quản lý cán bộ, đặc biệt là các hệ thống chuyên môn tổ chức theo ngành dọc. Có chiến lược dài hạn và biện pháp chăm lo nâng cao năng lực nghiệp vụ, năng lực điều hành của độ ngũ cán bộ tài chính phù hợp yêu cầu của cơ chế kinh tế mới. Cùng với việc tăng cường kỉ cương, kỉ luật trong công tác tài chính, cần thực sự dân chủ, phát huy tối đa tính sáng tạo, tính tự giác, tinh thần trách nhiệm của viên chức tài chính. Biết tin vào cán bộ, biết động viên khơi dậy tính tích cực, tính năng động của cán bộ tài chính, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trẻ, sự nghiệp tài chính chắc chắn sẽ thành công. Đó là bài học luôn sống động. Giải pháp: Muốn nhắc đến và giữ một vị trí quan trọng đó là phải tạo dựng chiến lược tài chính quốc gia với mục tiêu, định hướng rõ ràng với những giải pháp tài chính mang tính tổng thể, liên hoàn và đồng bộ chiến lược tài chính quốc gia phải phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế. Phải có những chiến lược cụ thể trong chiến lược tổng thể. Vấn đề quan tọng cho mọi thành công là nhận thức rõ tính đồng bộ, tính liên tục, độ trễ của chính sách để có sự kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn giữa định hướng, giải pháp và chính sáchtài chính dài hạn mang tính chiến lược với chính sách tác nghiệp phục vụ yêu cầu và nhiệm vụ bức xúc trước mắt. Tuyệt đối không vì những chính sách tài chính cụ thể trong động viên thu nhập, trong chỉ tiêu ngân sách tài chính hoặc làm chậm tiến trình đổi mới tài chính. Phải chủ động trong vị thế mới, lựa chọn những giải pháp cụ thể cho phép khai thác tốt nhất mọi lợi thế của đất nước. Đó là những giải pháp cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế và hoàn thiện hệ thống tài chính Việt Nam. Vấn đề đặt ra là cần chủ động, tỉnh táo có bước đi và cách làm đúng cho từng mục tiêu chiến lược, sách lược, cho từng giải pháp tài chính cụ thể. C.Kết luận Hệ thống tài chính quốc gia vẫn còn là một nền tài chính non trẻ ngay cả ở trong khu vực và trên thếgiới. Xuất phát từ một xuất phát điểm rất thấp (sau kháng chiến 1945 tình hình tài chính đầt nước ở trong tình hình nguy cấp, ngân khố đất nước gần như trống rỗng. Đất nước chưa có một đồng tiền chung để thống nhất việc mua trao đổi hàng hóa trong phạm vi toàn quốc, đội ngũ cán bộ còn thiếu thốn, còn thiếu kinh nghiệm và năng lực…) Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và chính phủ, Nhà nước đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường có sự định hướng của Nhà nước. Trải qua hơn 15 năm đổi mới có thể nói cho đến nay nền tài chính quốc gia Việt Nam thực sự ngày càng gia tăng về quy mô cũng như về chất lượng. Các công cụ tài chính ngày càng phát huy sức mạnh. Cho dù đồng tiền Việt Nam vẫn chưa được sử dụng làm phương tiện trao đổi thương mại quốc tế nhưng phải khẳng định một điều là nước ta có một đồng tiền ổn định và một hệ thống tài chính vững chắc ngày càng gia tăng về quy mô, đồng bộ về cơ cấu, hiện đại về công nghệ, nghiệp vụ và cũng ngày càng khẳng định đậm nét hơn vị thế không thể thiếu được trong tổng thể nền kinh tế thị trường, đặc biệt tạop định hướng và sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên trong nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xét về tổng thể hệ thông tài chính quốc gia về các công cụ tài chính vẫn còn tồn tại một số nhược điểm như chưa phát huy được nhiều sức mạnh của các công cụ tài chính trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, hệ thống văn bản pháp quy quy định , trách nhiệm chức trách và sức mạnh của các công cụ còn nhiều bất cập, mang nặng tính thủ tục, còn chưa đi sâu vào thực tế. Vì vây để đạt được những mục tiêu kinh tế từ 2001_2005 chúng ta cần tiếp tục công cuộc đổi mới hệ thống tài chính cả về chất và lượng. Đào tạo đội ngũ cán bộ tài chính giàu năng lực giỏi chuyên môn và tận tâm với công việc, xât dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật các hoạt động tài chính đồng thời tạo một cơ chế mở để kích thích thị trường tài chính và các công cụ tài chính phát triển. Đồng thời phải biết kết hợp nhịp nhàng các công cụ tài chính và huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước, đạt được những mục tiêu đề ra của Đảng và Nhà nước, nhanh chóng giúp đất nước có nền kinh tế có thể trở thành một con Rồng Châu á. E. Tài liệu tham khảo 1.Giáo trình: Kinh tế chính trị Mac LêNin Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 2.Giáo trình: Lý thuyết tài chính tiện tệ Đại học kinh tế quốc dân 3.Tạp chí: Ngân hàng Tài chính Các tạp chí chuyên nghành thuế, bảo hiểm… 4.Tài chính và công cụ chính trong nền kinh tế phát triển 5.Sự hình thành thị trường tài chính trong nền kinh tế phát triển định hướng XHCN ở Việt Nam. F. Mục lục Trang Mở đầu 1 Nội dung 2 I. Bản chất và chức năng của tài chính 2 1. Bản chất tài chính 2 2. Chức năng 3 2.1. Chức năng phân phối 3 2.2. Chức năng giám đốc 5 3. Vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường 5 4 . Các công cụ tài chính 7 4.1. Ngân sách Nhà nước 7 4.2.Thuế 10 4.3. Tiền tệ, tín dụng 13 4.4. Dự trữ tài chính và bảo hiểm 15 II. Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 1. Quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường 18 18 2. Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 19 3. Thực trang chung về tình hình tài chính ở Việt Nam 21 III. Phương hướng và giải pháp đổi mới hoạt động tài chính ở Việt Nam 23 1. Mục tiêu tài chính trong những năm tới 23 2. Phương hướng đổi mới hoạt động tài chính 25 3. Một số giải pháp cơ bản trong quá trình đổi mới 26 Kết luận 29 Tài liệu tham khảo 30

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0716.doc
Tài liệu liên quan