Tiểu luận Tỷ giá hối đoái và đổi mới chính sách quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay

Trong thực tế, việc thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng và bất kỳ một chính sách kinh tế nào khác nói chung là hoàn toàn không thể nào có sự tách bạch mà cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ các vấn đề khác nhau trong một chính sách. Bài tiểu luận này cũng đề cấp đến một số khía cạnh khác có liên quan mật thiết đến những định hướng lớn trong việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay của Việt Nam với mong muốn góp phần đổi mới và hoàn thiện hơn chính sách tỷ giá hối đoái cho mục tiêu ổn định và phát triển nền kinh tế trong thời gian trước mắt.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1586 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tỷ giá hối đoái và đổi mới chính sách quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n từ năm 1992-1995. Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của Ngân hàng nhà nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/USD dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của các doanh nghiệp được giải toả khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh voà kinh doanh nhập khẩu. Đồng thời ngoại tệ từ bên ngoài vào nhiều (ước tính từ ngày 1 đến 18/1/1993 nhân dịp Tết nguyên đán, có khoảng 60 ngàn người Việt Nam ở nước ngoài về ăn tết, mang về một lượng ngoại tệ khoảng 300 đến 400 triệu USD) nên tình hình cung - cầu ngoại tệ đảo ngược so cùng ký mọi năm, cung lớn hơn cầu, giá đô la giảm nhanh. Mức giá phổ biến trên thị trường tư nhân tại Hà Nội trong tháng năm 1993 là 10.300 đến 10.400 VND/USD. Tình trạng USD giảm nhanh đã ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức, nên Ngân hàng nhà nước phải can thiệp nhằm tăng giá đồng đô la. Từ tháng 3/1993, USD đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một cách ổn định. Tháng 9/1994, thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng được thành lập, Ngân hàng nhà nước thực hiện vai trò người mua bán cuối cùng trong ngày, tỷ giá chính thức vẫn được Ngân hàng nhà nước công bố, chỉ có biến động là có sự thay đổi. Từ cuối năm 1994, USD liên tục mất giá so với các đồng tiền chủ chốt khác, đặc biệt là so với Yên Nhật, nhưng trên thị trường Việt Nam giá đô la vẫn tương đối ổn định và tăng ở mức độ nhỏ tạo điều kiện cân đối lợi ích giữa xuất khẩu và nhập khẩu, phù hợp với chiến lược kinh tế hướng ngoại. 4. Giai đoạn từ năm 1996 đến nay. Năm 1996 mức thâm hụt cán cân thương mại ở nước ta lên đến 4 tỷ đô la, tỷ lệ nhập siêu so với GDP lên đến 16%, nhu cầu về USD tăng tạo sức ép giảm giá lên VND. Do vậy Ngân hàng nhà nước đã mở rộng biên độ giao động của tỷ giá từ 0,5% lên 1% và tháng 2/1997 là 5%, bên cạnh đó tỷ giá chính thức cũng nâng lên dần. Ngày 2/7/1997 ngòi nổ của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á bắt đầu phát ra từ Thái Lan, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng về mặt buôn bán, thanh toán và cả về tâm lý. Ngày 13/10/1997, Ngân hàng nhà nước công bố quyết định nới rộng biên độ tỷ giá mua bán ngoại tệ lên 10% so với tỷ giá chính thức. Cầu ngoại tệ trên thị trường rất cao nên hầu như việc mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại thường xuyên bám sát mức trần cho phép. Đầu năm 1998, Ngân hàng nhà nước đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm ổn định thị trường như: Quy chế về giao dịch ngoại hối, các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mới, quy định về trạng thái ngoại tệ, trạng thái tiền đồng đối với các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Đặc biệt là hai lần chủ động điều chỉnh tỷ giá. Lần thứ nhất ngày 16/2/1998 Ngân hàng nhà nước quyết định nâng tỷ giá từ 11.175 VND/USD lên 11800 VND/USD làm tỷ giá giao dịch của Ngân hàng thương mại xấp xỉ với giá trên thị trường tự do. Lần thứ hai diễn ra vào ngày 7/8/1998, tỷ giá chính thức được nâng từ 11800 VND/USD lên 12998 VND/USD, tăng 16,3%. Bên cạnh đó, biên độ giao dịch ngoại tệ cũng được thu hẹp lại còn 7% chứ không phải là 10% như trước đây. Việc chủ động điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng nhà nước đã làm thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá cuả Ngân hàng thương mại và tỷ giá trên thị trường tự do. II/- Đánh giá về cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam 1. Những mâu thuẫn và nan giải. 1.1- Chú trọng duy trì sự ổn định bền vững tỷ giá hối đoái. Việc duy trì sự ổn định bền vững tỷ giá hối đoái được hình thành bởi nỗi ám ảnh về sự bùng phát lạm phát trở lại. Bởi lẽ hầu hết các tác nhân cho một cuộc tái lạm phát vẫn còn đó. Ngân sách càng căng thẳng do nhu cầu chi rất lớn, đặc biệt chi cho đầu tư phát triển, vượt quá khả năng thu để bù đắp từ một nền kinh tế chủ yếu dựa nền tảng chính là nông nghiệp còn lạc hậu. Thâm hụt Ngân sách khó bề trang trải luôn là áp lực đối với việc phát hành tiền để bù đắp thông qua tín dụng Ngân hàng là nguyên nhân trực diện gây lạm phát. Mặt khác, tăng trưởng tín dụng nhanh gắn liền yêu cầu mở rộng đầu tư trong nước bình quân năm (thời kỳ 1990-1996) khoảng 35%, vượt quá khả năng tích luỹ còn rất hạn hẹp của nền kinh tế (khoảng 15-16% GDP hàng năm) cũng là một nguyên nhân buộc mở rộng cơ số tiền tệ quá mức, có thể dẫn đến lạm phát. Cuối cùng, hệ thống tài chính Ngân hàng mới sắp xếp lại, phát triển ở trình độ hết sức sơ khai, công cụ điều hành chính sách tiền tệ còn thiếu và yếu kém, chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong nền kinh tế chưa cao... là những nguy cơ tiềm ẩn không thể xem thường đối với lạm phát. Mọi yêu cầu điều hành tiền tệ lúc này chủ yếu hướng vào ổn định sức mua đồng tiền là chính, bảo toàn tích luỹ, khuyến khích đầu tư cho phát triển. Chính sách tỷ giá được hình thành trên cơ sở thiên về cố định hơn là thả nổi, mặc dù có sự điều tiết không thường xuyên của Ngân hàng nhà nước nhằm vừa khuyến khích xuất khẩu, vừa kiểm soát nhập khẩu hợp lý. Nói chung, chính sách tỷ giá hối đoái này đã đóng góp đáng kể vào thực hiện các mục tiêu đã nêu, nhưng chủ yếu mới thiên về "hướng nội", nổi bật là khuyến khích tích luỹ giá trị dưới dạng nội tệ hơn là ngoại tệ (chủ yếu là đồng đô la), thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật và công nghệ nước ngoài đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh trong nước. Bên cạnh đó, xu hướng cố định hoá tỷ giá hối đoái năm 1992 đến gần nửa cuối năm 1997 (trước khủng hoảng tiền tệ châu á) cũng góp phần thúc đẩy làn sóng đô la hoá khuyến khích đầu cơ ngoại tệ qua Ngân hàng, tăng rủi ro tỷ giá hối đoái và khả năng thanh toán. 1.2- Mắc kẹt trong vòng "kim cô" được hình thành bởi sự neo giữ chặt và cứng nhắc tỷ giá VND vào đô la Mỹ. Một mặt, do luồng vốn đấu tư bên ngoài được đón nhận ngày càng nhiều (bao gồm FDI, ODA, vay thương mại,...) luôn hình thành xu hướng cung USD tăng vượt cầu, thường xuyên gây áp lực trực diện gia tăng lượng tiền cung ứng, nhằm trung hoà ngoại tệ. Dẫn đến tiềm ẩn khả năng kích thích lạm phát một khi Ngân hàng nhà nước còn thiếu công cụ điều hoà nhanh nhạy lượng tiền cung ứng (chưa có nghiệp vụ thị trường mở). Mặt khác, cung vượt cầu về USD trong lúc tỷ giá hối đoái danh nghĩa thường xuyên bị neo giữ (khoảng 10800 đến 11175 VND/USD) từ 1992 đến 1997, dần dần khiến VND luôn bị đánh giá quá cao một cách giả tạo so với USD, trong khi USD trong cùng thời gian đã lên giá khoảng 20% trên thị trường tiền tệ thế giới. Kết quả ngoài như đã phân tích ở động thái thứ nhất, còn đưa đến giảm ý nghĩa mọi sự khuyến khích đối với xuất khẩu, tăng tỷ lệ nội tiêu sản phẩm của cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, gây thâm hụt lớn cán cân vãng lai (khoảng 13-14% GDP năm 1995, 1996), nợ nước ngoài gia tăng, dự trữ ngoại tệ tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, nguy cơ đổ vỡ cán cân thanh toán quốc tế luôn rình rập, báo hiệu khủng hoảng nợ nước ngoài. Trước xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thị trường tài chính, tiền tệ thế giới dấy lên hết sức mạnh mẽ từ đầu thập niên 90 đến nay, ngày càng cho thấy những mặt trái không thể xem thường của nó, mà bằng chứng là từ tháng 7/1997 cơn bão tài chính, tiền tệ Đông Nam á đã lan rộng và ảnh hưởng gây hậu quả hết sức tai hại đến nhiều nền kinh tế trong vào ngoài khu vực. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam cũng bắt đầu bộc lộ những yếu kém từ cuối năm 1996 (nợ quá hạn chung Ngân hàng gia tăng, nguy cơ đổ vỡ hệ thống các Ngân hàng thương mại cổ phần, đầu tư nước ngoài bắt đầu sụt giảm...). Tốc độ tăng trưởng kinh tế tụt dần cùng thời gian (năm 1997 : 8,7%; năm 1998 : 5,8%). Dự trữ ngoại tệ giảm thấp dưới mức kế hoạch và lạm phát bắt đầu tăng lên (năm 1998 : 9,2%). Tất cả cho thấy, xét về cả hai động thái đã nêu của chính sách tỷ giá hối đoái đều cho thấy hết sức bất lợi cho nền kinh tế đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới cần khai thác tốt hơn nội lực, kết hợp thu hút và sử dụng hiệu quả hơn mọi nguồn ngoại lực, để vừa ổn định trật tự vĩ mô nền kinh tế trong nước, vừa đáp ứng yêu cầu mở cửa hội nhập vững vàng với bên ngoài. Do đó bản thân chính sách tỷ giá hối đoái phải có sự thay đổi căn bản, hoàn thiện không ngừng để thích ứng tình hình và yêu cầu mới của nền kinh tế. 2. Những biến chuyển trong việc điều hành tỷ giá ở Việt Nam. Có thể nói toàn bộ việc điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng nhà nước từ 1990 đến trước tháng 3/1997 là áp dụng chính sách tỷ giá cố định có điều tiết nhẹ của Nhà nước, chủ yếu dựa vào neo giữ và qui đổi VND theo USD qua một tổ ngoại tệ hẹp (chủ yếu USD, DM, FRF, GBP, JPY) trong đó USD chiếm tỷ trọng lớn. Thực tiễn đã chứng tỏ chính sách này chỉ phù hợp với giai đoạn tiền tệ chưa ổn định, xuất khẩu còn yếu, nhập khẩu khá ồ ạt, dự trữ ngoại tệ quốc gia mỏng. Cùng thời gian này xuất hiện xu hướng tỷ giá tăng quá chậm so tốc độ lạm phát (tính theo chỉ số liên hoàn qua nhiều năm) cho thấy VND bị đánh giá qua cao (so sánh 1996/1992 : Tỷ giá tăng khoảng 5,2% trong lúc lạm phát tăng hơn 40%). Yêu cầu chuyển sang giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng mạnh vào xuất khẩu trong điều kiện tiền tệ khá ổn định buộc chính sách tỷ giá hối đoái phải điều chỉnh lại. Những bất hợp lý đã nêu sớm được nhìn nhận và bằng vào 2 quyết định (tháng 3/1997 và 10/1997) Ngân hàng nhà nước đã nới rộng biên độ giao dịch hối đoái cho các Ngân hàng thương mại so tỷ giá chính thức của Ngân hàng nhà nước công bố, lần lượt lên 5% rồi 10% từ mức 0,5% - 1% từng áp dụng suốt 2 năm 1995, 1996. Trước ảnh hưởng dội vào của cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Nam á, VND vẫn bị đánh giá cao tương đối khoảng 10-40% so với những đồng tiền trong khu vực. Lúc này bản thân việc điều chỉnh không thôi các mức biên độ chưa đủ tạo chuyển biến lớn về điều hành tỷ giá thích ứng tình hình mới. Thực chất điều hành tỷ giá bằng cơ chế công bố tỷ giá chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước (NHNN) gắn với biên độ qui định là nhằm tránh công khai phá giá tiền tệ về danh nghĩa. Việc áp dụng biên độ giao dịch cho phép các Ngân hàng thương mại (NHTM) áp dụng linh hoạt tỷ giá hối đoái thực tế tuỳ thuộc tình hình tiền tệ và mục tiêu chính sách kinh tế chung. Còn tỷ giá hối đoái danh nghĩa vẫn thường xuyên được cố định (tính đến cuối năm 1997 trong khoảng 10890 - 11175 VND/USD). Tuy nhiên, theo kinh nghiệm nhiều nước nếu quá ỷ lại vào biên độ tỷ giá, thay vì điều chỉnh hợp lý tỷ giá chính thức sẽ khiến việc điều hành của NHNN cứng nhắc về kỹ thuật và ít có tác dụng khi tình hình tiền tệ bất ổn định buộc NHNN thường xuyên phải điều chỉnh biên độ này. Điều này vô hình chung tạo kẽ hở lợi dụng cho các lực lượng thị trường. Các NHTM đua nhau giao dịch theo tỷ giá sát trần mà NHNN khó kiểm soát trạng thái ngoại hối của họ. Hơn nữa, các nguồn ngoại tệ trong và ngoài luồng chính thức thường xuyên hoà trộn nhau, đầu cơ chênh lệch tỷ giá kiếm lời nảy sinh (qua giao dịch trên tài khoản, qua diễn biến lãi suất nội, ngoại tệ). Chẳng hạn, vào quý IV/1997 tỷ giá công bố của NHNN suốt hơn 1 năm là 11170-11175 VND/USD, với biên độ được phép là 10% thì tỷ giá giao dịch thường xuyên của thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng là 11175 VND x 1,10 = 12292 - 12293 VND. Chênh lệch thấp tới khoảng 7-8% so tỷ giá thực tế thị trường (đã vọt lên trên mức 13000 VND ăn 1 USD từ tháng 11/1997). Các hiện tượng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ gây căng thẳng giả tạo cung cầu ngoại tệ, làm phức tạp hoá quản lý ngoại hối của Nhà nước, phần nào có nguyên nhân từ sự bất cập của cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái chưa thích ứng với hiện trạng VND ở xu hướng bị đánh giá cao quá mức. Một tính toán vào đầu năm 1998 cho thấy rõ tình hình này. Nếu tính theo phương pháp PPP với mức lạm phát năm 1997 của VND là 3,7% của USD là 2,5% trong lúc USD lên giá khoảng 20% so với hầu hết các đồng tiền thì tỷ giá giao dịch ở thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng đáng phải 13567 VND/USD. Tính toán cho thấy NHNN thông qua tỷ giá chính thức thấp và biên độ khống chế 10% đã buộc các NHTM phải giao dịch với tỷ giá ở mức tối đa mà vẫn thấp hơn 10% so với mức thực tế. Sự bất hợp lý này chỉ giải quyết được bằng cách điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Chứ nới rộng thêm nữa biên độ giao dịch tỷ giá là hết sức nguy hiểm. NHNN đã ý thức được hiểm hoạ đó và quay trở lại điều chỉnh tỷ giá hối đoái chính thức tăng khoảng 5,6% từ 11175 lên 11800 VND/USD. Bước cải tiến này vừa có lợi về mặt thanh toán đối ngoại là giảm bớt mức độ VND bị đánh giá cao, vừa tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách chênh lệch về tỷ giá giữa thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do. Mặc dù vậy, mấy ngày giữa tháng 2/1998 tại thị trường tự do có lúc tỷ giá vọt lên gần 14000 VND/USD nhưng sau đó xuống nhanh và ổn định dần quanh mức 13150-13350, thậm chí giảm hẳn xuống mức 13000 VND/USD suốt tháng 4 đến trước tháng 8/1998. Trong khi đó tỷ giá giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng xoay quanh mức 12983-12984 VND/USD. Khoảng cách chênh lệch giữa thị trường tự do và thị trường liên ngân hàng chỉ còn khoảng 0,2% so với đầu năm 1998 là 7-8%. Xét cả về mức chênh lệch giữa lãi suất nội, ngoại tệ đã có những bước điều chỉnh hợp lý so tốc độ trượt giá VND lâu nay thì rủi ro tỷ giá hôí đoái nói chung đã ở vào mức thấp xa so nhiều năm trước đây. Tình hình diễn biến như vậy đã tạo điều kiện tốt cho kinh doanh ngân hàng, ổn định tâm lý người gửi tiền, các nhà đầu tư và các doanh nghiệp. Trên đà thắng lợi đó, yêu cầu tiếp tục điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo sát tín hiệu thị trường lại tiếp tục được đặt ra vào đầu tháng 8/1998. Bằng phương pháp PPP cho thấy so USD đến thời điểm này VND lên giá tuyệt đối khoảng 16%. Trong điều kiện cạnh tranh giá xuất khẩu hết sức khó khăn trên thị trường bên ngoài do tác động giảm giá hàng loạt các đồng tiền thì động thái này gây thêm khó khăn cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong nước xuất hiện căng thẳng trở lại về cung cầu ngoại tệ sau một số tháng áp dụng nghị định 37. Doanh số mua bán ngoại tệ giảm 4-5% so cùng kỳ. Bởi vậy vào ngày 7/8/1998 bằng một chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, tỷ giá chính thức đang từ 11801 VND/USD lên bằng với tỷ giá thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là 12990-12998 VND/USD, đồng thời biên độ giao dịch tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bị thu hẹp từ 10% xuống 7%. Qui định mới thúc đẩy thị trường ngoại tệ liên ngân hàng giao dịch sôi động hơn, một số hình thức mua, bán ngoại tệ theo hợp động cam kết mua bán ngay, giao dịch kỳ hạn hoặc hoán đổi được áp dụng. Nhiều Ngân hàng, doanh nghiệp chủ động hơn cân đối nhu cầu ngoại tệ, bước đầu giải toả tâm lý găm giữ, đầu cơ ngoại tệ... Tuy nhiên, để triệt thoái hiện tượng găm giữ, đầu cơ, đào hối ngoại tệ và tập trung hơn nữa lượng ngoại tệ vào sự quản lý của Nhà nước, tiếp theo nghị định số 63/NĐ-CP ngày 17/8/1998 về quản lý ngoại hối trong tình hình mới, ngày 12/9/1998 Chính phủ ban hành Quyết định số 173/QĐ-TTg và nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức trên cơ sở tỷ lệ kết hối bắt buộc 80% số ngoại tệ từ tài khoảng vãng lai. Một số các quy định sau đó còn chặt chẽ hơn về mức và thời gian kết hối ngoại tệ. Mặc dù chính sách quản lý mới này còn mang đậm tính chất hành chính, nhưng cũng đem lại kết quả khả quan. Suốt quí IV năm 1998 doanh số mua, bán ngoại tệ liên tục tăng từ mức thấp vài triệu USD ngày trước đó lên mức bình quân 35 triệu USD/ngày. Quan hệ cung cầu ngoại tệ chính thức trên thị trường được cải thiện đáng kể đã góp phần ổn định tốt hơn tỷ giá hối đoái. Tỷ giá giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được duy trì trong biên độ qui định khoảng cách chênh lệch về tỷ giá giữa thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường tự do được giảm thiểu khá thấp (dưới 1%) đã có tác động hết sức tích cực tình hình tiền tệ chung. 3. Sự đổi mới về chất trong việc điều tiết tỷ giá trên cơ sở thị trường. Phải thừa nhận rằng thời gian qua NHNN Việt Nam đã đưa ra những bước đi thích hợp trong việc điều hành tỷ giá và đã gặt hái được những thành công nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của nền kinh tế. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, các nhân tố thị trường ngày càng phát huy tác dụng, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng thì cơ chế điều hành tỷ giá như vậy vẫn chưa đủ sức thuyết phục. Chính vì vậy mà ngày 25/2/1999, NHNN Việt Nam đã chính thức công bố hai quyết định mới về tỷ giá : Quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN về việc công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với các ngoại tệ và quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN về việc qui định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Bắt đầu từ ngày 26/2/1999 một cơ chế điều hành tỷ giá mới được hình thành tại Việt Nam: Thay cho việc công bố tỷ giá chính thức, hàng ngày NHNN sẽ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của đồng Việt Nam với đồng USD. Căn cứ vào tỷ giá này, Tổng giám đốc, Giám đốc các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ theo nguyên tắc : đối với USD, tối đa không được vượt quá 0,1% so với giá NHNN công bố của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Còn đối với các ngoại tệ khác, tỷ giá sẽ do Tổng giám đốc, Giám đốc các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định. Có thể nói rằng hai quyết định này đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong cơ chế điều hành tỷ giá tại Việt Nam, thấy được sự đổi mới về chất trong việc điều tiết tỷ giá trên cơ sở thị trường. Chúng ta có thể nhận thấy rõ những ưu điểm nổi bật của chúng qua những phân tích sau: Thứ nhất : Tỷ giá NHNN công bố hàng ngày là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng, điều này phản ánh tỷ giá được hình thành khách quan hơn, phản ánh đúng hơn cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Trước đây mặc dù vẫn nói tỷ giá chính thức mà NHNN công bố cũng được căn cứ vào giá thị trường tự do, tình hình cung và cầu về ngoại tệ... song nó vẫn có cái gì đó thật mơ hồ, mang nặng tính chủ quan nhiều hơn. Chúng ta có thể thấy rõ điều này khi nhìn vào những biến động về tỷ giá của các NHTM. - Từ ngày 1/12/1997 đến giữa tháng 2/1998, tỷ giá chính thức của NHNN luôn ở khoảng 1USD = 11175 VND, thì giá bán của hầu hết NHTM được xác định ở mức 12293 VND/USD. Ngày 16/2/1998, NHNN nâng tỷ giá chính thức lên 1USD= 11800 VND thì lập tức ngày hôm sau giá bán của hầu hết các NHTM cũng được nâng lên theo đúng tỷ lệ, giá 1 USD không còn là 12293 VND mà là 12980 VND. - Và các ngày sau tình trạng tương tự : Giá 1 USD được tính như sau: Ngày (năm 1998) 21/2 27/2 28/2 2/3 5/3 9/3 Tỷ giá chính thức 11803 11804 11801 11799 11798 11803 Tỷ giá của NHTM 12983 12984 12981 12979 12978 12983 Một loạt các con số trên cho thấy giá của các NHTM luôn bán sát mức trần cao nhất mà NHNN cho pheps, thậm chí giá chính thức chỉ cần thay đổi 1 đồng thì giá của các NHTM cũng bám theo. Lý do thật dễ hiểu: vượt thì không được phép, nhưng thấp hơn mức trần thì các NHTM không thể chấp nhận được. Điều này chứng tỏ có cái gì đó thật là gò bó, khó có thể chấp nhận đối với cơ chế tỷ giá hiện hữu. Còn một khi giá công bố chính là giá hình thành trên thị trường liên ngân hàng thì sẽ thật nhẹ nhàng, các NHTM không còn phải phòng thủ nữa, bởi vì giá này chính là điểm gặp gỡ giữa cung và cầu về ngoại tệ của các ngân hàng. Thứ hai : Trước đây, do giá NHNN công bố cứng nhắc không thực sự phản ánh quan hệ cung cầu nên nếu thấy giá của các ngân hàng thấp thì các doanh nghiệp mang ngoại tệ ra thị trường tự do bán, ngược lại nếu mua của ngân hàng quá khó khăn thì mua trên thị trường tự do bán. Vì thế chỉ cần có những biến động nhỏ trong nền kinh tế cũng đủ tác động để mở ra một khoảng cách rộng giữa giá thị trường tự do và giá của các Ngân hàng thương mại. Nhưng với cơ chế điều hành mới, tỷ giá mà NHNN công bố bởi nó xuất phát từ cung cầu ngoại tệ giữa các Ngân hàng nên nó sẽ gần gũi hơn với giá thị trường tự do và như vậy những biến động có thể tạo ra khoảng cách giữa giá thị trường tự do và giá của các NHTM sẽ khó có thể xảy ra hơn. Thứ ba: Với cơ chế điều hành tỷ giá trước đây, vì NHNN muốn giữ giá ổn định, không thay đổi, trong khi đó khả năng cung ứng ngoại tệ của NHNN cũng như các NHTM thấp nên nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp cũng thường xuyên không được đáp ứng, điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp phải lao đao khi phải đối mặt với các nhu cầu thanh toán đến hạn với nước ngoài. Còn với cơ chế điều hành tỷ giá như hiện nay thì bản thân tỷ giá tự nó đã được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu, hay nói cách khác chính nhu cầu của các doanh nghiệp là cơ sở xác định tỷ giá và tại đó cung và cầu đều được thoả mãn. Thứ tư : Khi tỷ giá không xuất phát từ quan hệ cung cầu thì mỗi lần Nhà nước điều chỉnh tỷ giá đều tạo sức ép tâm lý nặng nề, nhất là khi tỷ giá không được điều chỉnh thường xuyên, đến khi điều chỉnh sẽ tạo ra một bước nhảy đột ngột, người ta bắt đầu nghi ngờ về một chủ trương nào đó, lòng tin vào đồng tiền đó có thể vì thế mà bị giao động, tình trạng đầu cơ găm giữ ngoại tệ sẽ có cơ hội phát triển. Nhưng với cơ chế mới, tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu, để giữ ổn định hoặc điều chỉnh tỷ giá theo mục tiêu nào đó, NHNN chỉ việc điều chỉnh cung hoặc cầu bằng cách bán ngoại tệ ra hoặc mua ngoại tệ vào và như vâỵ tất cả đều hết sức tự nhiên, giảm bớt tâm lý hoang mang giao động. Thứ năm : Trong cơ chế mới, tỷ giá không phải là được điều chỉnh mà là được hình thành trên thị trường, rõ ràng là nó mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn và vì thế nó phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tăng cường sự hoà nhập của nền kinh tế nước ta vào cộng đồng kinh tế thế giới. Những điểm nêu trên cho thấy cơ chế điều hành tỷ giá mới của NHNN không chỉ khắc phục được những hạn chế của cơ chế cũ mà còn hết sức phù hợp với một nền kinh tế mở như điều kiện của nước ta hiện nay. Chương III Những giải pháp chủ yếu cho việc đổi mới chính sách quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay I/- Sự cần thiết của việc hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam. Mặc dù thời gian qua NHNN Việt Nam đã đưa ra những bước đi thích hợp trong việc điều hành tỷ giá và đã gặt hái được những thành công nhất định. Tuy nhiên, về lâu dài nếu không tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh các giải pháp bổ trợ cho cách điều hành tỷ giá hối đoái mới, có thể phát sinh một số vấn đề khó khăn đó là : Thứ nhất : Tâm lý đón chờ phá giá VND vẫn thường trực, gắn liền với cách tính toán và công bố tỷ giá giao dịch bình quân của Ngân hàng nhà nước khiến tỷ giá thực tế của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng luôn ở xu hướng tăng thêm với mức được phép là 0,1% tạo thành cấp số luỹ thừa liên tục mũ n của hệ số 1,001 là khá lớn. Thứ hai : Để tránh xu hướng này, Ngân hàng nhà nước phải thường xuyên sử dụng dự trữ ngoại tệ canh thiệp nhằm kiềm chế tỷ giá giao dịch thực tế của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Ngân hàng nhà nước phải trực diện chịu áp lực thị trường khi cung cầu ngoại tệ căng thẳng, mà khả năng dự trữ ngoại tệ thực tế rất mỏng. Thứ ba : Do thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phát triển hoàn hảo, chưa phản ánh được toàn bộ quan hệ cung cầu ngoại tệ của đất nước nên bản thân liều lượng dự trữ bỏ ra để can thiệp hết sức hạn hẹp của Ngân hàng nhà nước nhằm kiểm soát giao động của tỷ giá cũng chỉ có tác dụng trong phạm vi hạn hẹp tương ứng. Theo đó xét cả về mức độ lẫn qui mô vận hành thì cơ chế điều hành mới vẫn còn độ cứng nhắc khá cao. Thứ tư : Do khó khăn đã nêu, việc công bố tỷ giá giao dịch bình quân của Ngân hàng nhà nước sớm muộn phải quay trở lại mức ấn định chủ quan theo hướng cố định và giảm dần (không khác với cách tính toán và công bố tỷ giá doanh nghĩa). Vì bản thân việc bỏ neo tỷ giá danh nghĩa vào những lúc thị trường biến động phức tạp thì chính Ngân hàng nhà nước sẽ mất quyền chủ động kiểm soát tỷ giá thực tế. Thứ năm : Cầu ngoại tệ theo hình thức giao dịch kỳ hạn sẽ gia tăng mạnh do tỷ lệ phần trăm cộng thêm vào mức trần tỷ giá giao ngay xét ra là khá cao (nội dung quyết định 65). Đây cũng là một trong những áp lực đối với tỷ giá vào cuối năm ngoái. Thứ sáu: Việc bỏ hẳn ấn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa sẽ đưa đến khó khăn nhất định trong dự báo một số cân đối lớn của nền kinh tế như : Cán cân vay, trả nợ nước ngoài, cán cân thanh toán vãng lai, tổng cung, tổng cầu tiền tệ của nền kinh tế, thu chi ngân sách... Đặc biệt là sẽ khó tính toán các mức lãi suất danh nghĩa, trong khi chính sách lãi suất rất cần ổn định để khuyến khích đầu tư. Những vấn đề khó khăn nêu trên cho thấy việc phải hoàn thiện chính sách quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết. Nó đòi hỏi phải có các giải pháp khả thi để cơ chế mới về điều hành tỷ giá hối đoái thực sự phát huy tác dụng. II/- Giải pháp nhằm góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay. 1. Dự báo tổng quát về thực trạng nền kinh tế trong thời gian trước mắt và xác định chế độ tỷ giá hoói đoái phù hợp. 1.1- Mục tiêu kinh tế dài hạn và chế độ tỷ giá hối đoái. Bất kỳ một nền kinh tế nào cũng đều tập trung vào bốn mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản là : Sản lượng, ổn định giá cả, công việc làm và cân bằng ngoại thương. Lý thuyết về tỷ giá đã chỉ ra rằng: Một chế độ tỷ giá cố định sẽ tốt hơn cho việc hướng đến các mục tiêu ổn định giá cả, tạo nên sự ổn định và thúc đẩy được hoạt động xuất nhập khẩu nhờ giảm thiểu rủi ro ngoại hối. Tuy nhiên, tỷ giá, lạm phát và ngoại thương chỉ là các yếu tố ngoại sinh mặc dù có tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì vậy, điều quan trọng nhất để đạt tới các mục tiêu ổn định giá cả, cân bằng ngoại thương và thu hút đầu tư không phải chỉ được quyết định bởi chế độ tỷ giá hối đoái mà quan trọng là ở việc phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô như thế nào. Ta thấy rằng, việc tập trung vào nông nghiệp, hướng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào nông nghiệp và nông thôn là chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm tạo được các sản phẩm chủ lực thể hiện lợi thế tương đối của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Điều này giúp tạo ra nguồn hàng xuất khẩu ổn định cho Việt Nam và cũng là một trong những điều kiện nhằm nâng cao uy tín đồng Việt Nam. Nhưng đồng thời cũng phải nhận thấy rằng, bản thân các sản phẩm nông nghiệp lại phụ thuộc khá mạnh mẽ vào điều kiện tự nhiên, sản lượng kế hoạch và thực tế thường khó đoán trước nhiều chênh lệch. Hàm ý ở đây là nền kinh tế phải chú trọng đến việc đương đầu với các cơn sốt có nguồn gốc từ thị trường hàng hoá. Điều này ủng hộ cho một chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi. Và việc chọn chế độ tỷ giá thả nổi còn giúp đạt tới mục tiêu cân bằng ngoại thương một cách dễ dàng (tỷ giá sẽ tự biến động để đảm bảo cân bằng cung cầu ngoại tệ). Một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt hoàn toàn mặc dù sẽ giúp loại trừ các cơn sốc có nguồn gốc từ thị trường hàng hoá và giúp nền kinh tế không phải bận tâm về mục tiêu cân bằng ngoại thương. Nhưng trong tình hình hiện nay, khi mà các công cụ nghiệp vụ trên thị trường ngoại tệ của Việt Nam còn quá sơ sài, yếu kém không đủ để tạo ra các rào cản hạn chế rủi ro hối đoái trong thanh toán ngoại thương. Một vấn đề nữa là khi phân tích về sự biến động tỷ giá thời gian qua cho thấy yếu tố tâm lý luôn là một yếu tố chực chờ, có trọng số mạnh và thực tế này sẽ còn kéo dài trong tương lai, thì sự linh hoạt hoàn toàn trong tỷ giá hối đoái chỉ làm cho tỷ giá dễ có những biến động mạnh và làm cho tăng trưởng xuất khẩu thêm bấp bênh. Từ đó đầu ra của nền kinh tế sẽ gặp trở ngại. Do đó, nếu dựa trên mục tiêu kinh tế cơ bản thì một mức độ linh hoạt vừa phải, có kiểm soát của tỷ giá sẽ là một sự lựa chọn phù hợp. 1.2- Điều kiện tài chính - tiền tệ Việt Nam và chế độ tỷ giá hối đoái. Hiện nay, cơ chế điều hành lĩnh vực tài chính tiền tệ có thể nói vẫn chưa thoát khỏi chặng đầu của cuộc cải cách, hệ thống công cụ của chính sách tiền tệ chưa đầy đủ, chưa phát triển nhất là các công cụ gián tiếp. Sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng luôn là mối bận tâm của các nhà tài chính tiền tệ. Dự trữ ngoại hối còn quá ít ỏi và trong điều kiện còn có nhu cầu cao về ngoại tệ mạnh và hiện trạng nợ nước ngoài còn khá nghiêm trọng thì thật khó có điều kiện tích luỹ và gia tăng nhanh trong những năm sắp tới. Còn trong lĩnh vực tài chính Nhà nước thì vấn đề thâm hụt ngân sách còn quá lớn, khả năng thu hẹp ngân sách trong tương lai gần là rất khó do nhu cầu đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước còn rất cao. Những yếu kém khó khăn trong lĩnh vực tài chính tiền tệ tất yếu sẽ dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong việc phối hợp các chính sách, giải pháp trong quá trình can thiệp nền kinh tế. Bên cạnh đó hệ thống thông tin, thống kê dự báo... còn lạc hậu, yếu kém. Từ đó làm hạn chế, phạm vi tác động của các chính sách, các công cụ, làm giảm hiệu quả của các điều chỉnh, can thiệp vào tỷ giá hối đoái. Chính vì vậy việc lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái cố định là không khả thi. Nhưng những yếu kém trong lĩnh vực tài chính tiền tệ lại hàm chứa các nguy cơ xảy ra nhưng cơn sốc có nguồn gốc từ thị trường tiền tệ lại đòi hỏi một chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Như vậy một sự linh hoạt vừa phải có kiểm soát của tỷ giá hối đoái là sự lựa chọn hợp lý hơn cả. 1.3- Bối cảnh kinh tế chính trị thế giới có tác động đến Việt Nam và vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái. Hiện nay và những năm sắp tới sẽ là kỷ nguyên của tiến trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Nhưng cũng chứa đựng một thực tế hết sức phức tạp thất thường, những cuộc khủng hoảng có vẻ ngày càng trở nên dày đặc hơn, với mức lây lan trên phạm vi ngày càng rộng lớn hơn. Hiện nay mức độ mở cửa của nền kinh tế Việt Nam là nhanh, mạnh và nền kinh tế ngày càng gắn bó với thực trạng kinh tế tài chính thế giới. Ta biết rằng, về thực chất toàn cầu hoá tạo ra thời cơ để chia xẻ đồng vốn, công nghệ và kiến thức trên phạm vi toàn cầu. Nhưng chấp nhận xu hướng toàn cầu hoá hiện nay sẽ đồng nghĩa với việc chấp nhận nền kinh tế trong những năm tới phải đương đầu thường xuyên với những cơn sốc có nguồn từ bên ngoài và như vậy một chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi là cần thiết. Nhưng bên cạnh đó, dù muốn hay không thì hiện nay Việt nam cũng đã là thành viên của ASEAN, của APEC và trong tương lai không xa là WTO. Sự gia nhập ngày càng nhiều vào các tổ chức kinh tế thế giới có nghĩa ngày càng có nhiều mục tiêu tương đồng với các nước khác. Từ đó, nhu cầu phối hợp các chính sách trên phạm vi quốc tế ngày càng lớn. Điều này lại đòi hỏi cần cố định tỷ giá. Hơn nữa thời gian mở cửa của Việt Nam là vẫn còn ngắn, vì vậy kinh nghiệm trong hợp tác quốc tế còn ít, khả năng thích ứng với môi trường còn cần phải có một thời gian dài, nên cùng với xu hướng mở cửa vấn đề sử dụng các công cụ hành chính trong điều hành tỷ giá nhất là lúc thị trường thế giới biến động mạnh là hoàn toàn cần thiết. Như vậy, một lần nữa cho thấy một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải là một sự lựa chọn phù hợp hơn cả. 2. Giải pháp về cách điều hành tỷ giá của Ngân hàng nhà nước. Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự kiểm soát với một mức tỷ giá gọi là tỷ giá chính thức được công bố bởi Ngân hàng nhà nước, cùng với một biên độ qui định cho các mức tỷ giá giao dịch trên thị trường so với tỷ giá chính thức đòi hỏi Chính phủ nói chung và Ngân hàng nhà nước nói riêng cần phải có sự can thiệp điều phối thị trường để duy trì biên độ qui định. Trong hoạt động can thiệp đó cần phải chú trọng một số vấn đề sau: Thứ nhất : Ngân hàng nhà nước luôn phải xác định mình là một thành phần chủ chốt, thường trực của các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng. Thứ hai : Trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng, Ngân hàng nhà nước phải có sự phân tách rõ ràng giữa hai chức năng: Chức năng ngân hàng đại diện cho Nhà nước với chức năng can thiệp thị trường. Trong đó chức năng ngân hàng đại diện cho Nhà nước là để thực hiện các chức năng giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu, chi của Nhà nước và giao dịch tăng tích luỹ ngoại tệ theo mục tiêu. Còn chức năng can thiệp thị trường là nhằm điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Thứ ba : Ngân hàng Nhà nước phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và tăng cường bộ khung của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng số lượng thành viên thị trường. Theo qui chế hoạt động giao dịch hối đoái hiện nay (ban hành theo quyết định số 17-1998/QĐ/NHNN ngày 10/1/1998 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước) thì các tổ chức tín dụng không phải là các Ngân hàng thương mại thường bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện và chỉ được phép tham gia một cách hạn chế vào thị trường thông qua một nghiệp vụ mua bán giao ngay. Chính những ràng buộc này đã làm thu hẹp tỷ trọng giao dịch trên thị trường. Do đó cần phải từng bước cho các tổ chức tín dụng không phải là Ngân hàng thương mại tham gia đâỳ đủ các nghiệp vụ như kỳ hạn, hoán đổi mặc dù có thể giới hạn ở việc các giao dịch này chỉ được thực hiện với các Ngân hàng thương mại và Ngân hàng nhà nước. Thứ tư : Ngân hàng nhà nước và các bộ, ngành phải có kế hoạch dự tính trước các giao dịch của mình một cách cụ thể và không để các thành phần kinh tế khác bật ra khỏi thị trường chính thức bằng cách các giao dịch của Nhà nước không chỉ được thực hiện trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mà còn phải mở rộng giao dịch trên khu vực tự do hơn của thị trường. Thứ năm : Chú trọng đến việc hoàn thiện và phát triển các công cụ của thị trường ngoại tệ mà trước mắt là các nghiệp vụ đang hiện tồn tại như các nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ngoại tệ hoán đổi... bằng các biện pháp cụ thể như: Ngân hàng nhà nước, cơ quan có trách nhiệm: tổ chức báo cáo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ ngân hàng, nên gấp rút tổ chức các lớp bồi dưỡng về bản chất và kỹ thuật các nghiệp vụ hối đoái nói riêng và nhiệm vụ nào đó nói chung khi mới được đưa vào sử dụng để đảm bảo một sự nhận thức đúng về bản chất cũng như kỹ thuật nghiệp vụ khi thực hiện. Thứ sáu: Việc can thiệp của Ngân hàng nhà nước và nhằm vào điều phối các quan hệ cung cầu trên thị trường chứ không nên có sự can thiệp sâu vào các nghiệp vụ mang tính kỹ thuật của thị trường. Ví dụ, đối với nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ngoại tệ, Ngân hàng nhà nước không nên qui định tỷ lệ phần trăm cụ thể bằng văn bản pháp luật làm mức trần cho từng kỳ hạn như ở quyết định 16/1998-QĐ-NHNN7 hay quyết định số 289/1998/QĐ-NHNN7. Thay vào đó có thể thực hiện theo giải pháp sau: Tại trung tâm giao dịch ngoại tệ thuộc Ngân hàng nhà nước nên thành lập phòng giao dịch kỳ hạn và ở đó sẽ có bộ phận thanh toán và niêm yết các điểm kỳ hạn cho từng kỳ hạn và cho từng ngoại tệ một. Các điểm kỳ hạn được niêm yết tại đây, sẽ có tính chất tham chiếu chỉ đạo cho các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Sau đó chỉ cần một quyết định bằng văn bản qui định biên độ giao động cho điểm kỳ hạn cũng như tỷ giá giao dịch trên thị trường so với tỷ giá chính thức. Điều này sẽ giúp tạo tính chất ổn định trong văn bản hướng dẫn, góp phần tạo ra nề nếp và sự ổn định trong hoạt động kinh doanh. Đồng thời cách này còn là cách phù hợp với quy luật thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và gần với thông lệ quốc tế hơn. Thứ bảy: Nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thông qua một số biện pháp cụ thể như : Đặt mạnh trọng tâm vào việc không ngừng đổi mới hệ thống thanh toán của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng và quan trọng là Ngân hàng nhà nước cả về cơ chế thanh toán và trang thiết bị kỹ thuật để hạn chế về thanh toán qua nhiều trung gian mà trước hết là hệ thống thanh toán nội bộ của chính các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Xuất phát từ trình độ kỹ thuật hiện nay của các Ngân hàng thương mại còn yếu kém, nên có thể trong giai đoạn dài trước mắt, việc bố trí làm việc lệch giờ, làm việc thêm giờ đối với các cán bộ kế toán, cán bộ vi tính (như vẫn bố trí trực và làm việc vào ngày thứ bảy hay ít nhất là sáng thứ bảy) có ý nghĩa thực tiễn trong việc đẩy nhanh tốc tộ thanh toán, tăng vòng quay vốn của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng nói chung và thúc đẩy hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nói riêng. Thứ tám : Bổ sung thêm vào cơ chế điều hành tỷ giá mới một nội dung hết sức quan trọng là vào đầu năm (hoặc đầu kỳ lập kế hoạch), Ngân hàng nhà nước vẫn công bố tỷ giá hối đoái danh nghĩa hàng năm, hàng quí trên cơ sở điều chỉnh mức tỷ giá giao dịch thực tế bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được xác lập theo cơ chế mới. Dựa vào đó các cơ quan chức năng có đầy đủ căn cứ để xác lập cân đối lớn, vĩ mô của nền kinh tế. 3. Nâng cao năng lực các công cụ cơ bản trong can thiệp vào tỷ giá hối đoái. 3.1- Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Xét trên góc độ lý thuyết, đây là công cụ mang tính kinh tế tương đối thuần tuý và cũng là công cụ can thiệp cơ bản của Ngân hàng nhà nước vào tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, đối với Việt Nam thì do dự trữ ngoại tệ của Việt Nam còn quá thấp, nên công cụ này chưa thể có đủ sức mạnh cần thiết trong thời gian trước mắt có thể giữ vai trò chủ đạo của mình trong canh thiệp điều chỉnh tỷ giá hối đoái được. Vì vậy có thể đưa ra một số biện pháp nhỏ như sau: + Trước tiên phải chú trọng tranh thủ đến mức tối đa có thể được để gia tăng tích luỹ ngoại tệ. Dự trữ ngoại tệ ít nhất phải tương xứng với nhịp độ tăng kim ngạch nhập khẩu. Tập trung quản lý ngoại tệ vào một đầu mối duy nhất là Ngân hàng nhà nước. + Trong thời gian trước mắt khi dự trữ ngoại tệ chưa đủ mạnh thì trong trường hợp cấp thiết, nếu cần phải sử dụng dự trữ ngoại tệ để tác động vào tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường thì cần thiết phải đảm bảo là lượng ngoại tệ được tung thêm vào thị trường từ quỹ dự trữ phải được sử dụng có hiệu quả. + Từng bước xây dựng cơ chế, hành lang pháp lý, môi trường hoạt động nhằm từng bước đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở lên đúng vị trí của nó trong việc canh thiệp điều chỉnh tỷ giá hối đoái. + Xem xét, lựa chọn phương án khả thi cho việc xây dựng cơ cấu dự trữ ngoại tệ. Trong số các đồng tiền mạnh hiện nay trên thế giới, chúng ta thấy, chủ yếu nổi lên ba đồng tiền chính : Thứ nhất là Dollar Mỹ, kế đến là đồng EURO vừa mới ra đời và cuối cùng là Yên của Nhật. Tuy nhiên ta nhận thấy rằng, trước mắt đồng Dollar vẫn nên giữ vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của Việt Nam. 3.2- Đối với công cụ lãi suất: Như đã thấy, lãi suất có khả năng tác động đến tỷ giá hối đoái. Do đó công cụ lãi suất tái chiết khấu luôn được xem là công cụ thứ hai mang tính kinh tế trong can thiệp điều chỉnh tỷ giá. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất tái chiết khấu trong can thiệp điều chỉnh tỷ giá hối đoái cần có sự cân nhắc, thận trọng. Riêng đối với Việt Nam, những dòng vốn vào ra trong nền kinh tế chủ yếu là đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, đầu tư gián tiếp và những dòng vốn ngắn hạn trong suốt những năm qua gần như không có. Đồng thời hầu hết các giao dịch quốc tế mà trong đó có giao dịch vốn vẫn chưa tự do chuyển đổi. Thực tế này làm cho công cụ lãi suất tái chiết khấu chưa thể là công cụ có sức mạnh trong can thiệp vào tỷ giá. Như vậy giải pháp để từng bước nâng cao sức mạnh của công cụ lãi suất tái chiết khấu trong hoạt động can thiệp điều chỉnh tỷ giá sẽ là con đường tự do hoá tài khoản vốn mà trước hết là các giao dịch vốn ngắn hạn, đầu tư gián tiếp và cũng chính là con đường từng bước đưa đồng Việt Nam thành đồng tiền chuyển đổi. Trong tình hình kinh tế trong nước và thế giới hiện nay nên thực hiện theo những bước đi lần lượt như sau: + Tự do hoá các dòng vốn dài hạn, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp. Đồng thời để góp phần khuyến khích nhằm thu hút vốn đầu tư dài hạn thì cũng phải tự do hoá các giao dịch chuyển giao ròng trong tài khoản vãng lai do hoạt động đầu tư dài hạn tạo ra. + Tiến tới tự do hoá hoàn toàn các giao dịch chuyển giao ròng trong tài khoản vãng lai. + Cùng với việc thành lập thị trường chứng khoán và cho phép người nước ngoài tham gia mua chứng khoán thì cũng từng bước tự do chuyển đổi các giao dịch vốn ngắn hạn. + Tiến tới chuyển đổi các giao dịch còn lại trong tài khoản vãng lai. Tiến tới một đồng tiền chuyển đổi hoàn toàn. Một vấn đề quan trọng cũng cần phải xem xét là song song với quá trình trên thì Chính phủ phải tiến hành từng bước tự do hoá lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trên thị trường chứ không phải bởi những can thiệp hành chính của Chính phủ. 3.3- Đối với công cụ hành chính. Trong thời điểm vừa qua và hiện nay, những biện pháp hành chính đã đem lại những hiệu quả tốt. Chính nhờ vào những biện pháp hành chính đã giúp cho Việt Nam đạt được thành công trong điều hành chính sách tỷ giá hối đoái nhằm hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á. Tuy nhiên, những biện pháp hành chính luôn là những biện pháp tình thế và không bao giờ giải quyết được gốc của vấn đề. Việc đưa tỷ giá tới gần sự chi phối của những qui luật thị trường hơn, từng bước tiến tới một đồng tiền Việt Nam có khả năng chuyển đổi đồng nghĩa với việc dỡ bỏ dần các biện pháp hành chính. Nhưng việc dỡ bỏ tức thời các biện pháp hành chính lại càng không phải là một giải pháp đúng mà chỉ nên nới lỏng một cách từ từ tương xứng với việc gia tăng sức mạnh can thiệp của công cụ mang tính kinh tế. Hơn nữa, trong thực tế công tác điều hành tỷ giá hối đoái thì chỉ nên có sự nới lỏng các biện pháp hành chính chứ không thể tự xoá bỏ hoàn toàn các biện pháp hành chính. 4. Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả cao. 4.1- Phân định rõ mối quan hệ giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Xác định đúng vị trí, mối quan hệ của một chính sách là một điều cực kỳ quan trọng không phải chỉ vì mặt lý luật thông thường mà chính là ý nghĩa thực tiễn trong việc phân định rõ về trách nhiệm, trong việc điều hành chính sách và thiết lập hệ thống công cụ để thực hiện chính sách cũng như sự phối hợp giữa các chính sách với nhau trong quá trình điều hành nền kinh tế của Chính phủ. Xuất phát từ hai luận cứ: Thứ nhất, mục tiêu của chính sách tiền tệ luôn gắn trực tiếp với bốn mục tiêu kinh tế vĩ mô cuối cùng. Thứ hai, sự tác động của chính sách thay đổi lượng tiền cung ứng (chính sách tiền tệ) và chính sách thu chi của Chính phủ (chính sách tài chính Chính phủ) sẽ dẫn đến những kết quả khác nhau đối với những biến số kinh tế. Do đó, nên xem chính sách tiền tệ là nằm ngoài chính sách tài chính, chính sách tiền tệ và chính sách tài chính là hai chính sách song hành, là hai bộ phận trong tổng thể chính sách kinh tế quốc gia. Có như thế mới dễ đánh giá tính hiệu quả của chính sách, đồng thời dễ tổ chức thực hiện và phối hợp để cùng đạt tới các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Hơn nữa, việc xem chính sách tiền tệ nằm ngoài chính sách tài chính của Chính phủ còn phù hợp với cách hiểu thông thường trên thế giới. 4.2- Đối với chính sách tiền tệ, không ngừng chú trọng hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ, công cụ chủ chốt trong việc phối hợp chính sách. Trên góc độ chính sách tiền tệ quốc gia, việc không ngừng chú trọng hoàn thiện các công cụ nghiệp vụ để gia tăng khả năng phối hợp các chính sách nhằm giúp cho hoạt động can thiệp điều chỉnh tỷ giá đạt hiệu quả tốt sẽ gắn liền với việc chú trọng chính vào việc hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Để hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở, cần thực hiện một số vấn đề sau: Thứ nhất: Loại chứng khoán được sử dụng chủ yếu để thực hiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở là tín phiếu kho bạc thì ở nước ta hiện nay vẫn chưa hội đủ các điều kiện cần thiết mà trước hết là môi trường lưu thông. Do đó, để làm cho công cụ nghiệp vụ thị trường mở trở thành một công cụ vững mạnh, trước hết cần thúc đẩy sự ra đời của thị truờng chứng khoán càng sớm càng tốt mà trước mắt nên tập trung mạnh vào việc xây dựng và hoàn thiện thị trường tín phiếu kho bạc và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Thứ hai : Trong các loại tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu Ngân hàng nhà nước và các loại giấy tờ ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ là các chứng khoán được sử dụng trong công cụ nghiệp vụ thị trường mở thì tín phiếu kho bạc phải là chứng khoán chủ chốt dùng để mua bán trong công cụ nghiệp vụ thị trường mở để kiểm soát cung ứng tiền vì đây là loại chứng khoán có rủi ro thấp, tính thanh khoản cao mà đặc biệt hơn hết là sự trung lập về lợi ích kinh tế là cao nhất so với các loại chứng khoán và giấy tờ có giá khác trong nền kinh tế. Thứ ba : Từng bước tiến hành nghiên cứu và hoàn chỉnh cơ chế thực hiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Thứ tư : Ngân hàng nhà nước cần phải nghiên cứu để tìm ra giải pháp cụ thể để thu hút ngày càng nhiều hơn tiền mặt ngoài lưu thông, từng bước loại bỏ thói quen nắm giữ tiền mặt trong dân cư mà chuyển sang nắm giữ các tài sản tài chính khác. 4.3- Đối với chính sách tài chính, nguồn vốn trong nước là giải pháp khả dĩ cho việc bù đắp thiếu hụt ngân sách. Khả năng thu hẹp thâm hụt ngân sách nhà nước trong những năm sắp tới là rất khó do cần đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước còn quá lớn. Thực trạng thâm hụt ngân sách sẽ làm giảm tính tự chủ trong sử dụng chính sách tài chính như một công cụ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế, từ đó tất yếu sẽ hạn chế khả năng phối hợp các chính sách. Do đó, những giải pháp nhằm hạn chế và từng bước thu hẹp thâm hụt ngân sách là cần thiết ngay cả trên góc độ phối hợp các chính sách. Trong khuôn khổ đề án này chỉ đề cập đến một yếu tố nhỏ trong phương án bù đắp cho thâm hụt ngân sách. Bản thân mỗi phương án bù đắp đều có hiệu ứng khác nhau đối với tỷ giá. Nếu bù đắp bằng giải pháp vay nợ nước ngoài, tất yếu sẽ có tác động trực tiếp ngay đến tình hình cung cầu ngoại tệ và có thể dẫn đến những biến động lớn về tỷ giá. Hơn nữa nếu quy mô thâm hụt quá lớn mà tài trợ bằng phương án này sẽ là một gánh nặng của nền kinh tế trong tương lai và có thể dẫn đến khủng hoảng nợ. Chính vì vậy, phương án tốt nhất vẫn là phát huy nội lực, thực hiện bù đắp bằng nguồn vốn vay trong nước. 5. Hoàn chỉnh cơ chế quản lý ngoại hối. Vấn đề hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái trong cơ chế kinh tế hiện nay phải luôn theo sát định hướng từng bước đưa tỷ giá hối đoái tiến sát tới sự chi phối của qui luật thị trường nhiều hơn. Muốn vậy, việc dỡ bỏ dần những biện pháp hành chính bất hợp lý trong công tác điều hành, quản lý ngoại hối là một đòi hỏi tất yếu. Các quy định hành chính hợp lý phải được giữ lại, được hoàn thiện hơn để tạo nên một hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động ngoại hối luôn đi đúng hướng, tránh những thất bại thị trường. Xuất phát từ thực trạng sử dụng các công cụ hành chính trong công tác quản lý ngoại hối thời gian qua, Chính phủ nói chung mà cụ thể là Ngân hàng nhà nước nên xem xét, sửa đổi bổ sung một số điểm sau để những công cụ hành chính trong công tác quản lý ngoại hối được hoàn thiện hơn. Thứ nhất : Trong tương lai dài, các công cụ hành chính một cách chặt chẽ như các quy định 37/1998/QĐ-TTg, nghị định số 63/NĐ-CP, quyết định 173/QĐ-TTg, quyết định 4/8/QĐ-NHNN7 cần được dỡ bỏ khi tình hình hiện nay và vài năm trước mắt thì việc ra đời và tồn tại của những quy định pháp lý chặt chẽ này là những giải pháp tình thế hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên thực tế cho thấy, những qui định này thường mang tính một chiều. Điều này đã góp phần tạo nên một tâm lý không tốt nơi các doanh nghiệp và làm ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch sản xuất kinh doanh. Do đó trong các trường hợp cần thiết, Chính phủ hoàn toàn có thể ra những quyết định mang tính hành chính chặt chẽ nhưng phải có sự giải quyết thoả đáng giữa quyền lợi và nghĩa vụ đối với hoạt động mua bán ngoại tệ hơn. Thứ hai : Tiến tới thống nhất trên phạm vi Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam. Điều này là một đòi hỏi tất yếu của một quốc gia có chủ quyền toàn vẹn và hoàn toàn không mâu thuẫn với xu hướng tiến tới tự do hoá hoạt động giao dịch ngoại hối. Để góp phần từng bước loại trừ những vấn đề như nạn Dollar hoá, tiến tới trên phạm vi Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, Chính phủ nên xem xét và thực hiện những biện pháp như : Nên có chính sách ưu đãi về lãi suất với tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ nhằm thu hút được lượng ngoại tệ nhàn rỗi còn rất lớn trong các tầng lớp dân cư; chú trọng quản lý chặt chẽ các bàn thu đổi ngoại tệ. Tổ chức hữu hiệu mạng lưới thu đổi ngoại tệ cho các khách hàng, các dân cư ra vào Việt Nam; Chính phủ nên có những qui định nghiêm cấm hiện tượng niêm yết giá hàng hoá bằng ngoại tệ. Tiến tới chấm dứt thật sự việc sử dụng ngoại tệ thanh toán nội bộ trong nền kinh tế; khoanh hẹp và tiến tới không cho vay trực tiếp bằng ngoại tệ tiền mặt để kiểm soát tốt những nghiệp vụ ngân hàng mang tính đầu cơ tiền tệ; khuyến khích việc thanh toán trực tiếp qua Ngân hàng. Thứ ba : Dần dần tiến tới tự do hơn trong giao dịch ngoại hối nhưng vẫn phải không làm mất sự giám sát của Nhà nước. Thứ tư : Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành trong công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi những qui định trong chế độ quản lý ngoại hối hiện hành. Cương quyết có những biện pháp trừng phạt nặng nề và không biết thành phần kinh tế nếu vi phạm những qui định trong chế độ quản lý ngoại hối hiện hành. Thứ năm : Cuối cùng Chính phủ nên thường xuyên chú trọng đến công tác rà soát để loại bỏ các văn bản, các quy định lạc hậu, mâu thuẫn lẫn nhau. Góp phần làm cho các quy định pháp lý được đơn giản, dễ hiểu và có hiệu quả. Kết luận Tỷ giá hối đoái là một vấn đề hết sức quan trọng nhưng cũng rất phức tạp. Ngày nay, tỷ giá trở thành một vũ khí lợi hại trong cuộc chiến tranh thương mại hết sức khốc liệt trên thế giới. ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, tỷ giá là một vấn đề hết sức nóng bỏng và được nhiều người quan tâm. Bài tiểu luận này tập trung chủ yếu vào các giải pháp nhằm góp phần đổi mới chính sách quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay. Trong thực tế, việc thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng và bất kỳ một chính sách kinh tế nào khác nói chung là hoàn toàn không thể nào có sự tách bạch mà cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ các vấn đề khác nhau trong một chính sách. Bài tiểu luận này cũng đề cấp đến một số khía cạnh khác có liên quan mật thiết đến những định hướng lớn trong việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay của Việt Nam với mong muốn góp phần đổi mới và hoàn thiện hơn chính sách tỷ giá hối đoái cho mục tiêu ổn định và phát triển nền kinh tế trong thời gian trước mắt.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32674.doc
Tài liệu liên quan