Tiểu luận Thị trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường giấy tờ có giá

Thị trường nội tệ liên ngân hàng ra đời theo Chỉ thị 07/CT-NH1 ngày 07/10/1992 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho phép các TCTD được thực hiện cho vay và đi vay lẫn nhau và chính thức hoạt động từ tháng 7/1993. Theo Quyết định số 114/QĐ-NH14 ngày 21/6/1993 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng và Quyết định số 190/QĐ-NH14 ngày 06/10/1993 về việc bổ sung, sửa đổi Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng, thị trường nội tệ liên ngân hàng được hình thành dưới hình thức là một thị trường tập trung có tổ chức qua Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và gắn liền với các trung tâm thanh toán bù trừ (Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội) số lượng thành viên tham gia và doanh số hoạt động rất hạn chế; trong đó, những thành viên là ngân hàng thương mại Nhà nước có khả năng chi phối trên cả giác độ huy động vốn và cho vay vốn do có lợi thế về tài chính và uy tín. Từ năm 1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn nhau không thực hiện thông qua NHNN. Các Ngân hàng thỏa thuận phương thức giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như điều kiện bảo đảm tiền vay dựa trên mức độ tín nhiệm và có sự tham gia tích cực của ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đến nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các hình thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay; thậm chí một số ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn dưới hình thức gửi tiền lẫn nhau. I. Một số đặc điểm của thị trường nội tệ liên ngân hàng 1. Thành phần tham gia: Tổ chức tín dụng, chủ yếu là các ngân hàng thương mại (NHTM). 2. Mục đích - Đảm bảo dự trữ bắt buộc (DTBB) + Dự trữ bắt buộc + Quản lý DTBB của NHNN - Đảm bảo thanh khoản + Khách hàng rút tiền + Rải ngân . - Kinh doanh vốn tạm thời nhàn rỗi 3. Cơ sở hình thành giao dịch - Căn cứ vào xếp hạng nội bộ : cấp hạn mức giao dịch cho đối tác. + Hạn mức: + Tính cam kết: hầu hết là hạn mức không cam kết - Tín chấp: không có tài sản đảm bảo 4. Tổ chức giao dịch: Phi tập trung – OTC 5. Giá cả - Lãi suất do hai bên thỏa thuận: hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu, quan hệ đối tác, xếp hạng - Tùy thuộc kỳ hạn: thông thường ngắn hạn thấp hơn dài hạn. - Giá buổi sáng khác buổi chiều. - Là giao dịch OTC: Cùng 1 kỳ hạn có nhiều mức giá trên thị trường. 6. Kỳ hạn - Qua đêm, 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng. Hầu hết là dưới 3 tháng. 7. Phương thức giao dịch - Điện thoại, fax hợp đồng . - Sử dụng hệ thống Reuters dealing II. Thực trạng thị trường nội tệ liên ngân hàng Việt Nam một vài năm gần đây Thị trường nội tệ liên ngân hàng thời gian gần đây ngày càng phát triển mạnh mẽ, gây ảnh hưởng cũng như chịu ảnh hưởng rất nhiều đến thị trường tiền tệ Việt Nam. Lãi suất thường xuyên thay đổi, có thời điểm đột ngột tăng vọt gây bất ngờ cho thị trường, điều này cho thấy nguy cơ thiếu hụt vốn khả dụng của một số thành viên trong hệ thống Năm 2005, thị trường nội tệ liên ngân hàng diễn ra khá sôi động. Tính đến 12/8/2005, trên địa bàn Tp.HCM, số dư tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác đạt 22.517 tỷ đồng, tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác đạt 21.385 tỷ đồng, cho vay tổ chức tín dụng khác đạt 4.724 tỷ đồng và đi vay tổ chức tín dụng khác là 3.600 tỷ đồng. Lãi suất trên thị trường này biến động không lớn. Lãi suất cho vay qua đêm là 6,0%/năm, lãi suất kỳ hạn 1 tháng là 6,8%/năm, lãi suất kỳ hạn 3 tháng là 7,3%/năm và lãi suất kỳ hạn 6 tháng là 7,8%/năm. Tại Hà Nội, số dư các khoản vay các tổ chức tín dụng khác đạt 46.434 tỷ đồng, chiếm tới 16,3% tổng tài sản nợ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Cũng do tình trạng nhu cầu vốn của một số ngân hàng thương mại rất khẩn trương để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nên tình trạng vay mượn vốn lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại diễn ra rất sôi động. Hầu hết các khối ngân hàng phải huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng và số vốn này chiếm tỉ trọng khá cao. Một điều nghịch lý là nếu như trước đây các ngân hàng thương mại cổ phần đô thị thường thiếu vốn, phải đi vay vốn của các ngân hàng thương mại Nhà nước, do uy tín của các ngân hàng thương mại cổ phần không cao, mạng lưới hạn chế. Song hiện nay thì tình hình diễn ra ngược lại, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần trở thành người cho vay vốn lớn trên thị trường liên ngân hàng, bán buôn vốn cho ngân hàng thương mại Nhà nước. Nguyên nhân do các ngân hàng thương mại cổ phần đô thị linh hoạt trong huy động tiền gửi, lãi suất hấp dẫn, mở rộng mạng lưới nhanh tới những nơi thuận lợi huy động vốn, công tác tiếp thị hiệu quả và hình thức huy động vốn đa dạng. Cuối năm 2007, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng biến động mạnh, có thời điểm vọt lên 12%/năm, cao hơn cả lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại. Điều này khiến cho lãi suất huy động của các ngân hàng cũng tăng. Nhưng đây chỉ là diễn biến trên chỉ mang tính ngắn hạn, phản ánh cầu nội tệ tăng cao vào dịp cuối năm.

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1700 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thị trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường giấy tờ có giá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG * * * CHỦ ĐỀ 1 THỊ TRƯỜNG NỘI TỆ LIÊN NGÂN HÀNG THỊ TRƯỜNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ THỊ TRƯỜNG NỘI TỆ LIÊN NGÂN HÀNG Thị trường nội tệ liên ngân hàng ra đời theo Chỉ thị 07/CT-NH1 ngày 07/10/1992 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho phép các TCTD được thực hiện cho vay và đi vay lẫn nhau và chính thức hoạt động từ tháng 7/1993. Theo Quyết định số 114/QĐ-NH14 ngày 21/6/1993 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng và Quyết định số 190/QĐ-NH14 ngày 06/10/1993 về việc bổ sung, sửa đổi Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng, thị trường nội tệ liên ngân hàng được hình thành dưới hình thức là một thị trường tập trung có tổ chức qua Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và gắn liền với các trung tâm thanh toán bù trừ (Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội) số lượng thành viên tham gia và doanh số hoạt động rất hạn chế; trong đó, những thành viên là ngân hàng thương mại Nhà nước có khả năng chi phối trên cả giác độ huy động vốn và cho vay vốn do có lợi thế về tài chính và uy tín. Từ năm 1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn nhau không thực hiện thông qua NHNN. Các Ngân hàng thỏa thuận phương thức giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như điều kiện bảo đảm tiền vay dựa trên mức độ tín nhiệm và có sự tham gia tích cực của ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đến nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các hình thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay; thậm chí một số ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn dưới hình thức gửi tiền lẫn nhau. I. Một số đặc điểm của thị trường nội tệ liên ngân hàng Thành phần tham gia: Tổ chức tín dụng, chủ yếu là các ngân hàng thương mại (NHTM). Mục đích Đảm bảo dự trữ bắt buộc (DTBB) + Dự trữ bắt buộc + Quản lý DTBB của NHNN Đảm bảo thanh khoản + Khách hàng rút tiền + Rải ngân…. Kinh doanh vốn tạm thời nhàn rỗi Cơ sở hình thành giao dịch Căn cứ vào xếp hạng nội bộ : cấp hạn mức giao dịch cho đối tác. + Hạn mức: + Tính cam kết: hầu hết là hạn mức không cam kết Tín chấp: không có tài sản đảm bảo Tổ chức giao dịch: Phi tập trung – OTC Giá cả Lãi suất do hai bên thỏa thuận: hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu, quan hệ đối tác, xếp hạng… Tùy thuộc kỳ hạn: thông thường ngắn hạn thấp hơn dài hạn. Giá buổi sáng khác buổi chiều. Là giao dịch OTC: Cùng 1 kỳ hạn có nhiều mức giá trên thị trường. Kỳ hạn Qua đêm, 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng. Hầu hết là dưới 3 tháng. Phương thức giao dịch Điện thoại, fax hợp đồng…. Sử dụng hệ thống Reuters dealing II. Thực trạng thị trường nội tệ liên ngân hàng Việt Nam một vài năm gần đây  Thị trường nội tệ liên ngân hàng thời gian gần đây ngày càng phát triển mạnh mẽ, gây ảnh hưởng cũng như chịu ảnh hưởng rất nhiều đến thị trường tiền tệ Việt Nam. Lãi suất thường xuyên thay đổi, có thời điểm đột ngột tăng vọt gây bất ngờ cho thị trường, điều này cho thấy nguy cơ thiếu hụt vốn khả dụng của một số thành viên trong hệ thống Năm 2005, thị trường nội tệ liên ngân hàng diễn ra khá sôi động. Tính đến 12/8/2005, trên địa bàn Tp.HCM, số dư tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác đạt 22.517 tỷ đồng, tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác đạt 21.385 tỷ đồng, cho vay tổ chức tín dụng khác đạt 4.724 tỷ đồng và đi vay tổ chức tín dụng khác là 3.600 tỷ đồng. Lãi suất trên thị trường này biến động không lớn. Lãi suất cho vay qua đêm là 6,0%/năm, lãi suất kỳ hạn 1 tháng là 6,8%/năm, lãi suất kỳ hạn 3 tháng là 7,3%/năm và lãi suất kỳ hạn 6 tháng là 7,8%/năm. Tại Hà Nội, số dư các khoản vay các tổ chức tín dụng khác đạt 46.434 tỷ đồng, chiếm tới 16,3% tổng tài sản nợ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Cũng do tình trạng nhu cầu vốn của một số ngân hàng thương mại rất khẩn trương để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nên tình trạng vay mượn vốn lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại diễn ra rất sôi động. Hầu hết các khối ngân hàng phải huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng và số vốn này chiếm tỉ trọng khá cao. Một điều nghịch lý là nếu như trước đây các ngân hàng thương mại cổ phần đô thị thường thiếu vốn, phải đi vay vốn của các ngân hàng thương mại Nhà nước, do uy tín của các ngân hàng thương mại cổ phần không cao, mạng lưới hạn chế. Song hiện nay thì tình hình diễn ra ngược lại, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần trở thành người cho vay vốn lớn trên thị trường liên ngân hàng, bán buôn vốn cho ngân hàng thương mại Nhà nước. Nguyên nhân do các ngân hàng thương mại cổ phần đô thị linh hoạt trong huy động tiền gửi, lãi suất hấp dẫn, mở rộng mạng lưới nhanh tới những nơi thuận lợi huy động vốn, công tác tiếp thị hiệu quả và hình thức huy động vốn đa dạng. Cuối năm 2007, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng biến động mạnh, có thời điểm vọt lên 12%/năm, cao hơn cả lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại. Điều này khiến cho lãi suất huy động của các ngân hàng cũng tăng. Nhưng đây chỉ là diễn biến trên chỉ mang tính ngắn hạn, phản ánh cầu nội tệ tăng cao vào dịp cuối năm. Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng tháng 2/2009 (đơn vị: %/năm): Kỳ hạn Qua đêm 1 tuần 2 tuần 1 tháng 3 tháng 6 tháng 12 tháng VND 6.20 7.08 7.35 6.78 8.04 - - USD 0.54 1.04 0.80 0.92 2.24 - - Năm 2010, xuất hiện đợt tăng mạnh vào tháng 9 của lãi suất liên ngân hàng, lãi suất cho vay cao nhất lên tới 18%/năm. Tổng doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tuần từ 3 - 9/9 đạt xấp xỉ 147.750 tỷ VND, bình quân đạt khoảng 16.417 tỷ VND. Các giao dịch VND chủ yếu phát sinh đối với các kỳ hạn ngắn (qua đêm và 1 tuần và 2 tuần). Doanh số giao dịch qua đêm VND đạt 55.728 tỷ, chiếm tỷ trọng 38% so với tổng doanh số giao dịch cả tuần. Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng tuần từ 3/9 - 9/9/2010(đơn vị: %) Qua đêm 1 tuần 2 tuần 1 tháng 3 tháng 6 tháng 12 tháng KKH VND 7,16 7,70 8,18 9,09 9,94 13,30 11,26 2,60 USD 0,32 0,51 0,61 0,70 0,87 1,51 1,99 - Đầu năm 2011, lãi suất giao dịch trên thị trường liên NH có dấu hiệu giảm trở lại với mức giảm lớn nhất ở kỳ hạn qua đêm. Sau một thời gian hạ nhiệt và tăng trở lại, lãi suất giao dịch bình quân kỳ hạn qua đêm trong số liệu mới nhất vừa được NHNN công bố giảm tới 2,47% và hiện ở mức 10,42%. Trong khi lãi suất bình quân các kỳ hạn 1 tuần, 6 tháng và 12 tháng cũng giảm tương đối từ 0,45% đến 0,58%. Các kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng và không kỳ hạn cũng giảm nhẹ về lãi suất. Đối với các kỳ hạn còn lại lãi suất giao dịch bình quân tăng, trong đó lãi suất bình quân 6 tháng tăng từ 1,73% lên 3,75% (tăng 2,02%) và lãi suất bình quân kỳ hạn 12 tháng tăng 0,65%. Trong tuần trước Tết dương lịch, doanh số giao dịch của các NHTM trên thị trường liên NH đạt doanh số 127.122 tỉ VND, bình quân đạt khoảng 31.780 tỉ VND. Cũng như nhiều tuần trước đó, các giao dịch kỳ hạn qua đêm vẫn chiếm doanh số lớn, cụ thể doanh số VND qua đêm đạt 40.610 tỉ đồng. THỊ TRƯỜNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ Hàng hóa Tín phiếu kho bạc Định nghĩa + Tín phiếu kho bạc là loại giấy nợ do chính phủ phát hành có kỳ hạn dưới một năm để bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nước và là một công cụ trong những công cụ quan trọng để Ngân hàng Trung ương điều hành chính sách tiền tệ. + Tại Việt Nam, tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính phát hành. Tín phiếu kho bạc thường có kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hay 9 tháng với một hay nhiều mức mệnh giá. + Tín phiếu kho bạc thường được coi là không có rủi ro tín dụng (rủi ro phá sản). Quá trình phát hành tín phiếu + Tín phiếu kho bạc được phát hành trên thị trường sơ cấp trên cơ sở đấu thầu. Tại Việt Nam, các tổ chức tham gia đấu thầu thường là các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm thỏa mãn một số quy định trong đó quan trọng nhất là phải có vốn pháp định bằng hoặc cao hơn mức quy định của Ngân hàng Nhà nước. Các phiếu đặt thầu bao gồm thông tin về lãi suất và khối lượng tín phiếu đặt thầu. Việc xác định khối lượng và lãi suất trúng thầu của tín phiếu kho bạc được dựa vào khối lượng và lãi suất đặt thầu của các thành viên, và khối lượng tín phiếu kho bạc chính phủ muốn huy động. Khối lượng tín phiếu kho bạc trúng thầu được tính theo thứ tự tăng lên của lãi suất đặt thầu. + Tại mức lãi suất đặt thầu cao nhất, mà khối lượng tín phiếu đặt thầu vượt quá khối lượng dự kiến huy động, thì khối lượng tín phiếu trúng thầu sẽ được phân chia cho mỗi phiếu đặt thầu, tỷ lệ thuận với khối lượng tín phiếu đặt thầu của từng phiếu tại mức lãi suất đó. Lãi suất phát hành tín phiếu là lãi suất trúng thầu cao nhất được áp dụng chung cho tất cả các đối tượng trúng thầu. + Ở một số quốc gia (trong đó có Việt Nam), chính phủ đưa ra lãi suất chỉ đạo trong quá trình đấu thầu và lãi suất trúng thầu không được vượt quá lãi suất chỉ đạo này. Lãi suất chỉ đạo được áp dụng để giới hạn mức lãi tối đa mà chính phủ phải trả cho tín phiếu kho bạc huy động, nhưng khi áp dụng biện pháp này thì chính phủ có thể không huy động được đủ khối lượng tín phiếu mong muốn. Định giá tín phiếu Tín phiếu kho bạc là loại tín phiếu chiết khấu. Điều đó có nghĩa là, tín phiếu được bán thấp hơn mệnh giá và thanh toán theo mệnh giá khi đáo hạn, chứ không trả lãi theo định kỳ. Giá tín phiếu bán ra khi phát hành được tính theo công thức sau: P= F/(1+rT/365) Trong đó: P là giá tín phiếu kho bạc bán ra F là mệnh giá tín phiếu kho bạc r là lãi suất tín phiếu kho bạc trúng thầu (%/năm) T là kỳ hạn của tín phiếu 365 là số ngày trong năm. Trên thị trường sơ cấp: + Lãi suất, số lượng phát hành do Bộ Tài chính, Tổng Giám Đốc Kho bạc quyết định + Kỳ hạn: 364, 273, 182 và 91 ngày + Lưu ký: tại Ngân hàng Nhà nước Trên thị trường thứ cấp: + Hầu hết các ngân hàng mua Tín phiếu Kho bạc có xu hướng giữ tới khi đáo hạn, hiếm có giao dịch mua bán lại giữa các ngân hàng + Các ngân hàng sử dụng Tín phiếu Kho bạc để tham gia Thị trường mở. Tín phiếu ngân hàng nhà nước Lãi suất: do NHNN quyết định phù hợp với mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ Kỳ hạn: 7, 14, …..35, 42, 91, 182, 273 hoặc 364 ngày Thành phần tham gia: Tổ chức tín dụng Lãi suất: Do NHNN công bố phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ quốc gia Hình thức tham gia: + Điều kiện thông thường: Tự nguyện + Khi NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt: Bắt buộc + Thực tế: hiệu quả sử dụng công cụ này không cao do ít tổ chức tín dụng mua được trừ trường hợp “bắt buộc” Ngân hàng Nhà nước thực hiện tái chiết khấu, tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá - Khái niệm: Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá (GTCG) của các ngân hàng là nghiệp vụ NHNN mua các GTCG còn thời hạn thanh toán, mà các GTCG này được các ngân hàng mua trên thị trường sơ cấp hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp gọi tắt là nghiệp vụ chiết khấu. - Đối tượng & điều kiện được tham gia nghiệp vụ chiết khấu: Các ngân hàng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện sau: + Có tài khoản tiền gửi và lưu ký GTCG tại Sở Giao dịch NHNN + Có đăng ký chữ ký của lãnh đạo và giới thiệu các cán bộ thực hiện nghiệp vụ chiết khấu với NHNN. - Hàng quý NHNN cấp hạn mức cho TCTD căn cứ vào: Vốn điều lệ, dư nợ cho vay nền kinh tế, dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung tiền - Kỳ hạn: không quá 91 ngày - Lãi suất chiết khấu: Là lãi suất do NHNN xác định và công bố trong từng thời kỳ. - Hình thức chiết khấu: + Chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của GTCG (Thời hạn còn lại của GTCG tối đa không quá 90 ngày) + Chiết khấu có kỳ hạn (thời hạn còn lại của GTCG lớn hơn thời hạn giao dịch). - Các loại GTCG được chiết khấu: + Tín phiếu NHNN, Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình TW, công trái (Được sử dụng trong cả hai hình thức chiết khấu). + Trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ phát triển phát hành, Trái phiếu chính quyền địa phương do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội, Tp Hồ Chí Minh phát hành (được sử dụng trong hình thức chiết khấu có kỳ hạn). - Phương thức chiết khấu: + Phương thức trực tiếp: Các ngân hàng đem “Giấy đề nghị chiết khấu GTCG” trực tiếp đến Sở Giao dịch NHNN. + Phương thức gián tiếp: Các ngân hàng giao dịch thông qua mạng vi tính hoặc qua Fax tới Sở Giao dịch NHNN (trường hợp qua Fax, gửi bản chính theo đường bưu điện). Tái cấp vốn cho TCTD - Cho vay thấu chi qua đêm trong hoạt động thanh toán điện tử: TCTD sử dụng GTCG (đã lưu ký ở NHNN) để đảm bảo cho khoản vay. - Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố chứng từ có giá + Lãi suất thường cao hơn lãi suất trên thị trường mở + Kỳ hạn cho vay dài hơn kỳ hạn trên thị trường mở Chứng chỉ tiền gửi (CD) Bản chất: là công cụ nợ không có đảm bảo được phát hành bởi các TCTD Điều kiện được phát hành: + Kết quả kinh doanh + Phương án sử dụng vốn Kỳ hạn: + Ngân hàng: • Dưới 1 năm: báo cáo • Trên 1 năm: Phải xin phép + TCTD khác: chỉ được phát hành CD có kỳ hạn trên 1 năm + Giao dịch thứ cấp: Không phổ biến Thị trường mở - Khái niệm: Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán giấy tờ có giá (GTCG) giữa một bên là Ngân hàng Nhà nước với bên kia là các tổ chức tín dụng (TCTD) trong đó NHNN đóng vai trò là người điều hành hoạt động thị trường. Nghiệp vụ TTM là một trong các công cụ được NHNN sử dụng để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. - Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở + Ngân hàng trung ương (NHTW) NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt động của thị trường mở theo các mục tiêu CSTT. NHTW là người quyết định lựa chọn sử dụng các loại OMO và tần suất sử dụng OMO. NHTW tham gia thị trường thông qua việc mua bán các GTCG nhằm tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán và gián tiếp tác động đến các lãi suất thị trường theo mục tiêu CSTT. NHTW cũng là người can thiệp thị trường khi cần thiết thông qua thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ phương tiện thanh toán cho các TCTD cũng như nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Như vậy, NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh doanh mà để quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực hiện theo các mục tiêu xác định của nó. + Các đối tác của ngân hàng trung ương • Các ngân hàng thương mại : Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia OMO của NHTW và là đối tác quan trọng của NHTW xét trên 2 phương diện độ tin cậy và tính hiệu quả. Các NHTM tham gia thị trường nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán và đầu tư các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để hưởng lãi. • Các tổ chức tài chính phi ngân hàng : Tại một số quốc gia, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng được tham gia OMO. Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, hội tiết kiệm … coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập thông qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua bán các GTCG. • Các nhà giao dịch sơ cấp : Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào OMO với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác. Các nhà giao dịch sơ cấp có thể là các NHTM, công ty chứng khoán, công ty tài chính. - Điều kiện tham gia + Là thành viên thị trường mở + Thủ tục đăng ký đơn giản + Điều kiện “đủ” để tham gia: Phải nắm giữ nhiều GTCG - Phương tiện giao dịch: qua mạng - Phương thức đấu thầu: + Lãi suất + Số lượng - Thời hạn thanh toán: đã được rút ngắn xuống (T+0) từ (T+2) - Hàng hóa giao dịch: + Tín phiếu kho bạc: Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán Chính phủ được phát hành nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu kho bạc thường dưới 12 tháng. + Tín phiếu ngân hàng Nhà nước: Tín phiếu NHTW là loại GTCG ngắn hạn do NHTW phát hành để làm công cụ cho OMO. Việc sử dụng tín phiếu NHTW làm hàng hoá trên thị trường mở có một số ưu điểm như tăng cường tính độc lập của NHTW trong việc thực thi CSTT và là công cụ linh hoạt cho việc quản lý vốn khả dụng + Trái phiếu chính phủ: Trái phiếu chính phủ là giấy nhận nợ dài hạn do Chính phủ phát hành nhằm mục đích huy động vốn cho ngân sách. Mặc dù là GTCG dài hạn có thời hạn lên đến 10-30 năm nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng khá rộng rãi trong các giao dịch OMO ở một số nước bởi tính an toàn, ổn định trong phát hành và khối lượng phát hành thường lớn, có khả năng tác động trực tiếp giá cả trên thị trường tài chính + Trái phiếu công trình trung ương + Công trái + Trái phiếu Ngân hàng Phát triển + Trái phiếu chính quyền địa phương do UBND thành phố Hà Nội và TPHCM phát hành: Tương tự như trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu và thường do các chính quyền địa phương lớn phát hành. Sự can thiệp của NHTW thông qua việc mua bán loại trái phiếu này cũng tương tự như trái phiếu Chính phủ. + Chứng chỉ tiền gửi (CD): là giấy nhận nợ của ngân hàng hay tổ chức tài chính phi ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng với một kỳ hạn và lãi suất nhất định. - Tỷ lệ chênh lệch giữa giá trị giấy tờ có giá tại thời điểm định giá và giá thanh toán trong giao dịch mua, bán có kỳ hạn giữa NHNN và TCTD: + Đối với: TPKB, TPNHNN, TPCP, TPCTTW, CT: • Dưới 1 năm: 0% • Từ 1 năm đến 5 năm: 5% • Từ 5 năm đến 10 năm: 10% • Từ trên 10 năm trở lên: 15% + Trái phiếu Ngân hàng Phát triển: 20% + Trái phiếu chính quyền địa phương do UBND thành phố Hà Nội và TPHCM phát hành: 30% - Tỷ lệ giao dịch của các loại GTCG: Trái phiếu NHPT và TP chính quyền địa phương được phép giao dịch theo tỷ lệ tối đa không quá 50% tổng giá trị của mỗi phiên giao dịch thị trường mở - Mục đích tham gia thị trường mở của TCTD: + Thanh khoản + Kinh doanh: vay NHNN với lãi suất trên thị trường mở, cho vay lại TCTD khác để hưởng chênh lệch lãi suất. - Điều hành thị trường mở của NHNN phần nhiều là Cung tiền. Việc Rút tiền qua thị trường mở (cơ chế thị trường) còn chưa mạnh. - Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở Thông qua hoạt động mua, bán các GTCG trên thị trường mở, NHTW đã tác động trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng và ảnh hưởng gián tiếp đến các mức lãi suất trên thị trường, từ đó tác động trực tiếp đến các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng. + Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là đối tác tham gia OMO) và tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng là đối tác tham gia OMO). Sơ đồ 1.1. Cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng NHTW bán GTCG Dự trữ NH giảm Dự trữ mở rộng cho vay giảm Khối lượng TD giảm MS giảm Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua GTCG sẽ làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ của hệ thống ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Sự giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả năng cho vay của ngân hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên. Như vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường nó sẽ tác động đến dự trữ của các ngân hàng, làm ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. + Về mặt giá - Tác động qua lãi suất Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau: • Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế, và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định. Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của OMO qua lãi suất Cung TPKB tăng NHTW bán TPKB Dự trữ NH giảm Đầu tư giảm Cung của quỹ cho vay giảm Lãi suất ngắn hạn tăng Lãi suất thị trường tăng Giá TPKB giảm LS thị trường tăng tăng • Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu AD và sản lượng. Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, làm lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi suất thị trường. Bên cạnh đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc trên thị trường mở sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm giá của tín phiếu kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín phiếu kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động đầu tư của các chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm. Từ đó tổng cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. - Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở + Đối với ngân hàng trung ương • OMO đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử dụng các công cụ mang tính trực tiếp trong điều hành CSTT. • OMO là một công cụ CSTT có tính chủ động cao. OMO do NHTW chủ động khởi xướng, khác với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của NHTW thường do các ngân hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng. Như vậy, NHTW có thể chủ động thực hiện OMO theo định kỳ hoặc vào các thời điểm cần thiết. • OMO có thể khắc phục được những hạn chế của các công cụ kiểm soát tiền tệ trực tiếp và các công cụ gián tiếp khác. Mặt khác, với công cụ OMO, NHTW có thể chủ động hơn trong việc điều tiết lưu thông, không phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ quan của NHTM như trong công cụ TCV. + Đối với các đối tác của ngân hàng trung ương • Thị trường mở là nơi các đối tác của NHTW được chủ động tham gia mua bán GTCG với NHTW và lãi suất thực sự là mang tính thị trường. OMO góp phần đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD. • OMO do các ngân hàng tự nguyện tham gia thực hiện theo các nguyên tắc thị trường, không mang tính chất bắt buộc như DTBB và cũng không có tác động như một hình thức "đánh thuế" đối với hoạt động của các ngân hàng như DTBB. Lãi suất trên thị trường mở cũng mang tính chất thị trường chứ không bị áp đặt như trong công cụ chiết khấu GTCG của NHTW. Như vậy, thị trường mở tạo điều kiện cho các ngân hàng sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi hiệu quả hơn và đa dạng hoá thêm các nghiệp vụ kinh doanh của các ngân hàng. + Đối với nền kinh tế • Mặc dù thành viên của OMO chủ yếu là các tổ chức tín dụng, tài chính và NHTW nhưng OMO cũng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Thông qua việc phát hành, mua bán GTCG trên thị trường mở, các chủ thể của thị trường mở đã làm tăng thêm tính thanh khoản cho các GTCG này. Điều này góp phần thúc đẩy các thị trường tài chính phát triển. Từ đó, tạo điều kiện cho các trung gian tài chính thu hút vốn trong nền kinh tế và thay đổi thói quen tiết kiệm, tiêu dùng của các hộ gia đình trong nền kinh tế. • Thị trường mở có sự gắn kết chặt chẽ với các thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường nội tệ liên ngân hàng. Sự phát triển của thị trường mở tác động mạnh đến sự hoàn thiện và phát triển của thị trường liên ngân hàng. • Việc sử dụng OMO là một điều kiện cần thiết để hội nhập nền kinh tế vào khu vực và thế giới. - Thực trạng giao dịch ở Việt Nam + Nghiệp vụ thị trường mở được xem là còn khá mới ở Việt Nam để NHNN điều hành chính sách tiền tệ. Phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện vào tháng 7/2000. Mặc dù vậy, việc triển khai nghiệp vụ thị trường mở cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, chuyển dần từ sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp sang sử dụng công cụ gián tiếp, giúp các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán nhanh chóng, kịp thời. Nghiệp vụ thị trường mở đang dần trở thành kênh chủ đạo để NHNN bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông, góp phần quan trọng điều hoà vốn khả dụng của các NHTM. + Các cơ chế và quy trình OMO đã được không ngừng cải tiến và hoàn thiện. Dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành OMO, các Vụ Cục chức năng của NHNN đã kịp thời sửa đổi, bổ sung cơ chế, quy chế, quy trình kỹ thuật có liên quan. Về cơ bản, các vướng mắc về cơ chế, quy trình và hạ tầng kỹ thuật đã được từng bước xử lý, khắc phục. Công tác tổ chức, điều hành hoạt động OMO của NHNN được thực hiện bài bản, bảo đảm an toàn tuyệt đối trong các phiên giao dịch. Các GTCG được sử dụng trong OMO đã được mở rộng theo tinh thần Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN năm 2003. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN đưa vào vận hành từ tháng 5/2003 đã tạo điều kiện cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng và OMO được thanh, quyết toán tức thời, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các TCTD. Tần suất giao dịch cũng được từng bước tăng cường, thủ tục đấu thầu ngày càng được cải tiến. + Thực tiễn điều hành nghiệp vụ thị trường mở thời gian gần đây cho thấy, NHNN đã giúp các NHTM gia tăng lượng vốn khả dụng thông qua việc điều hành thị trường mở theo hướng chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày và 28 ngày. Lãi suất qua kênh này cũng được giảm đáng kể, từ 7,8%/năm kỳ hạn 7 ngày xuống còn 7,5% - 7%/năm và tương đối ổn định suốt thời gian qua. Lãi suất của kỳ hạn 28 ngày cũng giảm xuống ở mức khoảng 8%/năm. Hoạt động thị trường mở được duy trì 2 phiên mỗi ngày, với khối lượng trúng thầu (loạt phiên trong thời gian trở lại đây) liên tục ở mức cao, khoảng 5.000 - 8.000 tỷ đồng, cao hơn so với trước kia. Trạng thái vốn ròng được thị trường xác định cho thấy NHNN đang bơm tiền vào nền kinh tế thông qua các NHTM. Điều này có ý nghĩa quan trọng: • Thứ nhất, các NHTM có thêm vốn để cấp tín dụng, tức là gia tăng được lượng vốn khả dụng. • Thứ hai, lãi suất cho vay có điều kiện giảm do các NHTM có nhiều vốn để cho vay hơn. • Thứ ba, các chủ thể kinh tế nhờ đó gia tăng được cơ hội tiếp cận nguồn vốn do lượng cung nhiều hơn và lãi suất giảm thấp hơn. Cùng với các biện pháp tiền tệ như tăng khối lượng cho vay tái cấp vốn, hỗ trợ thanh khoản trực tiếp cho các NHTM quy mô nhỏ, giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu,… việc NHNN mua vào giấy tờ có giá với lãi suất thấp hơn đã góp phần không nhỏ ổn định thị trường tiền tệ - tín dụng. + Bên cạnh những kết quả khả quan của hoạt động OMO thì vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định: • Tác động của OMO đến thị trường tiền tệ còn hạn chế. Công cụ OMO chủ yếu phát huy vai trò điều tiết khối lượng vốn khả dụng của các TCTD hơn là điều tiết lãi suất của thị trường. Doanh số giao dịch OMO thấp nên mức độ tác động của OMO đến các điều kiện thị trường vẫn còn khá khiêm tốn. Chưa có mối liên hệ rõ ràng giữa hoạt động của thị trường mở với tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế. • Tốc độ và chất lượng đường truyền kết nối qua mạng giữa NHNN và các thành viên còn chậm và đôi lúc bị ngắt quãng, nhất là khi nhiều thành viên đồng thời giao dịch với NHNN. • Hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động. - Nguyên nhân Thị trường tiền tệ ở Việt Nam còn chưa thực sự phát triển, các kênh truyền dẫn tác động CSTT chưa hoàn thiện làm hạn chế hiệu quả các công cụ CSTT. Việc thu thập thông tin về tình hình thị trường tiền tệ còn nhiều khó khăn. Đến nay NHNN vẫn chưa có hệ thống theo dõi kịp thời và đầy đủ các hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Việc theo dõi, dự báo vốn khả dụng vẫn còn có những khó khăn nhất định. Trong khi đó, bản thân một số TCTD thành viên cũng gặp khó khăn trong việc nắm bắt thông tin về tình hình thị trường. Việc đánh giá, phân tích tình hình thị trường thông qua xem xét phản ứng của một số thành viên đôi khi không chính xác diễn biến thực tế. Cơ sở hạ tầng cho hoạt động OMO còn bất cập. Sự không đồng bộ trong ứng dụng công nghệ thông tin giữa NHNN và các thành viên thị trường làm hạn chế số lượng thành viên tham gia, đặc biệt là các NHTMCP. Việc nâng cấp hệ thống máy móc thiết bị phục vụ cho các nghiệp vụ thị trường mở nói riêng và các nghiệp vụ của NHNN nói chung còn chậm làm hạn chế đến tiến độ triển khai các ứng dụng công nghệ hiện đại vào các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ trong đó có nghiệp vụ OMO. Nhiều TCTD vẫn chưa quan tâm và chưa nhận thức đầy đủ tính hiệu quả của công cụ này. - Biện pháp cơ bản đối với thị trường mở Trong thời gian sắp tới, để công cụ NVTTM phát huy hiệu lực cao hơn, thiết nghĩ nên triển khai một số biện pháp cơ bản, trước mắt sau: + NHNN nên đa dạng loại hàng hoá giao dịch trên thị trường. Thực tế cho thấy hàng hóa của thị trường mở hiện còn khá nghèo nàn, chủ yếu là tín phiếu ngân hàng. Các phương tiện giao dịch như các loại trái phiếu thời hạn ngắn, chứng khoán do bản thân các ngân hàng phát hành... vẫn chưa giao dịch trên thị trường này. Thêm vào đó, khối lượng tín phiếu ngân hàng còn quá nhỏ so với quy mô vốn của ngân hàng. Như vậy, NVTTM chưa thực sự có tác động lớn đến cung cầu vốn trên thị trường. Việc tăng khối lượng hàng hóa giao dịch cũng là hấp lực để thu hút nhiều tổ chức tín dụng tham gia thị trường mở. + NHNN cần tiếp tục hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thị trường thứ cấp về giấy tờ có giá. Hệ thống công nghệ thông tin cần được không ngừng nâng cấp nhằm hỗ trợ NHNN nắm bắt kịp thời các thông tin thị trường (nhu cầu vốn của nền kinh tế, khả năng thanh khoản của các NHTM,...) để đưa ra các quyết định sát thực và chính xác. Bên cạnh đó cũng cần chú trọng nâng cao độ an toàn, chuẩn xác trong các hoạt động giao dịch tiền tệ, tăng hiệu quả hoạt động (nhờ rút ngắn thời gian giao dịch), cũng như cải tiến các chương trình phần mềm ứng dụng về lưu ký giấy tờ có giá tại Sở Giao dịch NHNN nhằm theo dõi và thanh toán giấy tờ có giá của NHNN và của các tổ chức tín dụng. + Song song với cải tiến, nâng cấp công nghệ ngân hàng, NHNN cần không ngừng bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện các quy trình liên quan đến NVTTM, như đặt thầu, xét thầu; các thủ tục về đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá; thủ tục về lập hợp đồng, quy trình giao dịch qua mạng,... nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng khi tham gia giao dịch, rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí giao dịch. + NHNN nên nghiên cứu tăng thêm số phiên giao dịch. Hiện số phiên giao dịch mỗi ngày là 2, với kỳ hạn giao dịch 14 ngày và 28 ngày. Tăng phiên giao dịch đồng nghĩa với việc tăng thời gian tiếp xúc của các tổ chức tín dụng với NHNN. Nhờ đó, sự hỗ trợ của NHNN với tư cách là người cho vay cuối cùng sẽ tốt hơn. + Nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành nghiệp vụ thị trường mở. Con người luôn là yếu tố then chốt và quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ của cán bộ NHNN trong xây dựng và điều hành CSTT là nhu cầu vừa mang tính cấp thiết vừa lâu dài. Do vậy, để hoàn thiện và triển khai hiệu quả OMO tại Việt Nam, điều quan trọng là phải nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành OMO, không chỉ tại NHNN mà còn tại các TCTD thành viên. NHNN và các ngân hàng cần phải thường xuyên đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý ngân hàng, cán bộ nghiệp vụ. Chương trình đào tạo cần phải được chuẩn hoá và phù hợp với yêu cầu, xu thế phát triển của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đào tạo lý thuyết cơ bản thì cũng cần tiến hành các khoá học ở trong nước và nước ngoài. + Một vấn đề quan trọng nữa đó là cần tìm giải pháp thiết thực để gia tăng hơn nữa số lượng thành viên (tổ chức tín dụng) tham gia thị trường mở. Thực tế cho thấy, thành viên tham gia thị trường mở thời gian qua đã có sự gia tăng về số lượng và đa dạng về loại hình. Nếu như trước đây, thị trường mở hầu như chỉ có các NHTM nhà nước tham gia, các khối ngân hàng khác còn đứng ngoài cuộc, thì hiện nay thị trường mở Việt Nam đã có sự góp mặt của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng liên doanh, NHTM cổ phần,… Tuy nhiên, còn một bộ phận không ít các NHTM cổ phần nhỏ chưa tham gia thị trường mở, do quy mô vốn bé, trình độ nghiệp vụ chưa đáp ứng cũng như chưa quen nên chưa tham gia hoặc còn lúng túng trong việc tham gia đấu thầu tại thị trường tiền tệ thứ cấp này. Hiện mỗi phiên giao dịch chỉ nhận được sự tham gia đặt thầu của khoảng 10-15 tổ chức tín dụng. Đây là con số khá khiêm tốn so với lực lượng tổ chức tín dụng đông đảo hiện đang hoạt động tại Việt Nam. Gia tăng số lượng thành viên cũng góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của NVTTM trong việc điều hành lượng tiền trong lưu thông của NHNN, nhờ đó tăng được độ sâu và độ rộng (lan toả) của chính sách tiền tệ. + Hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ. Phát triển thị trường tiền tệ có thể nói là điều kiện quan trọng để xây dựng được một cơ chế chuyển tải CSTT nhạy cảm với cơ chế điều hành qua kênh giá cả và nâng cao hiệu quả điều hành các công cụ CSTT của NHTW. + Tăng cường khả năng dự đoán cung cầu vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng. Để điều hành CSTT hiệu quả, một yêu cầu đặt ra là NHNN phải thực hiện quản lý nguồn vốn khả dụng của các ngân hàng. Tức là phải xác định mức độ dự trữ đối với tiền dự trữ của các NHTM, dự báo mức dự trữ thực tế trong từng thời kỳ trên cơ sở tổng hợp, phân tích các số liệu liên quan ảnh hưởng đến tiền dự trữ của các NHTM tại NHNN. Trên cơ sở đó xác định mức độ, thời gian tác động của các công cụ CSTT, nhất là các công cụ TCV, nghiệp vụ thị trường mở, vào vốn khả dụng của các NHTM, nhằm điều tiết thị trường vốn một cách linh hoạt hơn, nhạy bén hơn, đảm bảo các mục tiêu đề ra. + Hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Để nâng cao được năng lực điều hành các công cụ CSTT, trước hết cần đánh giá và xem xét lại cơ chế điều hành của từng công cụ CSTT và đề ra phương án cải tiến, hoàn thiện đồng thời nghiên cứu đưa thêm công cụ mới vào hoạt động.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docti7875u lu7853n.doc
Tài liệu liên quan