Tiểu luận Việc cần thiết xây dựng một quy chế pháp lý riêng trong phá sản các Ngân hàng Thương mại

MỤC LỤC CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 2 I. PHÁ SẢN 2 1. Khái niệm 2 2. Các tác động của phá sản 2 3. Có các hình thức phá sản. 3 4. Vấn đề pháp lý trong phá sản 4 II. RÀNG BUỘC TÀI CHÍNH MỀM 5 III. NGÂN HÀNG 5 1. Ngân hàng Thương mại 5 a. Khái niệm 5 b. Vai trò của ngân hàng thương mại (NHTM) 5 2. Ngân hàng Trung Ương 8 CHƯƠNG 2: ĐI TÌM TRIẾT LÝ CỦA LUẬT PHÁ SẢN 9 1. Khi các tổ chức tín dụng (TCTD) cổ phần bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt 9 2. Sự cần thiết của Luật Phá sản 9 3. Vì sao Luật phá sản ít được dùng 10 4. Một số góp ý luật Phá sản 14 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 17 1 . Đánh giá năng lực cạnh tranh 17 2. Thực trạng năng lực cạnh tranh 17 3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh 21 CHƯƠNG 4: TẠI SAO CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM KHÔNG BAO GIỜ BỊ PHÁ SẢN? 23 1. Bài học từ Ngân hàng Việt Hoa là một ví dụ điển hình. 23 2. Tác động của việc phá sản các ngân hàng. 24 v Nguy cơ khó khăn của Ngân hàng 27 3. Việc Phá sản các tổ chức tín dụng ở Việt Nam 29 a. Điều kiện xác định TCTD lâm vào tình trạng phá sản 28 b. Trình tự Phá sản các tổ chức Tín dụng (TCTD) 30 c. Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 30 4. Kiểm soát và cơ chế kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại. 34 5. Vai trò của NHTW là người cho vay cuối cùng Trong điều kiện Ngân hàng thương mại, mất khả năng thanh toán 36 CHƯƠNG 5. THỰC TRẠNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI HIỆN NAY 37 1. Cùng với việc châu Âu và Mỹ mạnh tay hơn trong việc đóng cửa những ngân hàng có tài sản xấu, nhiều ngân hàng vừa và nhỏ đang đứng trước nguy cơ phá sản 37 2. Chương thứ 11 Luật phá sản Mỹ 39 2. 12 vụ phá sản tồi tệ nhất nước Mỹ 40 TÀI LIỆU THAM KHẢO 48

docx52 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Việc cần thiết xây dựng một quy chế pháp lý riêng trong phá sản các Ngân hàng Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rên 80% tổng thu nhập lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn. Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. “Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống" Tính đến nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 37 NHTMCP, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty tài chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, hiện nay NHNN đã chấp nhận về nguyên tắc cho ra đời thêm 4 NHNN cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả là một sự trưởng thành vượt bậc. Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm và năm 2006 ước tăng khoảng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng cũng có nhiều đóng góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những năm qua. Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật đã được ban hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng đã ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế; Khuôn khổ thể chế ngày một thông thoáng và minh bạch hơn. Những phân biệt đối xử giữa loại hình tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài đã từng bước được loại bỏ; Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho vay tín dụng thương mại đã được tách bạch; Các NHTM, các tổ chức tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu quả. Thứ ba, chính sách tiền tệ (CSTT) được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành CSTT đã được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái đã được áp dụng linh hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo hướng tạo sự công bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối tượng dân cư. Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN, xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm từ gần 20% trong những năm 90 xuống còn khoảng 3,1%), đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán điện tử… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần được khắc phục để hội nhập được tốt, có khả năng cạnh tranh cao trong môi trường quốc tế. Nguy cơ khó khăn của Ngân hàng Có 3 nguy cơ cần đề phòng khi nới lỏng chính sách tiền tệ, đó là lạm phát gia tăng, thâm hụt thương mại và phát sinh nợ xấu. Nguy cơ lạm phát gia tăng trở lại có thể không lớn vì giá cả vật tư nguyên liệu đang giảm rất mạnh, khó gây áp lực lạm phát chi phí đẩy. Nguy cơ nợ xấu có thể trở thành vấn đề của trung hạn. Theo dự báo của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu năm 2008 chiếm khoảng 4% tổng dư nợ của nền kinh tế, năm 2009 có thể tăng lên gần 5%, song vẫn thấp hơn mức dự kiến trong chiến lược phát triển ngành ngân hàng giai đoạn 2006-2010. Điều này cho thấy nợ xấu vẫn nằm trong tầm kiểm soát của ngân hàng Trung ương và các ngân hàng thương mại. Với khoản trích lập dự phòng rủi ro hiện nay của các ngân hàng thương mại và dự kiến sẽ tăng thêm trong thời gian tới, có thể bù đắp được 60%-70% nợ xấu nêu trên. Một nguy cơ trong bối cảnh khủng hoảng này mà nhiều người, nhiều nhà lãnh đạo các tập đoàn lớn tin rằng những tin xấu sẽ còn tệ hơn nhiều trong vài tháng tới, đặc biệt là về khía cạnh cắt giảm việc làm, thua lỗ và phá sản. Tác động dễ thấy nhất là làn sóng sáp nhập và mua lại đang diễn ra ngày càng sôi động hơn trong hệ thống ngân hàng. Ngân hàng lớn, còn sống được qua ngày, bỏ tiền mua lại ngân hàng gặp vấn đề, đang đứng trước nguy cơ phá sản. Nhà nước bỏ tiền ra quốc hữu hóa một phần hoặc toàn bộ một số ngân hàng và tổ chức tài chính lớn. Nói cách khác, nhiều tên tuổi sẽ mất đi, nhường chỗ cho sự vươn lên của nhiều gã khổng lồ hơn. Và các ngân hàng này không chỉ nhắm tới sáp nhập hay mua lại ngân hàng khác, mà còn nhắm đến cả những định chế tài chính khác như bảo hiểm chẳng hạn. Thêm nữa, hệ thống ngân hàng lại sẽ phải lo tới nỗi lo nhân lực. Đó là thiếu nhân lực có chuyên môn cao để phát triển các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro. Do sau khủng hoảng, chắc chắn nhu cầu về sản phẩm phòng ngừa rủi ro và những yêu cầu an toàn cho ngân hàng sẽ ngày càng khắc nghiệt. Cuối cùng là thiếu nhân sự chuyện dự báo. Qua một năm mà người ta cảm thấy tác hại của dự báo kém đến mức nào thì dự báo trở nên quan trọng. Và ngân hàng cũng biết rằng phải đầu tư nhiều cho lực lượng chuyên gia dự báo định lượng giỏi, về lãi suất, về tỷ giá và kinh tế nói chung.  Ngân hàng thương mại lo điều chỉnh giảm tăng trưởng tín dụng Với mức tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 2.2011 đã quá cao, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần ở Hà Nội đang rất khó khăn khi phải điều chỉnh giảm mức tăng dư nợ. Một số lãnh đạo NHTM cổ phần lo ngại về việc giảm mạnh tốc độ tăng trưởng dư nợ sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng, đồng thời khó khăn cho khách hàng vay vốn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, đại diện lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh: các NHTM phải thực hiện để đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát. Hiện nay, hầu hết NHTM cổ phần đang rà soát lại tình hình thị trường và khách hàng, lập phương án kiểm soát tăng trưởng dư nợ theo lộ trình giảm dần về mức yêu cầu, xem xét bớt tỷ lệ cho vay vào các lĩnh vực phi sản xuất. Một số NHTM đang nghiên cứu các biện pháp chuẩn bị áp dụng phòng khi Ngân hàng Nhà nước có thể có những biện pháp hạn chế trong một số lĩnh vực như: giao dịch vàng, huy động và cho vay ngoại tệ, kiểm tra tình hình mua trái phiếu doanh nghiệp… 3. Việc Phá sản các tổ chức tín dụng ở Việt Nam a. Điều kiện xác định TCTD lâm vào tình trạng phá sản là TCTD không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu, sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có văn bản không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán hoặc chấm dứt áp dụng kiểm soát đặc biệt thì được coi là lâm vào tình trạng phá sản. Những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản gồm: Chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần của TCTD; người lao động làm việc trong TCTD; chủ sở hữu của TCTD nhà nước, cổ đông của TCTD cổ phần. Trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nếu nhận thấy TCTD lâm vào tình trạng phá sản, NHNN và các cơ quan có liên quan theo quy định của pháp luật có nhiệm vụ thông báo bằng văn bản cho những người nêu trên biết để họ xem xét việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Cơ quan thông báo phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông báo đó. Ngoài ra, đại diện hợp pháp của TCTD có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy tổ chức mình lâm vào tình trạng phá sản. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Tòa án phải thông báo cho NHNN biết. Tiếp đó, chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, NHNN phải có văn bản về việc có hoặc không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của TCTD hoặc chấm dứt áp dụng kiểm soát đặc biệt. Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản khi có đủ 2 điều kiện: NHNN đã có văn bản về việc không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của TCTD và TCTD vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán phụ trách việc phá sản ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của TCTD lâm vào tình trạng phá sản. Mọi hoạt động kinh doanh của TCTD sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản được tiến hành dưới sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Trường hợp TCTD đã được NHNN đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt hoặc áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán nhưng vẫn không phục hồi được và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì Tòa án quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của TCTD mà không triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét áp dụng thủ tục phục hồi. Thực tế xử lý các TCTD gặp khó khăn vừa qua cho thấy việc phá sản TCTD cần được thực hiện một cách thận trọng, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan nhà nước trong quá trình phát hiện, xử lý TCTD ngay từ khi đơn vị đó bắt đầu gặp khó khăn. Trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản về việc chấm dứt áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán đối với tổ chức tín dụng, sau khi mở thủ tục phá sản, Thẩm phán quyết định áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ và tuyên bố tổ chức tín dụng phá sản mà không áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. b. Trình tự Phá sản các tổ chức Tín dụng (TCTD) Ngân hàng là 1 trong những tổ chức tín dụng. Hiện nay, ở Việt Nam, cũng giống các doanh nghiệp khác, thủ tục phá sản áp dụng đối với tổ chức tín dụng (TCTD) lâm vào tình trạng phá sản gồm 4 bước: Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản Phục hồi hoạt động kinh doanh Thanh lý tài sản, các khoản nợ và tuyên bố phá sản. Tòa án nhân dân cấp tỉnh là cơ quan có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với TCTD. Đó là một trong những nội dung của Nghị định 05/2010/NĐ-CP ngày 18/1/20010 quy định việc áp dụng Luật Phá sản đối với các TCTD. Việc phá sản TCTD có ảnh hưởng rất lớn đến những người gửi tiền, đặc biệt người gửi tiền cá nhân, với số lượng đông đảo, do đó cũng có thể ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế-xã hội của quốc gia. Vì vậy, việc phá sản các TCTD đòi hỏi phải có quy trình đặc biệt để đảm bảo được quyền lợi của người gửi, đảm bảo trật tự an toàn xã hội và phải được xem xét, xử lý hợp lý để tránh ảnh hưởng, tác động dây chuyền đến các tổ chức tín dụng khác, ảnh hưởng đến niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống tổ chức tín dụng. c. Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Trong đời sống kinh tế hàng ngày, rủi ro thường được coi là những bất trắc, những biến cố không có lợi, ngoài sự mong đợi. Rủi ro nhiều khi mang lại những hậu quả không lường. Vì vậy, người ta thường tìm cách để phòng ngừa, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. Hoạt động kinh doanh nói chung, cũng như hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng cũng không thể tránh khỏi rủi ro. Quá trình mở rộng kinh doanh đồng thời cũng là quá trình mở rộng rủi ro. Hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng không thoát khỏi quy luật này. Tuy nhiên, rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có những đặc điểm, bản chất riêng của nó. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng về cơ bản có thể chia làm hai loại:  c.1. Rủi ro đặc thù: Rủi ro đặc thù do bản chất của ngành hay lĩnh vực kinh doanh tạo ra. Các rủi ro này có thể được giảm thiểu bằng cách đa dạng hóa danh mục cho vay giống như đa dạng hóa danh mục đầu tư trên thị trường tài chính. Trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, rủi ro đặc thù thường bao gồm các yếu tố: Rủi ro về quản lý: đây là rủi ro do hoạt động sử dụng nguồn nhân lực bên trong ngân hàng tạo ra. Rủi ro này có thể bắt nguồn từ ban quản lý ngân hàng thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức hoặc thiếu khả năng điều hành. Nó có thể xảy ra do sự yếu kém về năng lực hay đạo đức của nhân viên ngân hàng. Rủi ro cung cấp các dịch vụ tài chính hay rủi ro kinh doanh (tín dụng). Rủi ro này gồm 6 loại chính: rủi ro về hạt động, rủi ro về sản phẩm, rủi ro về văn hóa, rủi ro về công nghệ, rủi ro đòn cân nợ và cuối cùng là rủi ro do thiếu nỗ lực nghiên cứu và phát triển. Rủi ro thích ứng vốn: đây cũng là rủi ro trong quản lý vốn của ngân hàng, nó thể hiện vấn đề ngân hàng có quy mô vốn nhỏ thường ít an toàn hơn ngân hàng có quy mô vốn lớn. Rủi ro tài sản thế chấp: là rủi ro do tài sản thế chấp không đủ giá trị để bù đắp thiệt hại cho ngân hàng. c.2 .Rủi ro thị trường Rủi ro thị trường là rủi ro không thể giảm thiểu bằng cách đa dạng hóa nên còn được gọi là rủi ro không thể đa dạng hóa. Có thể chia rủi ro thị trường ra thành hai loại c.3. Rủi ro môi trường vĩ mô: Môi trường mà ngân hàng hoạt động đầy rẫy các rủi ro, chúng tác động đến ngân hàng bằng nhiều cách hoặc làm suy yếu khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại về tài chính. Những rủi ro này rất khó kiểm soát nên chúng được gọi là rủi ro không kiểm soát được. Trong thực tế, người ta có thể kiểm soát chúng ở mức độ hạn chế trên cơ sở dự báo. Các rủi ro môi trường vĩ mô ngân hàng thường gặp là: Rủi ro tự nhiên hay còn gọi là rủi ro bất khả kháng: là rủi ro do những yếu tố thuộc về tự nhiên gây ra như lũ lụt, hạn hán, động đát…Thiệt hại do rủi ro này rất lớn nhưng thường diễn ra theo chu kỳ nên cũng có thể kiểm soát ở mức độ giới hạn. Rủi ro về luật pháp liên quan đến việc thay đổi các luật lệ gây bất lợi cho ngân hàng. Ở các nước đang phát triển đây là loại rủi ro có thể gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, do thiếu các luật lệ hay thiếu các quy định cần thiết. Rủi ro về kinh tế liên quan đến sự vận động của nền kinh tế và chu kỳ kinh doanh. Các rủi ro xảy ra có thể do các yếu tố. Lạm phát, thất nghiệp, suy thoái kinh tế, khủng hoảng…ảnh hưởng của các yếu tố này đến ngân hàng là rất lớn. Rủi ro về điều chỉnh: nhằm thực hiện các chính sách vĩ mô các nhà quản lý các bộ, ban ngành chức năng hoặc cơ quan lập pháp đưa ra các chính sách, các quy định đôi khi gây ra thiệt hại cho ngân hàng. Các chính sách đó thường là chính sách tiền tệ, chính sách lãi suất… Một ngân hàng trong hoạt động kinh doanh thường chịu tác động của ngân hàng khách hàng hoặc các đối thủ từ nhiều phía. Vì thế luôn nhận rất nhiều các tác động đầy rủi ro. Các rủi ro đó nếu tương đối cao có thể gây phá sản ngân hàng. Rủi ro do khách hàng là người ký thác cơ bản là rủi ro thanh khoản, rủi ro do khách hàng là người đi vay cơ bản là rủi ro tín dụng, rủi ro do các định chế tài chính thay thế là các định chế tài chính sắp thành lập là rủi ro về cạnh tranh và cuối cùng là rủi ro do biến động của thị trường như rủi ro về lãi suất và rủi ro về tỷ giá. Dưới đây, chúng ta lần lượt đi vào tìm hiểu một số loại hình rủi ro chủ yếu: Rủi ro thanh khoản: là rủi ro xuất phát từ bản chất hoạt động trung gian tín dụng của ngân hàng thương mại, tức là nó xuất phát từ sự chuyển hóa của các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn. Do kỳ hạn sử dụng vốn dài hơn kỳ hạn của các nguồn vốn. Rủi ro thanh khoản biểu hiện trên hai mặt: một mặt khi ngân hàng không đủ khả năng thanh toán tiền mặt cho người gửi tiền khi họ yêu cầu. Mặt khác đó là rủi ro khi ngân hàng phải luôn luôn quản lý tài sản nợ của mìn ở trạng thái lỏng (gần với tiền mặt hoặc dễ dàng chuyển thành tiền mặt) để đảm bảo khả năng thanh khoản nếu có sự không tương thích về thời hạn Tài sản có và tài sản nợ diễn ra. Rủi ro lãi suất: là rủi ro phát sinh khi có sự biến động của chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay của ngân hàng với lãi suất phải trả cho việc đi vay dẫn đến làm giảm thu nhập của ngân hàng. Rủi ro này là hậu quả của những thay đổi lãi suất. Trong nền kinh tế lãi suất là yếu tố rất nhạy cảm đối với biến động của nền kinh tế, hơn nữa nó là công cụ trong việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ. Vì vậy, rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện thường xuyên trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đối với loại rủi ro này ngân hàng trung ương có thể chủ động ngăn ngừa bằng cách ổn định mức lãi suất đầu vào và đầu ra cho phù hợp với sự chuyển biến từng thời kỳ của nền kinh tế sao cho vừa bảo đảm các ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả, vừa có tác dụng kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Rủi ro tỷ giá: kinh doanh ngoại hối là một trong những hoạt động của ngân hàng nhằm phục vụ cho nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động thuận lợi. Rủi ro tỷ giá xuất hiện do sự thay đổi tỷ giá giữa đồng tiền trong nước với đồng tiền nước ngoài. Rủi ro này xuất hiện hầu hết trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt trong khâu đi vay và cho vay. Khi tỷ giá tăng sẽ tạo ra lãi về hối đoái, tỷ giá giảm sẽ tạo ra lỗ về hối đoái. Những điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ngân hàng cũng như đối với các khách hàng của ngân hàng là những nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Đối với rủi ro này, ngân hàng có thể ngăn ngừa bằng cách thường xuyên nghiên cứu biến động tỷ giá trên thị trường thế giới, qua đó dự đoán được hoạt động ngoại hối để dự trữ ngoại tệ thích hợp và chủ động đo lường, giới hạn mức tình thế ngoại hối của mỗi loại ngoại tệ vào cuối ngày giao dịch Rủi ro tín dụng: trước hết là một dạng rủi ro do không ăn khớp về thời hạn thanh toán sinh ra do chu chuyển tiền tệ diễn ra không đồng thời. Sự sai biệt này xuất phát từ khách hàng vay chứ không phải từ ngân hàng, khi người vay thanh toán không đúng hạn khoản vay theo thời hạn đã quy định. Mặt khác rủi ro tín dụng là rủi ro về định giá vì quan hệ tín dụng là tiền tệ hóa các lời hứa hẹn, đổi tiền mặt hiện tại lấy lời hứa hẹn và rủi ro cho ngân hàng. Ngày nay, các ngân hàng thương mại dù đã mở rộng kinh doanh trên nhiều lĩnh cực khác nhau nhưng hoạt động cho vay vẫn là nguồn cơ bản tạo nên thu nhập của ngân hàng. Đặc biệt là những nước đang phát triển như ở Việt Nam, hoạt động cho vay chiếm tới 90% hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, rủi ro tín dụng là đáng được quan tâm nhất hiện nay ở nước ta. Về bản chất, đây là loại rủi ro rất đa dạng và phức tạp, rất khó quản lý và thường xuyên là nguyên nhân dẫn đến rủi ro khác. Tóm lại, nghiên cứu các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng sẽ soạn thảo những biện pháp nhằm hạn chế, hạ thấp rủi ro. Một hệ thống ngân hàng hoạt động tốt có thể làm giảm bớt tối mức tối thiểu tất cả những khả năng rủi ro, ngoại trừ những rủi ro do đa dạng hóa (như động đất, lũ lụt…) những đợt suy thoái lớn về kinh tế tài chính, tiền tệ trên thế giới… 4. Kiểm soát và cơ chế kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại. Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán Australia (Australian Accounting Standards Board) định nghĩa “Kiểm soát là khả năng của một thực thể trong việc chi phối quá trình ra quyết định, trực tiếp hoặc gián tiếp, trong mối quan hệ với các chính sách tài chính và vận hành của một thực thể khác, qua đó tạo khả năng cho chủ thể đó vận hành theo các mục tiêu của chủ thể kiểm soát”. Khái niệm kiểm soát, đo đó sẽ bao gồm 3 nội dung chủ yếu sau:  Thứ nhất là khả năng kiểm soát liên quan đến năng lực của hội sở (được ví như công ty mẹ) về quyền lực tài chính để có thể chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình ra quyết định của chi nhánh, công ty trực thuộc, công ty tham gia góp vốn (công ty con).  Thứ hai là lĩnh vực kiểm soát liên quan đến việc Hội sở sẽ kiểm soát các chi nhánh, các công ty trực thuộc hoặc công ty tham gia góp vốn ở những khâu nào, từ quyết định đầu tư, chiến lược phát triển, nhân sự cho đến các giao dịch hàng ngày như huy động vốn, cho vay, kinh doanh ngoại tệ...v.v..  Kiểm soát nội bộ lại được hiểu theo nghĩa khác và gói gọn trong nội bộ của một thực thể nào đó. Nó liên quan đến những công việc mang tính tác nghiệp cụ thể mà một bộ phận nào đó của ngân hàng được giao thực hiện. Cơ chế kiểm soát nội bộ là toàn bộ các chính sách, các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát được thiết lập nhằm quản lý và điều hành các hoạt động của ngân hàng. Mục đích của kiểm soát nội bộ nhằm:  - Sử dụng các nguồn lực và quản lý hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách hiệu quả.  - Đảm bảo chắc chắn các quyết định và chế độ quản lý đã được ngân hàng và các cơ quan quản lý có thẩm quyền ban hành được thực hiện đúng thể thức và giám sát mức độ hiệu quả cũng như tính hợp lý của các chế độ đó.  - Phát hiện kịp thời những vướng mắc trong kinh doanh để hoạch định và thực hiện các biện pháp đối phó.  - Ngăn chặn, phát hiện các sai phạm trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.  - Đảm bảo việc ghi chép, hạch toán đầy đủ, chính xác và đúng thể thức các giao dịch phát sinh của ngân hàng.  - Đảm bảo việc lập các báo cáo tài chính kịp thời, hợp lệ và tuân theo các yêu cầu pháp định có liên quan.  - Đảm bảo tài sản và thông tin không bị lạm dụng hoặc sử dụng sai mục đích.  Các yếu tố cấu thành cơ chế kiểm soát nội bộ gồm môi trường kiểm soát chung, hệ thống kế toán, các loại kiểm soát và thủ tục kiểm soát.  Môi trường kiểm soát chung được hiểu là các nhân tố xung quanh tác động đến việc thiết kế, hoạt động và sự hữu hiệu của các chính sách, thủ tục kiểm soát của ngân hàng như đặc thù về cơ chế quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, các quy định của pháp luật, các yêu cầu của khách hàng và cổ đông.  Thông qua việc quan sát, đối chiếu, tính toán và ghi chép các giao dịch phát sinh, hệ thống kế toán không những cung cấp thông tin cho các cấp quản lý ra quyết định mà còn có tác dụng kiểm soát nhiều mặt hoạt động của ngân hàng. Chính vì thế, hệ thống kế toán là một mắt xích quan trọng của cơ chế kiểm soát nội bộ.  Thủ tục hay quy trình kiểm soát là trình tự và nội dung của các bước công việc mà bộ phận kiểm soát nội bộ có thẩm quyền phải thực hiện để hoàn thành trách nhiệm được giao. Tuỳ từng lĩnh vực hoạt động của ngân hàng mà quy trình và thủ tục kiểm soát được tiến hành khác nhau. Tuy nhiên, dù thủ tục kiểm soát có khác nhau thì vẫn phải đảm bảo một số nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc phân công, phân nhiệm; nguyên tắc bất kiêm nhiệm và nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn. Hoạt động kiểm soát của ngân hàng, do đó, sẽ được phân loại như sau:  - Kiểm soát quản lý là việc kiểm soát các hoạt động riêng lẻ của ngân hàng, do nhân viên độc lập với người thực hiện hoạt động đó tiến hành. Kiểm soát quản lý diễn ra thường xuyên và là hoạt động quan trọng nhất trong cơ chế kiểm soát nội bộ của ngân hàng.  - Kiểm soát xử lý được đặt ra để kiểm tra việc xử lý các giao dịch, tức là kiểm tra lại những công việc mà nhân viên ngân hàng đã thực hiện và đã được công nhận, cho phép, phân loại, tính toán, ghi chép và tổng hợp trong báo cáo.  - Kiểm soát để bảo vệ tài sản là các biện pháp, quy chế kiểm soát nhằm đảm bảo sự an toàn của tài sản và thông tin trong ngân hàng.  - Kiểm soát tổng quát là sự kiểm soát tổng thể đối với tất cả các hoat động và giao dịch diễn ra trong ngân hàng.  Dễ dàng nhận thấy, kiểm soát nội bộ đóng vai trò rất quan trọng đối với sự an toàn và khả năng phát triển trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Việc xây dựng và thực hiện được một cơ chế kiểm soát nội bộ phù hợp và hiệu quả sẽ cho phép các ngân hàng thương mại chống đỡ tốt nhất với rủi ro. 5. Vai trò của NHTW là người cho vay cuối cùng Trong điều kiện Ngân hàng thương mại, mất khả năng thanh toán Do NHTW không trực tiếp tham gia các hoạt động kinh doanh tài chính mà là thực hiện vai trò điều tiết KT vĩ mô của một quốc gia, vì vậy, chỉ khi sự bất ổn tài chính của các tổ chức tín dụng (TCTD) làm ảnh hưởng tới tài chính cũng như kinh tế quốc gia thì NHTW mới can thiệp. Điều này giải thích: TCTD gặp vấn đề và sụp đổ tạo nên hiện tượng DOMINO giống như các NHTM Châu Âu sau thế chiến thứ nhất hoặc rủi ro thanh toán tạm thời của NHTMCP ACB gặp phải năm 2003... Khi NHTW thực hiện vai trò cho vay đối với các TCTD sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng vào nền kinh tế, có thể gây ra các hiện tượng kinh tế tiêu cực như: lạm phát, bất ổn lãi suất...cho nên NHTW không thường xuyên cho vay đối với các TCTD. Đôi khi sự mất khả năng thanh toán tạm thời (ảo) do điểm giao dịch chưa thể huy động vốn từ các chi nhánh khác trong thời gian ngắn mà khách hàng lại đồng loạt đi rút tiền nên NHTW không thực sự sẵn lòng thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng. NHTW thường xuyên thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng có thể làm rối các chính sách điều tiết vĩ mô của mình. (Giả dụ trong thời điểm hiện tại nền kinh tế đang ở thời kỳ bất ổn lạm phát có chiều hướng tăng cao, NHTW phải sử dụng các công cụ tài chính về lãi suất để kìm phát, tuy nhiên NHTW lại thường xuyên thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng và gián tiếp cung ứng tiền vào lưu thông làm tăng phát và không những vô hiệu hóa các công cụ tài chính mà còn đẩy mức lạm phát lên cao). Việc NHTW dễ dãi cho vay sẽ gây nên sức ỳ cho các TCTD, từ đó các tổ chức này không cố gắng tự mình vượt qua khó khăn tài chính. Quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng thương mại chính là góp phần đóng góp vào quá trình tạo tiền cho nền kinh tế, quan hệ này càng phát triển thì dòng vốn lưu thông càng nhanh càng tạo hiệu quả sử dụng vốn cao làm cho hệ thống tài chính trở nên năng động, và vững chắc. NHTW tham gia sẽ làm giảm đi hiệu quả này, và làm ảnh hưởng tới quan hệ liên ngân hàng. Các NHTM vay vốn lẫn nhau làm phát triển hệ thống công nghệ liên ngân hàng đặc biệt hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế thị trường. NHTW can thiệp quá sâu làm ảnh hưởng sự phát triển tự nhiên của nó. CHƯƠNG 5. THỰC TRẠNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI HIỆN NAY 1. Cùng với việc châu Âu và Mỹ mạnh tay hơn trong việc đóng cửa những ngân hàng có tài sản xấu, nhiều ngân hàng vừa và nhỏ đang đứng trước nguy cơ phá sản. Theo các số liệu mới nhất, trong năm nay (tính đến giữa tháng 8), số ngân hàng vừa và nhỏ ở Mỹ bị phá sản đã tăng lên con số 118. Giới chuyên gia cho rằng làn sóng phá sản của các ngân hàng vừa và nhỏ đã gần lên tới đỉnh và sẽ kéo dài tới năm 2012. Công ty kiểm toán Price Waterhouse Coopers cho biết năm 2009, quy mô nợ xấu của các ngân hàng vừa và nhỏ trên toàn cầu đã tăng lên nhanh chóng.Gá trị nợ xấu trong tổng giá trị tài sản của các ngân hàng Đức tính đến cuối năm 2009 đã tăng hơn 50% so với năm 2008, lên gần 213 tỷ Euro. Trong khi đó, nợ xấu của các ngân hàng Anh cũng tăng từ 107 tỷ Euro lên 155 tỷ Euro; của các ngân hàng Tây Ban Nha tăng từ 75,4 tỷ Euro lên 96,8 tỷ Euro; của các ngân hàng Italia tăng từ 42 tỷ Euro lên 59 tỷ Euro. Theo Deutsche Bank, tình hình nợ xấu của các ngân hàng còn tồi tệ hơn rất nhiều so với dự đoán. Có tới 80-90% các khoản vay ở các ngân hàng liên quan tới hoạt động thương mại và đầu tư vào bất động sản, trong đó 30-40% là có vấn đề. Trong khi vấn đề “nợ xấu” chưa được giải quyết, thì hình thức “cho vay chất lượng cao” của Mỹ cũng đang đối mặt với rủi ro nghiêm trọng. Deutsche Bank cảnh cáo trong năm 2011 sẽ có khoảng 41% trong tổng số khoản cho vay kiểu này ở Mỹ (hiện đang chiếm 2/3 các khoản cho vay thế chấp trong lĩnh vực bất động sản) bị vỡ nợ. Mới đây, Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo việc châu Âu và Mỹ mạnh tay cắt giảm tài sản xấu của các ngân hàng và thực thi một số quy định mới sẽ khiến quy mô ngành ngân hàng có thể bị thu nhỏ, mức độ toàn cầu hóa có thể bị giảm sút. Nghiên cứu viên cao cấp Trương Dĩnh của WB tại Trung Quốc cho biết để tránh các tài sản xấu tiếp tục sinh sôi nảy nở, Tổng thống Mỹ Obama gần đây đã đề nghị hạn chế quy mô và hoạt động kinh doanh của các đại ngân hàng nước này, từ đó dẫn tới việc giảm sút số lượng các ngân hàng. Theo ông, Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel đang đề ra phương án tăng cường vốn của hệ thống ngân hàng toàn cầu và yêu cầu linh hoạt hơn trong giám sát tài chính. Nhằm đối phó với những lỗ hổng về vấn đề quản lý xuất hiện trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, những quy định mới do Basel đưa ra lần này đã có thêm một loạt những vấn đề mới như định nghĩa nghiêm túc hơn về tài sản cấp một. Dự kiến, những quy định sẽ được thực hiện sớm nhất là vào cuối năm 2012. Sự chặt chẽ của các quy định mới liên quan nguồn vốn do Basel đưa ra được coi là một sự “trừng phạt” đối với hệ thống tiền tệ, dẫn đến những thay đổi lớn về môi trường hoạt động của các ngân hàng. Quy định giám sát nghiêm ngặt sẽ dẫn tới ngân hàng bị ép bảo lưu tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, tăng tỷ lệ tài sản vốn tự có, hạ thấp bội số cho vay. Những điều này sẽ khiến quy mô trách nhiệm tài sản của ngân hàng bị co lại rõ rệt, tỷ lệ lãi cũng bị giảm đi, vai trò trung gian tài chính của ngân hàng có thể bị suy yếu, việc tích trữ và đầu tư thông qua ngân hàng bị giảm thiểu. Tình trạng thiếu tiền mặt trong ngắn hạn có thể dẫn tới một số ngân hàng điều chỉnh chính sách kinh doanh, thu nhỏ quy mô hoạt động ở nước ngoài. Một thống kê của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế cho thấy, hệ thống ngân hàng toàn cầu hiện đang gánh chịu khoảng 3.400-3.600 tỷ USD tài sản xấu, trong đó đã hạch toán 1.700 tỷ USD. Tình trạng “xuống cấp hóa” bởi khủng  hoảng tài chính đã khiến tổng tài sản của hệ thống ngân hàng toàn cầu giảm từ 37.400 tỷ USD vào cuối năm 2007 xuống còn 35.200 tỷ USD vào cuối năm 2008 và chỉ còn khoảng 34.000 tỷ USD vào cuối tháng 6/2009. Trong đó, tài sản ở nước ngoài đã giảm từ 33.400 tỷ USD cuối năm 2007 xuống còn 30.300 tỷ USD vào cuối tháng 6/2009. Các ngân hàng sẽ không được chính phủ cho phép thực hiện nghiệp vụ huy động tiền gửi trừ phi họ bố trí ký quỹ thoả đáng để bảo vệ an toàn tiền gửi của công chúng. Tại Mỹ, 100.000 USD tiền gửi đầu tiên sẽ được cơ quan bảo hiểm tiền gửi Liên bang trang trải, phần còn lại phải được hậu thuẫn bởi việc nắm giữ các chứng khoán chính phủ được định giá theo giá trị danh nghĩa của bản thân mỗi ngân hàng. Một số trái phiếu đô thị (ít nhất có chất lượng tín dụng hạng A) cũng có thể được dùng để đảm bảo cho các khoản tiền gửi của chính phủ Liên bang tại các ngân hàng, nhưng các chứng khoán này phải được định giá theo giá trị chiết khấu còn lại (thường từ khoản 80% đến 90% giá trị danh nghĩa của chúng nhằm mục đích đem lại cho những người gửi tiền chính phủ một vùng đệm an toàn bổ sung. Có một sự khác biệt rộng rãi về yêu cầu bảo đảm tiền gửi từ bang này sang bang khác, mặc dù phần lớn các bang cho phép các ngân hàng sử dụng kết hợp các chứng khoán đô thị và Liên bang để đáp ứng yêu cầu bảo đảm tiền gửi thuộc chính quyền các cấp và phải được đặt tại một tổ chức uỷ thác mà không thuộc nhóm liên kết với ngân hàng. Yêu cầu bảo đảm cũng đồng thời áp dụng cho nguồn vốn khác của ngân hàng. Ví dụ, khi một ngân hàng vay tiền theo hình thức chiết khấu tại ngân hàng trung ương, họ phải thế chấp các chứng khoán của chính phủ phát hành hoặc những tài sản thế chấp đáng giá. Nếu ngân hàng sử dụng các hợp đồng mua lại (RP: repurchase agreements) để tăng vốn, họ phải cầm cố một số chứng khoán (thường là chứng khoán do kho bạc hoặc do các cơ quan thuộc chính phủ phát hành) như là vật đảm bảo để có được nguồn vốn ở lãi suất thấp. 2. Chương thứ 11 Luật phá sản Mỹ Luật phá sản Mỹ, cái gậy cho các công ty “sống dở chết dở” Rất nhiều người chỉ trích Luật phá sản Mỹ cho rằng nó kéo dài cuộc sống của các công ty quá giới hạn nhạy cảm, gây ảnh hưởng xấu đến những đối thủ cạnh tranh bình thường khác trên thị trường “Công việc kinh doanh vẫn bình thường” là thông điệp được đưa ra trước đây của hãng hàng không United Airlines (UA). UA từng là hãng hàng không mạnh nhất thế giới, nhưng cũng là hãng hàng không bị phá sản lớn nhất thế giới. Lúc đó, khi UA đang hoạt động dưới sự bảo trợ của Chương thứ 11, Luật phá sản Mỹ, các quan chức UA vội vàng trấn an khách hàng và khẳng định sẽ cung cấp dịch vụ “thậm chí còn tốt hơn trước”… Chương thứ 11 Luật phá sản Mỹ thực sự là một cú hích cho các công ty muốn bắt đầu kinh doanh lại. Thay vì đóng cửa một công ty vì không thể thực hiện được các nghĩa vụ của mình với chủ nợ như các nước khác thường làm thì chương 11 đưa ra một sự bảo vệ tạm thời cho công ty trước các chủ nợ nếu họ phát hiện ra rằng công ty này vẫn còn lại chút tài sản nào đó. Dù vậy, người ta vẫn đang xem xét kỹ lưỡng hơn tác dụng của chương 11. Điều được quan tâm đặc biệt trong những ngành như viễn thông, hàng không là những công ty bị phá sản sẽ phục hồi với khả năng trả được nợ nần và do đó, sẽ có khả năng cạnh tranh tốt hơn và kết quả là điều này khiến cho những đối thủ cho đến nay vẫn còn “mạnh khoẻ” sẽ lâm vào tình trạng phá sản thay. Liệu chương 11 có tạo ra những công ty “sống dở chết dở”, sống dựa dẫm vào người khác chỉ để kéo những công ty khác xuống mồ cùng với mình không? Không hiếm những công ty đang sống dở chết dở như vậy, Trong những phiên toà về phá sản ở Delaware, New York, Chicago, người ta toàn thấy hồ sơ của những tập đoàn khổng lồ. Trong số 10 vụ phá sản lớn nhất kể từ năm 1978 thì 7 công ty hiện nay đang phải hầu toà, kéo theo sau họ là tổng tài sản lên tới 300 tỷ USD. Vậy rốt cục chương 11 này có thực sự hữu ích không? Sự phản đối với quy định buộc các chủ nợ phải chịu kiểm soát của quá trình phá sản đang ngày một lớn thêm. Một luật sư về phá sản cho biết quy định này khiến người nước ngoài phải sửng sốt. Quy định này đồng nghĩa với việc các giám đốc của một công ty bị phá sản có thể tiến hành tái cơ cấu để giữ cho nó tồn tại. Và họ thường chọn lựa cách này hơn là thanh lý công ty. Trong làn sóng phá sản công ty cuối những năm 80 và đầu những năm 90, giá trị của quy định này càng rõ ràng hơn. Rất nhiều công ty bị phá sản vì họ đã vay nợ quá nhiều trong thời kỳ bùng nổ kinh tế đã tiến hành tái cơ cấu các khoản nợ cần thiết dưới chiêu bài vực dậy công ty. Người ta còn chưa chắc rằng liệu công việc kinh doanh của hơn 50 công ty viễn thông bị phá sản gần đây có đáng để cứu vớt hay không? Hơn nữa, việc có thể định đoạt sứ mệnh của công ty đang đem lại nhiều lợi ích hơn là mất mát cho các giám đốc công ty. Chẳng hạn, chương 11 cho phép các công ty này được quyền công bố một kế hoạch tái cơ cấu trong vòng 120 ngày, nhưng toà án thường gia hạn thêm. Trước kia, rất hiếm khi toà án cho phép các công ty bán đấu giá tài sản sản trước khi tất cả các chủ nợ thông qua một kế hoạch tái cơ cấu. Gần đây, toà án đã cho phép giám đốc hàng Polaroid và Eron bán tài sản thậm chí trước khi soạn thảo kế hoạch tái cơ cấu để tránh một cuộc bỏ phiếu chính thức của các chủ nợ, kèm theo đó là hàng trăm trang thông tin quan trọng. Kể từ khi nộp hồ sơ phá sản vào tháng 12 năm 2001, Enron đã bán một nhà máy điện và một công ty xây dựng. Các quan chức của tập đoàn đảm bảo việc bán tài sản này được sự ủng hộ của các chủ nợ, nhưng không ai biết chắc chắn rằng liệu Enron có đang bán tài sản cho đúng người với giá cả hợp lý không. Sự thực là các công ty chỉ có thể hồi phục được theo chương 11 nếu như các chủ nợ cho rằng nó đáng được sống hơn là chết. Tuy vậy, cho đến bây giờ, việc đưa ra một ví dụ về sự thành công của một công ty lớn bị phá sản, được tái cơ cấu và hoạt động tốt trở lại là điều khó khăn. Nếu như vụ phá sản hiện nay của UA kết thúc với chi phí lớn và thất bại thì sẽ còn khó hơn để xua tan cái ý nghĩ rằng tất cả những nỗ lực của chương 11 là không đáng giá một xu 2. 12 vụ phá sản tồi tệ nhất nước Mỹ 1/ Washington Mutual (2008) Trước khi phá sản, Washington Mutual là ngân hàng lớn thứ sáu nước Mỹ. Ngân hàng này cũng sở hữu Washington Mutual Saving Bank, tổ chức cho vay và tiết kiệm hàng đầu quốc gia. Tương tự như Lehman Brothers, nguyên nhân đẩy Washington Mutual đến bờ phá sản cũng bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng trăm năm mới có một lần tại thị trường tín dụng và bất động sản. Thiệt hại kéo dài đã khiến hãng phải đóng nhiều chi nhánh và cắt giảm nhân công. Giá cổ phiếu của Washington Mutual từ đó đi xuống thê thảm, từ 30 đôla, vào tháng 9/2007, thậm chí 45 đôla trong năm 2006, xuống chỉ còn 2 đôla vào tháng 2/2008. Sau nhiều nỗ lực cải tổ bằng cách sa thải ban giám đốc hoặc tìm đối tác mua lại cổ phần nhưng không thành công, ngân hàng trên lại bị giáng một đòn nặng khi chỉ trong 10 ngày các khách hàng đã đua nhau rút ra một khoản tiền kỷ lục lên tới 16,7 tỷ đôla. Vào ngày 26/9, Washington Mutual Bank đệ đơn xin phá sản. Đây là vụ sụp đổ ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với số tài sản "bốc hơi" lên tới 307 tỷ đôla. 2/ Lehman Brothers (2008) Định chế tài chính 158 năm tuổi vừa phá sản ngày 15/9 khi mới chỉ 1 năm trước còn là ngân hàng lớn thứ tư nước Mỹ với số nhân viên lên tới hơn 26 nghìn. Thiệt hại mà ngân hàng này phải gánh chịu là kết quả của việc biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản đầy rủi ro cung cấp cho thị trường. Định chế tài chính 158 năm tuổi sụp đổ nhanh chóng chỉ sau vài tháng xảy ra khủng hoảng. Ảnh: sme.vn. Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng khiến việc phát mãi tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng. Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Hậu quả là hàng loạt ngân hàng đầu tư, trong đó có Lehman Brothers, lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh. Giá trị vốn hóa đỉnh điểm khoảng 45 tỷ vào cuối năm 2007 của Lehman Brothers đã về số 0 chỉ sau gần 10 tháng, tạo nên một trong những vụ sụp đổ ngân hàng chóng vánh nhất. 3/ Bear Stearns (2008) Thứ ba, ngày 11/3, từ nhà đầu tư, người cho vay, và khách hàng đều cố rút ra khỏi Bear Stearn, ngân hàng danh tiếng trên phố Wall. Bear Stearn ban đầu không phải là ngân hàng thương mại mà chủ yếu hoạt động thông qua các khoản đầu tư vào việc bán khống trái phiếu sắp đáo hạn, một hình thức kinh doanh đầy rủi ro. Những biến động bất thường của khối tài chính khiến hãng thua lỗ và gặp nhiều khó khăn. Mọi chuyện càng tồi tệ hơn khi Giám đốc tín dụng của một ngân hàng khác cho rằng Bear Stearn sẽ không thể đạt được lợi nhuận như đã công bố trước đó. Hệ quả là, chỉ trong hai ngày, vốn cổ phần của ngân hàng này từ 17 tỷ đôla tiền mặt chỉ còn lại 2 tỷ đôla. Trước tình hình trên, Bear Stearn không có lựa chọn nào khác ngoài tuyên bố phá sản. 4/ Northern Rock (2007) Khách hàng chen chúc rút tiền khỏi Northen Rock. Ảnh: wikipedia.org. Bước ngoặt dẫn tới kết cục buồn của Northern Rock đến vào năm 2006 khi ngân hàng này mở rộng hoạt động sang lĩnh vực cho vay thế chấp bằng bất động sản với đối tác là Lehman Brothers. Khủng hoảng thị trường nhà đất và tín dụng đã đẩy cả hai gã khổng lồ tới bờ vực phá sản. Vài ngày sau khi yêu cầu Bank of England hỗ trợ thanh khoản, vào thứ sáu, ngày 17/9/2007, khoảng 4 tỷ đôla đã bị khách hàng rút khỏi ngân hàng. Northern Rock mất thanh khoản và được Chính phủ Anh tiếp quản vào ngày 22/3/2008. 5/ Argentinian Banks (2001) Sau sự rút chạy của dòng vốn đầu tư nước ngoài, chính phủ Argentina đã thông qua một nhóm đạo luật mới được biết tới dưới cái tên Corralito. Theo đó, các tài khoản ngân hàng trong toàn quốc đều bị đóng băng trong vòng 12 tháng. Chủ tài khoản chỉ được phép rút một lượng nhỏ tiền, phục vụ cho chi tiêu cá nhân. Hệ thống ngân hàng bị "bóp nghẹt" khiến nạn thiếu tiền trở nên nghiêm trọng. Các cửa hàng, siêu thị bị người dân cướp sạch trong sự bất lực của nhà cầm quyền. Kinh tế Argentina rơi vào suy thoái nghiêm trọng, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25%. Chỉ trong một năm, Buenos Aires từ đô thị đắt đỏ bậc nhất châu Mỹ Latin đã trở thành thành phố rẻ nhất khu vực. Suy thoái kinh tế kéo theo bất ổn về chính trị, Argentina chỉ trong thời gian ngắn đã qua lần lượt 4 đời Chính phủ khác nhau. 6/ Barings Bank (1995) Câu chuyện sai lầm của Nick Leeson đã được dựng thành phim vào năm 2005. Ảnh: soxfirst.com. Trước khi giải thể vào năm 1995, Baring Bank là ngân hàng thương mại lâu đời, thành lập vào năm 1762, và có uy tín nhất London. Đây cũng là ngân hàng cá nhân của Nữ Hoàng và đã từng tài trợ cho cuộc chiến của Napoleon vào thế kỷ 19. Căn nguyên của mọi chuyện bắt nguồn từ việc một trong những nhân viên của ngân hàng tại chi nhánh Singapore, Nick Leeson, 28 tuổi, gây nên khoản lỗ tới 827 triệu bảng, tương đương 1,4 tỷ đôla, do đầu cơ vào các hợp đồng tương lai. Thay vì công khai sai lầm của mình, Leeson che giấu mọi thứ bằng một serie các bản báo cáo kế toán phức tạp, với hy vọng kéo dài thời gian chờ thị trường hồi phục nhưng mọi việc đi theo hướng ngược lại. Tuy nhiên, tới tận tháng 3/1995, mọi chuyện mới được đưa ra ánh sáng. Thông tin được công bố, đã đặt dấu chấm hết cho ngân hàng thương mại lâu đời và uy tín nhất London. Baring Bank bị bán cho ING, Tập đoàn Tài chính có trụ sở tại Hà Lan, với giá 1 bảng. 7/ Bank of England (1992) Bank of England đóng vai trò là người cho vay cuối, cứu giúp các định chế tài chính. Thế nhưng, ngân hàng từng được quốc hữu hóa này đã phải trải qua thua lỗ và không tự cứu nổi mình. Sau khi thất bại trong việc neo giữ tỷ giá đồng bảng với các ngoại tệ lớn tại châu Âu do lạm phát tại Anh ở mức cao, giới đầu cơ đã bán mạnh nội tệ với hy vọng mua lại sau khi Bank of England điều chỉnh lại chính sách. Tuy nhiên, thay vì làm như vậy, ngân hàng này lại chống lại nhà đầu cơ bằng cách mua đồng bảng và tăng mạnh lãi suất. Kế hoạch thất bại và vào ngày thứ tư đen tối 16/9/1992, giới đầu cơ trong đó có cả George Soros danh tiếng đã bán khống lượng bảng Anh có giá trị khoảng 10 tỷ đôla. Hệ quả là Bank of England buộc phải rút khỏi cơ chế một tỷ giá của hệ thống tiền tệ châu Âu và tiến hành phá giá đồng bảng. Soros và "bạn bè" đã kiếm được khoảng 1,1 tỷ đôla nhờ sự kiện này. Cũng từ đó, cái tên Soros còn được nhắc đến như kẻ đã phá hoại Bank of England. 8/ Bank of Credit and Commerce International (1991) Với tài sản vượt quá 20 tỷ đôla, hoạt động trải dài trên 78 quốc gia với 400 chi nhánh, Bank of Credit and Commerce (BCCI) đã trở thànhmột trong những vụ sụp đổ có phạm vi rộng nhất. BCCI ngân hàng của lừa đảo, khủng bố và tội phạm. Ảnh: historycommons.org. Được thành lập tại Pakistan, ngân hàng này được cho là đã nhận hỗ trợ vốn từ CIA. Vào giai đoạn thịnh vượng của mình, BCCI nổi tiếng nhờ sở hữu nhiều chi nhánh, các công ty vận tải, và thương mại. Tuy nhiên, đến năm 1991, sau chuỗi thành công kéo dài, các chuyên gia Anh và Mỹ phát hiện BCCI liên quan tới các hoạt động rửa tiền, hối lộ, tài trợ khủng bố, mua bán trái phép ngân hàng và bất động sản, trốn thuế, và buôn bán vũ khí, đặc biệt là vũ khí hạt nhân. Ngân hàng này cũng có ít nhất 13 tỷ đôla tài sản không rõ nguồn gốc. Được phong danh hiệu "ngân hàng của lừa đảo và tội phạm quốc tế", BCCI đã bị phong tỏa bởi các nhà chức trách Anh và Mỹ, và sụp đổ nhanh chóng. 9/ Continental Illinois National Bank and Trust Company (1984) Đã từng là ngân hàng lớn thứ 7 nước Mỹ xét trên lượng ký quỹ, Continental Illinois National Bank và Trust Company tan rã vào năm 1984 sau khi dư luận phát hiện ra cuộc sát nhập của ngân hàng này với Penn Square Bank là vô giá trị. John Lytle, Giám đốc Điều hành mảng cho vay đầu tư vào dầu mỏ, đã nhận 585 nghìn đôla tiền hối lộ. Đổi lại Lytle đã bỏ qua các khoản nợ khó đòi và ủng hộ việc sáp nhập giữa hai ngân hàng. Hậu quả là Continental Illinois National Bank and Trust Company vỡ nợ do nợ xấu, cho các nhà sản xuất dầu vay trong thời kỳ bùng nổ dầu mỏ những năm 1980 và 1990 tại Texas, của Penn Square Bank. Các chủ tài khoản khi biết thông tin trên đã rút tới hơn 10 tỷ đôla khỏi ngân hàng này chỉ trong vài ngày đầu tháng 5/1984. Continental Illinois National Bank and Trust Company do vậy bị mất thanh khoản và sụp đổ hoàn toàn. 10/ Banco Ambrosiano (1982) Roberto Calvil, người đứng đầu "Ngân hàng của Chúa", đã có một kết cục bi thảm như chính Ngân hàng do ông đứng đầu. Ảnh: businesstoday.com. Ngân hàng thiên chúa giáo của Italy, Ambrosiano, được thành lập vào năm 1986 nhằm hỗ trợ các hoạt động truyền đạo hoặc làm từ thiện của giáo hội hoặc các tổ chức tinh thần. Roberto Calvi, người được chỉ định làm Tổng Giám đốc và Chủ tịch vào các năm 1971 và 1975, đã dẫn dắt ngân hàng theo một hướng đi mới. Theo đó, Ambrosiano thành lập các công ty tại nước ngoài và tham gia vào lĩnh vực truyền thông. Tuy nhiên, không chỉ dừng tại đó, Calvi đã dùng mạng lưới ngân hàng phức tạp của mình để phục vụ ý đồ xấu như chuyển tiền ra khỏi Italy, bơm giá chứng khoán, che giấu các khoản nợ không bảo đảm, và nhiều hoạt động dính líu tới Mafia Italy. Vào năm 1982, ngân hàng không thể giải thích nguồn gốc số tiền 1,287 tỷ đôla và Calvi đã phải rời Italy sang Anh bằng hộ chiếu giả. Vào ngày 16/8/1982, xác Calvi đã được tìm thấy tại cầu Blackfriars, London. Đây được cho là sự trả đũa của Mafia, đối tượng qua lại mật thiết với Ambrosiana, dành cho ông chủ nhà băng này. Cùng trong năm 1982, Ambrosiano đã sụp đổ. Bức màn bí ẩn giữa giáo hội, Mafia, và các ngân hàng trong vụ scandal này đã tạo cảm hứng cho Holywood làm bộ phim "Bố già". 11/ Franklin National Bank (1974) Vụ sập tiệm vào năm 1974 của Franklin National Bank, tại Long Island, New York, là vụ phá sản lớn nhất thời đó. Ngân hàng này đã từng hoạt động rất hiệu quả cho tới khi nó được mua lại bởi Michele Sindona, một ông trùm Mafia tài chính, gốc Sicily, Italy. Sindona đã dùng ngân hàng này để cung cấp tín dụng, chuyển và rửa tiền tiền cho các quỹ, vốn liên quan tới Vatican và các hoạt động buôn bán ma túy tại Italy. Để che giấu những việc làm mở ám, Sindona đã xây dựng quanh mình cả một thể chế ngân hàng hùng mạnh và hiện đại. Tuy nhiên, những ngày vui của ông trùm này ngắn chẳng tày gang khi vào 8/10/1974, Franklin National Bank vỡ nợ do quản lý kém, đầu cơ ngoại tệ và chính sách cho vay lỏng lẻo. Trong các phiên tòa vào năm 1979, Paul Luftig, Tổng giám đốc, và J.Michael Cartel, Phó Chủ tịch, đã bị kết tội lừa đảo thông tin trong báo cáo tài chính. Thiệt hại ước tính của vụ phá sản này là 2,8 tỷ đôla. 12/ Đại khủng hoảng (1923 - 1933) Có tới 9.000 ngân hàng phá sản trong giai đoạn trước và sau đại khủng hoảng. Ảnh: businesstoday.com. Trong những năm Đại khủng hoảng 1923-1933, các ngân hàng tại Mỹ trải qua một trong những cơn ác mộng kéo dài và tồi tệ nhất trong lịch sử. Khi mà người tiêu dùng không còn tiền để chi tiêu và gửi tiết kiệm, các ngân hàng bắt đầu sụp đổ với tốc độ chóng mặt. Trong thập niêm 1920, có trung bình 70 ngân hàng phá sản một năm. Mọi chuyện còn tồi tệ hơn trong thập niên kế tiếp khi chỉ trong 10 tháng đầu năm 1920, 744 ngân hàng phá sản, bằng cả 10 năm trước đó cộng lại. Con số kinh hoàng, 9.000 ngân hàng bị xóa tên, trong thập niên 1930 đã cho thấy mức độ tàn phá ghê gớm của cuộc Đại khủng hoảng. Tổng số tiền bị cuốn theo vòng xoáy sụp đổ nhà băng lên tới 140 tỷ đôla.  Mỹ: Nỗ lực chặn đà phá sản của các ngân hàng Kể từ khi lâm vào khủng hoảng (2008) đến thời điểm này, 140 ngân hàng Mỹ đã "đội nón ra đi". Giá nhà đất tại thị trường Mỹ giảm xuống khiến cho ngành ngân hàng thua lỗ nặng, theo ước tính của cơ quan Xếp hạng Tín dụng Moodys Investors Service, giá bất động sản của Mỹ từ mức cao trào hồi tháng 10-2007, nay đã giảm 43%. Trong đó Caliphoócnia là một bang bị thị trường bất động sản tác động nặng nề nhất khiến nhiều NH ở đây "lãnh đủ" do sức nặng của các món nợ thế chấp. Với First Federal Bank và Imperial Capital Bank bị đóng cửa lần này, bang Caliphoócnia có tất Cả 17 NH phá sản trong năm 2009. First Federal Bank có tài sản 6,1 tỷ USD và 4,5 tỷ USD tiền gửi, Imperial Capital Bank có tài sản khoảng 4 tỷ USD và 2,8 tỷ USD tiền gửi. Trước tình hình này, NH OneWest ở Paxađena, bang Caliphoocnia đã đồng ý mua tất cả số tiền gửi và tài sản của First Federal Bank. Từ ngày 19-12, tất cả 39 chi nhánh của NH này mở cửa giao dịch như các chi nhánh của NH OneWest. Bên cạnh đó, City National Bank ở Lốt Angiơlét đã mua toàn bộ số tiền gửi của Imperial Capital Bank và 3,3 tỷ USD tài sản của NH bị phá sản này. Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC) giữ số tài sản còn lại để bán sau. Từ ngày 21-12, tất cả 9 chi nhánh của NH nói trên sẽ mở cửa giao dịch như các chi nhánh của City National Bank. Trước những rối loạn tài chính trong thời gian qua, số ngân hàng sụp đổ từ đầu năm 2009 đến nay tại Mỹ đã tăng gấp ba lần so với năm 2008 (trung bình, có khoảng 10 ngân hàng phá sản/tháng). Do đó, các khoản vay dành cho lĩnh vực bất động sản thương mại đang bị xem là mảng u ám nhất trong bảng cân đối kế toán của các ngân hàng Mỹ. Các tòa nhà văn phòng trống trơn đang khiến các công ty bất động sản thương mại lỗ nặng, kéo theo nguy cơ vỡ nợ ngân hàng ngày càng lớn. Trong trường hợp sự phục hồi của kinh tế Mỹ ngưng trệ, tỷ lệ vỡ nợ ở các khoản vay này có thể tăng vọt. Trong khi đó, các ngân hàng địa phương với quy mô nhỏ lại đang là đối tượng nắm giữ một khối lượng rất lớn những khoản vay này. Thống kê cho thấy, số vốn vay trị giá 500 tỷ USD mà các ngân hàng Mỹ đã cấp cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản, thương mại sẽ đáo hạn trong vài năm tới. Vì vậy, chính quyền Mỹ đã kéo dài chương trình giải cứu tài chính trị giá 700 tỷ USD cho đến tháng 10-2010 hòng cứu vãn sự sụp đổ thêm nữa của hệ thống NH Mỹ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.   PGS.TS. Trần Huy Hoàng (2008), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Lao động – Xã hội. 2.   Ban công tác về việc gia nhập WTO của VN, Biểu cam kết cụ  thể về dịch vụ, Báo cáo ngày 27/10/2006 3.   Dự án hỗ trợ thương mại đa biên – Multilaterral Trade Assistance Project, VN gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới – Giải thích các điều kiện gia nhập. 4.   NHNN, Báo cáo thường niên qua các năm. 5.   NHTM, Báo cáo thường niên qua các năm. 6.   Quyết định 112/2006/QĐ-TTg, ngày 24/05/2006, Đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. SOURCE: TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 223, THÁNG 5 NĂM 2009  - Báo cáo tổng kết của NHNN VN và NHNN chi nhánh TP.HCM 2000, 2001, 2003, 2004, 2005.   - Phát biểu của nguyên Thủ tương Phan Văn Khải và Thống đốc Lê Đức Thúy tại buổi lễ kỷ niệm 55 ngày thành lập ngành ngân hàng VN.   - Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ tháng 1-5 năm 2006.  - Website Ngân hàng Nhà nước VN - www.sbv.gov.vn  - Bảng tổng hợp các câu hỏi phỏng vấn các cán bộ công chức, các chuyên gia tài chính-ngân hàng. 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDe tai so 6.docx
Tài liệu liên quan