Tìm hiểu về Thị trường tiền tệ, lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất thị trường tiền tệ của ngân hàng nhà nước

Ngân hàng và thanh toán bù trừ hầy như không biến động; lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu được điều chỉnh giảm với biên độ 0,6%-1,2%/năm, không tương ứng với chiều hướng và biên độ biến động của lãi suất thị trường tiền tệ. Đối với lãi suất tái cấp vốn tháng 3/03 tăng 1,8%/năm so với 1/6/02, không phải là biểu hiện của “thắt chặt tiền tệ” mà NHNN thay đổi cơ chế điều hành lãi suất thị trường liên Ngân hàng, bằng việc lấy lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu làm trần và sàn. 2.1.3. Diễn biến thị trường tiền tệ từ khi thực hiện cơ chế mới về lãi suất Đối với các nước công nghiệp, đặc biệt là các nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới, nhìn vào diễn biến trên thị trường tiền tệ với những thay đổi của lãi suất chủ đạo do NHTW công bố và lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng cho thấy sức khoẻ của nền kinh tế đó. Nước ta là một nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, đang trong

doc104 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu về Thị trường tiền tệ, lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất thị trường tiền tệ của ngân hàng nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m soát lãi suất nói riêng của NHNN. Cùng với quá trình từng bước đưa hệ thống công cụ gián tiếp NVTTM, chính sách tái cấp vốn, DTBB) thay thế các công cụ trực tiếp kém hiệu quả: ấn định lãi suất, ấn định tỷ giá, hạn mức tín dụng. Theo xu hướng chung của thế giới, việc kiểm soát các điều kiện tiền tệ gián tiếp cũng như cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp đang ngày càng chiếm ưu thế. Cơ chế kiểm soát lãi suất gián tiếp đang trong quá trình xây dựng hoàn thiện trong điều kiện thị trường tiền tệ sôi động hơn, cạnh tranh gay gắt hơn, sự nhạy cảm của cầu liền với lãi suất tăng lên, hoạt động tín dụng trở nên tích cực và ngày càng đi vào chiều sâu. Qua nghiên cứu thực tiễn nền kinh tế Việt Nam chúng ta thấy được những điều kiện khá thuận lợi cho việc thực hiện tự do hoá lãi suất cũng như thực thi cơ chế kiểm soát gián tiếp. + Nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ, đầu tư tăng liên tục từ cuối năm 2002, tăng trưởng kinh tế cao và ổn định qua nhiều năm, lạm phát ổn định, thâm hụt cán cân vãng lai, thâm hụt ngân sách NN được kiểm soát vì vậy thâm hụt lớn sẽ không xảy ra. + Yếu tố lãi suất quốc tế cũng đang có những diễn biến thuận chiều, suốt trong năm 2001, 2002 và 6 tháng đầu năm 2003, lãi suất thế giới liên tục giảm và ở mức thấp nên lãi suất ngoại tệ trong nước cũng khá ổn định. + Khả năng điều tiết của NHNN Việt Nam ngày càng tăng, cùng với sự ủng hộ của chính phủ mức độ độc lập trong điều hành tiền tệ – ngân hàng cũng tăng lên. + Hệ thống thị trường tài chính tiền tệ đã có những dấu hiệu tiến triển Bên cạnh những mặt thuận lợi chúng ta cũng thấy rõ những khó khăn thách thức không nhỏ song cùng với xu hướng chung của thế giới, sự hợp tác quốc tế sâu rộng và với nỗ lực bản thân chúng ta sẽ thành công. 3.2. Đề xuất xây dựng mô hình kiểm soát lãi suất thị trường tiền tệ của NHNN Việt Nam 3.2.1. Những quan điểm về lựa chọn lãi suất chủ đạo ở Việt Nam Xuất phát từ bài học kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển cũng như các nước thuộc hệ thống thị trường mới nổi ở châu á, lãi suất liên ngân hàng qua đêm có xu thế được sử dụng làm mục tiêu hoạt động thay cho lượng dự trữ của hệ thống ngân hàng trước đây. Xu hướng này xuất phát từ thực tế rằng mối quan hệ truyền thống giữa khối tiền cơ sở và khối tiền cung ứng trở nên thiếu ổn định và khó dự đoán chính xác. Sự lớn mạnh nhanh chóng của trung gian tài chính phi ngân hàng và xu hướng pha trộn các hoạt động ngân hàng với các hoạt động phi ngân hàng đang làm cho khối lượng tiền cung ứng vượt khỏi khả năng kiểm soát của NHTW. Trong điều kiện này, nếu NHTW thực hiện kiểm soát khối tiền DT (DL, MBN, MB) – những chỉ tiêu về lượng không cho phép kiểm soát những biến động của khối tiền cung ứng. Thêm vào đó, hệ số tạo tiền với rất nhiều nhân tố ảnh hưởng hiện nay biến động rất phức tạp khó dự đoán. Mặc dù việc xác định khối lượng tiền MB cần phát hành thêm được ở Việt Nam thực hiện một cách khoa học, có căn cứ song đó hoàn toàn là những chỉ tiêu dự kiến và có thể dẫn đến những sai lệch lớn so với thực tế. Vấn đề thu thập thông tin, số liệu về các yếu tố tác động đến cung – cầu tiền cơ bản hiện nay đối với NHNN Việt Nam cũng rất nan giải, khó khăn. Trong điều kiện việc dự báo sự thiếu hụt hay dư thừa khả năng thanh toán của hệ thống ngân hàng gặp khó khăn thì lãi suất liên ngân hàng lại có khả năng đưa ra tín hiệu khá chính xác về nhu cầu hay áp lực đối với khả năng thanh toán của hệ thống. Theo kinh nghiệm của các nước, NHTW có thể lựa chọn các lãi suất ngắn hạn khác nhau làm mục tiêu hoạt động chính hoặc bổ sung, tuỳ thuộc vào khả năng kiểm soát của NHTW và mức độ ảnh hưởng của lãi suất được lựa chọn tới mặt bằng lãi suất thị trường và nền kinh tế. Hiện nay, NHNN còn quản lý nhiều mức lãi suất có thể tác động tới lãi suất thị trường như; lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn … nhưng chưa có một lãi suất nào thực sự tác động đến thị trường nhanh nhạy. Mặt khác, với nhiều lãi suất như vậy, nếu có xu hướng ngược nhau thì thị trường sẽ không có định hướng. Điểm mấu chốt là xác định lãi suất mục tiêu và cơ chế tác động bằng lãi suất trên cơ sở nhận dạng các kênh truyền tải tác động của chính sách tiền tệ vẫn chưa hình thành. Bởi vậy, có rất nhiều quan điểm được nêu ra, chẳng hạn: *Quan điểm 1: Vẫn duy trì lãi suất cơ bản nhưng căn cứ xác định lãi suất cơ bản dựa chủ yếu trên cơ sở lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở, lãi suất đấu thâù trái phiếu Kho bạc và một số chỉ tiêu khác như tăng trưởng kinh tế, lạm phát tỷ giá thay cho việc dựa vào tính toán bình qân lãi suất huy động và cho vay của một số ngân hàng thương mại tốt nhất được lựa chọn. Hoặc lãi suất cơ bản được xác định là lãi suất trung bình của lãi suất tái chiếu khấu, lãi suất thị trường mở, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất tiền gửi tại NHNN. Trước hết, cơ chế lãi suất cơ bản từ tháng 8/2000 – tháng 5/2002 tuy được coi là cơ chế lãi suất ưu việt hơn so với cơ chế lãi suất trần trước đây bởi nó thể hiện được đổi mới cơ bản trong điều hành lãi suất theo quan hệ cung cầu và chú trọng mục tiêu của chính sách tiền tệ. Song thực chất, việc khống chế biên độ thì tạo nên một trần lãi suất tối đa với tài chính tín dụng được phép cho vay. Với quy định hạn chế như vậy, lãi suất cơ bản trong suốt thời gian tháng 8/2000 đã gây ra áp lực lớn đối với hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Việc thực hiện theo lãi suất thoả thuận bắt đầu tư 1/6/2002 là một sự kiện quan trọng đánh dấu bước chuyển căn bản từ biện pháp có tính chất hành chính đang điều tiết theo cơ chế thị trường trong điều hành lãi suất của NHNN. Lãi suất cơ bản chỉ có tính chất tham khảo nên việc đề xuất xác định lãi suất cơ bản để định hướng thị trường sẽ không khả thi. *Quan điểm 2. - Có thể sử dụng lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất định hướng như Mĩ, Nhật. Các loại hình cho vay tái chiết khấu này có thời hạn rất ngắn, có thể cho vay trong vài ba ngày thậm chí qua đêm để bù đắp thiếu hụt khả năng thanh toán sau khi các TCTD đã thực hiện vay mượn nhau trên thị trường liên ngân hàng. ở các nước có thị trường tài chính phát triển (Mỹ), Nhật Bản có thể nói với vai trò là một công cụ CSTT, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu có hiệu ứng thông báo khá mạnh về xu hướng CSTT trong tương lai. Có thể khẳng định : “thành công của chính sách tiền tệ của Nhật Bản là sử dụng lãi suất liên ngân hàng làm chỉ tiêu hoạt động và sử dụng lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu làm lãi suất định hướng” *Quan điểm 3 Sử dụng lãi suất mục tiêu là lãi suất nghiệp vụ thị trường mở khi nghiệp vụ thị trường mở phát triển. So với chính sách tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ gián tiếp có hiệu quả cao trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, điều kiện để thị trường mở phát huy hiệu quả đó là sự phát triển của thị trường liên ngân hàng cũng như hệ thống thị trường nói chung, sự đa dạng của các công cụ tài chính cơ sở hạ tầng thị trường, cùng cấp các thể thức tài chính, thiết lập các tiêu chí kinh doanh giữa NHTW và ngân hàng thương mại trên thị trường mở, thu thập và phổ biến thông tin, số liệu thống kê về thị trường và cơ chế chi trả thanh toán bù trừ an toàn. Những điều kiện này ở Việt Nam hiện còn rất thiếu hoặc mới đang trong giai đoạn hình thành nên trong hai năm qua chưa thể hiện được những ưu điểm vốn có của nó. Hơn nữa, để cho NVTTM trở thành công cụ chủ yếu của CSTT thì các công cụ khác phải có vai trò kém quan trọng hơn đặc biệt là cửa sổ chiết khấu nơi các NHTM chủ động có được lượng tiền cơ bản thông qua việc vay NHTM. Xét về khía cạnh lãi suất, để cho lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò là lãi suất mục tiêu thì có thể thiết kế cửa sổ chiết khấu sao cho việc vay mượn NHNN qua cửa sổ này kém phần hấp dẫn. Chẳng hạn, áp dụng lãi suất phạt cao hơn qua thị trường mở hoặc đưa ra một hạn mức chiết khấu cho từng ngân hàng thương mại. Kinh nghiệm ở một số nước, chẳng hạn Đức, NHTW áp dụng cơ cấu lãi suất kép bao gồm lãi suất tái chiết khấu cơ bản và lãi suất phạt Lonbard để không khuyến khích các ngân hàng thương mại sử dụng thể thức này quá mức, khi lượng giấy tờ có giá không còn đến bán NHTW mới giảm dần lãi suất cho vay sát với lãi suất trên nghiệp vụ thị trường mở. Với Việt Nam có chế này cũng cần áp dụng song phải hết sức thận trọng khi đưa ra hạn chế đối với thể thức chiết khấu, bởi lẽ nếu mức lãi suất phạt quá cao so với điều kiện hiện có của thị trường thì thị trường không thể phản ứng kịp thời với nhu cầu về khả năng thanh toán bất thường. Tại Việt Nam, thời gian qua lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn thường thấp hơn lãi suất trên thị trường mở. Hay nói cách khác, lãi suất trên thị trường mở, lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn chưa hài hoà, lãi suất tín phiếu kho bạc chỉ mang tính chất tham chiếu không ảnh hưởng quyết định lãi suất trên thị trường mở, lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng khó đưa vào lãi suất tham chiếu vì số lượng ngân hàng tham gia thị trường liên ngân hàng ít và lãi suất vay nóng là cao. Một lý do nữa khiến cho lãi suất nghiệp vụ thị trường mở khó có thể trở thành lãi suất mục tiêu trong điều kiện Việt Nam lại chính là hàng hoá và phương thức giao dịch trên TTM. Như ta đã biết, sau 2 năm hoạt động của NVTTM tại Việt Nam, NHNN chủ yếu dựa vào hai loại công cụ; tín phiếu kho bạc và tín phiéu ngân hàng nhà nước. Các loại giấy tờ có giá khác như chứng chỉ tiền gửi (CDs), thương phiếu (CP), chấp phiếu NH (BA)… vẫn chưa được đưa vào giao dịch trên TTM. Trong khi đó lãi suất tín phiếu kho bạc chỉ mang tính tham khảo, còn mức lãi suất được áp dụng trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở là lãi suất do Ngân hàng Trung ương công bố trong đấu thầu khối lượng hoặc lãi suất trúng thầu khi đấu thầu lãi suất. Về các nghiệp vụ thị trường mở, trên thế giới nhiều nước đang sử dụng các hợp đồng mua lại (Repos) vì đây là một hình thức tài trợ thuận tiện và linh hoạt hơn hình thức mua bán hẳn. Thông qua các Repos các thành viên tham gia thị trường mua hoặc bán giấy tờ có giá để đổi lấy tiền mặt vào một thời điểm trong tương lai. Đây là công cụ hiệu quả nhằm tăng khả năng thanh khoản của thị trường và giúp cho việc mở rộng thị trường. Còn ở Việt Nam thì hầu như chưa sử dụng nghiệp vụ Repos mà chủ yếu là mua hẳn (giao dịch không hoàn lại) ảnh hưởng dài hạn đến dự trữ của các ngân hàng thương mại. Với nghiệp vụ mua bán hẳn cùng với hệ thống thông tin và công nghiệp còn yếu, Ngân hàng nhà nước Việt Nam chưa có khả năng dự báo chính xác các yếu tố tác động đến cung cầu tiền trung ương cũng như hạn chế trong việc triệt tiêu những ảnh hưởng bất lợi đến doanh thu của ngân hàng thương mại. Tóm lại, do thị trường mở chưa thực sự sôi động xét cả về doanh số giao dịch, thời gian hàng hoá, đối tượng, phương thức và nghiệp vụ giao dịch nên lãi suất nghiệp vụ thị trường mở chưa có khả năng lan truyền ảnh hưởng đến các mức lãi suất ngắn hạn khác thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng nhà nước (chẳng hạn lãi suất liên ngân hàng) để từ đó tác động đến các mức lãi suất thị trường. *Quan điểm 4 Sử dụng lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất mục tiêu trên cơ sở phát triển thị trường này. Xét trên góc độ lý thuyết cũng như thực tiễn, chúng ta thấy việc xác định lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mục tiêu sẽ có nhiều ưu điểm hơn hẳn so với các loại lãi suất khác mà NHNN hiện nay đang quản lý. Lựa chọn trong một loạt đề xuất có tính chất tham khảo về một mức lãi suất mục tiêu hoạt động trong điều kiện Việt Nam hiện nay, lãi suất liên ngân hàng đã và đang chiếm ưu thế hơn hẳn, thích hợp trong vai trò người dẫn đường tin cậy của chính sách tiền tệ. - Trước hết, lãi suất liên ngân hàng trong thời gian vừa qua được coi là chỉ tiêu bổ sung song song với sự duy trì kiểm soát của Ngân hàng nhà nước với khối tiền cơ sở MB. Nó sẽ trở thành chỉ tiêu hoạt động chính khi thị trường liên ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn trong thời gian tới cùng với việc cải thiện năng lực quản lý vốn khả dụng của hệ thống các tài chính tín dụng. - Hơn nữa, thị trường liên ngân hàng là thị trường giữa các ngân hàng với nhau, do đó đây là một bộ phận của thị trường tiền tệ. ở Việt Nam thị trường liên ngân hàng là thị trường giao dịch trực tiếp giữa các ngân hàng tm nhằm giải quyết nhu cầu vốn ngắn hạn của các ngân hàng thương mại nhằm bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc, đáp ứng nhu cầu thanh toán bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng. Với ý nghĩa đó, thị trường liên ngân hàng là thị trường trung tâm của thị trường tiền tệ, các thành viên quan trọng và thường xuyên nhất của thị trường tiền tệ chính là các ngân hàng thương mại. Thị trường tiền tệ khởi đầu chính là ở thị trường liên ngân hàng, sau đó mới mở rộng ra các loại thị trường khác. Hiệu quả hoạt động của thị trường liên ngân hàng ở mức độ nào cũng luôn gắn chặt với hiệu quả của toàn bộ thị trường tiền tệ và thị trường tài chính nói chung. Vì vậy, thị trường liên ngân hàng có vai trò đặc biệt trên thị trường tiền tệ, khối lượng chuyển giao vốn ở đây chiếm tỷ trọng lớn, thời gian luân chuyển vốn rất nhanh.Với tư cách là thị trường bán buôn, thị trường liên ngân hàng là nơi hoạt động của chính sách tiền tệ, nơi Ngân hàng Trung ương thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng (tức thực hiện chính sách tái cấp vốn) đối với toàn bộ hệ thống. Thị trường liên ngân hàng cũng là thị trường ra đời và hoạt động trước khi thị trường mở ra đời. Thị trường liên ngân hàng chính là nơi xác định nhu cầu và khả năng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại, qua đó Ngân hàng Trung ương nắm bắt được nhu cầu vốn của nền kinh tế và từ đó đưa ra các quyết định về thực hiện mua, bán trên nghiệp vụ thị trường mở một cách thích hợp. Điều đó có nghĩa hiệu quả hoạt động của thị trường mở phụ thuộc hiệu quả hoạt động của thị trường liên ngân hàng. Việc không có đầy đủ số liệu thống kê cơ bản về hoạt động thị trường liên ngân hàng sẽ khiến Ngân hàng Trung ương thực hiện quyết định mua – bán trên nghiệp vụ thị trường mở sai lầm và sẽ càng nghiêm trọng hơn nếu việc mua bán lại không được thực hiện. Lãi suất thị trường ngắn hạn, đặc biệt là lãi suất liên ngân hàng cho vay qua đêm là cơ sở quan trọng để xác định lãi suất nghiệp vụ thị trường mở. Trên thị trường liên ngân hàng có nhiều loại giao dịch như hợp đồng tiền gửi, hợp đồng tiền vay liên ngân hàng (tức thị trường tín dụng liên ngân hàng) ở đó đặc biệt là các khoản vay qua đêm. Cho vay qua đêm (overnight) được thực hiện nhằm bù đắp nhu cầu vốn tạm thời của đối tác giao dịch, vì vậy loại cho vay này không có tính chất thường xuyên, trên thực tế là qua đêm. Vào ngày làm việc hôm sau, ngân hàng sẽ hoàn trả lại hoặc tiếp tục vay trong ngày. ở Việt Nam, theo quyết định số 1805/2002/QĐ-NHNN ngày 7/10/2002 vay qua đêm áp dụng trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. Đây là bước khởi đầu trong việc thực hiện nghiệp vụ cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng. Thực tế, nghiệp vụ cho vay qua đêm có thể được tiến hành giữa các ngân hàng thương mại với nhau thông qua điện thoại, trên cơ sở thị trường phi tập trung hoặc qua hệ thống điện tử nối mạng (Electronic network) giữa các ngân hàng như thị trường liên ngân hàng Hoa Kỳ (Fed Funds market) và đó chính là lãi suất quan trọng trên thị trường liên ngân hàng hoặc được sử dụng trong quan hệ tín dụng đối với Ngân hàng Trung ương – một loại tái cấp vốn rất nhanh, linh hoạt, lãi suất rất cao. Đối với Ngân hàng thương mại, loại cho vay này gần như một “van báo động” trên thị trường tiền tệ và chỉ hoạt động khi sức ép từ bên ngoài tăng hoặc do biện pháp mà Ngân hàng Trung ương thực hiện. Thông qua hoạt động tín dụng thường xuyên giữa các ngân hàng thương mại trên thị trường liên ngân hàng làm cho nguồn vốn mà thực chất là dự trữ của các tài chính tín dụng phụ thuộc vào nhau mỗi sự thay đổi của lượng dự trữ dư thừa của một ngân hàng nào đó cũng sẽ lan truyền ảnh hưởng tới mức dự trữ của các ngân hàng khác và toàn hệ thống, từ đó ảnh hưởng tới lãi suất và khối lượng tín dụng, sản lượng và giá cả của nền kinh tế. Thực vậy, khi cầu và cung vốn khả dụng ngang bằng nhau tức dự trữ của hệ thống ngân hàng tương đối ổn định thì lãi suất cho vay qua đêm ngang bằng với lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, khi cung lớn hơn cầu thì lãi suất cho vay qua đêm sẽ giảm xuống khoảng lãi suất chiết khấu, ngược lại khi cung nhỏ hơn cầu thì lãi suất thị trường sẽ tăng lên dẫn đến lãi suất cho vay qua đêm. Lãi suất do Ngân hàng Trung ương công bố và có thể thay đổi bất kỳ lúc nào, được công bố vào sáng ngày giao dịch sau. Lãi suất của nghiệp vụ này là lãi suất trần trên thị trường tiền tệ trong ngày. 3.2.2. Các mô hình kiểm soát lãi suất mục tiêu Thứ nhất, Mô hình khung lãi suất chỉ đạo sử dụng các phương tiện thường xuyên (úc, Canada, New Zealand…) Theo mô hình này, mức lãi suất liên ngân hàng mục tiêu được kiểm soát thông qua hệ thống “kênh” lãi suất của NHTW bao gồm: lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tiền gửi qua đêm. NHTW các nước này sử dụng loại cho vay qua đêm nhằm đáp ứng nhu cầu vốn khả dụng của các TCTD tại một mức lãi suất ấn định cao hơn mức lãi suất mục tiêu khoảng 25bp. Trong trường hợp các TCTD dư thừa vốn khả dụng so với nhu cầu, nó có thể gửi qua đêm tại NHTW và được hưởng mức lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lãi suất mục tiêu cũng khoảng 25bp. Với cơ chế này, sự biến động của mức lãi suất liên ngân hàng mục tiêu sẽ được kiềm giữ thường xuyên trong một biên độ dao động tối đa là 50bp. Sự thay đổi lãi suất liên ngân hàng mục tiêu được thực hiện bằng cách thông báo mức lãi suất mục tiêu. Với biên độ dao động tối đa là 50bp, sự thông báo này cũng ngụ ý rằng các mức lãi suất của các phương tiện thường xuyên thay đổi. Sự điều chỉnh “kênh” lãi suất sẽ giữ cho mức lãi suất liên ngân hàng phù hợp với mức mục tiêu mà không có bất kỳ một sự điều chỉnh nào đối với lượng dự trữ của các TCTD. Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) vẫn được sử dụng nhưng không nhằm đạt được mục tiêu lãi suất ngân hàng mà chủ yếu để đáp lại những thay đổi hàng ngày của dự trữ do những biến động của các yếu tố ngoại sinh. Thứ hai, Mô hình kết hợp giữa phương tiện thường xuyên và nghiệp vụ thị trường mở (ECB) Theo mô hình này, Ngân hàng Trung ương Châu Âu có thể chọn lãi suất liên ngân hàng hoặc lãi suất nào đó của NHTW làm mục tiêu chủ đạo. Hệ thống các phương tiện thường xuyên sẽ được sử dụng để khống chế biên độ biến động của lãi suất liên ngân hàng phù hợp với mục tiêu. Khác với mô hình trên, chênh lệch mức lãi suất trần và sàn của “kênh” lãi suất cao hơn. Vì thế, NVTTM được sử dụng phối hợp để can thiệp vào sự biến động của lãi suất khi cần thiết nhằm giữ cho nó nằm trong kênh điều tiết. ECB đặt mục tiêu cho lãi suất đấu thầu tối thiểu trong hoạt động tái cấp vốn chính và sử dụng nó để đưa ra dấu hiệu về tình trạng CSTT. Khung lãi suất chủ đạo của ECB được thiết lập bởi phương tiện cho vay và tiền gửi thường xuyên nhằm cung ứng và hấp thụ khả năng thanh toán qua đêm của các đối tác. Mức lãi suất của phương tiện cho vay qua đêm được quy định cao hơn lãi suất mục tiêu 100bp, trong khi lãi suất tiền gửi qua đêm thấp hơn lãi suất mục tiêu 100bp. Vì khoảng cách giữa mức lãi suất trần và sàn là tương đối lớn tới 200bp nên NVTTM với các công cụ đa dạng được sử dụng để duy trì lãi suất liên ngân hàng gần với mức lãi suất đấu thầu tối thiểu trong từng thời kỳ. Thứ ba, Mô hình kiểm soát lãi suất thông qua nghiệp vụ thị trường mở (Mỹ, Singapore, Nhật bản, Hàn Quốc, Malaysia…) Sự biến động của lãi suất liên ngân hàng qua đêm được kiểm soát thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Theo cơ chế này, NHTW thực hiện các giao dịch mua bán chứng từ có giá (chủ yếu là tín phiếu Kho bạc) ngắn hạn với các đối tác để tác động vào mức cung dự trữ nhằm điều chỉnh thường xuyên mức lãi suất thị trường phù hợp với mức lãi suất mục tiêu trong từng thời kỳ. Vì thế, lượng dự trữ của hệ thống TCTD sẽ thay đổi liên tục phụ thuộc vào mức độ biến động của cầu dự trữ. Cho đến, thời điểm đầu năm 2003, NHNN Việt Nam đã thiết kế đủ hệ thống lãi suất chủ đạo bao gồm: cặp lãi suất tái cấp vốn với chênh lệch 240bp/năm (theo quyết định điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn số 131/2003/QĐ- thường xuyên gắn liền với hoạt động cho vay qua đêm (theo quyết định 1085/2002/QĐ-NHNN) và lãi suất cho số dư tiền gửi thường xuyên của các TCTD tại NHNN (theo quyết định 1284/QĐ-NHNN). NHNN cũng đã chủ trương sử dụng lãi suất nghiệp vụ thị trường mở làm lãi suất mục tiêu nằm trong giới hạn điều tiết của cặp lãi suất tái cấp vốn đã được nới rộng biên độ từ tháng 2/2003. Diễn biến phức tạp của lãi suất thị trường thời gian qua và sự đe doạ của nó tới an toàn của hệ thống ngân hàng đòi hỏi NHNN phải thiết kế một hệ thống kiểm soát lãi suất hiệu quả nhằm chủ động chi phối mặt bằng lãi suất khi cần thiết. Trước hết, cần xem lại sự lựa chọn mức lãi suất mục tiêu của NHNN và xây dựng lộ trình phối hợp hệ thống lãi suất chủ đạo theo một mô hình thích hợp để kiểm soát mức lãi suất đó. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, việc lựa chọn lãi suất liên ngân hàng làm mục tiêu hoạt động thích hợp hơn việc sử dụng lãi suất hợp đồng mua lại trong các giao dịch NVTTM. Mặc dù mức lãi suất này, hiện nay, NHNN có thể kiểm soát và chi phối được nhưng nếu xét tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu hoạt động thì lãi suất hợp đồng mua lại không phù hợp ở những khía cạnh sau: i. Khả năng chi phối mặt bằng lãi suất của nó kém hơn lãi suất liên ngân hàng vì doanh số giao dịch của NVTT rất nhỏ bé. Theo số liệu thống kê của Sở giao dịch NHNN từ quý III/2000 đến quý I/2003, tổng doanh số giao dịch NVTTM chỉ dao động trên dưới 9000 tỷ VNĐ/năm, thậm chí trong năm 2002, có tới 30% phiên giao dịch không có doanh số trung thầu. Trong khi đó, doanh số giao dịch thị trường liên ngân hàng đã tăng lên tới hàng trăm nghìn tỷ VNĐ hàng năm từ năm 1998 đến nay; ii. Số lượng người tham gia NVTTM rất hạn chế, hầu hết các phiên giao dịch chỉ giới hạn trong phạm vi 4 NHTMNN iii. Tần số giao dịch NVTTM mới tăng lên 2 phiên/tuần mà chưa được thực hiện hàng ngày vì thế lãi suất hợp đồng mua lại không thể đo lường và phản ánh tình trạng CSTT hàng ngày. Bảng: Quy mô thị trường liên ngân hàng Việt Nam (Đơn vị: nghìn tỷ VNĐ) Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2004 6 tháng 2002 Doanh số Số dư Doanh số Số dư Doanh số Số dư Doanh số Số dư Doanh số Số dư Tín dụng đối với các TCTD Nội tệ 52,9 5,2 60,2 2,8 66,5 7 80,6 10, 43,5 11 Ngoại tệ 43 3,6 0,89 0,08 2,9 0,788 8 0,933 11,7 1,1 Tiền gửi tại các TCTD Nội tệ 44 4,9 63 7 74,7 9,2 87 12,6 58,6 11,7 Ngoại tệ 0,79 0,21 37,6 3,2 46,6 7,9 45,3 8,89 16,8 8,9 Tổng số 140,7 13,9 161,7 13,08 190,7 24,9 220,9 32,7 130,8 32,8 Nguồn: Vụ tín dụng, NHNN Việt Nam, Tổng hợp tình hình giao dịch LNH từ báo cáo của các TCTD. Từ 1998-6/2002 Lãi suất liên ngân hàng trong thời gian đầu chỉ được coi như một chỉ tiêu bổ sung song song với việc duy trì sự kiểm soát của NHNN đối với khối tiền cơ sở (MB). Nó sẽ trở thành mục tiêu hoạt động chính khi thị trường liên ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn trong thời gian tới cùng với việc cải thiện năng lực quản lý vốn khả dụng của hệ thống các TCTD. Mô hình kiểm soát lãi suất mục tiêu phù hợp nhất đối với điều kiện cụ thể của thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay là mô hình kiểm soát lãi suất liên ngân hàng thông qua NVTTM đang được sử dụng phổ biến tại Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản… Theo mô hình này, NHTW phải xác định được một mức mục tiêu cho lãi suất liên ngân hàng và sử dụng NVTTM một cách thường xuyên để duy trì mức lãi suất thị trường liên ngân hàng phù hợp với giá trị mục tiêu đó. Lãi suất chiết khấu được quy định thấp hơn lãi suất liên ngân hàng nhưng kèm theo các điều kiện chiết khấu chặt chẽ, một mặt nhằm cung ứng vốn khả dụng trong trường hợp cần thay đổi điều kiện tiền tệ, mặt khác buộc các ngân hàng phải khai thác triệt để các nguồn vốn khả dụng trước khi đến cửa sổ chiết khấu. Các mô hình sử dụng phương tiện thường xuyên (úc, Canada, New Zealand) và mô hình sử dụng phương tiện thường xuyên kết hợp với NVTTM (ECB) chưa phù hợp với điều kiện hiện nay của Việt Nam vì hoạt động của các phương tiện thường xuyên chưa phổ biến. Hiện nay, các hình thức cho vay đáp ứng nhu cầu thanh toán khẩn trương của các NHTM đang được thực hiện dưới hình thức cho vay thanh toán bù trừ và thấu chi nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán bù trừ tại chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố và nhu cầu thanh toán liên hàng điện tử mới hình thành. Cần có thời gian để thống nhất phương thức thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng và sử dụng đồng bộ phương thức thanh toán liên hàng điện tử trong phạm vi toàn hệ thống, tạo nền tảng cho việc sử dụng các phương tiện cho vay và tiền gửi thường xuyên. Trước mắt, để có thể thiết lập cơ chế kiểm soát lãi suất liên ngân hàng theo mô hình sử dụng nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với Việt Nam, cũng cần có sự điều chỉnh. Bởi NVTTM mới được áp dụng, với quy mô và khả năng can thiệp hiện nay, nó chưa thể hiện điều tiết một cách chủ động lãi suất liên ngân hàng phù hợp với mục tiêu nên việc hình thành một khung lãi suất chủ đạo, kết hợp với NVTTM trong việc điều tiết lãi suất LNH là cần thiết. Các mức lãi suất tái cấp vốn có thể được thiết lập thành khung lãi suất nhằm khống chế biên độ giao động của lãi suất liên ngân hàng. Trong đó, lãi suất tái cấp vốn được sử dụng như lãi suất trần và lãi suất tái chiết khấu được sử dụng như lãi suất sàn. Để có thể khống chế lãi suất liên ngân hàng một cách hiệu quả, việc phân định chức năng của từng hình thức cho vay là rất quan trọng. Hình thức cho vay tái cấp vốn sử dụng các chứng từ có giá làm vật thế chấp, lãi suất cao hơn lãi suất liên ngân hàng nhằm bổ sung nguồn vốn khả dụng ngắn hạn trong trường hợp cung cầu thị trường căng thẳng; cụ thể là khi lãi suất thị trường liên ngân hàng đã bằng hoặc cao hơn lãi suất tái cấp vốn hiện hành. Như vậy, loại hình cho vay này không khống chế hạn mức, và NHNN phải sẵn sàng cung ứng vốn khi có nhu cầu. Hình thức cho vay tái chiết khấu, ngược lại, lãi suất quy định thấp hơn lãi suất liên ngân hàng cùng kỳ hạn nhằm tạo nên một nguồn cung ứng vốn khả dụng thường xuyên trong phạm vi một hạn mức. Các điều kiện vay khắt khe của hình thức này sẽ hạn chế sự ỷ lại của các NHTM vào nguồn vốn rẻ và buộc họ phải khai thác triệt để cơ hội vay trên thị trường LNH. Thực chất, khả năng tạo nên một mức lãi suất sàn với ý nghĩa khống chế sự giảm thấp quá mức của lãi suất liên ngân hàng cũng không thực hiện được bằng việc áp dụng hình thức tái chiết khấu. Lãi suất liên ngân hàng vẫn có thể giảm thấp hơn lãi suất tái chiết khấu khi có hiện tượng dư cung trên thị trường liên ngân hàng. Việc ấn định lãi suất tái chiết khấu có ý nghĩa quan trọng ở chỗ nó chỉ ra giới hạn biến động của lãi suất liên ngân hàng theo mục tiêu của NHNN. Vì thế, việc sử dụng phối hợp NVTTM để điều tiết thường xuyên lãi suất liên ngân hàng sẽ giữ để duy trì nó trọng khung chỉ đạo. Với cơ chế này, việc thay đổi khung lãi suất chỉ đạo sẽ cho biết chiều hướng của chính sách tiền tệ: nới rộng hay thắt chặt. Thiết kế cơ chế kiểm soát lãi suất ngắn hạn cùng với việc lựa chọn mức lãi suất ngắn hạn phù hợp làm mục tiêu tác động được coi là khâu quan trọng nhất quyết định mức độ hiệu quả của cơ chế tác động bằng lãi suất. Tuy nhiên, hiệu quả cuối cùng của cơ chế tác động này còn phụ thuộc vào mức độ nhạy cảm của các quyết định chi tiêu và đầu tư đối với những biến động lãi suất. Điều này đến lượt nó, được quyết định bởi mức độ hiệu quả của hệ thống thị trường tài chính, mức độ can thiệp của chính phủ và thực trạng tài chính của các chủ thể kinh tế. Vì thế, để chính sách tiền tệ phát huy hiệu lực tác động của nó, bên cạnh việc thiết kế cơ chế kiểm soát lãi suất cần khơi thông hệ thống kênh dẫn truyền tác động của CSTT. 3.2.3. Xây dựng mô hình kiểm soát lãi suất phù hợp ở Việt Nam Bên cạnh xác định lãi suất mục tiêu, việc xây dựng mô hình kiểm soát hệ thống lãi suất chủ đạo giữ vai trò quan trọng trong hoạch định và điều hành CSTT. Thông qua xác định lãi suất liên ngân hàng làm mục tiêu hoạt động, mô hình kiểm soát lãi suất được coi là phù hợp nhất với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là mô hình kiểm soát lãi suất liên ngành ngân hàng thông qua NVTTM đang được sử dụng phổ biến ở Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và một số nước thị trường mới nổi. Theo mô hình này, NHTW sẽ xác định một mức mục tiêu cho lãi suất liên ngân hàng và sử dụng NVTTM thường xuyên để duy trì mức lãi suất mục tiêu này. Hoặc mô hình này cũng thường sử dụng lãi suất của phương tiện thường xuyên như lãi suất cho vay qua đêm làm lãi suất trần và lãi suất tiền gửi qua đêm làm lãi suất sàn để giới hạn sự biến động của lãi suất liên ngân hàng. Tuy nhiên trong điều kiện Việt Nam cần có sự điều chỉnh mô hình này sao cho thích hợp nhất bởi những hạn chế như: NVTTM chưa thực sự sôi động, sự liên hệ giữa thị trường mở và thị trường liên Ngân hàng còn lỏng lẻo, các mức lãi suất hiện nay chưa hài hoà thuận chiều: lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi qua đêm mới ở giai đoạn sơ khai. *Điểm cơ bản nhất trong việc hình thành khung lãi suất chủ đạo là lựa chọn lãi suất trần và lãi suất sàn của thị trường liên ngân hàng cũng như lựa chọn lãi suất điều tiết thị trường theo mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ. *Giai đoạn 1: Mô hình kiểm soát lãi suất liên ngân hàng thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Trước mắt, các mức lãi suất tái cấp vốn có thể được sử dụng để hình thành khung lãi suất nhằm khống chế biên độ dao động của lãi suất liên ngân hàng, trong đó: - Lãi suất tái cấp vốn có thể được xem xét điều chỉnh để trở thành lãi suất trần trên thị trường liên NH. Tái cấp vồn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của NHTW để cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng là thành viên trên thị trường liên NH nhằm thực hiện mục tiêu CSTT và hỗ trợ thực hiện chính sách tín dụng của NN. Theo điều 17- Luật NHNN quy định “NHNN thực hiện việc tái cấp vốn cho các NH theo những hình thức sau: i) cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; ii) Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy từ có giá ngắn hạn khác; iii) Cho vay có đảm bảo rằng cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Nhưng thực tế cho đến nay cho vay lại theo hồ sơ tín dụng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện nên phổ biến nhất chỉ có hình thức cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác (theo quyết định 251/QĐ-NHNN ngày 30/3/2001). Vì vậy có thể coi lãi suất áp dụng cho nghiệp vụ cho vay có đảm bảo rằng cầm cố thương phiếu và giấy tờ ngắn hạn là lãi suất trần trên thị trường để phân biệt với lãi suất chiết khấu. - Lãi suất của hình thức tái cấp vốn do NHNN quy định và điều chỉnh phù hợp với mục tiêu CSTT từng thời kỳ. Hình thức này không khống chế hạn mức mà NHNN sẵn sàng cung ứng khi các NH có nhu cầu. Tuy nhiên với vai trò là lãi suất trâng trên thị trường tiền tệ liên NH nhằm điều tiết, chỉ đạo mặt bằng lãi suất trên thị trường và bổ sung nguồn vốn ngắn hạn cho NH trong trường hợp cung cấp căng thẳng nên NHNN không sử dụng quá thường xuyên, buộc các NH phải chủ động vay trên thị trường liên NH, thị trường mở trước khi tiếp cận kênh tái cấp vốn. - Lãi suất tái chiết khấu có thể được sử dụng như lãi suất sàn của thị trường liên ngân hàng. Hiện nay, nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN với các NH thành lập và hoạt động theo Luật TCTD được thực hiện theo quyết định 898QĐ-NHNN ngày 22/3/2003 thay thế cho quyết định 906/2002/QĐ-NHNN. Giấy tờ có giá mà NHNN áp dụng chiết khấu bao gồm: Tín phiếu kho bạc NN, trái phiếu KBNN, tín hiệu NHNN và các loại giấy tờ có giá khác do thống đốc quy định trong từng thời kỳ. - Trước đây, lãi suất áp dụng trong nghiệp vụ chiết khấu là lãi suất trúng thầu phiên gần nhất hoặc lãi suất của kỳ phát hành gần nhất của giấy tờ có giá trị ngắn hạn (chủ yếu là lãi suất đấu thầu tín phiếu KBNN, tín phiếu NHNN) nhưng đến nay lãi suất này do NHNN công bố tham chiếu một số thông số như lãi suất trúng thầu tín phiếu KBNN cũng như lãi suất của một số loại giấy tờ có giá khác; cung cầu thị trường vốn nội địa và quốc tế, đặc biệt chú ý lãi suất thị trường vốn và tỷ giá ngoại tệ. Để thể hiện là lãi suất sàn trên thị trường, lãi suất chiết khấu sẽ được quy định ở mức thấp nhất trong hệ thống lãi suất chủ đạo. Mặc dù nó không thể khống chế sự giảm thấp quá mức của lãi suất liên NH (khi có hiện tượng dư cung trong hệ thống NH) song lãi suất tái chiết khấu sẽ giới hạn sự biến động của lãi suất liên NH theo mục tiêu của CSTT từng thời kỳ. Vấn đề ở đây là thiết kế lãi suất tái chiết khấu sao cho vẫn đảm bảo vai trò người cho vay cuối cùng của NHN, tránh việc ỷ lại quá mức của các NHTM vào nguồn vốn rẻ mà buộc họ phải khai thác triệt để vốn vay trên thị trường liên NH. Đồng thời điều kiện tiếp cận của các NH với nguồn vốn này cũng nên hạn chế để thể hiện rằng NHNN sẵn sàng tái chiết khấu giấy tờ có giá để tái tạo nguồn vốn cho NHTM nếu và chỉ nếu các NH này đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu theo quy định. Đồng thời NHNN cũng xác định hạn mức tái chiết khấu yêu cầu theo quy định. Đồng thời NHNN cũng xác định hạn mức tái chiết khấu và chỉ thực hiện chiết khấu trong hạn mức, qua đó vừa giúp NH có nguồn vốn ổn định đảm bảo khả năng thanh toán vừa tăng khả năng chủ động về nguồn vốn. Lãi suất tái chiết khấu sau thời gian được điều chỉnh tăng từ 0,35% lên 4,2%/năm, hiện nay đã giảm xuống mức 3,00%/năm (tháng 8/2003) để phát tín hiệu về một chính sách tiền tệ nới lỏng và ngăn chặn sự tăng lên quá mức của lãi suất trong nền kinh tế. Chúng ta sẽ chờ xem tác động của động thái lãi suất mới này như thế nào. - Đối với lãi suất NVTTM có thể được hình thành trên cơ sở lãi suất đấu thầu tín phiếu KBNN, tín phiếu NHNN (do NHNN công bố trong đấu thầu khối lượng) nhưng phổ biến hơn vẫn là lãi suất trúng thầu theo đấu thầu lãi suất. Cụ thể đó là lãi suất dự thầu cao nhất trong trường hợp NHTM mua giấy tờ có giá nhằm cung ứng khả năng thanh toán, lãi suất thấp nhất trong trường hợp NHNN bán giấy tờ có giá nhằm hấp thụ khả năng thanh toán. Thông qua hoạt động NVTTM 2 năm vừa qua lãi suất NVTTM luôn ở mức cao hơn lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Song một khi khung lãi suất chủ đạo được hình thành thì việc xác định lãi suất NVTTM sẽ thực hiện linh hoạt theo các nguyên tắc thị trường và định hướng CSTT. Lãi suất NVTTM sẽ nằm ở khoảng giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất chiết khấu và gần tương đương với lãi suất cùng kỳ hạn trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất NVTTM sẽ được hình thành trên cơ sở lãi suất liên NH đồng thời được sử dụng để điều tiết thường xuyên lãi suất liên NH trong khung lãi suất chỉ đạo. Như vậy trong cơ chế kiểm soát lãi suất này, lãi suất NVTTM và lãi suất thị trường liên NH sẽ có quan hệ mật thiết, chi phối chặt chẽ lẫn nhau. Nền tảng hoạt động của NVTTM là sự phát triển của thị trường liên NH nội tệ và ngoại tệ. Ngược lại sự phát triển của thị trường mở với vai trò là công cụ chủ yếu của CSTT sẽ là động lực hỗ trợ mạnh mẽ hoạt động của thị trường liên NH. - Lãi suất thị trường liên NH là lãi suất mục tiêu ưu việt và một khi được NHNN lựa chọn và công bố thì NHNN sẽ sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu dự trữ hoặc hấp thụ lượng vốn dư thừa để nhằm duy trì mức lãi suất mục tiêu đó trong khung lãi suất quy định. * Cơ chế vận hành của mô hình. Trước mắt, NHNN sẽ công bố một cách công khai theo ngày lãi suất cho vay và đi vay bình quân theo từng thời hạn khác nhau căn cứ mức lãi suất chào cho vay của một số NHTM ( khoảng 10 ngân hàng có chất lượng hoạt động tốt) hình thành nên lãi suất cho vay và đi vay của thị trường liên NH. Mức lãi suất này sẽ luôn thay đổi dao động xung quanh lãi suất cuẩ NVTTM và là lãi suất trần của thị trường tiền tệ trong ngày. Mức lãi suất này sẽ dao động xung quanh lãi suất NVTTM và có thể thay đổi bất kỳ lúc nào. Đồng thời lãi suất thị trường liên Ngân hàng sẽ được dao động trong biên độ lãi suất trần và sàn quy định nhằm giữ vững cho lãi suất liên Ngân hàng phù hợp với mức mục tiêu. Đây là cơ sở để các NHTM cộng thêm vào mức phụ phí khác để tính ra lãi suất huy động và cho vay với khách hàng của mình theo nguyên tắc: lãi suất huy động thấp hơn lãi suất thị trường liên Ngân hàng và cao hơn lãi suất tái chiết khấu, chiết khấu. Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất tái cấp vốn và cao hơn lãi suất thị trường liên Ngân hàng. Lãi suất liên Ngân hàng gắn liền với cung cầu khả dụng của hệ thống ngân hàng do đó nó sẽ là một chỉ tiêu mang tính tổng hợp hơn chỉ dẫn chính xác hơn về chi phí vốn của Ngân hàng, lãi suất huy động và lãi suất cho vay sẽ được hình thành một cách khách quan hơn, phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường. * Điểm chú ý của mô hình này là: - Để tạo thành khung lãi suất thì phải nâng cao chênh lệch giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Đầu năm 2003, với sự giảm xuống của hai lãi suất này khoảng chênh lệch đã được mở rộng lãi suất tái cấp vốn là 5% / năm, lãi suất tái chiết khấu là 3%/năm, chênh lệch là 2%/năm. (mức này ở Mỹ là 9%/năm). - Lãi suất liên ngân hàng do NHNN công bố sẽ căn cứ vào những tiêu chí sau: +) Cung cầu vốn khả dụng của hệ thống NH +) Mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ +) Diễn biến tiền tệ +) Diễn biến kinh tế vĩ mô +) Giá cả tài sản trên thị trường vốn +) Lãi suất trên thị trường quốc tế +) Tỷ giá ngoại tệ. Như vậy mô hình kiểm soát lãi suất liên Ngân hàng thông qua NVTTM sẽ được mô tả như sau: 3.2.4. Giai đoạn tiếp theo Khi hệ thống thanh toán điện tử liên Ngân Hàng được thực hiện rộng rãi trong toàn quốc, thị trường tiền tệ được hoàn thiện và phát triển đồng thời hệ thống lãi suất của phương tiện cơ bản gồm lãi suất cho vay qua đêm (theo quyết định 1085/2002 QĐ-NH NN) và lãi suất tiền gửi thường xuyên của TCTD tại NHNN (theo quyết định 1284/2002/QĐ-NHNN) thực sự đi vào cuộc sống thì mô hình kiểm soát lãi suất sẽ hoàn hảo hơn. Đó có thể là mô hình kết hợp giữa phương tiện thường xuyên và nghiệp vụ thị trường mở, theo đó lãi suất cho vay qua đêm của NHNN có thẻ là lãi suất trần và lãi suất trên gửi tại NHNN có thể là lãi suất sàn, khi đó biên độ dao động của lãi suất liên Ngân hàng sẽ được nới rộng ra hơn. Bởi lãi suất cho vay qua đêm sẽ cao hơn lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tiền gửi qua đêm sẽ thấp (them chí 0%). Vì lãi suất trần và sàn có khoảng cách khá rộng, việc sử dụng công cụ NVTTM đa dạng hơn cho phép duy trì lãi suất liên Ngân hàng gần với mức lãi suất NVTTM trong từng thời kỳ. 3.3. Những giải pháp nhằm củng cố và nâng cao vai trò điều hành và kiểm soát lãi suất của NHNN Việt Nam 3.3.1.Lộ trình hoàn thiện cơ chế lãi suất a. Thứ nhất: Bãi bỏ auy định khống chế lãi suất tiền giử tối đa bằng USD của pháp nhân tại các TCTD, tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền giử ngoại tệ. Từ cuối năm 1998 đến nay, nhằm góp phần tăng cường hoạt động quản lý ngoại hối, hạn chế các TCTD găm giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi để hưởng lãi suất cao và tránh rủi ro về tỉ giá, NHNN đã qui định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ đối với pháp nhân tại TCTD. Mức lãi suất này thường thấp hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân cư cùng kỳ hạn. Tuy nhiên, do mức lãi suất tiền gửi thấp, nên có thời điểm một số tổ chức kinh tế không muốn gửi tiền tại các TCTD của Việt Nam, mà mang gửi tại các TCTD nước ngoài để hưởng mức lãi suất cao hơn, gây mất nguồn ngoại tệ trong nước. Với cơ chế điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối hiện nay, tỷ giá được xác định theo thị trường hàng ngày, tương đối ổn định, không gây đột biến, tỷ lệ kết nối bằng không, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ giảm, lãi suất USD trong hai năm gần đây liên tục giảm, nên tâm lý găm giữ ngoại tệ của các tổ chứ kinh tế không như thời gian trước đây. Vì vậy, đây là thời điểm hoàn thành thích hợp để bãi bỏ quy định khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của pháp nhân tạo các TCTD, nhằm tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngoại tệ. b. Thứ hai: Tách hoàn toàn hoạt động cho vay chính sách ra khỏi các hoạt động cho vay của các NHTM, nhằm thực hiện việc xoá bỏ các hình thức cho vay ưu đãi trong hệ thống ngân hàng thương mại. Xoá bỏ các hình thức lãi suất chô vay theo chính sách và cho vay ưu đãi trong hệ thống NHTM là tất yếu trong quá trình tự do hoá lãi suất. Theo kinh nghiệm tự do hoá lãi suất của các nước, thì việc xoá bỏ các mức lãi suất ưu đãi trong quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay là quá muộn. Các nước thường tiến hành việc xoá bỏ kiểm soát này vào thời kỳ đầu của quá trình tự do hoá lãi suất. Sở dĩ như vậy là vì, việc tồn tại các mức lãi suất ưu đãi có ảnh hưởng tới các mức lãi suất cho vay thương mại của các tổ chức trung gian tài chính. Thông thường các NHTM hiện nay vẫn dùng nguồn vốn tự huy động để cho vay ưu đãi theo các mục tiêu chỉ định. Nhưng việc cấp bù phần chênh lệch lãi suất cho vay chưa được thực hiện đầy đủ (khi kết quả kinh doanh của ngân hàng bị lỗ). Trong trường hợp như vậy, lãi suất cho vay thương mại sẽ bị đẩy lên cao, để bù đắp cho các khoản cho vay ưu đãi. Bên cạnh đó, việc cho vay ưu đãi thường gắn với rủi ro tín dụng, do người vay gây ra, nhưng cũng có thể do chính NHTM gây ra, vì họ cho rằng các khoản cho vay đó đã được Nhà nước bảo lãnh nên không quan tâm đến hiệu quả đầu tư, giám sát quá trình sử dụng vốn vay. Việc tồn tại quá lâu các hình thức cho vay ưu đãi đã ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hoạt động đầu tư tín dụng, làm hạn chế động cơ nâng cao trình dộ chuyên môn, trình độ thẩm định, giám sát vốn vay, ảnh hưởng đến tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của NHTM. Ngân hàng chính sách xã hội đã đi vào hoạt động từ đầu năm 2003 trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo và tách hợt động chính sách của các NHTM nhà nước, hoạt động tín dụng cảu Kho bạc Nhà nước. Song từ kết quả nghiên cứu các năm qua, chúng tôi vẫn đề cập để đảm bảo tính khoa học và lôgic của kết quả nghiên cứu của mình. Đồng thời cần xem xét chuyển các chức năng cho vay chính sách của Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển vào Ngân hàng chính sách. Bên cạnh đó các loại ưu đãi lãi suất khác cho các doanh nghiệp Nhà nước, cho vay giảm 15% đối với vùng II và giảm 30% lãi suất cho vay cùng III cần được tập trung vào Ngân hàng chính sách xã hội. Được biết cho đến nay, việc cho vay giảm lãi suất đối với vùng II và vùng III vẫn còn nhiều vướng mắc nên chưa bàn giao được cho Ngân hàng chính sách xã hội, vì với dư nợ hiện hành của khoản cho vay này lên tới khoảng 7.000 tỷ đổng, nếu bàn giao thì vốn Ngân sách Nhà nước phải chuyên trả số tương ứng đó cho NHNo & PTNT Việt nam. Rõ ràng là Ngân sách khó mà cân đối được số vốn lớn đó để chuyên trả; đồng thời nếu NHNo & PTNT Việt nam tiếp tục làm đại lý giải ngân cho vay loại ưu đãi này thì phải tính thoả đáng phí giải ngân,... Song vì mục tiêu hoàn thiện cơ chế lãi suất thoả thuận, thì khoản cho vay này cần sớm dứt khoát phải tách ra khỏi NHNo & PTNT Việt Nam. Tạm thời Ngân hàng chính sách xã hội trả lãi hàng thánh số vốn 7000 tỷ đồng đó cho NHNo & PTNT Việt Nam theo lãi suất bình quân đầu vào của hệ thống ngân hàng đó. c. Thứ ba: Tự do hoá hoàn toàn lãi suấtcho vay bằng đồng Việt Nam gắn với việc hoàn thiện các loại lãi suất của NHTW, gồm: Lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất áp dụng trong nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc,... Như vậy đã hoàn tất quá trình tự do hoá lãi suất. Lãi suất được hình thành hoàn toàn dựa trên quan hệ cung - cầu về vốn tín dụng trên thị trường. Khi đó, thị trường tiền tệ hoạt động thường xuyên và thông suốt hơn, với sự vận hành đầy đủ và có hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở trên thị trường liên ngân hàng, cho vay tái chiết khấu và tái cấp vốn,... Thị trường chứng khoán cũng sẽ phát triển lên một giai đoạn mới. Song để đạt được mục tiêu cuối cùng đó, trước hết cần lựa chọn các lãi suất của NHNN làm khung lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất điều tiết thị trường theo mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ làm cơ sở tham khảo. Theo chúng tôi, nên nghiên cứu có thể lựa chọn lãi suất sàn cảu thị trường liên ngân hàng. Khi hệ thống thanh toán và thị trường tiền tệ phát triển thì lãi suất tiền gửi tại NHNN có thể là lãi suất sàn. Theo đó, lãi suất thị trường mở sẽ là lãi suất điều tiết thị trường của NHNN, hình thành trong các phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở. Thông qua việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, NHNN thường xuyên điều tiết tác động đến vốn khả dụng của các TCTD và lãi suất thị trường. 3.3.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của tổ chức tín dụng Các tổ chức tín dụng của Việt Nam thực hiện cơ chế quản trị và điều hành lãi suất trong hệ thống của mình không hoàn toàn giống nhau. NHNo & PTNT hàng tháng công bố lãi suất điều hoà vốn trong hệ thống của mình (lãi suất chi nhánh thừa chuyển cho trung tâm điều hành và ngược lại, chi nhánh thiếu phải nhận vốn của Trung tâm điều hành). Trên cơ sở đó, giám đốc chi nhánh hoàn toàn chủ động thực hiện lãi suất cho vay và quy định lãi suất huy động vốn tại chi nhánh. Ngân hàng công thương Việt Nam thì tính trả lãi suất cho chi nhánh thừa vốn trên cơ sở lãi suất huy động vốn bình quân của đơn vị cộng với một khoản chi phí hợp lý. Ngân hàng Ngoại thương thì tính lãi suất tiền gửi cho các chi nhánh gửi tại mình. Sự khác nhau nói trên là do tính đặc thù của từng hệ thống TCTD, chúng tôi xin đưa ra giải pháp hoàn thiện tiếp theo: a. Quản trị và điều hành lãi suất của mỗi TCTD phải đảm bảo tính thống nhất trong toàn hệ thống, từ hội sở chính đến các chi nhanh của mình. Lãi suất huy động vốn và cho vay được quy định thống nhất và linh hoạt từng ngày trên cơ sở diễn biến vốn khả dụng, sự thay đổi của thị trường tiền tệ, dự thay đổi của thị trường tiền tệ, vận dụng lãi suất của NHNN công bố, lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế, dự đoán nhu cầu cho vay và khả năng thu hút tiền gửi,… b. TCTD cần thành lập một bộ phận chuyên theo dõi, nghiên cứu và đề xuất về lãi suất. Chức năng này cũng có thể giao cho bộ phận quản lý vốn khả dụng. Bộ phận này có một quyền năng đặc biệt, hàng ngày làm iệc trực tiếp với Tổng giám đốc, hoặc Phó Tổng giám đốc phụ trách, để luôn có quyết sách kịp thời. c. TCTD cần xác định lãi suất điều hoà vốn nội bộ. Đồng thời giao cho giám đốc chi nhánh một phạm vi tự chủ nhất định trong một biên độ cho phép, linh hoạt lãi suất tiền gửi không kỳ hạn với số lượng lớn, tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Chủ động quyết định lãi suất cho vay cụ thể đối với các khách hàng tốt nhất trong phạm vi hạn mức tín dụng được quyền phán quyết. ở nước ta, để nâng cao năng lực cạnh tranh, thời gian qua các NHTM đã chú trọng mở rộng mạng lưới; thành lập thêm chi nhánh ở các khu vực tiềm năng. Chỉ riêng ở TP. Hồ Chí Minh trong năm 2002 và có 6 tháng đầu năm 2003, các NHTM đã mở thêm 30 chi nhánh trực thuộc, ở Hà Nội có thêm khoảng 10 chi nhánh. Đồng thời các NHTM đẩy mạnh trạng bị cơ sở giao dịch khang trang và hiện đại; đa dạng hoá dịch vụ, nhất là mở tài khoản cá nhân, làm dịch vụ chi trả lương qua ngân hàng, dịch vụ thẻ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, tăng thêm giờ giao dịch buổi trưa, cuối ngày, làm thêm ngày lễ và ngày thứ 7, tăng cường tuyên truyền và quảng cáo theo thông lệ quốc tế, làm cải thiện bộ mặt và tăng danh tiếng của ngân hàng, khuyến mại khách hàng,… Đây là xu hướng hợp quy luật và hợp với tình hình chung, tuy rằng hiệu quả chưa nhiều, cần kiên trì và điều chỉnh kỹ năng cho sâu sắc để đạt hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, bài học được giới thiệu hàng quốc tế rút ra là phải thiết lập hàng rào kiểm soát, che chắn rủi ro, thực hiện nghiêm các quy chế và quy trình nghiệp vụ, triệt để tiết kiệm chi phí hành chính giảm thiểu những cuộc họp hành kém hiệu quả, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Về lâu về dài, các NHTM cần có chiến lược thực hiện có bài bản và khoa học hơn ngiệp vụ quản trị điều hành vốn khả dụng và lãi suất. NHNN cũng cần nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác thanh tra về lãi suất. Đồng thời phát huy vai trò hiệp hội Ngân hàng trong hợp tác về lãi suất, cho vay, huy động vốn giữa các NHTM. 3.3.3. Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ Chúng ta không thể hoàn thiện được cơ chế lãi suất cơ bản cũng như chuyển sang cơ chế tự do hoá hoàn toàn lãi suất, nếu như thị trường tiền tệ kém phát triển. Nhìn nhận lại thực tế có thể thấy, mặc dù thị trường tiền tệ của Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng các bộ phận cấu thành của thị trường cũng đã hình thành ở mức độ nhất định. Đó là thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, nơi thực hiện vay mượn, điều tiết vốn lẫn nhau giữa các NHTM. Hoạt động cho vay của NHTM dưới các hình thức tái cấp vốn…; hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ SWAP, hoạt động mua bán lại các loại giấy tờ có giá ngắn hạn nhằm mục đích điều tiết, cung ứng vốn khả dụng ngắn hạn nội tệ - Đồng Việt Nam (VND) cho các ngân hàng. Song cũng không thể phủ nhận, tình trạng có tới hàng chục loại lãi suất cho vay chênh lệch nhau rất lớn trong một biên độ rộng từ 0,68%/tháng đến 1,3%/tháng giữa các NHTM, tình trạng lãi suất cơ bản của NHTM giờ đây ít có tác động đến lãi suất cho vay không tăng thậm chí lại giảm,… Tình trạng cạnh tranh đó có nguyên nhân chính la thị trường tiền tệ còn quá yếu kém. Các giải pháp cụ thể phát triển thị trường tiền tệ được đề xuất như sau: a. Trước hết, NHNN cần thực hiện ngay các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất thoả thuận. Nếu vẫn duy trì việc công bố lãi suất cơ bản như nêu trên, thì cần phải tính toán lãi suất này cho sát với thực tế cho vay của các TCTD. b. Thứ hai là cần phải phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở của thị trường tiền tệ; đồng thời NHTW phải làm tốt vai trò là người mua bán cuối cùng với mục đích can thiệp trên thị trường này. Về phía các NHTM để chủ động tham gia thị trường tiền tệ, cần phải thành tập một bộ phận quản lý thanh toán và nguồn vốn, có một vị trí đặc biệt. Bộ phận này luôn tính toán để đủ số vốn dự phòng cần thiết, bảo đảm khả năng thanh toán cho tất cả các chi nhanh trong toàn quốc tại mọi thời điểm. Cần phải đa dạng hoá nguồn vốn của từng chi nhánh thông qua các nguồn có thể vay hay cho vay, các kỳ hạn, các loại đồng tiền và các công cụ chuyển đổi vốn. c. Thứ ba là, để tăng cường phạm vị, hiệu quả điều tiết, thị trường tiền tệ của NHNN, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế, cần phải đẩy mạnh quá trình chuyển đổi, điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, công cụ của thị trường tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKT27.DOC