Tiểu luận Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi

1.1. Lý do chọn đề tài Trong lộ trình đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì Đảng và Nhà nước luôn xem mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một trong những mục tiêu được quan tâm hàng đầu. Kết quả là hơn sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới (kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng) nước ta đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, văn hóa, chính trị, cũng như về đời sống xã hội. Trong đó, nổi bậc nhất là lĩnh vực kinh tế với nhiều kết quả đạt được đáng khích lệ: trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO, kinh tế tăng trưởng liên tục trong giai đoạn từ năm 2000-2008 trung bình trên 7%/năm, đời sống nhân dân được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người đạt xấp xỉ 1.000USD/người/năm, công nghiệp có sự phát triển mạnh mẽ. Bước đầu chúng ta đã cơ bản xây dựng được cơ sở vật chất để phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Hiện nay, chúng ta đã và đang phát triển nhiều Khu công nghiệp - Khu chế xuất trên phạm vi cả nước, nhằm phát huy tiềm năng kinh tế của từng địa phương, đồng thời tạo ra một lượng lớn nhu cầu việc làm cho thị trường lao động. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu do ngành công nghiệp mang lại, nước ta phải đối diện với tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng do chất thải từ các Khu công nghiệp - Khu chế xuất. Hàng loạt doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận không quan tâm đến môi trường sống của người dân xung quanh đã tiến hành xử lý chất thải không đúng quy định ra môi trường bên ngoài, biến những dòng sông xanh thành những dòng sông chết như: sông Thị Vải, sông Đồng Nai . Trong khi đó công tác quản lý môi trường của cơ quan có chức năng còn nhiều hạn chế nên càng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp vi phạm hơn nữa và tình trạng ô nhiễm diễn ra ngày một trầm trọng đến mức báo động. Trên cơ sở vận dụng lý thuyết trò chơi của trò chơi lặp lại nhiều lần phân tích sự tương tác lợi ích giữa hai doanh nghiệp sản xuất, mỗi doanh nghiệp sẽ quyết định lựa chọn chiến lược hành động phù hợp vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh với đối thủ cạnh tranh, vừa mang lại kết quả tối ưu cho doanh nghiệp. Vì vậy đề tài "Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi" được thực hiện 1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.2.1 Mục tiêu tổng quát Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển phát triển Khu công nghiệp, Khu chế xuất (KCN, KCX) ở Việt Nam và đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường do sự phát triển của các KCN, KCX gây ra trên cơ sở vận dụng lý thuyết trò chơi. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục thực trạng ô nhiễm, góp phần bảo vệ môi trường sống, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài trong tương lai. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể Trên cơ sở vận dụng lý thuyết trò chơi để phân tích thực trạng ô nhiễm môi trường tại các KCN, KCX ở Việt Nam giúp cho các cơ quan có chức năng rà soát lại và tìm ra giải pháp thích hợp và kịp thời. Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau: - Phân tích sự phát triển các KCN, KCX giai đoạn 2000-2007. - Vận dụng lý thuyết trò chơi để phân tích hành động của hai doanh nghiệp trong quá trình thực hiện xử lý chất thải sau quá trình sản xuất. - Tìm ra những hạn chế, nguyên nhân tác động của sự phát triển các KCN, KCX đến môi trường, từ đó đưa ra một số giải pháp để giải quyết ô nhiễm, đảm bảo gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu bảo vệ môi trường. 1.3. Câu hỏi nghiên cứu - Thế nào là KCN? - Môi trường bao gồm những yếu tố nào? - Như thế nào gọi là ô nhiễm môi trường? - Lý thuyết trò chơi được hiểu như thế nào? - Trò chơi lặp lại vô số lần có đặc điểm gì? - Thế nào là cân bằng Nash? - Sự phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam trong thời gian qua diễn ra như thế nào (từ năm 2000-2007)? - Trò chơi lựa chọn chiến lược xử lý chất thải của hai doanh nghiệp diễn ra như thế nào? - Môi trường ở các KCN, KCX ô nhiễm ra sao? - Sự quản lý của cơ quan Nhà nước có chức năng về vấn đề môi trường mặt nào còn hạn chế? - Những giải pháp nhằm khắc phục, bảo vệ môi trường trong thời gian tới là gì?

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2842 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh nghiệp vi phạm hơn nữa và tình trạng ô nhiễm diễn ra ngày một trầm trọng đến mức báo động. Trên cơ sở vận dụng lý thuyết trò chơi của trò chơi lặp lại nhiều lần phân tích sự tương tác lợi ích giữa hai doanh nghiệp sản xuất, mỗi doanh nghiệp sẽ quyết định lựa chọn chiến lược hành động phù hợp vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh với đối thủ cạnh tranh, vừa mang lại kết quả tối ưu cho doanh nghiệp. Vì vậy đề tài "Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi" được thực hiện. 1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.2.1 Mục tiêu tổng quát Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển phát triển Khu công nghiệp, Khu chế xuất (KCN, KCX) ở Việt Nam và đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường do sự phát triển của các KCN, KCX gây ra trên cơ sở vận dụng lý thuyết trò chơi. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục thực trạng ô nhiễm, góp phần bảo vệ môi trường sống, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài trong tương lai. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể Trên cơ sở vận dụng lý thuyết trò chơi để phân tích thực trạng ô nhiễm môi trường tại các KCN, KCX ở Việt Nam giúp cho các cơ quan có chức năng rà soát lại và tìm ra giải pháp thích hợp và kịp thời. Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau: - Phân tích sự phát triển các KCN, KCX giai đoạn 2000-2007. - Vận dụng lý thuyết trò chơi để phân tích hành động của hai doanh nghiệp trong quá trình thực hiện xử lý chất thải sau quá trình sản xuất. - Tìm ra những hạn chế, nguyên nhân tác động của sự phát triển các KCN, KCX đến môi trường, từ đó đưa ra một số giải pháp để giải quyết ô nhiễm, đảm bảo gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu bảo vệ môi trường. 1.3. Câu hỏi nghiên cứu - Thế nào là KCN? - Môi trường bao gồm những yếu tố nào? - Như thế nào gọi là ô nhiễm môi trường? - Lý thuyết trò chơi được hiểu như thế nào? - Trò chơi lặp lại vô số lần có đặc điểm gì? - Thế nào là cân bằng Nash? - Sự phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam trong thời gian qua diễn ra như thế nào (từ năm 2000-2007)? - Trò chơi lựa chọn chiến lược xử lý chất thải của hai doanh nghiệp diễn ra như thế nào? - Môi trường ở các KCN, KCX ô nhiễm ra sao? - Sự quản lý của cơ quan Nhà nước có chức năng về vấn đề môi trường mặt nào còn hạn chế? - Những giải pháp nhằm khắc phục, bảo vệ môi trường trong thời gian tới là gì? 1.4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1.4.1. Thời gian Những thông tin về số liệu được sử dụng để phân tích trong đề tài là số liệu từ năm 2000-2009. 1.4.2. Không gian Đề tài nghiên cứu thực trạng ô nhiễm môi trường ở các KCN, KCX trên phạm vi cả nước. 1.4.3. Đối tượng nghiên cứu "Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi". 1.5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở thu thập số liệu thứ cấp, kết hợp với việc vận dụng lý thuyết trò chơi phân tích chiến lược của hai doanh nghiệp trong việc chọn lựa quyết định xử lý hay không xử lý chất thải của quá trình sản xuất trước khi thải ra môi trường. Kết hợp với việc phân tích, phương pháp so sánh tỷ số làm rõ hơn vấn đề ô nhiễm môi trường do sự phát trển của các KCN, KCX gây ra. Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Một số khái niệm 2.1.1. Khu công nghiệp Khu nghiệp là nơi tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất kinh doanh các sản phẩm công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Khu công nghiệp có ranh giới đất đai với khu dân cư và cũng là nơi thải nhiều chất độc hại nhất cho môi trường và cho cộng đồng. Có thể nói KCN là nơi tập trung các thiết bị công nghệ cao, nhà quản lý có trình độ khoa học tiên tiến và công nhân lành nghề. 2.1.2. Môi trường Môi trường là một tổ hợp các yếu tố bên ngoài của một hệ thống nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và tình trạng tồn tại của nó. Môi trường có thể coi là một tập hợp, trong đó hệ thống đang xem xét là một tập hợp con. Môi trường của một hệ thống đang xem xét cần phải có tính tương tác với hệ thống đó. 2.1.3. Ô nhiễm môi trường Ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường tự nhiên bị bẩn, đồng thời các tính chất vật lí, hóa học, sinh học của con người và các sinh vật khác. 2.1.4. Lý thuyết trò chơi Lý thuyết trò chơi nghiên cứu các tình huống ra quyết định có liên quan đến nhiều người và các quyết định của mỗi người ảnh hưởng tới lợi ích và quyết định của người khác. * Phân loại trò chơi Các nhà nghiên cứu phân ra nhiều loại trò chơi. Trò chơi hợp tác là trò chơi mà trong đó những người chơi có thể thõa thuận với nhau để chọn giải pháp trong khi trò chơi bất hợp tác là trò chơi mà trong đó không có sự thõa thuận giữa những người chơi. Ngoài ra, các nhà kinh tế cũng quan tâm đến trò chơi đồng thời và trò chơi trước sau. Trò chơi đồng thời là trò chơi mà trong đó mỗi người chơi đưa ra quyết định nhưng không biết quyết định của người chơi khác. Trò chơi trước sau là trò chơi trong đó mỗi người chơi chỉ đưa ra quyết định sau khi quan sát hành động của những người chơi khác. * Các thành phần cơ bản của trò chơi + Người chơi: người ra quyết định trong một trò chơi được gọi là người chơi. Người chơi có thể là một cá nhân (như chơi bài ở các sòng bạc), doanh nghiệp (như trong thị trường cạnh tranh độc quyền) hay một quốc gia (như trong các xung đột chính trị, quân sự, ngoại giao). Người chơi có khả năng chọn một số hành động. Thông thường, số lượng người chơi được giả định là cố định trong lúc trò chơi được thực hiện và các trò chơi được đặc trưng bởi số lượng người chơi (như hai, ba người chơi hay n người chơi). Mỗi người chơi chỉ hành động sao cho đạt được kết quả tốt nhất cho mình. + Chiến lược: mỗi hành động của người chơi có thể chọn thực hiện là một chiến lược. Tùy thuộc vào trò chơi đang xem xét, một chiến lược có thể rất đơn giản (như chọn thêm một lá bài khi chơi bài) hay rất phức tạp (như xây dựng căn cứ quân sự chống tên lửa hạt nhân của đối phương) nhưng mỗi chiến lược được giả định là một hành động được hoạch định để mang lại kết quả tối ưu cho người chơi. Tuy số chiến lược dành cho mỗi người chơi là không giới hạn nhưng lý thuyết trò chơi có thể chỉ đề cập đến tình huống mà trong đó mỗi người chơi chỉ có hai chiến lược. Trong trò chơi bất hợp tác, những người chơi không thể đạt được các thõa thuận với nhau về chiến lược mà họ sẽ thực hiện, nghĩa là những người chơi không chắc chắn về chiến lược mà người chơi khác sẽ thực hiện. Ngược lại, trong trò chơi hợp tác, người chơi biết chắc chắn về điều này. + Kết quả: lợi ích mà mỗi người chơi nhận được từ một trò chơi được gọi là kết quả. Kết quả tổng hợp tất cả cái gặt hái được từ trò chơi. Kết quả bao gồm các kết quả mang tính chất giá trị (như lợi nhuận) cũng như cảm xúc của người chơi (như xấu hổ hay tự hào). Kết quả được đo lường bởi hữu dụng hay giá trị mà người chơi nhận được. Ở đây, ta giả định rằng người chơi có thể xếp hạng kết quả từ ưu thích nhất đến kết quả ít ưu thích nhất và cố gắng đạt đến kết quả ưu thích nhất. 2.1.5. Khái niệm chiến lược ưu thế và điểm cân bằng Nash Chiến lược ưu thế là chiến lược mang đến kết quả tốt nhất cho một người chơi bất chấp chiến lược của người chơi kia. Điểm cân bằng Nash là một cặp chiến lược (a*,b*) đại diện cho giải pháp cân bằng đối với hai người chơi mà trong đó a* là chiến lược tối ưu của A để đối phó với b* và b* là chiến lược tối ưu cho B đối phó với a*. Rộng hơn, cân bằng Nash là một tập hợp chiến lược mà trong đó không có người chơi nào có thể làm tăng lợi ích của mình bằng cách thay đổi chiến lược. Khái niệm cân bằng Nash rất quan trọng vì nó giúp mô tả các tình huống mà trong đó mỗi người chơi thực hiện chiến lược tốt nhất cho mình để đối ứng với các chiến lược mà người chơi khác đang thực hiện. Ví dụ bảng 2.1.5, cho thấy chiến lược chi tiêu quảng cáo thấp (L) là chiến lược ưu thế của B. Bất chấp chiến lược của A là như thế nào thì chiến lược L sẽ cho B lợi nhuận cao hơn chiến lược H. Bảng 2.1.5: Trò chơi quảng cáo ở hình thức thông thường B Chiến lược L H A L 7,5 5,4 H 6,4 6,3 Giả sử cấu trúc trò chơi là được biết đối với cả hai người chơi A và B nên A nhận ra B sẽ chọn chiến lược ưu thế này và vì vậy sẽ chọn chiến lược tốt nhất để đối chọi với B, đó là chiến lược L. Việc lựa chọn chiến lược ưu thế này dẫn đến việc (A: L, B: L) sẽ được chọn và kết quả sẽ là 7 cho A và 5 cho B. Chiến lược (A: L, B: L) là một điểm cân bằng Nash. Nếu A biết B sẽ chọn L thì A sẽ chọn chiến lược tốt nhất là L. Tương tự, nếu B biết A sẽ chọn L thì tốt nhất là B chọn L. Thật vậy, do L là chiến lược ưu thế của B nên đây là lựa chọn tốt nhất của B bất chấp A chọn chiến lược nào. Vì vậy, chọn lựa (A: L, B: L) thõa mãn tính đối xứng của điểm cân bằng Nash. Để thấy tại sao các cặp chiến lược khác trong bảng 2.1.5 không phải là cân bằng Nash, hãy xem xét từng cặp một. Với lựa chọn (A: H, B: L) thì A có cơ hội đạt đến trạng thái tốt hơn - nếu A biết B sẽ chọn L thì A có thể thu được lợi nhuận cao hơn nếu cũng chọn L. Như vậy, chọn lựa (A: H, B: L) không phải là điểm cân bằng Nash. Không có chọn lựa nào trong hai kết quả còn lại mà trong đó B chọn H đáp ứng được yêu cầu điểm cân bằng Nash vì không cần biết A làm gì, B có thể làm tăng lợi nhuận nếu chọn L. Do L là chọn lựa ưu thế của B nên không có kết quả nào từ việc B chọn H có thể là cân bằng Nash. 2.2. Giới thiệu lý thuyết trò chơi lặp lại vô số lần Trong kinh tế, lý thuyết trò chơi được ứng dụng rất rộng rãi như: trò chơi một lần không lặp lại, trò chơi lặp lại vài lần, trò chơi lặp lại vô số lần, trò chơi nhiều giai đoạn,... trong đó trò chơi lặp lại vô số lần là trò chơi khá phổ biến trong thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp và trong phần nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung đi sâu tìm hiểu trò chơi lặp lại vô số lần. 2.2.1. Trò chơi nghịch lý người tù Trò chơi nghịch lý người tù được đề cập lần đầu tiên bởi nhà kinh tế học người Canada Albert William Tucker (1905-1995) vào thập niên 1940. Trò chơi này xuất hiện từ thực tế như sau. Hai người bị bắt vì nghi phạm tội. Người thẩm vấn chỉ có rất ít bắng chứng phạm tội của họ và muốn làm họ thú nhận. Ông ta tách rời họ và bào: “Nếu anh thú nhận và bạn anh không thì tôi sẽ giảm hình phạt cho anh xuống còn 6 tháng tù, nhưng thú nhận của anh sẽ làm bạn anh phải nhận mức án 10 năm. Nếu cả hai thú nhận, mỗi người sẽ chỉ phải chịu 03 năm tù”. Mỗi người tù cũng biết là nếu không ai thú nhận thì mỗi người chỉ chịu 02 năm tù do thiếu bằng chúng kết tội. Bảng 2.2.1: Trò chơi nghịch lý người tù B Chiến lược Thú nhận Không thú nhận A Thú nhận A: 3 năm; B: 3 năm A: 6 tháng; B: 10 năm Không thú nhận A: 10 năm; B: 6 tháng A: 2 năm; B: 2 năm Ma trận kết quả ở hình thức thông thường của trò chơi này như trong bảng. Thú nhận là chiến lược ưu thế của cả A và B. Vì vậy, các chiến lược này hình thành nên cân bằng Nash và chiến lược chia cắt này của người thẩm vấn thành công. Tuy nhiên, thõa thuận trước giữa hai người phạm tội là không thú nhận thì sẽ giảm hạn tù của họ từ 3 năm xuống 2 năm. Giải pháp “hợp lý” này không ổn định vì mỗi người tù muốn chuyển sự bất lợi cho người kia. Do đó, đây là nghịch lý, nghĩa là kết quả tối ưu lại không ổn định. 2.2.2. Hợp tác và trò chơi lặp lại vô số lần Các vấn đề tương tự với Nghịch lý người tù xuất hiện trong nhiều tình huống thực tế khác. Bảng 2.2.2. minh họa nghịch lý của một trò chơi quảng cáo. Bảng 2.2.2: Trò chơi quảng cáo với kết quả mong muốn không ổn định B Chiến lược L H A L 7,7 3,10 H 10,3 5,5 Ở đây, chiến lược cả hai cùng chọn L mang lại lợi nhuận cao nhất nhưng không ổn định. Tình huống này được gọi là chiến lược quảng cáo “phòng thủ”, nghĩa là nếu cùng giảm chi phí quảng cáo thì sẽ làm tăng lợi ích cho cả hai. Thõa thuận như vậy lại không ổn định vì các doanh nghiệp có thể làm tăng bằng cách không tuân thủ thõa nhuận. Do đó, cuối cùng cả hai chọn chiến lược H, dẫn đến lợi nhuận thấp hơn. Trò chơi lặp lại vô số lần là trò chơi khá phổ biến trong thực tế kinh doanh của doanh nghiệp, được sử dụng rộng rãi trong phân tích chiến lược quảng cáo, liên kết hỗ trợ với chiến lược kích thích, chiến lược chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp… Ví dụ, trò chơi chất lượng sản phẩm là trò chơi giữa khách hàng và doanh nghiệp thể hiện như sau: khách hàng muốn mua sản phẩm chất lượng cao trong khi doanh nghiệp lại muốn tối đa hóa lợi nhuận. Trong trò chơi một lần không lặp lại, một doanh nghiệp sẽ có động cơ bán sản phẩm chất lượng thấp nếu khách hàng không thể biết được chất lượng sản phẩm trước khi mua. Vấn đề sẽ khác đi nếu trò chơi lặp lại vô số lần. Giả sử người khách hàng bảo với doanh nghiệp: “Tôi sẽ mua nếu sản phẩm tốt. Nếu sản phẩm xấu, tôi sẽ bảo tất cả người quen đừng bao giờ mua sản phẩm của anh”. Với chiến lược này của người mua, doanh nghiệp nên làm gì? Nếu lãi suất không quá cao thì doanh nghiệp nên bán sản phẩm tốt. Lý do rất đơn giản. Nếu bán sản phẩm xấu, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận 10 đvt ngay lúc đó. Đây là lợi ích thu được do lừa dối. Tuy nhiên, mất mát của việc bán sản phẩm xấu là không có lợi nhuận vĩnh viễn ngay sau khi bán sản phẩm xấu. Nếu lãi suất thấp, lợi nhuận thu được một lần do lừa dối này không thể bù đắp sự mất mát vĩnh viễn không có lợi nhuận. Do đó, doanh nghiệp không nên lừa dối. Chương 3 THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP- KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM NHÌN TỪ LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI 3.1. Sự phát triển Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam giai đoạn 2000-2007 Cùng với tiến trình phát triển của đất nước trong sự nghiệp CNH, HĐH nhất là khi nước ta đã bước bào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, khắp nơi trong cả nước, từ thành thị đến nông thôn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư trong nước vào lĩnh vực sản xuất ngày càng tăng. Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong đó, có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) ra đời phát triển tương đối nhanh và là khu vực đi đầu trong quá trình CNH, HĐH đất nước, tập trung chủ yếu ở miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng và vùng ven biển miền Trung. Biểu đồ: 3.1: Sự phát triển KCN, KCX ở Việt Nam giai đoạn 2000-2007 (Nguồn: Vụ quản lý KCN, KCX) Giai đoạn năm 2000 - 2002 số lượng KCN, KCX tăng với tốc độ chậm, nhưng bắt đầu từ sau năm 2002 đã có sự tăng lên mạnh mẽ, tăng nhanh nhất là năm 2007. Điều này bước đầu cho thấy những chủ chương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước đã phát huy tác dụng, thu hút đầu tư và ngoài nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực. Trong các KCN, KCX nhiều nhà máy, xí nghiệp đã và đang tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ với qui mô ngày càng lớn. Đây chính là cơ hội để nước ta có thể phát triển một nền kinh tế toàn diện và hội nhập được với khu vực và thế giới. Cụ thể, giai đoạn năm 2000 - 2002 mức tăng lên của các KCN, KCX tương đối thấp, năm 2002 lượng KCN, KCX là 75, tăng 12 KCN, KCX so với năm 2000, với tỷ lệ tăng là 19,0% (phụ lục). Diện tích đất công nghiệp cho thuê năm 2002 là 8.892 hecta, chiếm 72,7% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. So với năm 2000 thì diện tích đất công nghiệp cho thuê tăng 1.217 hecta, tương đương 15,7%, tỷ lệ đất công nghiệp cho thuê trên đất công nghiệp có thể cho thuê năm 2000 là 76,8% cao hơn 72,7% của năm 2002, đồng thời tạo việc làm cho 883.688 lao động. Trong giai đoạn này, nước ta đang trong giai đoạn hoàn thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với bên ngoài, ....từng bước thu hút nguồn vốn đầu tư bên ngoài, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Tính đến thời điểm năm 2002 cả nước đã có 4.447 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép, với tổng số vốn đăng ký là 43.194 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 20.357,6 triệu USD. Phần lớn vốn đầu tư nước ngoài (trên 70%) vào nước ta xuất phát từ các nước Châu Á (trong đó các nước ASEAN chiếm gần 25%, các nước và lãnh thổ ở khu vực Đông Bắc Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan chiếm trên 31%) (nguồn: niên giám thống kê 2002. NXB thống kê, Hà Nội 2002). Khi nền kinh tế các nước này lâm vào khủng hoảng do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1997 nên hạn chế khả năng đầu tư của nước ngoài vào nước ta. Kết quả từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu suy giảm, số vốn đăng ký đạt mức cao hơn năm 1992 không nhiều và đến năm 2002 lại giảm xuống. Nếu so với năm 1997 số dự án được duyệt năm 1998 chỉ bằng 79,71%, năm 1999 chỉ bằng 90,4%, năm 2000 tuy có tăng nhưng cũng chỉ tăng 7,5% so với năm 1997, tới năm 2002 số dự án đã tăng 51,59% so với năm 1997. Giai đoạn năm 2002 - 2006 số lượng KCN, KCX tăng nhanh, trung bình hàng năm tăng 17,5 KCN, KCX, với tốc độ tăng 93,3%. Nếu năm 2002 trên địa bàn cả nước có 75 KCN, KCX thì đến năm 2006 số lượng tăng lên thành 145. Diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê cũng có sự tăng lên đáng kể, tăng 9.863 hecta so với 12.371 hecta của năm 2002. Trong đó, diện tích đất công nghiệp cho thuê là 13.675 hecta, chiếm tỷ lệ 61,5% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê, diện tích đất công nghiệp cho thuê năm 2006 tăng 52,1% so với năm 2002, tương đương 4.683 hecta nhưng tỷ lệ diện tích đất công nghiệp cho thuê có chiều hướng giảm so với năm 2002 (75,6%). Trong quá trình thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, chúng ta đã bước đầu thành công trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình CNH, HĐH. Các KCN, KCX lần lượt được xây dựng trên phạm vi khắp cả nước, nhằm khai thác thế mạnh kinh tế của từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cũng như tạo việc làm cho một bộ phận lớn dân cư. Tuy nhiên, việc phát triển quá nhanh cơ sở hạ tầng dẫn trong khi khả năng thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN, KCX hiệu quả chưa cao dẫn đến lượng cung tăng nhanh, trong khi nhu cầu còn thấp dẫn đến cung lớn hơn cầu gây ra tình trạng dư thừa. Bên cạnh đó, vấn đề quy hoạch phát triển các KCN chưa được xét trên bình diện của cả nước và của các vùng mà chỉ là quy hoạch của riêng từng tỉnh, thành phố nên xảy ra tình trạng nhà nhà làm KCN. Mặc dù, tiềm năng phát triển kinh tế của nước ta là rất lớn, nhiều nhà đầu nước ngoài đánh giá cao điều này nhưng vấn đề về môi trường pháp lý là một trong những yếu tố gây nhiều trở ngại nhất. Môi trường pháp lý mang nặng tính hành chính đã làm không ít nhà đầu tư phải thận trọng khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. Chính vì vậy hiện tượng nhiều KCN, KCX đã xây dựng xong nhưng hoạt động cầm chừng, việc xây dựng các KCN, KCX ở nước ta đang ở trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu, các chính sách đưa ra không theo kịp sự vận động biến đổi của thực tế đã dẫn đến một loạt những hệ lụy như: nhiều KCN, KCX có số dự án đầu tư chiếm tỷ lệ quá thấp (10-20%), sự lãng phí này là quá lớn, tình trạng chồng chéo trong quản lý các KCN vẫn tồn tại cả ở tầm vĩ mô cũng như ở từng địa phương (ví dụ: đất nói chung do Chính phủ duyệt quy hoạch, việc cấp đất do tỉnh tiến hành, duyệt quy hoạch đất KCN là của Bộ Xây dựng, cấp phép đầu tư là nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư), việc quản lý các KCN cũng chỉ dừng ở mức cấp phép thành lập chứ chưa chú ý đến vấn đề quy hoạch, các KCN phát triển theo hướng đa ngành dẫn đến khó khăn trong quá trình hoạt động. Về mặt số lượng tăng từ 145 KCN, KCX trong năm 2006 lên 179 đến cuối năm 2007, với tổng diện tích đất tự nhiên trong năm 2007 là 42.986 hecta, trong đó có hơn 110 KCN đã đi vào hoạt động. Các KCN đã thu hút hơn 3.000 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn gần 30 tỉ USD. Ngoài ra còn có 3.000 dự án trong nước với tổng vốn gần 200 ngàn tỉ đồng, giải quyết việc làm cho lao động trực tiếp và có hàng triệu lao động gián tiếp liên quan đến hoạt động của các KCN, KCX (như: vận chuyển nguyên vật liệu, gia công hàng hóa dịch vụ...) (nguồn: Cục Đầu tư Nước ngoài Bộ KH –ĐT). Năm 2007, Việt Nam đã thu hút được 20,3 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, tăng 69,1% so với cùng kỳ năm trước, vượt 56% kế hoạch dự kiến. Đây là kết quả của quá trình phấn đấu sau một thời gian dài để trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới. Đó cũng là kết quả của việc phân cấp mạnh mẽ về cho các địa phương, hiện trên địa bàn cả nước có 60 địa phương đã thực hiện việc cấp giấy phép đầu tư cho các dự án FDI theo các điều kiện phân cấp tại địa bàn. Tuy nhiên, trong khi số KCN, KCX tăng với tốc độ 23,4% và diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê tăng 29,6% thì tốc độ tăng của diện tích đất công nghiệp cho thuê tăng rất thấp chỉ đạt 5,1%. Trong đó, tỷ lệ diện tích đất công nghiệp cho thuê năm 2007 chỉ đạt 49,9%, so với năm 2006 tỷ lệ này giảm 11,6% và thấp hơn nhiều so với 75,6% của năm 2002. Thực trạng này đòi hỏi chúng ta cần đưa ra những biện pháp kịp thời khắc phục khuyết điểm, nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN, KCX. Xóa bỏ tình trạng cung lớn hơn cầu xảy ra ở nhiều nơi dẫn đến hiệu quả đầu tư kém, gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên và ngân sách. 3.2. Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi Việc xây dựng, phát triển các KCN, KCX là một hướng đi đúng đắn không những tạo ra các khu kinh tế phát triển đều khắp trên cả nước, mà còn tạo nên động lực đưa Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Sự phát triển các KCN đã góp phần đáng kể vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương, phát huy được tiềm năng kinh tế của các vùng, miền, tạo sự phát triển cân đối giữa các khu vực. Hơn nữa, nhiều dự án trong các KCN (kể cả dự án có vốn nước ngoài và doanh nghiệp trong nước) có công nghệ sản xuất hiện đại đã tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng quốc tế, có sức cạnh tranh ngày càng cao. Tốc độ phát triển khá nóng của các KCN, KCX đã kéo theo nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường. Tại các KCN, công tác bảo vệ môi trường chưa được thực hiện đồng bộ, nhiều KCN chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Đến cuối năm 2007, mới chỉ có 28 KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung, khoảng 20 KCN khác đang xây dựng hoặc chuẩn bị đầu tư, hầu hết số doanh nghiệp còn lại chưa xây. Trong nhiều năm qua chúng ta chỉ chú trọng mục tiêu tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút một lượng lớn nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên xuất khẩu ra nước ngoài thu về ngoại tệ...Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp đã và đang tiêu hao nhiều loại tài nguyên, năng lượng và thải ra nhiều chất gây hại, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường. Mức độ ô nhiễm nước ở các KCN, KCX, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn. Kết quả là trung bình hàng ngày các KCN thải ra môi trường khoảng 500.000 - 700.000m3 chất thải, hầu hết chưa được xử lý đã làm ô nhiễm môi trường nước. Theo số liệu thống kê lượng chất thải rắn công nghiệp hàng năm là 1,2 triệu tấn và khối lượng chất thải nguy hại chiếm 175.000 tấn, nhưng việc xử lý, thu gom không đạt 50%. Chính điều này dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng trên nhiều con sông như: sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Thị Vải... đã đến mức báo động. Nhưng bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, thì mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất đối với doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Đối với một sản phẩm bất kỳ thì hệ số co giãn của cầu theo giá cho biết mối quan hệ biến động giữa cầu và giá. Khi hệ số co giãn 1 thì lượng sản phẩm bán ra và giá là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với nhau, giá giảm thì số lượng hàng hóa bán tăng lên và ngược lại khi giá hàng hóa tăng lên thì số lượng hàng hóa bán ra lại giảm xuống. Điều này đã đặt các nhà quản lý doanh nghiệp phải luôn đưa ra phương pháp sản xuất tối ưu nhằm mục đích tối thiểu hóa chi phí trong kết cấu giá thành sản phẩm, từ đó hạ giá thành sản phẩm xuống giúp doanh nghiệp có thể tăng số lượng hàng hóa tiêu thụ thông qua việc giảm giá bán sản phẩm và tăng sức cạnh tranh sản phẩm của mình trên thị trường, tăng lợi nhuận. Trong đó, chi phí cho xử lý chất thải và nước thải sau quá trình sản xuất chiếm một phần trong kết cấu giá thành. Tùy theo đặc tính của từng sản phẩm mà chi phí này có thể cao hay thấp, để đảm bảo khả năng cạnh tranh sản phẩm trên thị trường, các doanh nghiệp sẽ luôn tìm cách để giảm chi phí này xuống mức càng thấp càng tốt (xét trong điều kiện các yếu tố khác xem như không đổi), dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp không tiến hành xử lý chất thải và nước thải sau quá trình sản xuất (gọi chung là chất thải) hay xử lý không đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường bên ngoài. Nhất là trong điều kiện môi trường cạnh tranh gay gắt ngày càng nên gay gắt thì đây là một trong những yếu tố góp phần làm giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt lợi nhuận đạt được của các doanh nghiệp là tối ưu. Nếu vấn đề quản lý xử lý chất thải, nước thải sau quá trình của các doanh nghiệp, hay pháp luật về bảo vệ môi trường của nước ta còn nhiều bất cập thì việc một doanh nghiệp vi phạm sẽ kéo theo nhiều doanh nghiệp khác vi phạm (nhất là các doanh nghiệp sản xuất cùng ngành). Bởi trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt một doanh nghiệp thực hiện theo đúng qui định pháp luật trong khi các doanh nghiệp khác không thực hiện thì chẳng khác nào doanh nghiệp đó tự mình rời bỏ cuộc chơi. Chính hiệu ứng dây chuyền này dẫn đến hệ lụy môi trường sống ngày càng biến động theo chiều hướng xấu, mục tiêu tăng trưởng bền vững khó có thể được đảm bảo. Đây giống như một trò chơi mà quyết định của mỗi bên phụ thuộc vào người chơi với mình. Từ khuôn khổ trò chơi “Nghịch lý người tù”, có thể mô phỏng thành trò chơi hành động xử lý chất thải sau quá trình sản xuất giữa hai doanh nghiệp A và B. Giả sử trò chơi diễn ra giữa hai doanh nghiệp sản xuất A và B cùng ngành với loại trò chơi có thông tin đầy đủ. Dạng nhận thức của trò chơi là mỗi bên tham gia đồng thời ra quyết định để tối ưu hóa lợi ích. Mỗi người chơi đều biết rằng đối thủ của họ đang cố gắng để tối đa hóa lợi ích của mình. Kết quả lợi ích mỗi bên tham gia thu được không chỉ phụ thuộc vào hành động của mình mà còn là hành động của bên tham gia trò chơi còn lại. Quyết định có tiến hành xử lý chất thải hay không của 2 doanh nghiệp phụ thuộc vào các kết cục có thể có của trò chơi. Nếu hiện tại hai doanh nghiệp tiến hành xử lý chất thải theo quy định, như vậy mỗi doanh nghiệp vẫn đảm bảo khả năng cạnh tranh hiện có của mình và thu được những lợi ích trực tiếp, gián tiếp từ quyết định này. Bảng 3.2. mô tả sự kết hợp tương ứng từng hành động của mỗi bên tham gia. Bảng 3.2.: Trò chơi chiến lược xử lý chất thải của hai doanh nghiệp A và B B Chiến lược Không xử lý Xử lý A Không xử lý 11,11 15,-5 Xử lý -5,15 2,2 Nếu cả hai doanh nghiệp ban đầu thõa thuận với nhau cùng lựa chọn chiến lược xử lý, nghĩa là thực hiện xử lý chất thải sau quá trình sản xuất theo đúng quy định, mỗi doanh nghiệp phải tốn chi phí để vận hành hệ thống xử lý làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến giá thành sản phẩm cũng tăng lên. Tuy nhiên do giá thành sản phẩm của hai doanh nghiệp đều tăng lên đồng thời nên khách hàng không có xu hướng chuyển từ tiêu dùng sản phẩm doanh nghiệp A sang tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp B. Do đó mỗi doanh nghiệp nhận được lợi ích là 2 đvt. Nhưng nếu một trong hai doanh nghiệp phá vỡ thõa thuận thì kết quả mỗi doanh nghiệp nhận được sẽ khác đi rất nhiều, chênh lệch lợi ích giữa doanh nghiệp thực hiện cam kết và doanh nghiệp còn lại có sự biến động lớn. Thực vậy, nếu doanh nghiệp A không tuân thủ thõa thuận ban đầu thì lợi ích doanh nghiệp A nhận được là 15 đvt. Trong trường hợp này, doanh nghiệp A không tiến hành xử lý chất thải theo đúng qui định nên doanh nghiệp đã giảm được một phần chi phí trong kết cấu giá thành sản phẩm, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Ngược lại, việc phá vỡ thõa thuận của doanh nghệp A đã tạo ra kết quả tồi tệ cho doanh nghiệp B, doanh nghiệp này phải mất chi phí vận hành hệ thống xử ý nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trở nên kém hơn. Cụ thể, sức cạnh tranh của doanh nghiệp kém hơn so với doanh nghiệp A, có thể do giá thành sản phẩm cao hơn đối thủ cạnh tranh nên lượng khách hàng của công ty thấp hơn so với thời gian trước. Và trong trường hợp này, lợi ích doanh nghiệp nhận được không phải là 2 nữa mà ngược lại bị lỗ 5 đvt. Tương tự trường hợp ngược lại khi doanh nghiệp B phá vỡ thõa thuận, trong khi đó doanh nghiệp A vẫn thực hiện theo đúng thõa thuận ban đầu. Kết quả cho doanh nghiệp B là 15 đvt và doanh nghiệp A bị lỗ là 5 đvt. MR, P O MR P • q • MC A q* D • AC • C B C' A’ • AC’ Hành động phá vỡ thõa thuận của mỗi doanh nghiệp xuất phát từ lợi ích mà doanh nghiệp đó nhận được, doanh nghiệp không xử lý sẽ nhận được lợi ích nhiều hơn. Biểu đồ 3.2. thể hiện lợi ích mang lại khi thõa thuận bị phá vỡ. Biểu đồ 3.2: Vai trò của chi phí đối với lợi nhuận Diện tích hình chữ nhật PBAC là phần lợi nhuận của doanh nghiệp thực hiện việc xử lý chất thải sau quá trình sản xuất đúng tiêu chuẩn ứng với đường chi phí AC. Với số lượng sản phẩm q* không thay đổi, đường chi phí AC dịch chuyển xuống phía dưới thành AC’ thể hiện phần chi phí giảm xuống do doanh nghiệp không phải chi để vận hành hệ thống xử lý, dẫn đến giá thành sản phẩm giảm xuống và lợi nhuận lúc này không phải là diện tích hình chữ nhật PBAC mà là diện tích của hình chữ nhật PBA’C’ lớn hơn diện tích hình chữ nhật PBAC. Đây chính là động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp không thực hiện thõa thuận và không xử lý là chiến lược tối ưu cho mỗi doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp nào cũng vi phạm quy định vấn đề đảm bảo chất thải sau quá trình sản xuất khi thải ra môi trường dưới tiêu chuẩn cho phép. Nếu doanh nghiệp A phá vỡ thõa thuận gây kết quả tồi tệ cho doanh nghiệp B thì doanh nghiệp có xu hướng không thực hiện thõa thuận nữa, chiến lược tốt nhất cho doanh nghiệp B đối phó với doanh nghiệp A là không thực hiện xử lý chất thải. Vì nếu doanh nghiệp này không chọn chiến lược này thì bị lỗ là 5 đvt và lợi nhận đạt được là 11 đvt khi không xử lý. Lập luận tương tự cho doanh nghiệp A. Doanh nghiệp A sẽ luôn có lợi ích cao hơn khi chọn chiến lược xử lý bất chấp chiến lược của doanh nghiệp. Kết quả là cả hai doanh nghiệp cùng chọn chiến lược không xử lý. Như vậy, cặp chiến lược (không xử lý; không xử lý) là điểm cân bằng Nash. Tại sao cặp chiến lược này có điểm cân bằng Nash mà các cặp chiến lược khác lại không phải là điểm cân bằng Nash? Nếu doanh nghiệp A chọn chiến lược xử lý và doanh nghiệp B chọn không xử lý thì doanh nghiệp A có thể thu được lợi ích nhiều hơn nếu biết doanh nghiệp B chọn không xử lý bằng việc chọn chiến lược không xử lý. Do đó, chiến lược (xử lý; không xử lý) không phải là điểm cân bằng Nash. Tương tự cho hai kết quả còn lại, doanh nghiệp B không quan tâm đến quyết định lựa chọn chiến lược nào của doanh nghiệp A, doanh nghiệp có thể tăng khả năng cạnh tranh, tăng lợi nhuận của mình nếu chọn chiến lược không xử lý. Như vậy cân bằng Nash xảy ra khi cả hai doanh nghiệp đều chọn chiến lược không xử lý, khi đó mỗi doanh nghiệp không có động cơ để thay đổi quyết định của mình vì lợi ích mỗi doanh nghiệp nhận được là tối ưu, bất chấp chiến lược mà đối thủ của họ đưa ra. Thực tế nước ta đã chứng minh rằng, chính chiến lược này của các doanh nghiệp là nguyên nhân làm cho môi trường biến động ngày theo chiều hướng xấu hơn. Trong khi đó, sự thờ ơ, yếu kém trong quản lý môi trường của cơ quan có chức năng chẳng khác nào tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp vi phạm hơn nữa, nhiều doanh nghiệp dù đã đi vào hoạt động nhưng chưa xây dựng hệ thống xử lý chất thải, hay việc xây dựng chỉ mang tính hình thức đối phó với cơ quan có chức năng. Kết quả thống kê cho thấy nước ta có trên 800.000 cơ sở sản xuất công nghiệp với gần 70 KCX, KCN tập trung, trong đó khoảng 90% cơ sở sản xuất công nghiệp và phần lớn các KCN chưa có trạm xử lý nước thải. Các ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nặng nhất là công nghiệp nhiệt điện, công nghiệp sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng, công nghiệp khai thác khoáng sản. Qua kiểm tra trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh tại 21 doanh nghiệp trong KCN trong đó:  20/21 doanh nghiệp vi phạm quy định về bảo vệ môi trường, bị lập biên bản xử phạt hành chính với tổng số tiền 459 triệu đồng. Đồng thời khi tiến hành phân tích 45 mẫu nước thải của 5 KCN (Lê Minh Xuân, Tân Thới Hiệp, Bình Chiểu, Vĩnh Lộc, Tân Phú Trung  với tổng lượng nước thải là 5.750 m3/ngày, có đến 44 mẫu nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP), 3/5 KCN (Vĩnh Lộc, Tân Phú Trung, Bình Chiểu) có mẫu nước thải vượt mức cho phép hơn 100 lần. Ở một số ngành công nghiệp như: dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy thành phố Hà Nội, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ôxy sinh hoá (BOD), nhu cầu ôxy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép (theo tiêu chuẩn cho phép thì nồng độ pH từ 6-8,5mg/l; tiêu chuẩn cho phép đối với BOD là 20mg/l). Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư (nguồn: www.nhandan.org.vn). Một sự khác biệt xuất hiện trong trò chơi này, cân bằng Nash xảy ra nhưng “Nghịch lý người tù” không xuất hiện. Nghĩa là chiến lược tối ưu lại mang lợi ích cao nhất và lại có tính ổn định. Tại sao lại có sự xuất hiện này? Chúng ta cần phải thừa nhận rằng ý thức bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp ở Việt Nam là rất kém, doanh nghiệp chưa ý thức được hậu quả ô nhiễm mang đến cho cuộc sống con người. Song nổi bậc nhất là chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác môi trường còn quá “mỏng”, trình độ còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu (trung bình mỗi tỉnh có 03 cán bộ), điều kiện làm việc còn nhiều hạn chế, thiếu thiết bị khoa học kỹ thuật hiện đại phục vụ cho công việc. Bên cạnh đó là vấn đề tiền lương còn nhiều vấn đề bất cập, tiền lương chưa thực sự là động cơ để cán bộ ra sức làm việc, nguy hại hơn là một số cán bộ quá coi trong “sức mạnh của đồng tiền” dẫn đến tham nhũng xảy ra nhiều nơi và thờ ơ trước vi phạm của doanh nghiệp. Vedan là một công ty gây ô nhiễm môi trường hơn một thập niên qua nhưng lại nhận được bằng khen của cơ quan có chức năng về sản phẩm đạt tiêu chuẩn về môi trường trong những tháng đầu năm 2009. Công ty này xả nước thải chưa qua hệ thống xử lý ra môi trường và gây ô nhiễm nguồn nước hơn 14 năm qua mà cơ quan có chức năng không phát hiện. Việc Công ty Vedan xả nước thải chưa qua xử lý theo quy định và có chứa rất nhiều chất độc hại ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống bên ngoài, nhất là dòng sông Thị Vải, trung bình mỗi ngày công ty này thải ra môi trường khoảng 1.500m3 nước thải độc hại trực tiếp ra sông Thị Vải. Trong đó, khối lượng nước thải không qua hệ thống xử lý là trên 23.000m3 một ngày, lượng dịch thải sau lên men xả trực tiếp ra sông Thị Vải lên tới 105.600m3 một tháng và có chứa thành phần axitsunfuric. Để xử lý khối lượng chất thải có nồng độ ô nhiễm hữu cơ cao như của Vedan phải tốn chi phí đầu tư ban đầu khoảng 140 tỷ đồng. Chi phí vận hành hàng năm theo quy chuẩn về nước thải tiêu tốn 210 tỷ đồng. Nhưng Vedan đầu tư chưa đạt mức 1% cho khâu này (nguồn: Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường - Phạm Khôi Nguyên). Trong năm 2008 khi bị cơ quan có chức năng tiến hành kiểm tra, phát hiện Vedan thải chất thải chưa qua hệ thống xử lý, Vedan chỉ nộp tiền phạt hành chính 267.500 nghìn đồng, nộp trên 93 tỷ đồng trong tổng số 127 tỷ đồng tiền phí bảo vệ môi trường phải nộp. Mặc dù Vedan cũng đã làm thủ tục xin nộp hết số tiền còn lại, nhưng số tiền này cũng khá nhỏ so với một lượng tiến lớn mà Vedan phải bỏ ra cho quá trình xử lý chất thải trong 14 năm qua một khoảng là 2.940 tỷ đồng. Như vậy ước tính số tiền Vedan nộp cho ngân sách không được 5%, khoảng chênh lệch quá lớn đã được Vedan bỏ túi riêng. Đồng thời Nhà nước phải chi từ ngân sách một lượng tiền tương ứng để cải tạo môi trường. Qua đó cho thấy ý thức bảo vệ môi trường của doanh nghiệp còn kém, coi nhẹ luật pháp và tính chưa đủ mạnh của pháp luật về bảo vệ môi trường dẫn đến hành vi cố tình vi phạm của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, kết quả của trò chơi trên sẽ thay đổi nhiều nếu vấn đề quan lý môi trường tốt hơn và ban đầu hai doanh nghiệp thõa thuận chọn chiến lược xử lý Khi đó một trong hai doanh nghiệp tuyên bố rằng: Tôi sẽ thông báo cho cơ quan có chức năng nếu anh không thực hiện xử lý”. Vì vậy, nếu doanh nghiệp A không thực hiện xử lý sẽ kích thích doanh nghiệp B tố cáo với cơ quan chức năng. Nếu cả hai cùng chọn chiến lược kích thích thì không có doanh nghiệp nào có động cơ phá vỡ thõa thuận. Hình thức trừng phạt cho doanh nghiệp không thực hiện xử lý có thể tạm ngưng hoạt động một thời gian dài hay rút giấy phép kinh doanh vĩnh viễn. Trong bảng 2.2.1, ta thấy hai doanh nghiệp đều lựa chọn chiến lược tối ưu cho mình không xử lý, kết quả cho mỗi doanh nghiệp là 11 đvt. Nhưng lợi ích 11 đvt mà các doanh nghiệp nhận được không phải là lợi ích vĩnh viễn. Trong khi đó việc cạnh tranh doanh nghiệp diễn ra lâu dài và liên tục nên bất kỳ doanh nghiệp nào lừa dối sẽ có sự đánh đổi giữa lợi ích 11 đvt trong hiện và 2 đvt vĩnh viễn trong tương lai. Mất mát do lừa dối hôm nay là chỉ thu được lợi ích là 11 đvt thay 2 đvt trong tương lai. Nếu giá trị hiện tại của chi phí lừa dối vượt quá lợi ích lừa dối một lần thì doanh nghiệp sẽ lựa chọn chiến lược quyết định xử lý. Giả sử hai doanh nghiệp đồng ý với thõa thuận xử lý và doanh nghiệp A tin rằng doanh nghiệp B sẽ tuân thủ thõa thuận này. Liệu doanh nghiệp A có động cơ lựa chọn chiến lược không xử lý hay không? Nếu doanh nghiệp A không tuân theo thõa thuận mà chọn chiến lược không xử lý thì doanh nghiệp này sẽ thu được lợi ích hôm nay là 11 đvt và 0 đvt cho toàn bộ thời gian sau đó. Như vậy nếu doanh nghiệp A chọn chiến lược không xử lý hôm nay thì giá trị hiện tại của lợi ích nhận được là: Ở đây có sự lựa chọn giữa lợi ích là 11 nhận một lần cho hiện tại và lợi ích là vô hạn trong tương lai. Nếu doanh nghiệp A xử lý thì sẽ thu được dòng tiền đều có lợi ích là 2 vô hạn trong hạn trong tương lai. Vì vậy, giá trị hiện tại của dòng tiền này khi quy về hiện tại ta được: Trong đó, i là lãi suất chiếc khấu, doanh nghiệp A sẽ chọn chiến lược không xử lý nếu giá trị hiện tại của chiến lược này mang lại lớn hơn lợi ích nhận được khi lựa chọn chiến lược xử lý. Ở đây, lãi xuất có vai trò quyết định trong việc doanh nghiệp A nên lựa chọn chiến lược nào, doanh nghiệp A sẽ không lựa chọn chiến lược này nếu: hay khi i <= 22,22%. Nói cách khác, nếu lãi xuất nhỏ 22,22% thì doanh nghiệp A sẽ bị thiệt hại nhiều hơn (qua giá trị hiện tại) nếu không xử lý so với việc thực hiện xử lý. Tương tự doanh nghiệp B cũng có động cơ tương tự. Như vậy, khi giá trị nhận được do không xử lý nhỏ hơn giá hiện tại của phần lợi ích mất đi do hành động này mang lại, người chơi sẽ có lợi hơn khi tuân thủ thõa thuận và cân bằng Nash được lặp lại với cặp chiến lược (xử lý; xử lý), tại điểm cân bằng Nash này thì chiến lược tối ưu lại không ổn định, kết quả mỗi doanh nghiệp nhận được cho chiến lược của mình là không tối ưu. Chương 4 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ Ô NHIẾM MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC KCN, KCX Trước thực trạng ô nhiễm diễn ra ngày càng trầm trọng như hiện nay đòi hỏi chúng ta phải có hành động cấp bách và quyết liệt. Nhiệm vụ này không phải của một cá nhân, một địa phương mà là của toàn thể xã hội, nó đòi hỏi toàn xã hội phải chung sức, cùng nhau tìm giải pháp và hành động thiết thực để khắc phục. Trong đó, vai trò của Nhà nước ở cấp độ quản lý kinh tế vĩ mô và doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất trong các KCN, KCX đóng vai trò hạt nhân và cần đi đầu trong hành động. Cơ quan Nhà nước có vai trò trong việc ban hành các quy định có tính chất bắt buộc, đòi hỏi các công ty, doanh nghiệp phải thực hiện, việc làm đó đạt kết quả khả quan hay không còn tùy thuộc vào việc đã coi môi trường là yếu tố cơ bản của sản xuất, của chất lượng cuộc sống hay chưa, có xem mục tiêu tăng trưởng bền vững là một trong những mục tiêu quan trọng hay không. Trên cơ sở các giải pháp đã có để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường tại các KCN, KCX nhằm thực hiện quá trình phát triển bền vững, bên cạnh đó cần hoàn thiện một số giải pháp sau: Về công tác quản lý: trước thực trạng thiếu các cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, nhiều nơi trong chỉ đạo, điều hành chỉ quan tâm tới các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, coi nhẹ các yêu cầu bảo vệ môi trường, có biểu hiện buông lỏng công tác quản lý nhà nước, thiếu kiên quyết trong việc xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, chưa giải quyết dứt điểm các điểm nóng, bức xúc về ô nhiễm môi trường. Do đó, nhiệm vụ trước hết là kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm ở cấp huyện có bộ phận quản lý môi trường, cấp xã có cán bộ phụ trách công tác bảo vệ môi trường, nhất là ở các vùng có KCN, KCX. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường giữa các cấp, các ngành. Cần hạn chế áp lực chạy theo tăng trưởng GDP khiến các địa phương bằng mọi giá phải có ngay KCN, khi chưa có những bước chuẩn bị cần thiết, cần bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn đầy đủ Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học, sửa đổi, bổ sung các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ Luật Hình sự. Bên cạnh đó thực hiện nhiều chế tài có tính bắt buộc cao đối với các chủ đầu tư các dự án, công ty, doanh nghiệp trong công tác bảo vệ môi trường, mức xử phạt hành chính cao nhất (mức phạt hiện nay 500 triệu đồng đối với một lần vi phạm - Nghị định số 81/2006/NĐ-CP) để tạo áp lực cho các doanh nghiệp ý thức bảo vệ môi trường hay bằng các hình thức như: xử lý kiên quyết, sẵn sàng đóng cửa, buộc ngừng hoạt động đối với các công ty, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất không đảm bảo điều kiện, gây ô nhiễm môi trường và quy định các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, xây dựng và ban hành quy định bồi thường thiệt hại về môi trường… Đối với việc hình thành và phát triển cơ sở hạ tầng các KCN, KCX mới phải gắn liền với công tác đầu tư và xây dựng hệ thống xử lý tập trung, tạo điều kiện thuận cho công tác quản lý và kiểm soát, giảm rủi ro doanh nghiệp không xử lý chất thải đúng tiêu chuẩn và giảm chi phí trong quá trình công tác kiểm tra của cán bộ đến từng địa bàn. Trong công tác quản lý các dự án nhất là các dự án mới thành lập, cần tăng cường công tác thẩm định, đánh giá mức độ tác động đến môi trường của các dự án. Hồ sơ dự án khả thi cần phải đánh giá tổng lượng khí thải, rác thải, nước thải và chất thải nguy hại, từ đó có hướng dẫn phương án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải với quy mô, chất lượng xử lý đạt yêu cầu, phải đảm bảo tính khách quan trong thẩm định dự án. Tất cả các cơ sở, doanh nghiệp… phải đảm bảo chất thải đạt tiêu chuẩn khi thải ra môi trường bên ngoài và được cấp có thẩm quyền phê duyệt làm căn cứ thực hiện kiểm soát ô nhiễm. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động phải chủ động xây dựng và thực hiện việc xử lý khắc phục ô nhiễm đảm bảo tiêu chuẩn môi trường theo quy định. Các cơ sở công nghiệp nhỏ, nguồn gây ô nhiễm môi trường không quan trọng cũng phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục ô nhiễm cần thiết để đạt tiêu chuẩn cho phép. Luôn có sự xuất hiện thông tin bất đối xứng giữa cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường và doanh nghiệp xuất phát từ sự yếu kém cuả cơ quan quản lý, cán bộ không xâu sát địa bàn, thông tin về doanh nghiệp còn nhiều hạn chế dẫn đến khả năng kiểm soát doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Từng bước thực hiện tốt việc công khai thông tin về môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là vấn đề công khai về tình hình chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp, nhằm khuyến khích các đơn vị thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường ở các cấp. Cần nhận thấy rõ vai trò của quần chúng, cơ quan thông tin đại chúng về bảo vệ môi trường. Trong đó quần chúng có vai trò quan trọng trong việc theo dõi quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Tăng cường hơn nữa vai trò của các tổ chức, đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, làm cho nhân dân hiểu rõ hậu quả trước mắt cũng như lâu dài của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đối với sức khỏe của họ, đời sống xã hội vì sự phát triển bền vững của đất nước. Trong nhiều năm qua, cùng với sự phát triển các KCN, KCX thì nhu cầu về đội ngũ cán bộ làm công tác môi trường ngày cũng tăng lên nhằm đáp ứng cho yêu cầu trong giai đoạn mới. Mặc dù hầu hết các cấp đều có cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường nhưng đội ngũ cán bộ còn quá mỏng, có tỉnh mới chỉ có 3 cán bộ, cấp huyện có ít cán bộ môi trường, thậm chí còn kiêm nghiệm. Do đó, cần đẩy mạnh công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của từng địa phương, nâng cao trình độ cán bộ quản lý, thẩm định, kiểm tra việc tình hình thực hiện xử lý của các doanh nghiệp, các cơ sở cần được chú trọng, những nơi có mức vi phạm cao và đẩy mạnh hơn nữa nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết. Đi đôi với việc cải thiện điều kiện môi trường làm việc thì vấn đề tiền lương cần có những điều chỉnh kịp thời, có như thế mới đáp ứng cho đời sống của cán bộ mà còn trở thành động lực thu hút cán bộ giỏi, nâng cao chất lượng công tác bảo vệ môi trường. Đồng thời Nhà nước phải có chính sách giúp đỡ các địa phương, hỗ trợ vốn, chi phí đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường ở các KCN, tránh không để các doanh nghiệp phải tự lo tất cả mọi công việc này mà dẫn đến tình trạng cha chung không ai khóc. Mặt khác, do chưa coi việc xử lý ô nhiễm môi trường là một lĩnh vực có thể kinh doanh, cho nên chưa thu hút được đầu tư, cần tạo điều kiện thuận lợi về vốn và khoa học kỹ thuật cho các dự án phát triển nhà máy xử lý chất thải, tạo môi trường thuận lợi để các dự án này mang lại hiệu quả cao. Đồng thời phải có kế hoạch giám sát tình trạng sử dụng kinh phí ngân sách chi cho bảo vệ môi trường, đảm bảo nguồn kinh phí phải được sử dụng đúng mục đích. Hạn chế tình trạng nhiều địa phương sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường cho các mục đích khác hoặc sử dụng không hiệu quả, đầu tư công nghệ mới phục vụ cho yêu cầu công việc. Bên cạnh đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các cơ quan có liên quan nên tổ chức việc dán tem bảo vệ môi trường lên các sản phẩm của các công ty, doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Qua đó người mua có cơ hội lựa chọn các sản phẩm thân thiện môi trường để bảo vệ cuộc sống của họ, một hình thức ủng hộ các công ty, doanh nghiệp làm tốt công tác bảo vệ môi trường, góp phần vào công cuộc bảo vệ môi trường sống, tạo tiền đề cho sự tăng trưởng bền vững trong tương lai. KẾT LUẬN Trong tiến trình đưa nước ta từng bước trở thành một nước công nghiệp Đảng, Nhà nước và nhân dân cố gắng phấn đấu thực hiện nhiều chủ trương, chính sách đã đề ra. Trên thực tế chúng ta đã và đang xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tạo nền tảng cho sự phát triển, việc phát triển nhanh các KCN, KCX là kết quả, là dấu hiệu phản ánh điều đó. Song những kết quả đạt được về kinh tế được xem là khả quan, đáng ghi nhận thì chúng ta phải đối diện với nguy cơ môi trường bị ô nhiễm nghiêm do sự phát triển của các KCN, KCX gây ra. Tình trạng môi trường ngày càng bị ô nhiễm, đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người, sự xuất hiện ngày càng nhiều chứng bệnh nguy hiểm là dấu hiệu cảnh báo cho sự sống đang bị đe dọa nghiêm trọng. Qua đó, mô hình KCN truyền thống đã bộc lộ những hạn chế nhất định xét từ góc độ môi trường. Chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước giống như một trò chơi mà người chơi phải lựa chọn một trong hai kết quả -chỉ tiêu phát triển kinh tế và môi trường trong sạch. Trong đó, mô hình KCN thân thiện môi trường sẽ ngày càng khẳng định vai trò quan trọng không chỉ trong tăng trưởng kinh tế bền vững, mà còn là công cụ bảo vệ môi trường hữu hiệu. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy, khả năng ứng dụng các điều kiện tự nhiên, điều kiện KT-XH và các tiềm năng KH&CN để phát triển thành công mô hình KCN thân thiện môi trường phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Nếu làm tốt nhiệm vụ vừa phát triển kinh tế vừa bảo vệ được môi trường thì ước tính hàng năm chúng ta sẽ hạn chế mức thiệt hại 780 triệu USD trong các lĩnh vực sức khỏe cộng đồng vì ô nhiễm môi trường. Ngược lại, nếu không có những hành động thiết thực thì mức độ ô nhiễm môi trường ở nước ta sẽ tăng gấp 4 - 5 lần hiện nay vào năm 2010, đặc biệt nghiêm trọng là môi trường KCN, nếu chúng ta không có biện pháp khắc phục kịp thời, tổn thất kinh tế do ô nhiễm môi trường sẽ lên đến 0,3% GDP vào năm 2010 và 1,2% vào năm 2020 . Như vậy, việc cố gắng phấn đấu cho mục tiêu phát triển kinh tế là vô nghĩa mà môi trường sống bị đe dọa nghiêm trọng. Do đó, cần phải đề ra chính sách, bước đi thích hợp vừa đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và đảm bảo sự tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế trong tương lai, bảo vệ cuộc sống của con người. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Khương Ninh (2008), Kinh tế học vi mô, Nxb Giáo dục. 2. Bùi Thị Nga (2007), “Giáo trình quản lý môi trường đô thị và khu công nghiệp”, Tủ sách đại học Cần Thơ. 3. Trung Lộc (19/09/2008), “Báo động ô nhiễm tại các khu, cụm công nghiệp”, 4. Hà Hồng (11/11/2008), “Nhiều khu công nghiệp hoạt động nhưng chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung”, 5. Vụ Quản lý KCN & KCX (31/01/2008), “Số liệu thống kê về KCN, KCX trên cả nước tính đến hết tháng 12/2007”, 6. Hà Nội mới (13/08/2006), “Các khu công nghiệp ở Việt Nam: Bức tranh với những khoảng sáng - tối”, 7. Yến Phương (26/11/2008), “Bệnh Minamata và vấn đề ô nhiễm môi trường tại các KCN Việt Nam” 8. Tạp chí công nghiệp, “Làm gì để có các KCN thân thiện với môi trường?”, 9. Võ Thuận (15/11/2008), “Ô nhiễm môi trường và đô thị công nghiệp Việt Nam: Hiện trạng đáng lo ngại”, 10. Nguyễn Hảo Dũng (26/07/2007), “Việt Nam: Hai góc nhìn ô nhiễm đô thị và đầu tư”, 11. Theo báo Hải Dương (15/09/2009), “Báo động về ô nhiễm môi trường tại các khu và cụm công nghiệp”, 12. Website: Tailieu.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNOIDUNG.doc
Tài liệu liên quan