Tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Lời nói đầu -Tín dụng được hiểu theo nghĩa đơn giản đó là mối quan hệ vay mượn, nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. - Mục đích của bài viết là mong một phần làm sáng tỏ, nêu bật nên được tầm quan trọng của quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thị trường nói chung và đặc biệt là quan hệ tín dụng trong nền kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng thông qua việc phân tích bản chất , chức năng, vai trò cũng như các hình thức tồn tại của quan hệ tín dụng , đồng thời có đặt nó trong điều kiện cụ thể của nước ta -một nước đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đề tài: Tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Mục lục: Phần1: Lời nói đầu Phần 2: Nội dung chính I, Bản chất của quan hệ tín dụng: 1, Bản chất và chức năng của quan hệ tín dụng 2,Các chức năng của tín dụng II,Vai trò và các hình thức của tín dụng trong nền kinh tế thị trường địnhhướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1,Vai trò của tín dụng 2 , Các hình thức của tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa III, Thực trạng ,quan điểm và những giải pháp đổi mới quan hệ tín dụng ở Việt Nam 5 1,Tín dụng ngân hàng 2, Tín dụng Nhà Nước 3, Tín dụng tập thể IV, Quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh phát triển thị trường tín dụng 1, Về quan điểm 2, Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển thị trường tín dụng Phần 3: Kết luận

doc31 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1563 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh cùng với các doanh nghiệp Nhà nước khác; tăng cường công tác thanh tra, giám sát từ xa và công tác kiểm toán nội bộ trên cơ sở hiện đại hoá hệ thống thông tin, chế độ báo cáo thống kê. + Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng trên cơ sở thực hiện chiến lược đầu tư phát triển công nghệ của toàn hệ thống ngân hàng. Công việc hiện đại hoá sẽ đi cùng với việc xây dựng chuyển đổi hệ thống kế toán hiện nay để tiến hành áp dụng các tiêu chuẩn kế toán quốc tế và kiểm toán quốc tế vừa làm cơ sở để chuyển giao công nghệ hiện đại vừa tạo điều kiện áp dụng các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. + Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ quản lý và các viên chức ngân hàng có trình độ cao thích ứng với yêu cầu ngày càng tăng của thị trường. - Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Trong chủ trương và chương trình củng cố, lành mạnh hoá các ngân hàng giai đoạn sắp tới, số lượng các ngân hàng này sẽ giảm xuống chỉ còn một nửa. Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị điều hành của các ngân hàng thương mại cổ phần, lành mạnh hoá tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần trên cơ sở cơ cấu lại nợ quá hạn, tiến hành các biện pháp giám sát đặc biệt đối các ngân hàng có tình trạng nợ xấu nghiêm trọng. Các giải pháp cụ thể cho các ngân hàng thương mại cổ phần bao gồm: + Yêu cầu tăng vốn điều lệ nhằm tăng quy mô hoạt động và chất lượng tín dụng của các ngân hàng này. Bên cạnh đó, đặc biệt coi trọng vấn đề tái cơ cấu tổ chức và các chuẩn mực quản lý đối với các ngân hàng thương mại cổ phần đặc biệt là các cơ quan quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ - tài sản có, giám sát và kiểm toàn nội bộ, quản lý vốn và đầu tư. + Tiến hành giải thể và sát nhập các ngân hàng yếu kém, mất khả năng thanh toán, chất lượng tín dụng thấp, khả năng sinh lời thấp và trình độ quản lý không đảm bảo yêu cầu an toàn và phát triển. + Tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại cổ phần hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đào tạo và nâng cao trình độ quản lý, tham gia có hiệu quả vào thị trường tiền tệ thứ cấp, nghiệp vụ tái cấp vốn và hệ thống thanh toán của ngân hàng Nhà nước. 2, Tín dụng Nhà Nước: a, Thực trạng : _Tín dụng Nhà nước là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế trong nước, giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư, giữa Nhà nước với chính phủ các nước khác... Hình thức này được thực hiện thông qua việc Nhà nước phát hành công trái bằng thóc, bằng vàng, bằng tiền để vay dân khi ngân sách Nhà nước thiếu hụt. _Năm 2003 thực hiện chủ trương của Chính phủ, Bộ Tài chính đã phát hành nhiều loại trái phiếu chính phủ thông qua kho bạc Nhà Nước (KBNN), đã huy động được 26.500 tỷ đồng ( trong đó: tín phiếu kho bạc Nhà nước để bù đáp bội chi ngân sách Nhà nước : 16.000 tỷ đồng; công trái giáo dục: 2.500 tỷ đồng; Trái phiếu để huy động vốn đầu tư theo kế hoạch ngân sách: 3.000 tỷ đồng; Trái phiếu các công trình giao thông, thuỷ lợi quan trọng của đất nước: 5.000 tỷ đồng ) và Quỹ hỗ trợ phát triển ( Quỹ HTPT) đã huy động được gần 5.600 tỷ đồng (đảm bảo nguồn vốn vay cho đầu tư phát triển và thực hiện các mục tiêu quan trọng của đất nước. Nhìn chung trái phiếu Chính phủ phát hành hiện nay có rất nhiều ưu điểm và lợi thế so với các loại trái phiếu xây dựng Tổ Quốc đã phát hành trong những năm vừa qua. _Về trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho các công trình giao thông, thuỷ lợi được phát hành trong năm 2003 đồng thời bằng cả nội tệ và ngoại tệ , nhằm mở rộng phạm vi thu hút các nguồn nội lực, kể cả kiều hối và ngọai tệ của các tổ chức kinh tế đang tạm thời gửi ở nước ngoài với lãi suất rất thấp và không ổn định. Về kỳ hạn trái phiếu, có hai loại chủ yếu là 5 năm và 10 năm, đồng thời Chính phủ cho phép Bộ Tài chính lựa chọn các loại kỳ hạn ngắn hơn và dài hơn để đảm baỏ huy động thuận lợi, phù hợp với tình hình của thị trường vốn. Về lãi suất trái phiếu, phải tôn trọng quy luật khách quan của thị trường , theo đó các loại trái phiếu phát hành dưới hình thức đấu thầu hoặc bảo lãnh, lãi suất trái phiếu được hình thành trong quan hệ cung cầu của từng phiên hoặc từng đợt phát hành. Đối với trái phiếu phát hành qua hệ thống kho bạc Nhà nước, lãi suất bao giờ cũng được quy định thấp hơn hoặc tương đương với lãi suất huy động vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Nhà nước. Về đối tượng mua trái phiếu: có sự phân biệt đáng kể giữa hai hình thức bán buôn và bán lẻ. Đối với trái phiếu phát hành dưới hình thức đấu thầu và bảo lãnh ( bán buôn ), đối tượng mua trái phiếu chỉ trong phạm vi các tổ chức tài chính-tín dụng đã được cấp phép là thành viên của thị trường đấu thầu và bảo lãnh trái phiếu, hiện nay có tất cả 32 đơn vị là thành viên chính thức gồm 14 ngân hàng thương mại , 9 công ty chứng khoán, 8 công ty bảo hiểm và Quỹ đầu tư phát triển đô thị TP. Hồ Chí Minh. Điểm mới trong cấu trúc đấu thầu trái phiếu chính phủ lần này là các cá nhân và tổ chức không phải là thành viên của thị trường nhưng vẫn được tham gia đấu thầu gián tiếp dưới hình thức hùn vốn và phân phối khối lượng trái phiếu trúng thầu qua một đơn vị thành viên chính thức. Đồng thời được phân chia một phần phí đấu thầu trái phiếu bằng 0,05 % tính trên khối lượng trái phiếu trúng thầu được phân phối. Việc quy định nộp tiền ký quỹ 0,5% tính trên khối lượng đặt thầu cũng đã được xoá bỏ. Những quy định mới này tạo nên sức hấp dẫn để các tổ chức tín dụng vừa và nhỏ có thể tham gia đấu thầu và phân phối trái phiếu. Với những giải pháp nói trên, hy vọng thị trường đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ trong thời gian tới hoạt động hiệu quả và sôi động hơn. Đối với trái phiếu phát hành qua hệ thống Kho bạc Nhà nước ( bán lẻ ), đối tượng mua trái phiếu được mở rộng tới tất cả các cá nhân, đơn vị cơ quan và các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế ( trừ các thành viên của thị trường đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu ), điều này sẽ tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội có cơ hội đầu tư vào trái phiếu Chính phủ- một công cụ nợ có độ tin cậy cao nhất. _Ngoài ra, trong năm 2003 chính phủ còn phát hành công trái giáo dục-một chính sách có ý nghĩa lớn về xã hội, ưu việt cao về kinh tế. Mục đích của đợt phát hành công trái lần này là kêu gọi các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp lớn dành một phần vốn cùng Nhà nước đầu tư cho các tỉnh miền núi, Tây Nguyên và các tỉnh có nhiều khó khăn để thực hiện mục tiêu không còn phòng học 3 ca, không còn phòng học tranh tre, nứa lá, kiên cố hoá trường học.Nói gọn lại, công trái giáo dục góp phần đáng kể để phát triển sự nghiệp giáo dục - một quốc sách mà nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 đã đề ra, tạo cho con em chúng ta ở những vùng khó khăn có điều kiện học tập tốt hơn hiện nay. Bên cạnh mục đích và ý nghĩa hết sức thiết thực như vậy,đợt phát hành công trái còn là một hình thức huy động vốn, do vậy cần phải có những yếu tố hấp dẫn người mua, một trong những yếu tố đó là đa dạng hoá các hình thức và mệnh giá công trái. Công trái được phát hành dưới hai hình thức: thứ nhất là công trái không ghi tên, in trước mệnh giá, có 11 loại mệnh giá khác nhau, từ thấp nhất là 50 ngàn đồng đến cao nhất là100 triệu đồng ; thứ hai là công trái có ghi tên, không in trước mệnh giá. Công trái có ghi tên chỉ sử dụng đối với các trường hợp cá nhân, tổ chức mua công trái có giá trị tối thiểu là 50 triệu đồng và giá trị tối đa là 10 tỷ đồng. Việc đa dạng hoá các hình thức và mệnh giá công trái như trên chắc chắn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong việc lựa trọn hình thức mua công trái phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của mình. Về nguyên tắc, việc mua công trái là hoàn toàn tự nguyện trên cơ sở ích nước lợi nhà, tiền mua công trái đựơc Nhà nước đảm bảo giá trị và thực sự có lãi. Theo nguyên tắc này, lãi suất quy định cho đợt phát hành này là 8% / năm ( bao gồm mức trượt giá và tỷ lệ lãi suất 1,5%/năm ) và lãi suất tính cho 5 năm là 40%. Trường hợp mức trượt giá thực tế trong 5 năm cộng lãi suất 5 năm ( 1,5%/năm*5 =7,5%) lớn hơn 40% thì người sở hữu công trái sẽ được Nhà nước bù chênh lệch; trường hợp ngược lại, thấp hơn 40% thì người chủ sở hữu công trái vẫn được hưởng lãi suất 40% như ghi trên phiếu công trái đã phát hành. Với độ rủi ro thấp, lãi suất được xác định phù hợp với tỷ lệ trượt giá thực tếvà không phải nộp thuế thu nhập đối với tiền lãi nhận được, công trái giáo dục là một hình thức đâù tư an toàn và khá hiệu quả so với các công cụ đầu tư khác hiện nay. Còn về việc than h toán tiền gốc và tiền lãi công trái do hệ thống Kho bạc Nhà nước thực hiện theo nguyên tắc: Tiền gốc được thanh toán 1 lần khi đến hạn (60 tháng ).Trường hợp đến hạn mà chủ sở hữu chưa đến thanh toán, Kho bac Nhà nước bảo lưu cả gốc và lãi công trái trên một tài khoản riêng và không tính lãi trong thời gian quá hạn thanh toán. Trường hợp chủ sở hữu có khó khăn đặc biệt hoặc rủi ro bất khả kháng ( như thiên tai, hoả hoạn...) được cấp chủ quản, cơ quan quản lý trực tiếp hoặc chính quyền địa phương xác nhận, Kho bạc Nhà nước sẽ giải quyết thanh toán trước thời hạn; Tiền lãi công trái được thanh toán một lần khi đến hạn cùng tiền gốc. Trường hợp thanh toán trước hạn, lãi suất được tính như sau: Nếu thời gian mau công trái chưa đủ 12 thì không được hưởng lãi; Nếu thời gian mua công trái từ đủ 12 tháng đến dưới 24 tháng thì được hưởng lãi là 8%; Nếu thời gian mua công trái từ đủ 24 tháng đến dưới 36 tháng thì được hưởng lãi là 16%; Nếu thời gian mua công trái từ đủ 36 tháng đến dưới 48 tháng thì được hưởng lãi là 24%; Nếu thời gian mua công trái từ đủ 48 tháng đến dưới 60 tháng thì được hưởng lãi là 32%. Cách thức thanh toán rất linh hoạt và thuận lợi cho người sở hữu công trái. Đối với công trái không ghi tên , khi đến hạn sẽ được thanh toán tại bất kỳ Kho bạc nào trên cả nước. Riêng đối với công trái có ghi tên và công trái thanh toán trước hạn thì sẽ được thanh toán tại Kho bạc Nhà nước nơi phát hành. _Ngoài ra, trong năm 2003 Bộ Tài chính còn cho phép chính quyền các địa phương và các doanh nghiệp Nhà nước phát hành trái phiếu để huy động vốn đầu tư, như TP Hồ Chí Minh phát hành 2.000 tỷ đồng trái phiếu đô thị cho các dự án hạ tầng quan trọng thiết yếu của thành phố; Tổng công ty dầu khí phát hành 300 tỷ đồng trái phiếu dầu khí để bổ sung vốn triển khai một số dự án lớn của ngành. _Với kết quả như vậy, trong năm qua thị trường trái phiếu Chính phủ đã có bước phát triển tích cực, khối lượng phát hành tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2002 và đạt mức 3% GDP (không kể tín phiếu).Hơn nữa, trái phiếu Chính phủ đã trở thành nguồn cung ứng hàng hoá quan trọng cho thị trường vốn, trong đó riêng thị trường chứng khoán tập trung, trái phiếu Chính phủ chiếm gần 90% giá trị chứng khoán niêm yết trên thị trường (11.000 tỷ đồng/12.277 tỷ đồng); giá trị giao dịch trái phiếu đạt 2.300 tỷ đồng, bằng 85% tổng giá trị giao dịch của thị trường. Thông qua phát hành trái phiếu đã huy động được một lượng vốn khá lớn và được sử dụng cho các mục tiêu kinh tế- xã hội quan trọng, các công trình thiết yếu của nền kinh tế, như hệ thống giao thông ( Đường Hồ Chí Minh giai đoạn 2, Quốc lộ 6, hệ thống Quốc lộ 4...), các công trình thuỷ lợi lớn ( nhà máy thuỷ điện Sơn La, Na Hang), kiên cố hoá trường học, xoá lớp học 3 ca, tranh tre, nứa lá... b, Hạn chế: _Kể từ năm 2000, một phương thức phát hành mới hiện đại, phát hành trái phiếu Chính phủ thông qua thị trường chứng khoán ( TTGDCK ), đồng thời cũng là kênh phát hành trái phiếu trung và dài hạn chủ yếu của trái phiếu Chính phủ đối với nhiều nước có thị trường vốn phát triển trên thế giới đã được hình thành ở Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, việc huy động trái phiếu Chính phủ thông qua TTGDCK vẫn chưa phát huy được tác dụng thực sự của mình. Lượng huy động thông qua đấu thầu và bảo lãnh phát hành còn quá khiêm tốn so với phát hành trái phiếu Chính phủ qua các kênh khác. Nói cách khác, kênh huy động thông qua hệ thống các chi nhánh Kho bạc được đánh giá là không không hiện đại và không hiệu quả thì lại vẫn giữ vai trò chủ đạo, trong khi TTGDCK với một cơ sở hạ tầng tương đối đầy đủ và với sự góp mặt của các trung gian tài chính chủ yếu trên thị trường thì lại chưa thực sự vươn lên và chiếm được vị trí then chốt của mình. _ Đa số các loại trái phiếu Chính phủ phát hành đều có thời hạn tương đối dài, với thời hạn tối thiểu là 5 năm và tối đa lên tới 15 năm ( trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển). Để trái phiếu này phát hành thành công trên thị trường chứng khoán thì cần phải có một thị trường thứ cấp cho các hoạt động giao dịch của trái phiếu này. Tuy nhiên, TTGDCK lại không phải là một địa điểm lý tưởng để tiến hành các giao dịch trái phiếu do các quy định chặt chẽ về lượng giao dịch, giá đặt mua, đặt bán và khớp giá. Đồng thời, việc phát hành trái phiếu Chính phủ có thời hạn tương đối dài cũng gây ra một số tác dụng tiêu cực khác. Tuy đã có nhiều cải tiến trong phương thức thanh toán, nhưng trái phiếu Chính phủ vẫn chưa thể sánh với các hình thức tín dụng khác trong nền kinh tế. Mọi nhà kinh tế đều quan niệm rằng đồng tiền ngày hôm nay có giá trị hơn so với đồng tiền ngày mai, do đó sự cứng nhắc trong khả năng thanh toán sẽ kém thu hút sự đầu tư. _Cơ chế xếp hạng tín nhiệm và phân thứ hạng phát hành cho đến nay vẫn chưa tồn tại ở Việt Nam. Điều này ảnh hưởng đặc biệt tiêu cực đến khả năng phát hành trái phiếu Chính phủ do nhà đầu tư luôn mong muốn thu được lợi nhuận cao nhất. Trong điều kiện rủi ro gần như không có thì rõ ràng lãi suất của trái phiếu Chính phủ sẽ trở nên kém hấp dẫn. Nguyên nhân của sự bất cập này có lẽ một phần là do tình trạng còn tương đối bao biện của Chính phủ. Một khi còn có thể dựa vào các nguồn vốn ưu đãi khác thì chắc chắn các doanh nghiệp sẽ còn chưa muốn tự mình tìm kiếm nguồn huy động vốn qua phát hành trái phiếu. Một khi vốn còn được tiếp tục bơm vào các doanh nghiệp này sẽ còn chưa muốn ra công khai và phát hành trái phiếu của mình . _ Tình trạng lịch phát hành chồng chéo giữa các chủ thể phát hành ( Kho bạc Nhà nước và Quỹ hỗ trợ phát triển ) vẫn còn tồn tại khiến cho hiệu quả vốn chưa cao. Cơ chế phối hợp hoạt động không rõ ràng và chặt chẽ giữa chủ thể phát hành ( Bộ Tài chính ) với cơ quan như Bộ kế hoạch đầu tư, ngân hàng Nhà nước,cơ quan quản lý thị trường...trong xây dựng kế hoạch phát hành cũng đã hạn chế đáng kể khả năng thành công trong phát hành trái phiếu chính phủ. c, Giải pháp: Để hoàn thành mục tiêu huy động vốn đã đề ra , trong thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau: _Thứ nhất, đa dạng hoá các chủ thể phát hành trái phiếu chính phủ; gắn trách nhiệm của chủ thể phát hành với trách nhiệm quản lý, sử dụng và thanh toán trái phiếu khi đến hạn. KBNN thực hiện phát hành trái phiếu để huy động vốn đầu tư các công trình thuộc phạm vi cân đối của NSNN; Quỹ HTPT phát hành trái phiếu huy động vốn cho tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; các tổ chức tài chính, tín dụng được uỷ quyền phát hành trái phiếu cho các công trình theo mục tiêu chỉ định của chính phủ; doanh nghiệp trực tiếp phát hành trái phiếu đựoc chính phủ bảo lãnh. _Thứ hai, tiếp tục mở rộng quyền hạn cho chính quyền các địa phương,các DNNN trong việc phát hành trái phiếu để huy động theo nguyên tắc tự vay, tự trả, phù hợp với quy định của luật NSNN và đảm bảo khả năng kiểm soát của Nhà nước. _Thứ ba, nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hoá phát hành trái phiếu trên toàn thị trường kết hợp với kế hoạch phát hành của từng chủ thể hàng năm. Cải tiến cơ chế phát hành và thanh toán trái phiếu chính phủ theo hướng giảm dần khối lượng bán lẻ, tăng khối lượng bán buôn; mở rộng việc phát hành trái phiếu thông qua thị trường chứng khoán tập trung dưới hình thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành. _Thứ tư, thống nhất các chuẩn mực về phát hành và thanh toán của các chủ thể phát hành và các loại trái phiếu ( phương thức phát hành, hình thức, mệnh giá, lưu ký , niêm yết, giao dịch...) để đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường trái phiếu trong nứơc, phù hợp với các tiêu chuẩn của thị trường chứng khoán và thông lệ quốc tế. _Thứ năm, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán; nâng cao hệ thống cơ sở vật chất và thanh toán, bù trừ chứng khoán. Phát triển mạnh hệ thống công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư, các quỹ đầu tư chứng khoán và các định chế tài chính trung gian khác để tạo cầu nối trong việc phát triển của thị trường trai phiếu. _Thứ sáu, mở rộng đối tượng tham gia mua trái phiếu theo từng phương thức phát hành tới mức tối đa; áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức. Hơn nữa, để thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, Bộ tài chính cần ban hành đồng bộ hệ thống các văn bản hướng dân Nghị định số 141/2003/NĐ-CP ngay từ các tháng đầu năm 2004; Xây dựng và công bố kế hoạch phát hành cụ thể cho từng kênh; phối hợp đồng bộ giữa các kênh huy động vốn của Nhà nước, thực hiện cơ chế điều hành thống nhất,linh hoạt bám sát diễn biến lãi suất trên thị trường; Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan để hoàn thiện khung pháp lý về nghiệp vụ phát hành; Đẩy mạnh tiến độ giải ngân, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu chính phủ, kiên quyết không để xảy ra tình trạng lãng phí, tiêu cực làm thất thoát tiền, tài sản của Nhà nước và của nhân dân. 3, Tín dụng nhân dân: Như đã nói ở trên tín dụng nhân dân là hình thức có vai trò bổ sung cho tín dụng ngân hàng về huy động và cho vay chủ yếu ở nông thôn. Nên thị trường chủ yếu của hệ thống tín dụng nhân dân là kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân. a,Thực trạng: Thực hiện chủ trương xây dựng thí điểm mô hình quỹ tín dụng nhân dân theo Quyết định số 390 TTg ngày 27-7-1993 của thủ tướng chính phủ, đến 31-12-2000, cả nước có 959 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở từ cấp xã, phường trên địa bàn 53/61 tỉnh, thành phố.Với nguyên tắc tự nguyện, tự chủ , tự chịu trách nhiệm, các quỹ đã kết nạp được 767 ngàn thành viên chủ yếu là các hộ gia đình ở nông thôn, nhằm huy động và cho vay vốn trên địa bàn xã phường là chủ yếu. Đến nay, các quỹ đã có nguồn vốn hoạt động đạt 2678 tỉ đồng, trong đó nguồn vốn huy động đạt 1723 tỉ đồng chiếm tỷ trọng 63,9% so với tổng số nguồn vốn hoạt động ( vốn điều lệ có 173,926 tỉ đồng). Tạo được nguồn vốn các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đã không ngừng mở rộng cho vay.Hiệu quả hoạt động có thể đánh giá khát quát trên một số mặt dưới đây: _Thủ tục đơn giản,huy động vốn và cho vay những món nhỏ phù hợp với kinh tế hộ gia đình ở nông thôn. Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn nước ta hiện nay có đời sống khá hơn so với trước, nhưng phần lớn thu nhập vẫn còn thấp, chỉ đủ tiêu dùng và chưa có tích luỹ lớn. Những hộ dành giụm được chút vốn cũng ngại mang đến gửi ngân hàng; hoặc có những hộ cần vài ba trăm ngàn đồng để mua con giống hoặc phân bón cũng ngại đi vay ngân hàng, vì vay ngoài tuy lãi suất cao nhưng nhanh chóng, thủ tục đơn giản, đỡ phiền hà. Các quỹ tín dụng nhân dân ra đời làm chức năng huy động và cho vay vốn tại chỗ là rất phù hợp. Đến nay mô hình này đang hoạt động và ngày càng có hiệu quả. Tổng số dư nợ cho vay là 2345,059 tỉ đồng và 711769 lượt thành viên được vay vốn ; dư nợ bình quân một quỹ cho vay là 2,454 tỉ đồng. Nhiều tỉnh có số quỹ hoạt khá như Hà Tây: 75 quỹ, Thái Bình :78 quỹ , Hải Dương :74 quỹ... Nhiều quỹ tín dụng nhân cơ sở, do tổ chức quản lý tốt nên đã kết nạp được nhiều thành viên, doanh số huy động vốn và cho vay ngày càng tăng. Cùng với các nguồn vốn khác ,các quỹ tín dụng nhân dân đã giúp hàng triệu hộ nông dân ở khắp các nơi trong cả nước chủ động sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật nuôi, góp phần tạo thêm việc làm cho hàng vạn lao động ở nông thôn và có nhiều mô hình tổ chức quản lý giỏi. Số thành viên tham dự quỹ tín dụng nhân dân ngày càng tăng : Thái Bình có 61099 thành viên (bình quân 782 thành viên/ quỹ), Hà Tây có 52035 thành viên (bình quân 693 thành viên/quỹ) , An Giang có 74029 thành viên (bình quân 2874 thành viên/quỹ).Quỹ tín dụng nhân dân ở nhiều tỉnh đã khai thác được tiềm năng trong nhân dân, huy động vốn khá: Hà Tây đạt 197 tỉ đồng , Kiên Giang 235 tỉ đồng ,An Giang 221 tỉ đồng. Các quỹ tín dụng nhân dân có nhiều giải pháp linh hoạt như cải tiến thủ tục gửi tiền, lĩnh tiền gọn nhẹ, nhận tiền gửi cả những khoản nhỏ, làm việc ngoài giờ, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con nông dân khi giao dịch. Qua thực tiễn ở Thái Bình cho thấy không có tổ chức tín dụng nào của Nhà Nước "bán lẻ" tốt hơn các quỹ tín dụng nhân dân; ưu thế của các quỹ tín dụng nhân dân là cho vay vốn nhanh hơn, kịp thời, ít thủ rục rườm rà, phù hợp với tâm lý người nông dân. Trong thị trường tài chính, tiền tệ ở nước ta hiện nay, nhất là ở những vùng kinh tế hàng hoá phát triển, có rất nhiều các tổ chức tín dụng hoạt động và có nhiều nguồn vốn của Nhà Nước đầu tư. Họ cạnh tranh nhau từng khách hàng để huy động từng đồng vốn cho vay. Các quỹ tín dụng nhân dân ra đời tưởng như không trụ nổi, nhưng sau thời gian hoạt động, phần lớn các quỹ đã có lãi , bảo toàn được vốn và tỷ lệ nợ quá hạn thấp. Hà Tây có 11 quỹ không có nợ quá hạn. Qua tổng kết năm 2000 phần lớn các quỹ có thu nhập khá , mua sắm và xây dựng được trụ sở làm việc. Nhiều quỹ có số dư nguồn vốn và cho vay ngày càng tăng. Đáng chú ý là có quỹ huy động vốn không đủ để cho vay như ở xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức ( Hà Tây) do kinh tế hàng hoá phát triển , ngân hàng đáp ứng không đủ vốn người dân phải đi vay ngoài với lãi suất từ 2 đến 3% tháng. Tại Bắc Ninh ,các hộ làng nghề như đồ gỗ mỹ nghệ, sắt thép, nghề giấy... mở rộng kinh doanh, nên các quỹ tín dụng nhân dân không huy động đủ vốn để cho vay; Quỹ tín dụng nhân dân phải đi vay quỹ trung ương trên 500 triệu để tiếp vốn cho các quỹ cơ sở. Tại những địa phương có phòng giao dịch của các ngân hàng thương mại hoạt động, tưỏng như quỹ tín dụng nhân dân không thể hoạt đông nổi, nhưng thực tế cho thấy các quỹ vẫn phát triển tốt , ngày càng thu hút nhiều hộ thành viên nhất là các vùng nông thôn. Khách hàng đến với các quỹ tín dụng nhân dân là tự do , bình đẳng, gần gũi bởi quan hệ của họ là những người cùng họ tộc, cùng trong thôn xóm. Mặt khác, do không có sự chênh lệch lãi suất , kể cả về tiền gửi và tiền cho vay so với các ngân hàng , nên họ đến giao dịch với các ngân hàng thương mại hay quỹ tín dụng nhân dân là tự nguyện , cạnh tranh lành mạnh không có hiện tượng giành dật khách hàng của nhau. Điều đó đã làm cho nhân dân tin tưởng, không lo phải chờ đợi như những năm trước đây khi đến giao dịch với ngân hàng. Hơn nữa, các quỹ tín dụng nhân dân cho vay cả những món nhỏ, ít gặp những trường hợp lừa đảo. Người dân đến giao dịch với các quỹ được phục vụ tận tình chu đáo kể cả ngoài giờ hành chính. Hoạt động của các quỹ tín dụng nhân dân vừa bảo đảm được tình cảm xóm giềng,vừa tạo lập được uy tín với bà con nông dân bởi mang tính tương trợ, cộng đồng rõ rệt. Trên một địa bàn, các ngân hàng tập trung cho vay những số tiền lớn theo dự án, còn các quỹ tín dụng nhân dân phối hợp cho vay những món nhỏ đối với các hộ thành viên. Sự kết hợp này càng làm cho thị trường tài chính , tín dụng ở nông thôn càng thêm phong phú và hấp dẫn. _Vốn cho vay đã từng bước giúp các hộ nông dân chủ động trong sản xuất, tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống , tiếp cận với kinh tế thị trường và góp phần nâng cao hoạt động của các tổ chức đòan thể ở cơ sở. Nhờ có các quỹ tín dụng nhân dân, hộ nông dân đã chủ động được vốn để sản xuất mùa vụ,tính toán trồng cây gì, nuôi con gì và hạch toán chi phí lời lãi cụ thể hơn. Đối với những hộ sản xuất kihn doanh dich vụ, nhờ được vay vốn kịp thời của quỹ tín dụng nhân dân nên đã chủ động hơn trong việc chuẩn bị nguồn hàng kinh doanh phục vụ cho sản xuất và đời sống; nhất là ở những vùng kinh tế hàng hoá phát triển như ở An Giang, Kiên Giang, Hà Tây. Các tỉnh miền trung và Tây Nguyên như Quảng Trị, Lâm Đồng, những quỹ tín dụng nhân dân thí điểm đã có tác dụng rất lớn đối với kinh tế hộ gia đình ở nông thôn.Tỉnh Quảng Trị có 11 quỹ tín dụng nhân dân với 8247 hộ tham gia, nguồn vốn hoạt động là 22,479 tỷ đồng và dư nợ cho vay là 21,114 tỉ đồng. Có thể nói phương thức cho vay tín chấp là là chủ yếu của các quỹ tín dụng nhân dân rất thuận tiện cho bà con nông dân. Các hộ không phải lo ngại thủ tục rườm rà khi đi vay vốn. Nên có những hộ chuyển giao dịch từ ngân hàng thương mại về quỹ tín dụng nhân dân. Cán bộ của quỹ tín dụng nhân dân giải quyết cho vay vừa thông thoáng vừa bảo đảm các nguyên tắc cho vay và thu hồi được nợ. Nợ quá hạn có nơi, có lúc còn cao nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân khách quan như gặp thiên tai, dịch bệnh và người vay vốn luôn có ý thức trả nợ trong các giai đoạn sau. Do đó hàng triệu hộ nông dân đã tiếp cận được với cơ chế thị trường, đời sống từng bứơc được cải thiện. Tại xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất (Hà Tây),nghề sản xuất thép mở ra như một công trường thủ công; các lò luyện thép, cán thép được trang bị khá hiện đại. Cả xã có 46 ô tô vân tải chuyên chở nguyên liệu về cho sản xuất và hàng hoá đi tiêu thụ tạo thành một vòng khép kín. Do sản xuất phát triển nên nhu cầu vốn tăng mạnh, có những hộ vay vốn của quỹ tín dụng nhân dân đến 40 triệu đồng. Nguồn vốn của quỹ chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu vốn vay của nhân dân và quỹ tín dụng nhân dân xã phải thường xuyên đi vay vốn của quỹ tín dụng nhân dân khu vực tỉnh. Nhờ hệ thống quỹ tín dụng nhân dân phát triển nên đã giảm hẳn tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn... Qua tổng kết thí điểm đồng chí Giám đốc ngân hàng thương mại tỉnh Hà Tây cho biết : ở một số xã của huyện Phú Xuyên , trước đây có những hộ thường xuyên cho vay với lãi suất 2% đến 3% tháng, đến nay không những họ không cho vay được mà còn gửi vốn vào quỹ tín dụng nhân dân ở cơ sở. Vốn cho vay của các quỹ tín dụng nhân dân đã góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt của các đoàn thể như Hội nông dân, Hội phụ nữ, tạo ra sự gắn bó mật thiết giữa kinh tế hộ với vai trò của các đoàn thể trong xã hội. _Hiệu quả của mô hình tổ chức kinh tế hợp tác kiểu mới đang từng bước được khẳng định. Khi mới thành lập, hầu hết các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đều phải thuê, mướn trụ sở của xã để làm việc. Đến nay, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở trên toàn quốc hoạt động tốt, có tích luỹ và xây được trụ sở làm việc khang trang. Phần lớn các quỹ có phương tiện hoạt động cần thiết như két sắt, máy đếm tiền, điện thoại, xe máy...,có lịch thường trực để tiếp dân. Điều đó đã tạo niềm tin của nhân dân vào tổ chức mới này, nhất là ở vùng nông thôn khi kinh tế hàng hoá đang bắt đầu hình thành và phát triển.Thực tế cho thấy, các quỹ tín dụng nhân dân hoạt động có hiệu quả và đã thu hút được nhiều thành viên tham gia, chủ yếu là các hộ nông dân. Mặt khác, được sự chỉ đạo của cấp uỷ và chính quyền các cấp, nhiều quỹ tín dụng nhân dân hoạt động như một ngân hàng xã, khắc phục được những mặc cảm do sự đổ vỡ của hệ thống các hợp tác xã tín dụng trước đây và tạo đà phát triển cho những năm tới. Thực tiễn cũng đã chứng minh quỹ tín dụng nhân dân là một tổ chức hợp tác tự nguyện của những người lao động, tập hợp nhau lại để giúp nhau về vốn nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và cải thiện đời sống. Quỹ tín dụng nhân dân tồn tại và phát triển trên cơ sở sở hữu tập thể của những người lao động, nên thành viên vừa là đồng chủ sở hữu và cũng là khách hàng. Tại những nơi chưa có quỹ tín dụng nhân dân, việc huy động tiềm lực trong dân còn hạn chế; mặt khác, người dân phải mất thời gian đi xa mới có điểm giao dịch của các ngân hàng thương mại; hơn nữa, tệ nạn cho vay nặng lãi phát sinh và phát triển, người dân phải đi vay ngoài với lãi suất cao. Bên cạnh các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, cả nước còn có 21 quỹ tín dụng nhân dân khu vực ở các tỉnh với tổng nguồn vốn hoạt động là 547,516 tỉ đồng và 4339 thành viên , trong đó vốn huy động tiền gửi là 206,393 tỉ đồng , dư nợ cho vay là 464,945 tỉ đồng. Các quỹ tín dụng nhân dân khu vực đã chú ý khai thác nguồn vốn tại chỗ và bước đầu điều hoà vốn giưã các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho quỹ tín dụng nhân dân cơ sở thành viên.Quỹ tín dụng nhân dân trung ương với tổng số vốn hoạt động là 479,736 tỉ đồng , dư nợ cho vay là 375,029 tỉ đồng. Với vay trò là tổ chức đầu mối hệ thống, quỹ tín dụng nhân dân trung ương đã có nhiều cố gắng trong việc tranh thủ các nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng, nguồn vốn trong và ngoài nước để tăng năng lực tài chính cho cả hệ thống. Như vậy, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân đã hình thành mối liên hệ khép kín từ trung ương đến cơ sở và đang tạo đà cho tiến trình đổi mới kinh tế nông ngiệp, nông thôn nước ta. b,Những hạn chế: _Về khả năng kiểm soát, giám sát của chủ sở hữu . Bên cạnh những ưu điểm lợi thế đặc thù thì các quỹ tín dụng nhân dân lại có sẵn trong mình những điểm yếu nội tại về khả năng kiểm soát của chủ sở hữu. Mỗi quỹ tín dụng nhân dân có rất đông thành viên và thực nguyên tắc dân chủ, tức là mỗi thành viên chỉ có một quyền biểu quyết tại đại hội thành viên, không phụ thuộc vào vốn đóng góp của họ là nhiều hay ít. Việc mỗi thành viên không nên đóng góp quá nhiều vốn vào quỹ tín dụng nhân dân để nhằm tránh sự lệ thuộc của quỹ vào một số ít thành viên , có tác dụng tránh cho quỹ tín dụng nhân dân phải chịu sức ép chạy theo lợi nhuận tối đa, nhằm trả cổ tức cao nhất cho họ, nhưng mặt khác lại làm cho các thành viên, các đồng chủ sở hữu lại có ít động cơ hơn so với một ngân hàng cổ phần chẳng hạn trong việc kiểm soát, giám sát hoạt động của quỹ tín dụng.Ngoài ra khác với các loại hình tổ chức tín dụng khác, thành viên của các cơ quan , bộ máy quản lý, lãnh đạo, điều hành quỹ tín dụng nhân dân như hội đồng quản trị, ban kiểm soát , thành viên ban điều hành đều có quyền được vay tín dụng cho chính mình , do đó rất dễ có nguy cơ hệ thống giám sát, kiểm soát nội bộ của bản thân các quỹ tín dụng nhân dân không bảo đảm hoạt động có hiệu quả, nguy cơ quỹ tín dụng nhân dân bị lạm dụng cá nhân là khá cao, nếu không có một cơ chế kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán chặt chẽ và có hiệu quả. _Về vốn và quy mô hoạt động nhỏ. Với vốn tự có thường cấp , quy mô nhỏ trong khi vẫn phải đảm bảo những chi phí cố định, đảm bảo số lượng nhân sự tối thiểu thì mỗi quỹ tín dụng nhân dân đặc biệt thiệt thòi, gặp nhiều bất lợi trong hoạt động kinh doanh, nhất là trong một nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Địa bàn hoạt động của một quỹ tín dụng nhân dân thường bó hẹp trong một khu vực nhất định, kinh tế không đa dạng, tính thời vụ cao, khi thừa vốn thì cả địa bàn thừa và khi thiếu vốn thì cả địa bàn thiếu.Đó cũng là điểm bất lợi của các quỹ tín dụng nhân dân trong việc phát triển và tăng trưởng hoạt động của mình.Vốn ít và yếu, quy mô hoạt động hạn chế của quỹ tín dụng nhân dân sẽ thường kéo theo một loạt các bất lợi khác trong hoạt động nghiệp vụ của một tổ chức tín dụng như: hạn chế về đầu tư công nghệ, kỹ thuật hiện đại, khó khăn trong việc chuyên môn hoá cũng như đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ. Rõ ràng các quỹ tín dụng nhỏ bé tự mình không thể có khả năng thiết kế và cung cấp đầy đủ các sản phẩm dịch vụ ngân hàng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và ngày càng cao của thành viên và khách hàng. _Về khả năng chi trả và khả năng thanh toán: Các quỹ tín dụng nhân dân còn có điểm yếu rất đáng kể về khả năng bảo đảm chi trả, khả năng thanh toán tức thời. Đối với bất kỳ tổ chức tín dụng nào,vấn đề phải quan tâm trước hết là luôn báo đảm khả năng chi trả của mình tại bất kỳ thời điểm nào.Đó chính là uy tín của mỗi tổ chức tín dụng nói chung và đặc biệt là mỗi quỹ tín dụng nhân dân nói riêng. Sở dĩ nguy cơ rủi ro về khả năng chi trả, khả năng sẵn sàng thanh toán của các quỹ tín dụng nhân dân là khá cao vì một số nguyên nhân chính sau đây: các quỹ tín dụng nhân dân không được, chưa hay còn lâu mới được tham gia thị trường tiền tệ liên ngân hàng, không được ngân hàng Nhà Nước tái cấp vốn ; không được trực tiếp kinh doanh vay gửi vốn với các quỹ tín dụng nhân dân khác, mà phải phụ thuộc vào sự điều hoà vốn thông qua các quỹ tín dụng đầu mối khu vực và trung ương; qui mô hoạt động nhỏ, áp lực kinh doanh lớn, dẫn đến tỉ lệ dư nợ so với tổng nguồn vốn hoạt động cao, tỉ lệ vốn khả dụng còn lại thấp; uy tín hoạt động chưa cao, dễ bị khách hàng rút tiền đột ngột; việc quản lý, điều hành, điều tiết vốn khả dụng kém, các quỹ tín dụng nhân dân thường ở xa các đô thị lớn, các trung tâm ngân hàng tài chính, đòi hỏi phải có một hệ thống thanh toán nội bộ hoạt động tốt, hiệu quả. _Trình độ quản lý và chuyên môn hoá của cán bộ còn nhiều hạn chế: Một thiệt thòi lớn nữa của các quỹ tín dụng nhân dân là hoạt động ở khu vực nông thôn, trình độ, mặt bằng kinh tế, văn hoá nói chung còn thấp, không bằng khu vực thành phố, đô thị nên các quỹ tín dụng nhân dân có nhiều bất lợi trong việc tìm kiếm và xây dựng một đội ngũ cán bộ điều hành có trình độ quản lý và năng lực chuyên môn đảm bảo với yêu cầu khắt khe của một tổ chức tín dụng. Khả năng kinh doanh, lợi nhuận thu đươc có phần hạn chế cũng không tạo điều kiện tốt nhất để quỹ tín dụng nhân dân có thể thu hút được các đối tượng cán bộ, nhân viên có trình độ quản lý, chuyên môn cao từ nơi khác đến. Do vậy về chính sách nhân sự, các quỹ tín dụng nhân dân chủ yếu tuyển chọn các đối tượng trên địa bàn hoạt động và đồng thời phaỉ có một hệ thống đào tạo bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ của những người này sao cho phù hợp với các yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà Nước và phù hợp với yêu cầu của thị trường. Và để làm đựoc việc này thì từng quỹ tín dụng đơn lẻ không thể giải quyết với khả năng tài chính có hạn của mình, mà cần có sự hợp tác, liên kết chặt chẽ với tất cả các quỹ tín dụng khác trong hệ thống. _Tính nhạy cảm cao, dễ bị ảnh hưởng của phản ứng dây truyền. So với các ngân hàng thương mại cổ phần thì các quỹ tín dụng nhân dân có một điểm yếu rất đặc thù của mô hình tổ chức và hoạt động này. Đó là tính nhạy cảm , chịu áp lực tâm lý xã hội rất cao, rất dễ bị tác động lây lan, ảnh hưởng của một phản ứng dây truyền khi có một hoặc một vài quỹ tín dụng nhân dân khác hoạt động yếu kém, đổ vỡ, phá sản. Sở dĩ các quỹ tín dụng nhân dân có các nhược điểm này là bởi vì thành viên, khách hàng của tổ chức này là rất đông, phần nhiều lại là những người dân, hộ gia đình rất bình thường về kinh tế, trình độ văn hoá phần nào có hạn dẫn đến quỹ tín dụng nhân dân còn chịu nhiều áp lực tâm lý, áp lực của các yếu tố xã hội, chính trị rất lớn. Nếu không có cơ chế bảo đảm an toàn hữu hiệu của cả hệ thống thì một quỹ tín dụng nhân dân nhỏ bé, dù hoạt động có tốt cũng khó có thể tránh bị ảnh hưởng xấu từ các quỹ tín dụng khác. Trong trường hợp xấu, phản ứng dây chuyền có thể gây ra sự phá sản của hàng loạt các quỹ tín dụng nhân dân, thậm chí gây đổ vỡ, sụp đổ cúa cả một hệ thống, làm ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ tới đời sống và nền kinh tế mà cả sự ổn định chính trị xã hôị nói chung. c, Giải pháp: _Qua 6 năm xây dựng thí điểm, bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm để hoàn thiện mô hình Quỹ tín dụng nhân dân như sau: +Một là, những người tham gia Ban Quản lý qũy tín dụng nhân dân phải có đạo đức, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm cao trong công việc; có những hiểu biết tối thiểu về nghiệp vụ tiền tệ ,tín dụng ngân hàng ;có tín nhiệm với dân, không có tư tưởng vun vén cho quyền lợi của bản thân và hết lòng vì tập thể . Đây là một trong những yếu dẫn đến thành công. +Hai là ,sự lãnh đạo chỉ đạo của cấp uỷ và chính quyền địa phương là yều tố không thể thiếu được đối với hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở . Kinh nghiệm cho thấy , nơi nào cấp uỷ chính quyền địa phương chỉ đạo sát sao thì nơi đó hoạt động có hiệu quả , cán bộ của quỹ đoàn kết, doanh thu hoạt động khá và số thành viên tham gia ngày càng tăng. Ngược lại, nơi nào thiếu sự quan tâm của cấp uỷ và chính quyền địa phương thì nơi đó quỹ tín dụng nhân dân hoạt động kém hiệu quả, cho vay tuỳ tiện, sai nguyên tắc chế độ dẫn tới nợ quá hạn khó thu hồi .Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức kinh tế hợp tác hoạt động mang tính tương trợ, không bao cấp; do đó, cần có sự chỉ đạo toàn diện của Đảng, bước đi phải phù hợp với quá trình đổi mới, nhất là đối với kinh tế nông nghiệp và nông thôn . +Ba là , hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân phải tôn trọng triệt để những nguyên tắc quản lý tiền tệ tín dụng, quản lý taì chính do Ngân hàng Nhà nước quy định. Bởi vậy, Ngân hàng Nhà nước cần duy trì bộ máy chuyên trách giúp việc từ trung ương đến địa phương để tăng cường kiểm tra, giám sát và có sự chỉ đạo chặt chẽ. +Bốn là , xây dựng và phát triển các Quỹ tín dụng nhân dân phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện , cùng góp vốn và cùng chịu trách nhiệm về tài chính, có cơ chế hoạt động riêng, có báo cáo quyết toán, công khai tài chính minh bạch.Hằng năm, tiến hành đại hội hằng tháng có báo cáo gửi Ngân hàng Nhà nước tỉnh, kịp thời chấn chỉnh những lệch lạc sai sót. Đây chính là cơ sở để quỹ tín dụng nhân dân tồn tại và hoạt động một cách an toàn, vững chắc và cũng là thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. +Năm là, Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở huy động và cho vay những món nhỏ, cùng với các ngân hàng thương mại giúp đỡ nông dân về mặt tài chính, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, thực hiện chính sách xã hội ở nông thôn như tạo công ăn viêc làm, giảm bớt các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, cho vay nặng lãi. +Sáu là, Quỹ tín dụng nhân dân chỉ nên xây dựng ở những nơi có môi trường kinh tế hàng hoá phát triển, có nhu cầu cao về sản xuất, lưu thông hàng hoá và những mối quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Người cần vay vốn để sản xuất và khi có thu nhập chưa dùng , họ gửi vào quỹ tín dụng nhân dân. Ngược lại, ở những nơi hàng hoá chưa phát triển, chưa có những mối quan hệ vay vốn, gửi tiền thì quỹ tín dụng nhân dân sẽ chưa phát huy được hết chức năng, nhiệm vụ của mình và hoạt động có hiệu quả. Thực tế cho thấy, Quỹ tín nhân dân cơ sở được thành lập trong phạm vi một xã là rất phù hợp. _Từ những vấn đề nêu trên, để phát để phát huy vai trò của tổ chức, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân trên thị trường tài chính tiền tệ ở nông thôn, là trợ thủ đắc lực của Ngân hàng nhà nước và trực tiếp nhất là đối với kinh tế hộ gia đình hiện nay, tôi xin có một vài kiến nghị: + Tiếp tục chấn chỉnh, củng cố cả về tổ chức và quản lí các quỹ tín dụng nhân dân đang hoạt động, theo đúng tinh thần Chỉ thị 57 của Bộ Chính và chỉ thị số 02/2000 CT-NHNN, ngày 15-1-2000 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng Nhà nước với các cấp đảng và chính quyền địa phương từ tỉnh, huyện đến cơ sở. +Hoàn thiện cơ chế, phương thức hoạt động của các quỹ tín dụng nhân dân nhằm tăng cường huy động vốn và mở rộng cho vay. Ngoài ra, coi trọng tổ chức liên kết, phát triển hệ thống, trong đó mỗi Quỹ tín dụng nhân dân là một đơn vị kinh tế tự chủ, hoạt động độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính, liên kết chặt chẽ để quản lý hoạt động và thực hiện điều hoà vốn, thanh toán và các dịch vụ khác. +Cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát hoạt động của các quỹ một cách chặt chẽ. Đây là một trong những biện pháp đảm bảo cho Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động an toàn và có hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước cần có cán bộ cho bộ phận quản lý quỹ tín dụng nhân dân để việc thanh tra, kiểm soát được chủ động và thường xuyên. +Cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cả về nghiệp vụ và tổ chức quản lý để làm nền tảng vững chắc cho Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Về kinh phí đào tạo, cần kết hợp giữa Nhà nước hỗ trợ và quỹ tín dụng nhân dân tự đầu tư. +Hiện nay hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân đang tồn tại ở mô hình 3 cấp( trung ương, khu vực và cơ sở); cần có bước đi thích hợp để chuyển thành mô hình quỹ tín dụng nhân dân hai cấp, hoạt động mang tính tương trợ, không mang mục tiêu kinh doanh nhằm tạo nguồn lưc hỗ trợ cho cả hệ thống; trong đó quỹ tín dụng nhân dân trung ương đóng vai trò đầu mối. +Hằng năm , các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở phải trích một tỉ lệ nhất định từ kết quả hoạt động của mình để chuyển về quỹ trung ương, hoặc chi nhánh của trung ương tại một số tỉnh để hình thành quỹ bảo toàn cho cả hệ thống và cần có cơ chế trích lập cũng như sử dụng quỹ này là dự phòng để chi trả cho những quỹ có hiện tượng mất khả năng thanh toán. IV, Quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh phát triển thị trường tín dụng: 1, Về quan điểm: _Phát triển thị trường tín dụng phải phục vụ tốt cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. _Phát triển thị trường tín dụng trên cơ sở tuân thủ pháp luật; thông qua pháp luật, Nhà Nước thực hiện quyền quản lý nhà nước một cách hiệu quả. _Phát triển thị trường tín dụng phải hướng tới mục tiêu kép : hiệu quả kinh tế đi đôi với hiệu quả xã hội. _Phát triển thị trường tín dụng phải đảm bảo yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế một cách chủ động, hiệu quả. Đối với một nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam phải quán triệt tốt quan điểm này.Trên thực tế xuất phát điểm trong thị trường vốn nói chung và thị trường tín dụng nói riêng ở nước ta rất thấp, chỉ là bước khởi đầu (cả về công nghệ, tổ chức, quản lý, dịch vụ tín dụng) .Trong khi đó, xu thế toàn cầu hoá kinh tế, nhất là trong lĩnh vực tài chính- tiền tệ diễn ra nhanh chóng, buộc các quốc gia trên thế giới phải phụ thuộc nhau , chấp nhận nhau, cạnh tranh nhau để cùng tồn tại và phát triển. Muốn thắng thế mỗi quốc gia phải tạo độ mở trong cách thức tiến hành cũng như tính độc lập trong phát triển thị trường vốn nói chung, thị trường tín dụng nói riêng. 2, Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển thị trường tín dụng: _Một là : khai thác và huy động tổng lực các nguồn tín dụng trên thị trường tín dụng để hình thành lượng vốn lớn, tập trung, góp phần đáp ứng yêu cầu cao về vốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trước hết cần huy động tối đa các nguồn vốn còn tiềm ẩn trong dân cư ( dưới dạng vàn bạc, đá quí, bất động sản...). Để thực hiện đươc mục tiêu đó trước hết phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn: Huy động vốn thông qua hình thức tiết kiệm truyền thống, loại không kỳ hạn, có kỳ hạn 3,6,9,12 tháng, tăng cường huy động tiết kiệm trung và dài hạn. Chủ động phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng với lãi xuất và hình thức thích hợp, hấp dẫn được bảo đảm bằng vàng hoặc ngoại tệ, có xác định thời hạn nhất định từ 1, 3,5 ,10 năm. Người mua kỳ phiếu ,trái phiếu ngân hàng có thể dễ dàng chuyển đổi quyền sở hữu một cách hợp pháp. Khi thanh toán kỳ phiếu, trái phiếu nếu gặp rủi ro về tỷ giá phải có nguồn tài chính cấp bù lỗ. Cần phát hành kỳ phiếu, trái phiếu bằng vàng song hành với phát hành kỳ phiếu, trái phiếu bằng tiền mặt (nội tệ và ngoại tệ ),.. Thu hút vốn ( trong thời kỳ nhàn rỗi) từ nguồn thu của các doanh nghiệp vào hệ thống ngân hàng để tạo nên tính năng động, hiệu quả trong huy dộng vốn. Tạo nguồn vốn tín dụng thông qua việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ : dich vụ uỷ thác , dịch vụ tư vấn đầu tư, dịch vụ bảo đảm an toàn các vật có gía... Khuyến khích các chủ thể sản xuất- kinh doanh thanh toán không dùng tiền mặt mà qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, vừa giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông,tiết kiệm được chi phí trong kiểm đếm, bảo quản, vừa làm tăng tính hiệu quả của đồng vốn ngân hàng. Bên cạnh đó phải xây dựng chiến lược khách hàng, xây dựng cơ chế chính sách thu hút khách hàng có số dư tiền gửi lớn, thường xuyên tại ngân hàng bằng lợi ích vật chất; áp dụng lãi suất hợp lý khuyến khích khách hàng gửi vốn trung và dài hạn. Có thể áp dụng lãi suất cao đối với những khoản tiền gửi lớn, dài hạn tại ngân hàng để khuyến khích người gửi tiền. _Hai là: Mở rộng mạng lưới giao dịch của các tổ chức tín dụng thông qua việc củng cố, kiện toàn hoạt động của các chi nhánh ngân hàng, đầu tư xây dựng các trụ sở giao dịch với khách hàng. Bên cạnh việc xây dựng các trụ sở cố định, cũng cần hình thành những ngân hàng di động, đa năng thông qua việc trang bị ô tô, xe máy chuyên dùng, bảo đảm cho nguồn tín dụng có mặt ở khắp các vùng, các miền kể cả những vùng xa xôi, hẻo lánh, có điều kiện, tiềm năng phát triển kinh tế hàng hoá; phấn đấu đạt mục tiêu mọi hộ dân đều có thể tiếp cận với các dịch vụ tín dụng chính thức. _Ba là: Nâng cao năng lực của các thành viên tham gia thị trường tín dụng. Đối với các tổ chức tín dụng: cần nghiên cứu kỹ thị trường để xác định được nhu cầu vốn tín dụng, làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược khách hàng để đầu tư vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải đổi mới hoạt động tín dụng đồng bộ từ việc hợp lý hoá qui trình, thủ tục huy động và cho vay; đa dạng hoá hình thức tín dụng và phương thức cho vay; tuyển chọn cán bộ có đủ năng lực , phẩm chất; có chế độ đãi ngộ thoả đáng bằng lợi ích vật chất đối với những cán bộ làm tốt công tác được giao cũng như xử lý nghiêm minh đối với những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật trong hoạt động tín dụng; đổi mới công nghệ ngân hàng theo hướng đi thẳng và công nghệ hiện đại, góp phần đắc lực cho chiến lược hội nhập quốc tế. Đối với khách hàng : cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền , phổ biến các nghiệp vụ tín dụng có liên quan đến khách hàng vay vốn, tạo điều kiện cho họ nắm bắt và thực hiện tốt các nguyên tẵc, qui trình, thủ tục vay vốn và sử dụng vốn có hiệu quả; khuyến khích khách hàng mua ảo hiểm rủi ro trong sản xuất kinh doanh nhằm phân tán rủi ro, giảm tối đa những thiệt hại rủi ro cho khách hàng khi sử dụng vốn tín dụng; khuyến cáo họ thông tin kịp thời về tình hình sản xuất kinh doanh , thực trạng tài chính và những rủi ro ( nếu có) để các tổ chức tín dụng có điều kiện giúp đỡ, xử lý kịp thời. Nếu khách hàng là những hộ sản xuất cá thể thì khuyến khích họ tham gia vào các tổ chức quần chúng, hiệp hội ngành nghề.... nhằm tăng cường mối liên kết kinh tế,bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi vay vốn tín dụng. _Bốn là : hoàn thiện khuôn khổ pháp luật đồng bộ theo hướng minh bạch, rõ ràng, tác động thuận chiều với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà Nước trong vấn đề tăng cường đầu tư tín dụng, tạo ra một sân chơi bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể tham gia cung cầu tín dụng trên thị trường tín dụng; phát huy cao độ quyền tự chủ kinh doanh của các chủ thể đó; giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp mang tính " hành chính hoá" cũng như "hình sự hoá" các quan hệ tín dụng của chính quyền các cấp trong hoạt động huy động- cho vay vốn tín dụng, nhằm tháo gỡ những rào cản không cần thiết vừa để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng tín dụng, vừa bảo đảm độ an toàn khi phát triển thị trường tín dụng. _Năm là: Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá: giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; phát triển mạnh kinh tế hàng hoá; nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Kết luận: _ Qua những phân tích trên, có thể thấy quan hệ tín dụng có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Nó như một loại dầu nhớt bôi trơn giúp cho cỗ máy nền kinh tế vận hành một cách hiệu quả. Nhìn từ khía cạnh kinh tế thì quan hệ tín dụng góp phần tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội do nó làm tăng vòng chu chuyển của tiền tệ, giảm thiểu lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội. Còn nhìn từ khía cạnh xã hội thì quan hệ tín dụng cũng có nhiều ưu điểm mang tính tích cực. Tuy nó không phải là nhân tố trực tiếp tác động nâng cao đời sống của dân cư nhưng nhờ có nó mà của cải xã hội được tạo ra nhiều hơn ,như vậy một cách gián tiếp quan hệ tín dụng đã tạo ra tiền đề vật chất để nâng cao đời sống nhân dân, giúp chất lượng cuộc sống được cải thiện. Và đó cũng chính là mục tiêu mà toàn Đảng toàn dân ta đang phấn đấu thực hiện, mang lại một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. _ Trong thời gian qua, tuy đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ nhưng quan hệ tín dụng ở Việt Nam cũng đã bộc lộ những điểm hạn chế nghiêm trọng. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân, chủ quan có, khách quan có. Nhưng để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì ta cần tiếp tục tích cực tiến hành đổi mới, hoàn thiện quan hệ tín dụng, để phát huy hơn nữa những thành tựu và hạn chế tới mức thấp nhất những điểm yếu trong quan hệ tín dụng ở Việt Nam. _ Hiện nay, xu hướng thế giới là toàn cầu hoá, nền kinh tế thế giới là một nền kinh tế mở, việc thông thương ngày càng trở nên không có biên giới. Tình hình trên đặt ra cho nước ta nhiều thời cơ cũng như thách thức. Chúng ta cùng hy vọng rằng dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước nước ta sẽ tận dụng được những thời cơ, đẩy lùi những thách thức, làm cho nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nhanh chóng đưa nước ta vững bước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa. Tài liệu tham khảo 1, Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin ( Trường đại học kinh tế quốc dân) 2, Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin ( Nhà suất bản chính trị quốc gia) 3, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 290, 302 4, Tạp chí thị trường tài chính 5 tháng 5/2003 5, Tạp chí tài chính tháng 5/2003 6, Tạp chí thông tin tài chính số 3 tháng 2/2004 Mục lục: Phần1: Lời nói đầu 1 Phần 2: Nội dung chính 2 I, Bản chất của quan hệ tín dụng: 2 1, Bản chất và chức năng của quan hệ tín dụng 2 2,Các chức năng của tín dụng 2 II,Vai trò và các hình thức của tín dụng trong nền kinh tế thị trường địnhhướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam 3 1,Vai trò của tín dụng 3 2 , Các hình thức của tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 3 III, Thực trạng ,quan điểm và những giải pháp đổi mới quan hệ tín dụng ở Việt Nam 5 1,Tín dụng ngân hàng 5 2, Tín dụng Nhà Nước 12 3, Tín dụng tập thể 17 IV, Quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh phát triển thị trường tín dụng 25 1, Về quan điểm 25 2, Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển thị trường tín dụng 25 Phần 3: Kết luận 28

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKC016.doc
Tài liệu liên quan