Tình hình hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Ngân hàng và Phát Triển Nông Thôn được khẳng định là Ngân hàng chủ đạo, chủ lực trong thị trường tài chính nông thôn, đồng thời là ngân hàng thương mại đa năng, giữ vị trí hàng đầu trong hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, đóng góp tích cực và rất có hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp – nông thôn, Chủ Tịch nước CHXHXNVN đã ký quyết định số 226/2003/QD/CTN ngày 07/05/2003 phong tặng danh hiệu anh hùng Lao Động thời kỳ đổi mới cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.

doc54 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1129 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng chỉ có thể rút tiền mặt VND tại các máy ATM. Tất cả các giao dịch thực hiện tại các máy ATM được thực hiện bằng VND c). Thủ tục sở hữu thẻ : Lập giấy đề nghị phát hành thẻ ATM (mẫu số 01/ATM – CN) Mang bản sao chứng minh nhân dân và hộ chiếu d). Giới thiệu về máy ATM và quy trình rút tiền qua máy ATM Máy ATM đơn giản là một trạm thu nhận dữ liệu với hai thiết bị đầu vào và bốn thiết bị đầu ra. Giống như bất kỳ trạm thu nhận dữ liệu nào khác, máy ATM phải kết nối với một máy chủ (bộ sử lý chủ) và chuyển thông tin qua máy chủ này. Máy chủ này tương tự như một thiết bị cung cấp dịch vụ mạng (Internet Service Provider – ISP ) ở chỗ nó là cổng vào mà qua đó tất cả các mạng lưới ATM khác nhau trở nên có thể sử dụng được đối với chủ thẻ (người muốn rút tiền) Máy ATM có hai thiết bị đầu vào : Bộ phận đọc thẻ : Bộ phận này nắm bắt thông tin về tài khoản được lưu giữ trên dãi băng từ ở mặt sau của thẻ ATM, thẻ nợ hoặc thẻ tín dụng. Máy chủ sử dụng thông tin này truyền gửi giao dịch cho ngân hàng của chủ thẻ. Bàn phím : Bàn phím khiến chủ thẻ có thể cho ngân hàng biết loại giao dịch nào được yêu cầu (rút tiền, vấn tin số dư ) và với số lượng bao nhiêu. Về phía mình, ngân hàng yêu cầu số PIN (mã số riêng) của chủ thẻ để kiểm tra. Luật Liên bang Hoa Kỳ quy định rằng nhóm số PIN được gửi cho máy chủ dưới dạng mật mã. Máy ATM có 4 thiết bị đầu ra : Speaker : Speaker đưa ra cho chủ thẻ thông tin phản hồi bằng giọng nói khi phím được bấm. Màn hình hiển thị : Màn hình hiển thị đưa ra lời nhắc cho chủ thẻ theo từng bước của quá trình giao dịch. Các máy ATM thuê đường dây thường sử dụng màn hình đen trắng hoặc màn hình màu tinh thể lỏng. In hoá đơn : Bộ phận in hoá đơn cung cấp cho chủ thẻ hoá đơn in trên giấy của giao dịch. Bộâ phận trả tiền : Phần quan trọng nhất của máy ATM là cơ chế trả tiền và cơ chế an toàn. Toàn bộ phần đáy của hầu hết các máy ATM nhỏ là một két sắt để đựng tiền. Cơ chế trả tiền có một máy điện tử để đếm mỗi tờ giấy bạc khi nó ra khỏi máy trả tiền. Tổng số tờ giấy bạc và tất các thông tin liên quan đến một giao dịch cụ thể được ghi vào một cuốn sổ. Cuốn sổ thông tin này được in ra định kỳ và bản in trên giấy được người chủ sở hữu máy chủ. Nếu nơi nào không cung cấp bản in từ cuốn sổ, chủ thẻ cần phải thông báo cho ngân hàng hoặc định chế phát hành thẻ biết và điền vào một mẫu đơn và mẫu đơn này được Fax cho bên sở hữu máy chủ. Bên cạnh mắt điện tử để đếm từng tờ giấy bạc, cơ chế trả tiền cũng có một bộ phận cảm biến để đánh giá độ dày của mỗi tờ tiền. Nếu hai tờ tiền bị kẹt với nhau, khi đó thay vì được trả ra cho chủ thẻ, tờ tiền này được chuyển vào một thùng loại bỏ ở trong máy. Máy cũng sẽ làm tương tự đối với các loại tiền bị sờn, rách, gấp. Khi một chủ thẻ muốn thực hiện một giao dịch ATM, anh ta nhập vào những thông tin cần thiết thông qua bộ phận đọc thẻ và bàn phím. Máy ATM gửi thông tin này cho máy chủ, máy chủ sẽ truyền yêu cầu giao dịch đến ngân hàng hoặc định chế phát hành thẻ của chủ thẻ. Nếu chủ thẻ yêu cầu tiền mặt, máy chủ tạo ra một giao dịch chuyển tiền điện tử từ tài khoản séc của khách hàng sang tài khoản của bên sở hữu máy chủ, máy chủ gửi một mã số chấp thuận cho máy ATM ra lệnh cho máy trả tiền. Sau đó qua trung tâm thanh toán bù trừ, máy chủ thực hiện chuyển tiền của chủ thẻ sang tài khoản của đơn vị chấp nhận thẻ thông thường là vào ngày làm việc hôm sau. Bằng cách này, đơn vị chấp nhận thẻ được hoàn lại tất cả số tiền mà máy ATM đã trả. e). Những quy định khi sử dụng thẻ ATM và nguyên tắc thanh toán NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH CƠ SỞ CHẤP NHẬN CHỦ THẺ NGÂN HÀNG THANH TỐN (1) (8) (6) (7) (4) (5) (3) (2) : Chủ thẻ làm thủ tục xin cấp thẻ. : Chủ thẻ mua hàng hoá, dịch vụ tại các cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ. : Sau khi kiểm tra và thanh toán cơ sở chấp nhận trả thẻ lại cho chủ thẻ. : Cơ sở chấp nhận ập các hoá đơn gửi ngân hàng thanh toán. : Ngân hàng sau khi kiểm tra hoá đơn hợp lệ, thanh toán cho cơ sở chấp nhận. : Ngân hàng thanh toán gửi hoá đơn về ngân hàng phát hành. : Nếu chấp nhận thanh toán ngân hàng phát hành chuyển tiền trả cho ngân hàng thanh toán. : Từng thời kỳ ngân hàng phát hành gửi bảng kê cho chủ thẻ. f). Những điều cần lưu ý khi sử dụng thẻ ATM Đừng viết ra số PIN của bạn. Nếu bạn phải viết ra số PIN, không nên cất nó ở trong ví. Tạo số PIN bằng một dãy chữ hoặc số mà bạn có thể dễ dàng nhớ, nhưng số PIN này không được liên quan đến bạn một cách quá dễ dàng. Tránh sử dụng ngày sinh, chữ đầu tiên của tên, số nhà hoặc số điện thoại. Cất thẻ ATM của bạn trong ví nơi mà thẻ sẽ không bị cào xước hoặc bị cong. Đứng trực diện với bàn phím của máy ATM khi gõ mã số của bạn. Điều này hạn chế được việc có ai đó đang đứng sử dụng máy ATM nhìn thấy những thông tin cá nhân của bạn. Sau khi kết thúc giao dịch, hãy cầm theo hoá đơn, thẻ và tiền của bạn. Không nên đứng trước máy ATM để đếm tiền. 2. Thẻ tín dụng nội địa. a). Khái niệm Thẻ tín dụng là phương tiên thanh toán do NH phát hành có một hạn mức tín dụng nhất định dùng để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc ứng tiền mặt trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam trong một khoản thời gian nhất định. Thẻ tín dụng mang tín năng “chi tiêu trước trả tiền sau” trong thời gian tối đa là 45 ngày b). Các tiện ích khi sử dụng thẻ tín dụng : Mua hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ của họ và PTNT trên toàn quốc. Ứng tiền mặt tại mạng lưới các điểm ứng tiền mặt bao gồm : hệ thống rút tiền tự động (ATM), quầy giao dịch và đơn vị chấp nhận thẻ của NH Mua sắm chi tiêu trước, thanh toán sau bằng đồng Việt Nam mà không chịu lãi trong khoảng thời gian tối đa là 45 ngày An toàn là không phải đem theo lượng tiền mặt lớn khi mua sắm hàng hoá, dịch vụ Thuận tiện trong thanh toán mọi nơi, mọi lúc. Cho phép người thân sử dụng hạng mức của chủ thẻ chính để mua sắm hàng hoá, dịch vụ và ứng tiền (thông qua thẻ phụ) Tiện lợi trong việc quản lý chi phí công tác của nhân viên (đối với công ty) Được hưởng ứng ưu đãi, khuyến mãi đặt biệt của NH cũng như các đơn vị chấp nhận thẻ. Được hưởng dịch vụ khách hàng 24/24. c). Các thủ tục để để sở hữu thẻ tín dụng nội địa Đối với cá nhân Đơn đề nghị phát hành thẻ cá nhân (mẫu số 01A/TTD hoặc 01B/TTD) Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu (bản sao) Giấy xác nhận cư trú chủ thẻ (thẻ chính và thẻ phụ) Đối với công ty Đơn đề nghị phát hành thẻ công ty uỷ quyền cho cá nhân sử dụng (mẫu 02A/TTD hoặc 02B/TTD) Báo cáo tình hình tài chính của tổ chức, công ty (kỳ gần nhất) Hồ sơ bảo đảm tiền vay theo quy định *Lưu ý : Các tổ chức công ty có quan hệ tín dụng lần đầu với nhau hồ sơ cần bổ sung : Quyết định thành lập doanh nghiệp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Giấy phép kinh doanh Giấy giới thiệu mẫu, chữ ký người đứng đầu tổ chức và người được uỷ quyền đối với tổ chức đoàn thể. Sau khi chi nhánh ngân hàng chấp nhận yêu cầu phát hành thẻ của quý khách trong vòng 05 ngày làm việc, quý khách sẽ nhận được thẻ qua đường bưu điện hoặc tại chi nhánh phát hành. Trường hợp khách hàng đến ngân hàng nhận trực tiếp, chi nhánh giao thẻ và số PIN cho khách hàng. Trường hợp khách hàng nhận qua đường bưu điện, chi nhánh ngân hàng thực hiện gửi bằng thư bảo đảm thẻ và số PIN cho khách hàng bằng 02 phong bì riêng biệt nhằm tránh trường hợp rủi ro bằng thẻ. Mã số PIN cần được bảo mật vì số PIN dùng để rút tiền tại các điểm ứng tiền mặt hoặc các máy ATM. d). Quy trình thanh toán bằng thẻ tín dụng : NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH CƠ SỞ CHẤP NHẬN CHỦ THẺ NGÂN HÀNG THANH TỐN (1) ) (8) (9) (6) (7) (4) (5) (3) (2) : Chủ thẻ làm thủ tục xin cấp thẻ. : Chủ thẻ mua hàng hoá, dịch vụ tại các cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ. : Sau khi kiểm tra và thanh toán cơ sở chấp nhận trả thẻ lại cho chủ thẻ. : Cơ sở chấp nhận lập các hoá đơn gửi ngân hàng thanh toán. : Ngân hàng sau khi kiểm tra hoá đơn hợp lệ, thanh toán cho cơ sở chấp nhận. : Ngân hàng thanh toán gửi hoá đơn về ngân hàng phát hành. : Nếu chấp nhận thanh toán ngân hàng phát hành chuyển tiền trả cho ngân hàng thanh toán. : Từng thời kỳ ngân hàng phát hành gửi bảng kê cho chủ thẻ. : Chủ thẻ thanh toán tiền cho ngân hàng phát hành. e. Đôi điểm cần lưu ý khi sử dụng thẻ tín dụng nội địa. Số tiền trên thẻ không được trừ vào số tiền đã ký quỹ. Khách hàng phải thanh toán đúng hạn số dư nợ của thẻ hàng tháng theo bảng thông báo giao dịch của ngân hàng . Khách hàng phải đóng phí thường niên là 100.000đ/ năm, phí khi rút tiền bằng thẻ là 2% giá trị món tiền tối thiểu là 20.000đ. Khi quý khách yêu cầu cấp thẻ phụ cho người thân thì trách nhiệm thanh toán là của chủ thẻ chính do đó khách hàng cần suy nghĩ kỉ có nên yêu cầu cấp thêm thẻ phụ hay không. 3. Thẻ tín dụng quốc tế a). Khái niệm Thẻ tín dụng quốc tế : là phương thức thanh toán không dùng tiền mặt được sử dụng khá lâu đời trên thế giới. Bằng các biện pháp bảo đảm như tín chấp hoặc thế chấp, khách hàng có thể phát hành thẻ tín dụng quốc tế để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các điểm bán hàng có chấp nhận thẻ và rút tiền mặt. Với đặc trưng giống thẻ tín dụng nội địa là :”chi tiêu trước trả tiền sau”. Khách hàng sẽ trả những khoản tiền đã thanh toán bằng thẻ tín dụng khi nhận được thông báo của ngân hàng và không cần trả thêm bất cứ một khoản lãi nào nếu việc trả tiền trên được thực hiện đúng trong thời gian quy định (thông báo yêu cầu thanh toán của ngân hàng kèm theo danh sách các khoản chi mà khách hàng đã thực hiện trong tháng). Các tài khoản hoặc taì sản thế chấp để phát hành thẻ tín dụng cho khách hàng độc lập với các chi tiêu và đóng vai trò là biện pháp đảm bảo cho việc chi nợ của khách hàng (nói cho dễ hiểu là ngân hàng cho vay để chi trả khoản tiền cho khách hàng nhưng sau đó khách hàng phải trả lại tiền nhưng không chịu lãi suất nếu trả đúng trong thời gian quy định.) b). Tiện ích khi sử dụng thẻ : Thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các điểm chấp nhận thẻ trên thế giới Có thể sử dụng thẻ tín dụng quốc tế để chi tiêu bằng tất cả các loại tiền. Các giao dịch bằng ngoại tệ sau đó sẽ được chuyển đổi sang đồng Việt Nam để khách hàng thanh toan lại cho ngân hàng với tính năng phát hành thẻ phụ của thẻ TDQT, khách hàng có thể theo dõi và quản lý việc chi tiêu của bản thân cũng như của người thân bởi các khoản chi tiêu của thẻ phụ sẽ được thể hiện trong sao kê hàng tháng của thẻ chính. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các gia đình có con đang du học nước ngoài, thay vì như thông thường gia đình sẽ gửi tiền cho con cái của họ thông qua đường bưu điện như thế rất lâu hoặc thông qua người quen thì có nguy cơ tiền không đến được tay người nhận. Nhưng với sự ngày càng phát triển của hệ thống ngân hàng việc này gửi tiền cho con đi du học nước ngoài thật dễ dàng, người cha chỉ cần đến NH xin cấp một thẻ TDQT và có phát hành thẻ phụ. Người cha giữ thẻ chính, người con được cấp thẻ phụ khi hết tiền chỉ việc mang thẻ đến các máy và rút. Tại Việt Nam người cha có thể biết được các khoản chi tiêu của con từ đó có biện pháp quản lý chi tiêu tốt hơn đây là ví dụ cho thấy sự tiện lợi của thẻ TDQT. c). Điều kiện và thủ tục cấp thẻ tín dụng quốc tế * Điều kiện Cá nhân có ký quỹ Công dân Việt Nam ( từ 16 tuổi trở lên ) cư trú tại Việt Nam Công dân nước ngoài cư trú tại Việt Nam , có việc làm và thu nhập ổn định tại Việt Nam . Cá nhân không ký quỹ ( tín chấp ) Nhân viên đang công tác tại các công ty quốc doanh, công ty liên doanh ,công ty có vốn đầu tư nước ngoài văn phòng đại diện công ty nước ngoài, công ty cổ phần (có vốn điều lệ tối thiểu 30 tỷ đồng) Có hộ khẩu thường trú hoặc KT3 tại TPHCM Mức thu nhập hàng tháng trên 3 triệu đồng Tuổi từ 22-50 Có điện thoại nhà Thời gian công tác tại công ty tối thiểu 12 tháng * Thủ tục cấp thẻ: Khách hàng điền và ký vào phiếu đề nghị cấp thẻ và hợp đồng sử dụng thẻ theo mẫu của ngân hàng Bản sao CMND và hộ khẩu ( đối với người Việt Nam ), bản sao hộ chiếu ,Visa hoặc giấy phép cư trú , thư bảo lãnh của công ty ( đối với người nước ngoài) 01 tấm hình 354 hoặc 456 Hình thức đảm bảo cho thanh toán 4. Sự khác biệt trong hệ thống thanh toán bằng thẻ của Việt Nam với nước ngoài (nước anh) thẻ 2.giải băng từ tính thẻ điểm bán hàng 3.máy tính trạm máy đọc thẻ giá trị hàng $25 4.Chi tiết thẻ của khách hàng chấp thuận máy tính trung tâm.5.xử lý điện tốn EFTPOS UK LTD hệ thống xử lý NH của ST NH cĩ $25 tài khoản ST 4.Chi tiết thẻ KH 10.mã chấp nhận h ệ th ống x ử l ý NH của KH 7.NH KH 8.Ghi nợ $25 tk KH.sau 3 ngày trả tiền NHTW(NH nước Anh) tk thích hợp NH ST +$25 NH KH-$25 thơng qua hệ thống điện thoại Chi tiết gd trả tiền hệ thống thanh tốn thơng qua mạng thơng tin liên ngân hàng kháchhàng Tại siêu thị Giải thích: *tk:tài khoản *gd:giao dịch *NH:ngân hàng *KH:khách hàng *EFTPOS: hệ thống chuyển trả tiền nơi bán hàng Thông thường tại Việt Nam việc phát hành một loại thẻ thanh toán nào đó do một ngân hàng đứng ra thực hiện, chỉ có như vậy thẻ thanh toán mới có giá trị của nó và được lưu truyền rộng rãi thông qua hệ thống chi nhánh và các đơn vị chấp nhận thẻ của ngân hàng. Còn tại nước ngoài (nước anh) việc phát hành thẻ do công ty phát hành thẻ đứng ra thực hiện – thường là những tập đoàn tài chính lớn nắm phần lớn có tiếng tăm lâu đời – nên việc phát hành rất thuận lợi, không có sự phân biệt thẻ của tập đoàn này phát hành chỉ được chấp nhận tại những nơi có logo của tập đoàn đó. Việc phát hành như thế : Giảm bớt sự cạnh tranh không cần thiết giữa các ngân hàng. Giảm thiểu chi phí phát hành thẻ Tận dụng được hệ thống của máy ATM Tại Việt Nam việc phát hành các loại thẻ thanh toán do ngân hàng đứng ra thực hiện và chịu trách nhiệm. Mỗi ngân hàng có một hệ thống thanh toán riêng từ đó tạo ra sự bất lợi. Dẫn đến sự cạnh tranh. Sự lãng phí trong việc lắp đặt các máy ATM do thẻ của ngân hàng nào chỉ sử dụng được tại máy của ngân hàng đó. Gây khó khăn cho người sử dụng. Dẫn đến trên thị trường quá nhiều loại thẻ thanh toán gây bối rối cho người sử dụng khi có ý định làm thẻ. Làm lãng phí tiền bạc trong việc phát hành thẻ. Nếu thẻ của ngân hàng này có thể sử dụng tại ngân hàng khác thì số lượng thẻ giảm rất nhiều dẫn đến giảm chi phí phát hành tiết kiệm được một lượng tiền đáng kể. Một số thẻ của ngân hàng chỉ có chức năng thuần tuý là gửi tiền và rút tiền. B TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THẺ TẠI NGÂN HÀNG HIỆN NAY 1. Khuynh hướng phát triển chung Khuynh hướng sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phổ biến trên toàn thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Có rất nhiều phương tiện thanh toán không tiền mặt như cleck (séc), thẻ thanh toán, các loại giấy tờ thanh toán có giá, nhưng có thể nói thẻ thanh toán là một trong những phương tiện được biết nhiều nhất không chỉ trên toàn thế giới và còn tại Việt Nam. Ơû Việt Nam đời sống và thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Nhận thức của người tiêu dùng về thẻ đã thay đổi, một bộ phận không nhỏ đã xoá dần thói quen sử dụng tiền mặt, thay vào đó là sử dụng thẻ khi mua hàng hoá, dịch vụ. Với ưu thế về thời gian thanh toán, tính an toàn, hiệu quả sử dụng và phạm vi thanh toán rộng, thẻ thanh toán đã trở thành công cụ thanh toán hiện đại, văn minh và phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Phát triển nghiệp vụ thẻ là tất yếu khách quan của xu thế liên kết toàn cầu, thực hiện đa dạng hoá dịch vụ và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng đối với các ngân hàng trong tiến trình hội nhập vào khu vực và thế giới. Song song với đà phát triển của xã hội việc ngày càng hoàn thiện hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những ưu tiên hàng đầu của các ngân hàng. NHNo & PTNT cũng không ngoại lệ, gia nhập thị trường thẻ Việt Nam muộn hơn và là “người đi sau” nhưng qua hơn một năm hoạt động, NHNo đã đạt được một số kết quả cao, góp phần vào sự phát triển chung thị trường thẻ Việt Nam. 2. Tổng quát về số lượng phát hành thẻ của các ngân hàng. Tại Ngân hàng Công thương Việt Nam, số lượng thẻ ATM phát hành chỉ trong 4 tháng đầu năm đã là 50.000 thẻ. Tổng số thẻ ATM của ngân hàng này hiện là 100.000 thẻ và dự kiến sẽ tăng lên 200.000 thẻ vào cuối năm 2005. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cũng triển khai phát hành thẻ ATM trên toàn quốc và cũng đạt được những kết quả khá khả quan : 4 tháng đầu năm 2005 đạt 50.000 thẻ, đưa tổng số thẻ phát hành lên 150.000 thẻ. Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam đạt con số khiêm tốn hơn với tổng số thẻ là 76.000. Riêng đối với Vietcombank, số lượng thẻ hiện tại của Ngân hàng này lên đến 700.000 thẻ. Dự kiến, Vietcombank sẽ đạt con số kỷ lục về lượng thẻ ATM phát hành vào cuối năm 2005 là 1,2 triệu thẻ. Trích báo thanh niên tại trang www.vneconomy.com.vn Việc ngân hàng với mạng lưới chi nhánh rộng khắp các vùng mà số lượng thẻ chỉ đạt 150.000 thẻ là còn quá khiêm tốn so với năng lực cạnh tranh. Tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quận 10 số lượng thẻ phát hành khá khiêm tốn khoảng 200 thẻ, so với nhu cầu của người dân là khá thấp điều này chứng tỏ ngân hàng chưa thật sự thu hút người tiêu dùng tin tưởng vào hệ thống thanh toán bằng thẻ. Như vậy ngân hàng cần đưa ra các hình thức khuyến khích người dân sử dụng thẻ thanh tóan thay cho phương thức sử dụng tiền mặt truyền thống 3. Khó khăn khi sử dụng thẻ thanh toán Để phát triển hoạt động thanh toán thẻ đòi hỏi các phải có công nghệ thanh toán hiện đại, an toàn và nhanh chóng. Điều này đòi hỏi vốn đầu tư khá lớn và sự đầu tư đồng bộ mà không phải ngân hàng nào cũng dễ dàng có được. Chính sự đầu tư không đồng bộ dễ dẫn đến việc thanh toán thẻ không được đảm bảo an toàn và chính xác. Đã có một số trường hợp xảy ra tại một vài NHTM mà dịch vụ thẻ mới được quan tâm là đôi khi khách hàng đã rút một tiền nhất định trên tài khoản bằng thẻ ATM nhưng trên tài khoản vẫn chưa trừ số tiền đó (chưa bị ghi nợ vào tài khoản số tiền tương ứng). Trường hợp này do xảy ra phần mềm sử lý ATM chưa đồng bộ với phần mềm xử lý tại tài khoản tại quầy giao dịch làm ảnh hưởng không tốt đến hoạt động và uy tín của ngân hàng. Đây là một ví dụ rất nhỏ mà không ít lần hoạt động ATM tại một số NHTM đã diễn ra. Điều này đòi hỏi một sự đầu tư đồng bộ cho hệ thống ATM không chỉ về thiết bị máy mà còn phải đồng bộ với chương trình quản lý ATM để đem đến sự tiện dụng và an toàn nhất cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ thẻ bằng máy ATM Hệ thống thanh toán thẻ ATM và hệ thống chấp nhận thẻ tín dụng (Visa, Master, Amex ) của các NHTM rất cục bộ. Thật là lạ nếu như sử dụng một thẻ Visa do Vietcombank phát hành thanh toán tiền hàng tại Singapore thì được nhưng nếu như sử dụng tại Việ Nam thì chưa chắc nếu máy cài thẻ không phải của Vietcombank. Thông thường điều này do sự thiếu đồng bộ trong các chương trình quản lý hệ thống máy cài thẻ. Đối với thẻ ATM thì chắc chắn người xử dụng không thể dùng thẻ VCB 24 Connect để trả tiền cho người có tài khoản tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) có thẻ ATM do BIDV phát hành và nược lại. Nghĩa là, thẻ ATM do ngân hàng nào phát hành thì chỉ sử dụng hệ thống máy ATM của ngân hàng đó mà thôi và cũng không thể chuyển khoản cho người khác nếu không cùng mở tài khoản tại cùng một ngân hàng. Chính sự cạnh tranh mang tính độc quyền này của các NHTM Việt Nam đã làm lãng phí đầu tư cho các hệ thống máy ATM tại Việt Nam. Ngoài ra phần mềm quản lý ATM nên cho phép chuyển khoản ngoài hệ thống một ngân hàng nhưng với tình hình kinh tế hiện nay của Việt Nam thì không phải ngân hàng nào cũng đủ đều kiện vốn và công nghệ thẻ để xây dựng một hệ thống thanh toán thẻ hoàn chỉnh. Chính vì vậy mà việc liên kết các NHTM nhỏ với những ngân hàng đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thẻ là một giải pháp hiệu quả trong việc phát triển hệ thông thanh toán thẻ tại Việt Nam. Hệ thống ATM và hệ thống các điểm chấp nhận thẻ tín dụng tại Việt Nam vẫn chưa nhiều và còn nhiều bất cập. Trước tiên nói về hệ thống máy ATM ngày càng tăng. Những máy ở hội sở chính các ngân hàng thương mại mới được lắp đặt trong phòng kín và lắp kính, còn hầu hết các máy đặt trong siêu thị, trung tâm thương mại thì chỉ là cái máy trống không, không có gì bảo bọc xung quanh mà thường lại đặt ngay trong khuôn viên siêu thị hay trung tâm thương mại như thế rất bất tiện cho người sử dụng khi họ muốn rút tiền hay muốn chuyển khoản cho người thân nếu như ngoài giờ mở cửa của trung tâm thương mại hay siêu thị , chẳng lẽ những lúc như vậy họ phải chạy lại trụ sở của ngân hàng phát hành thẻ ATM để được sử dụng dịch vụ 24/24. Thật nguy hiểm cho những ai rút tiền (đặt biệt là số tiền lớn) như siêu thị hay trung tâm thương mại kẻ ra vào tấp nập nơi rút tiền thì lại không có gì che chắn sẽ dẫn đến lộ mã số PIN hoặc bị cướp tiền mộ cách đáng tiếc. Việc phát hành thẻ tín dụng tại các NHTM vẫn chưa thật sự cuốn hút và thúc đẩy việc sử dụng thẻ tín dụng như một phương tiện thanh toán không dùng tiến mặt. Hầu như không phải ai cũng được ngân hàng cấp thẻ tín dụng (với đúng nghĩa “tín dụng” của nó), nghĩa là người sử dụng thẻ được quyền sử dụng trước và sau đó đến hạn thanh toán mới phải trả tiền sau và trên tài khoản sử dụng của họ tại thời điểm đó không cần đủ số tiền mà họ cần sử dụng. Đây là hình thức vay tín cấp, hình thức này chắc chắn là có rủi ro xảy ra về việc thanh toán đối với NHTM. Nhưng nếu cứ mỗi lúc mua hàng hoá mà dùng thẻ thanh toán là phải có đủ số tiền tương ứng muốn dùng trên tài khoản (thẻ ghi nợ) thì chủ thẻ chắc chắn phải dùng tiền mặt hoặc chuyển khoản chứ không dùng thẻ thanh toán, nhất là trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam là thói quen sử dụng tiền mặt còn khá phổ biến. Ngoài ra một điểm đáng lưúy là đối với những nước có nền kinh tế đang phát triển thì việc sử dụng thanh toán quá quen thuộc và thường trong một nước, thẻ tín dung (Visa, Master, Amex ) thường được rất nhiều ngân hàng đại diện cho các tập đoàn thể trên đứng ra phát hành. Chính điều đó đã làm giảm thiểu các chi phí trong phát hành thẻ như phí về kí quỹ, bảo lãnh phát hành, sử dụng sẽ giảm được rất nhiều. Là việc chủ thẻ khi thanh toán tiền hàng bẳng thẻ tín dụng tại một số cửa hàng bị thu phí tới 2.7-3% trị giá món hàng (hiển nhiên không phải tất cả các cửa hàng đều thu phí), trong khi đó nếu thanh toán bằng tiền mặt thì họ không bị mất khoản phí này. Đối với món hàng có giá trị nhỏ thì 2.7-3% thì không phải là một khoản tiền lớn, nhưng khoản tiền thanh toán đó lên đến vài chục tỷ thì con số đó không còn là nhỏ nữa. Đây cũng là yếu tố làm cho người tiêu dùng ngần ngại trong việc sử dụng thẻ. Là vấn đề công nghệ thông tin chưa được ứng dụng một cách hoàn hảo. Việc ứng dụng công nghệ thông tin chỉ dừng lại ở việc sử dụng các phần mềm đã được công ty nước ngoài hay công ty Việt Nam sẵn và có thể chỉnh sữa đôi chút chứ thật sự chưa có NHTM nào áp dụng công nghệ thông tin nhằm đưa ra các giải pháp cho hoạt động kinh doanh và quản lý. Công nghệ thông chưa được ứng dụng tốt trong vấn đề quản lý mạng, quản lý hệ thống việc sử dụng thẻ (thẻ tín dụng hay thẻ ATM) là việc cung cấp tiện ích là chủ thẻ trong việc giảm thiểu việc sử dụng tiền mặt nói riêng và tiện ích trong thanh toán nói chung. Một vấn đề mà không chỉ các tổ chức thẻ quốc tế cần lưu ý trong việc phát hành thẻ là phải ứng dụng công nghệ thông tin sao cho chủ thẻ có thẻ thanh toán thẻ mà không nhất thiết phải đến ngân hàng giao dịch hay đến các máy ATM để thanh toán thẻ. CHƯƠNG BA KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG THẺ THANH TOÁN I TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG TIẾP THỊ VÀ QUẢNG BÁ CÁC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐẾN TỪNG NGƯỜI DÂN. Việt Nam là một nước với nền nông nghiệp lúa nước truyền thống với phong tục bao đời con trâu đi trước cái cuốc theo sau,bên cạnh đó nền kinh tế bị tàn phá bởi hai cuộc khán chiến cưu nước vĩ đại, cộng thêm trong giai đoạn đổi mới mắc phải một số sai lầm làm chúng ta mất thêm một số thời gian quý báu.Ngày trước khi nói đến ngân hàng người ta chỉ nghỉ đến các cán bộ tín dụng đem tiền đến cho người dân vay và đến hạn thu về ngoài ra chẳng có thêm dịch vụ nào cả.Nhưng ngày nay trong xu thế hội nhập,Việt Nam muốn làm bạn với cả Thế Giới thì ngành ngân hàng cần phải ngày càng tốt hơn và hoàn thiện hơn nữa, cộng thêm từ việc Việt Nam gia nhập tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) thì việc người dân được tận hưởng các dịch vụ với chất lượng quốc tế không còn là chuyện xa vời. Người dân Việt Nam với truyền thống sử dụng tiền mặt bởi nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan: Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển từ nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, bao cấp, tập trung sang nền kinh tế thị trường; thanh toàn trong dân cư với nhau phổ biến là tiền mặt. Lẽ đó, mọi sự tiếp cận với phương tiện thanh toán mới, công nghệ thanh toán mới đang ở mức ban đầu cả về tổ chức và thực hiện. Cơ sở hạ tầng công nghệ thanh toán trong giai đoạn hình thành cũng với việc vận dụng các kỹ thuật, qui trình CNTT, thanh toán hiện đại. Một vấn đề phức tạp rất cần có sự phối hợp trên nhiều phương diện : vốn, phương tiện thanh toán và kỹ thuật mới tiên tiến; lượng thời gian cần thiết ,trình độ tổ chức vận hành, thực hiện v.v Các khu công nghiệp, siêu thị tập trung chưa phát triển, đang trong giai đoạn qui hoạch và xây dựng, nên chưa có điều kiện thu hút tiêu dùng của dân cư, chưa sử dụng được các công nghệ thanh toàn hiện đại tương thích. Mặt khác thu nhập của dân cư nói chung còn ở mức thấp; nhu cầu thiết yếu của dân cư vẫn mua ở chợ “tự do” là chủ yếu; thêm vào đó nthói quen sử dụng tiền mặt, đơn giản, thuận tiện bao đời nay không dễ một sớm, một chiều thay đổi được; đồng thời muốn sử dụng phương tiện thanh toán hiện đại lại cũng cần có sự hiểu biết nhất định. Cơ chế, chính sách, môi trường và tổ chức quản lý thanh toán hiện đại trong điều kiện nền kinh tế ở Việt Nam, trước sụ bùng nổ và phát triền thương mại điện tử, CNTT trên Thế Giới, thì còn khá nhiều bất cập, nhiều điều phải bàn và làm. Ngày nay với sự phát triển ồ ạt của ngành công nghệ thông tin( CNTT ),con người có thể tiếp nhận thông tin từ rất nhiều nguồn, ngân hàng phải biết quảng bá hình ảnh mình sao cho mọi người dân có ấn tượng với ngân hàng của mình và chỉ cần mình thấy logo là có thể biết ngay tên ngân hàng là gì. Thử điểm lại các chương trình quảng cáo trên Tivi và trên làn sóng phát thanh gần như quảng cáo về một ngân hàng là rất hiếm. Mà như chúng ta đã biết Tivi và đài phát thanh là hai kênh quảng cáo có số lượng người theo dõi đông đảo nhất, và đa phần là người có tuổi và các bà nội trợ xem , nghe. Đây là một mảng khách hàng đầy tiềm năng nếu có thể thiếu phục họ thì ngân hàng có một lượng vốn đáng kể. Thế nhưng các ngân hàng chưa biết tận dụng thế mạnh của quảng cáo, hiện tại các ngân hàng đang có các chương trình huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng, nhưng mấy ai được biết đến. Cách thông thường các ngân hàng thường làm khi huy động vốn là: treo băng rôn với dòng thông báo “ Đợt huy động dự thưởng bằng vàng (hoặc lãi suất ) cuả ngân hàng . từ.đến “ Thông thường những dòng ấy được treo ngay tại ngân hàng và có muốn đọc được phải ngửa thẳng cổ ra mà đọc rất khó để thuyết phục được mọi người với hình thức quảng bá như thế. Ví như có một ngân hàng muốn thông báo cho mọi người dân biết một dịch vụ mới hay một chương trình huy động vốn cho ngân hàng thì họ có thể làm nhiều cách để thu hút sự quan tâm của người dân. Giả như ngân hàng XYZ có chương trình gửi tiết kiệm trúng vàng, điều kiện đầu tiên cần quan tâm là đối tượng mà ngân hàng muốn nhắm đến để từ đó có các hoạt động quảng cáo thích hợp. Như giả định trên thì những người có tuổi hoặc về hưu là những người hiện có tiền nhàn rỗi nhiều nhất, đối với họ lãi suất càng cao thì càng thu hút được họ vì họ gửi để sinh lời và vì an toàn. Những đối tượng này thì thời gian rảnh rất nhiều và kênh thông tin giải trí được họ lựa chọn hàng đầu là Tivi và sóng phát thanh. Ngân hàng phải chọn truyền hình và sóng phát thanh là hai nơi cần “tấn công” đầu tiên cho hoạt động quảng cáo của mình. Còn đối với giới trẻ thì ngân hàng đưa ra nhiều dịch vụ mới và tiện lợi càng tốt, với họ tuổi trẻ, thích khám phá luôn muốn tiếp cận những công nghệ mới những dịch vụ mới, là đối tượng phát triển các mảng dịch vụ mới như : thẻ thanh toán, séc..Cũng như Tôi hiện là một là một sinh viên nguồn tiền có chủ yếu từ gia đình chu cấp cho nhưng tôi hiếm khi sử dụng tiền mặt cho các chi tiêu của mình, Tôi hạn chế sử dụng nó một cách tối đa. Mọi thứ tôi điều chi tiêu qua thẻ. Bạn sẽ nói rằng chúng ta có chi tiêu gì nhiều đâu chi qua thẻ cho mất công, nhưng thưa bạn nếu không có người sử dụng thì một dịch vụ sẽ không tồn tại lâu dài. Mọi người đều muốn Việt Nam trở nên một nền kinh tế hiện đại do đó phải biết thay đổi từ cái nhỏ. Còn đối với ngân hàng trong thời buổi hội nhập : Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo cam kết song phương và đa phương sẽ làm tăng đối thủ cạnh tranh có tiềm lực về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý và gia tăng các áp lực cạnh tranh trên thị trường nội do nới lỏng các hạn chế cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng Việt Nam đang trong tình trạng vốn nhỏ, năng lực tài chính yếu, chất lượng tài sản có thấp. Hầu hết các ngân hàng còn thiếu chiến lượng kinh doanh bền vững, chủ yếu tăng theo chiều rộng bằng tăng tài sản có, mở rộng tín dụng, không chú trọng nâng cao chất lượng tài sản và khả năng sinh lời. Bên cạnh đó, công nghệ ngân hàng còn lạc hậu; các ngân hàng cũng chưa thiết lập được hệ thống quản lý rủi ro hữu hiệu, hệ thống thanh toán nội bộ còn yếu;kiểm tra, kiểm soát chưa hiệu quả; hệ thống thông tin quản lý tập trung và hệ thống kế toán, quản lý tài chính chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Đội ngũ cán bộ của hệ thống ngân hàng tuy khá đông nhưng trình độ am hiểu về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp trong nước, quốc tế, các nguyên tắc của WTO còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Về dịch vụ ngân hàng bán lẻ và dành cho cá nhân, hiện đã có 2 ngân hàng nước ngoài hoạt động ngân hàng bán lẻ ở Việt Nam là ANZ và HSBC. Và như vậy, đã xuất hiện sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài trong khu vực này .Và cứ theo đà này sẽ có thêm một ngân hàng nước ngoài khác tham gia vào thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ và dành cho cá nhân là Citi bank. II.TẠO SỰ LIÊN KẾT GIỮA CÁC HỆ THỐNG MÁY ATM Sự khác biệt dễ thấy nhất trong hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt giữa nước ta và các nước trên thế giới đó là: không có sự liên kết giữa các máy ATM của các ngân hàng với nhau, thẻ của ngân hàng nào thì sử dụng máy của ngân hàng đó. Nhưng với tốc độ phát triển ngày càng nhanh của khoa học kỹ thuật cùng với trình độ nghiệp vụ của các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực ngày càng được cải thiện về trình độ nâng cao về nghiệp vụ. Do đó việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực này không còn là chuyện xa vời. Việc các ngân hàng ngồi lại với nhau để cùng đưa ra giải pháp cho việc sử dụng chung hệ thống máy ATM không còn xa bằng chứng là việc Ngân Hàng Ngoại Thương ( Vietcombank ) và Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam ( Exim bank ) ký kết bản hợp đồng hợp tác chia sẽ hệ thống máy ATM. Như vậy khách hàng của ngân hàng này có thể sử dụng máy của ngân hàng kia trong các dịch vụ thẻ. Việc Eximbank trở thành thành viên thứ 8 thực hiện việc kết nối ATM va POS với Vietcombank đã mở ra nhiều thuận tiện cho các ngân hàng cũng như cho các ngân hàng đã có sự kết nối từ trước với Vietcombank Việc các ngân hàng kết nối vơi nhau là một xu hướng bắt buộc chung nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của việc phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu là thẻ thanh toán. Hiện nay số lượng máy ATM không ngừng tăng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu giao dịch của người dân. Việc các ngân hàng đưa ra giải pháp chung cho hệ thống thanh toàn bằng thẻ tạo ra nhiều thuận lợi: Đối với ngân hàng: Giành và giữ được khách hàng thông qua các dịch vụ ngân hàng mở rộng phục vụ 24 giờ/ ngày. Tạo sự khác biệt về chất lượng phục vụ và nhãn hiệu để cạnh tranh. Thay đổi các giao dịch viên truyền thống thành các cán bộ ngân hàng, tăng thêm cơ hội thu lợi nhuận. Tăng hiệu quả chi nhánh và giảm thiểu chi phí vận hành. Đối với khách hàng Cung cấp dịch vụ ngân hàng mở rộng 24 giờ/ ngày. Địa điểm giao dịch thuận tiện (cửa hàng ,sân bay) Dịch vụ nhanh chóng: không phải chờ lâu. Bảo mật và hiệu quả Việc các ngân hàng hướng tới một hệ thống giao dịch chung cho các loại thẻ tạo động lực cho các ngân hàng ngày càng hoàn thiện hơn các dịch vụ của mình, tạo nền tảng vững chắc cho việc hạn chế sử dụng tiền mặt trong lưu thông. Nhưng hiện tại mọi người còn e ngại trong việc sử dụng thẻ là do mạng lưới các máy ATM chưa thật sự đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng , khi cần rút tiền thì họ phải chạy đến những máy rút tiền nhưng các máy rút tiền chưa thật sự rộng khắp chúng thường được đặt trong các trung tâm thương mại hoặc trong các ngân hàng gây khó khăn cho người sử dụng khi cần. Như chúng ta đã biết sự tiện dụng của thẻ ATM : quản lý chi tiêu nhanh gọn, theo phong cách hiện đại, tránh được những tình trạng mất tiền, nhận phải tiền giả, chi tiêu bừa bãi thì việc số lượng thẻ ngày càng tăng thì không có gì lấy làm lạ và việc mọi người sử dụng chúng như một phương tiện thanh toán rộng rãi thay cho các phương tiện truyền thống là một quyết định hợp lý. III.ÁP DỤNG NHỮNG TIẾN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀO LĨNH VỰC NGÂN HÀNG. Ngày nay với sự phát triển không ngừng của khoa học, những công nghệ mới phát triển một cách nhanh chóng những dòng sản phẩm của công nghệ này không ngừng được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực và bước đầu mang lại những kết quả đáng khích lệ. Ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài xu thế đó, việc áp dụng các thành tựu về công nghệ đã từng bước hiện đại hóa các nghiệp vụ. Việc tin học hóa đội ngũ nhân viên cộng thêm sự vi tính hoá các nghiệp vụ làm cho việc phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn nhanh hơn tránh được sự chậm trễ trong công việc. Với chương trình chuyển tiền điện tử ngay trong ngày khách hàng có thể nhận được tiền gởi của người thân gởi bất cứ đâu trong lãnh thổ Việt Nam . Với hệ thống làm việc được nối mạng việc truyền dữ liệu được thực hiện nhanh chóng chính xác tạo sự thông suốt trong công việc. Việc ngân hàng là thành viên của hệ thống SWIFT đã tạo điều kiện cho thân nhân nước ngoài gởi tiền về một cách nhanh chóng thông qua Western Union ,tạo điều kiện giúp cho ngân hàng quản lý được lượng kiều hối một cách đáng kể, Aùp dụng tiến bộ của công nghệ giúp cho công việc của các nhân viên ngân hàng đỡ vất vả hơn, mọi việc điều thực hiện qua máy vi tính, xét duyệt tra soát cũng thế tạo sự nhanh chóng tránh tình trạng kéo dài và chờ đợi. Ví dụ như một khách hàng cần hỏi số dư trong tài khoản chỉ việc đọc mã số tài khoản là có thể biết trong tài khoản của mình có số dư nhiều không, hoặc như đến tháng phải đóng tiền vay thì mọi công việc đã được tự động hoá người kế toán chỉ việc mở máy lên mọi thông tin đều đã tự cập nhật chỉ việc xuất ra khi khách hàng đến. Nhưng để thực hiện được những điều đó thì không chỉ cần sự nổ lực của ngành ngân hàng mà còn phải có sự chung tay góp sức của các ngàng các cấp khác để thực hiện. Như TS Hồ Ngọc Luật ban khoa giáo TW đã từng nói xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, tập trung giải quyết các yêu cầu nân cao hiệu quả quản lý và sản xuất kinh doanh, từng bước phát triển ứng dụng thương mại điện tử và chính phủ điện tử là quan trọng để giải quyết bài toán khó đó cần ưu tiên thực hiện Từ ngân hàng nhà nước (www.sbv.gov.vn) : Kiện toàn hệ thống chỉ đạo và quản lý nhà nước về CNTT – TT từ Trung ương đến địa phương cả về tổ chức và nhân sự để có thể thực hiện phương châm “ năng lưc quản lý phải theo kịp tốc độ phát triển”. Các cơ quan quản lý mhà nước về CNTT phải đảm bảo chỉ đạo hướng dẫn, tham mưu, chương trình, dự án, các giải pháp và chính sách cần thiết nhằm đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT – TT. Trước hết cần cơ cấu , tổ chức lại ban chỉ đạo CNTT Quốc gia theo tinh thần ban chỉ đạo duy nhất và tập trung nhất về CNTT của quốc gia, kể cả các hoạt động CNTT trong các cơ quan Đảng , Quốc Hội, Văn phòng Chủ tịch nước, các cơ quan chính phủ, thống nhấtc chỉ đạo ban hành và thưc hiện các chuẩn cơ bản nhất, nhất là các luật, quy định quan trọng nhất để đặt mọi hoạt động về CNTT được tiến hành trên những cơ sở, nền tảng thống nhất hóa, quốc tế hóa ngay từ đầu. Có các chính sách phù hợp nhằm bắt buộc và khuyến khích thu hút mọi nguồn lực xã hội, mọi nguồn vốn của các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển và ứng dụng CNTT – TT. Do tốc độ phát triển KH – CN rất nhanh, nên việc đầu tư phải có trọng tâm, trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải, kéo dài gây lãng phí. Nhá nước tăng cường việc bố trí vốn cho ứng dụng và phát triển CNTT –TT đi đôi với những biện pháp bảo đảm hiệu quả nguồn vốn đầu tư và ràng buộc việc sử dụng đầu tư đó. Nhà nước phải nhanh chóng tạo đựng môi trường cho ứng dụng và phát triển CNTT như cho sử dụng rộng rãi tài khoản cá nhân, trả lương qua tài khoản, giao dịch thương mại qua tài khoản, trong đó, cần sớm ban hành những bộ luật cơ bản đảm bảo việc hình thành và phát triển môi trường này. Tổng kết, đánh gía lựa chọn những mô hình tốt, trên cơ sở đó tiến hành chỉ đạo nhân rộng nhằm đẩy nhanh những ứng dụng về CNTT trong tất cả các lĩnh vực. Đối với những vấn đề còn tồn động, hoặc chuẩn bị triển khai, cần xây dựng và chỉ đạo tốt khâu thực hiện các dự án thí điểm về ứng dụng CNTT-TT. Đối với các dự án ứng dụng CNTT có quy mô, phạm vi lớn, liên ngành hoặc có nhiều nội dung phức tạp cần tiến hành thực hiện theo các mô dun hoặc dự án thí điểm để rút kinh nghiệm trước khi ghép nối lại và triển khai đại trà. Đối với các dự án chính phủ điện tử cần ưu tiên tiến hành 2 – 3 dự án thí điểm cấp bộ, ngành và 2 – 3 dự án thí điểm ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tạo lập mội trường cạnh tranh cao và lành mạnh. CNTT – TT là công cụ quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả của các hoạt động sản xuất, kinh doanh và cung cấp các dịch vụ. Trong môi trường cạnh tranh cao và lành mạnh các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân coi trọng CNTT - TT như là một giải pháp quan trọng và tất yếu để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, quan tâm đến việc ứng dụng các sản phẩm và dịch vụ CNTT – TT chất lượng cao và như vậy nân cao trình dộ ứng dụng CNTT - TT . Phát huy năng lực nội sinh, nhà nước cần có những chế tài phù hợp để ưu tiên những doanh nghiệp CNTT - TT trong nước, các sản phẩm, giải pháp ứng dụng CNTT - TT thương hiệu Việt Nam có điều kiện tiếp cận và tham gia các dự án CNTT - TT sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Mặt khác, trong môi trường cạnh tranh cao và lành mạnh, các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm và dịch vụ CNTT - TT muốn tồn tại cũng phải không ngừng hoàn thiện sản phẩm của mình, đi đôi với việc giảm giá thành nhằm không ngừng duy trì và không ngừng nâng cao khả năng canh tranh để nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ CNTT - TT . Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ một xuất phát điểm thấp, vừa thiếu nguồn lực vừ thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực CNTT - TT , nên để tiến hành cuộc cách mạng thông tin có hiệu quả, chúng ta phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế, cùng với việc huy động mọi nguồn lực của cộng đồng KH – CN Việt kiều nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư và thưc hiện chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực công nghệ then chốt, nhanh chóng giảm thiểu khoảng cách về kỹ thuật giữa nước ta và các nước phát triển. IV MỞ RỘNG MẠNG LƯỚI CHẤP NHẬN THẺ Hạn chế trong hệ thống thanh toán của Việt Nam là việc các cửa hàng , siêu thị ( hay còn goị là các đơn vị chấp nhận thẻ – ĐVCNT ) còn quá ít và chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn và các trung tâm thương mại lớn , việc đó gây ra hạn chế trong công tác thanh toán. Vì thế việc mở rộng các ĐVCNT là một nhiệm vụ mang tính chiến lược nhằm thu hút ngày càng nhiều đến với dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Hiện nay các ngân hàng ra sức thực hiện các liên kết với các cửa hàng , siêu thị nhằm mang lại cho khách hàng của mình những thuận tiện nhất trong việc thanh toán. Như ngân hàng Đông Á liên kết với PNJ khách hàng của ngân hàng khi mua sản phẩm của PNJ bằng thẻ của ngân hàng thì được giảm 10% giá trị món hàng, hoặc tại đây khách hàng có thể rút tiền mặt hay tại các siêu thị việc mua hàng bằng thẻ của ngân hàng cũng được những ưu đãi về giá. Việc mở rộng mạng lưới thanh toán nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển , trong một nền kinh tế việc thanh toán hàng hóa thông suốt không vướn mắc chứng tỏ nền kinh tế của một nước phát triển mạnh, thông thoáng Việc các ngân hàng cần quan tâm bây giờ trong công tác thanh toán là làm sao cho người dân thấy được sự tiện lợi của việc thanh toán bằng thẻ bằng cách trang bị những máy cà thẻ cho các siêu thị, cửa hàng Bên cạnh đó hướng dẫn cho các nhân viên của các ĐVCNT sử dụng một cách thành thạo tránh tình trạng trang bị máy nhưng không biết sử dụng hoặc chỉ một hai người biết còn những nhân viên còn lại thì không, khi một hai nhân viên đó nghỉ thì máy nằm chơi vì không ai biết sử dụng. Bên cạnh việc các ngân hàng tìm đến các siêu thị, cửa hàng thì các ĐVCNT cũng phải biết tự trang bị cho mình những phương tiện nếu khách hàng muốn thanh toán bằng thẻ thì có ngay để phục vụ. Đời sống ngày càng được nâng cao thì nhu cầu hàng hóa không ngừng nâng lên .Do đó nó đòi hỏi các đơn vị cần phải cập nhật các phương tiện thanh toán mới để phục vụ và cũng nhằm thu hút khách hàng, mặt khác nó cũng chính là phương tiện cạnh tranh với các cửa hàng khác. Việt Nam địa điểm du lịch an toàn – ngày càng thu hút khách nước ngoài đến du lịch và tìm kiếm cơ hội làm ăn, mà người nước ngoài rất ít khi sử dụng tiền mặt trong thanh toán, mà chủ yếu thông qua thẻ VISA hoặc MASTER nếu chúng ta không phát triển hình thức thanh toán bằng thẻ thì có phải chúng ta mất một nguồn thu ngoại tệ đáng kể. Càng thuận tiện họ càng chi nhiều – chúng ta có rất nhiều mặt hàng làm cho khách nước ngoài yêu thích nhất là những sản phẩm thủ công. Tóm lại việc mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ là một phần quan trọng trong việc phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt trong thời buổi Việt Nam muốn đang muốn hoà nhập với nền kinh tế Thế Giới . KẾT LUẬN CHUNG Ngành công nghiệp ngân hàng đang ngày càng trở nên canh tranh hơn. Các khách hàng ngày càng có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin hơn. Họ có nhiều lựa chọn hơn trong việc chọn các ngân hàng để giao dịch. Điều này gây khó khăn hơn cho các ngân hàng trong việc thu hút và giữ khách hàng. Ví dụ, khách hàng có thể chuyển sang một ngân hàng khác nếu ngân hàng đó đưa ra các khoản cho vay với lãi suất thấp hơn, cung ứng nhiều dịch vụ ngân hàng hơn, nhiều loại thẻ thanh toán hấp dẫn hơn ( Thẻ Tín Dụng / Ghi Nợ) Các ngân hàng phải tận dụng các công nghệ mới để giữ được các khách hàng của mình, tìm các phương thức sáng tạo hơn để cung cấp, phân phối các sản phẩm, dịch vụ tới khach hàng, quản lý chi phí hoạt động một cách hiệu quả hơn, đầu tư cho việc đào tạo các dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt hơn. Một trong các cách cạnh tranh hiệu quả là thông qua các máy ATM – nơi cung cấp dịch vụ ngân hàng tự phục vụ. ATM cung cấp cho ngân hàng nhiều tiện ích và hổ trợ ngân hàng tận dụng được các công nghệ để hiện đại hóa, tăng cường hiệu quả hoạt động và đáp ứng nhu cầu khách hàng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4239.doc
Tài liệu liên quan