Vai trò của Nhà nước đối với phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Từ trước đến nay vấn đề phân phối luôn giữ vai trò quan trọng trong lý luận kinh tế. Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chứ không phải là kinh tế thị trường TBCN. Việc làm rõ bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN nói chung và chế độ phân phối của nó nói riêng có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn. Công trình nghiên cứu này cũng đã làm rõ giá trị khoa học lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối và Đảng ta đã vận dụng sáng tạo lý luận đó trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN như thế nào; làm rõ các nguyên tắc phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò của Nhà nước và cơ chế điều tiết của Nhà nước đối với phân phối thu nhập để đảm bảo sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng. Vai trò của Nhà nước đối với phân phối thu nhập trong thời gian qua ở nước ta được đánh giá thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng các chính sách phân phối, hệ thống an ninh xã hội và mức sống của các tầng lớp dân cư, cũng như mức độ phân hoá giầu nghèo ở nước ta hiện nay. Các chính sách phân phối đã từng bước được đổi mới và trở thành công cụ có khả năng điều tiết thu nhập trong xã hội, thực hiện chủ trương của Đảng: gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.

doc155 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 858 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của Nhà nước đối với phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề mức tiền công và điều kiện lao động có liên quan. Các cơ quan chức năng cần sử dụng các phương pháp tiếp cận khác nhau để xác định tương đối chính xác mức tiền công tối thiểu để làm căn cứ cho việc hoàn thiện hệ thống trả công lao động, cho việc tính toán các mức lương khác nhau của hệ thống thang bảng lương và phụ cấp lương. Mức lương tối thiểu được coi là hợp lý, khi nó được cả người lao động và người sử dụng lao động có thể chấp nhận được, nếu không như vậy thì mức lương tối thiểu không có tính khả thi. Hiện nay các phương án khác nhau đưa ra các mức tiền lương tối thiểu khác nhau. Có ý kiến đề xuất lấy mức lương tối thiểu hiện nay, năm 2003 là 290 nghìn làm chuẩn và hàng năm sẽ tăng tương ứng với mức tăng thu nhập quốc dân và mức độ lạm phát trong năm đó. Đề xuất đó, theo chúng tôi, có khả năng hiện thực, tuy nhiên, mức chuẩn 290 nghìn đồng có phần hơi thấp. Thứ tư, đổi mới cơ chế quản lý tiền lương phù hợp với kinh tế thị trường. Thời gian qua, chưa có sự phân biệt rõ ràng tiền lương khu vực công với tiền lương khu vực có quan hệ lao động, đã gắn quá chặt giữa chúng với nhau, đặc biệt đã gắn trực tiếp tiền lương tối thiểu chung với các chính sách ưu đãi và trợ cấp xã hội. Do đó việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu không thể thực hiện được, vì mỗi lần điều chỉnh tiền lương là liên quan đến rất nhiều đối tượng khác nhau. Hiện chưa có khung pháp lý xây dựng và điều chỉnh tiền lương tối thiểu quốc gia, việc điều chỉnh chủ yếu là do sức ép của dư luận xã hội. Vì thế, trong cải cách chính sách tiền lương, cần xây dựng cơ chế quản lý tiền lương cho phù hợp với kinh tế thị trường. Trước hết, cần phân biệt các đối tượng hưởng lương từ Ngân sách nhà nước với các đối tượng trong khu vực sản xuất kinh doanh. Cần phân biệt 4 khu vực: khu vực sản xuất kinh doanh, khu vực sự nghiệp, khu vực hành chính, khu vực lực lượng vũ trang. Đối với lực lượng vũ trang, Nhà nước đảm bảo hoàn toàn nhu cầu chi phí cho lực lượng này. Đối với khu vực hành chính Nhà nước, Nhà nước giao ổn định quỹ lương trên cơ sở khoán biên chế và kinh phí hành chính. Đối với khu vực sự nghiệp, cần phân biệt các đơn vị sự nghiệp có thu và những đơn vị sự nghiệp không có thu. Những đơn vị sự nghiệp mà thu đủ chi thì Nhà nước giao quyền tự chủ cho đơn vị đó, còn những đơn vị thu không đủ chi thì Nhà nước sẽ cấp một phần kinh phí. Đối với khu vực sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp được quyền lựa chọn mức lương của cán bộ công nhân viên và người lao động trong doanh nghiệp (trừ những viên chức quản lý doanh nghiệp, do Nhà nước bổ nhiệm, nếu là doanh nghiệp Nhà nước) căn cứ vào năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mức lương tối thiểu chung chỉ là “sàn” mà doanh nghiệp không thể trả lương cho người lao động dưới mức đó. Dựa vào sự phân biệt như vậy, Nhà nước quản lý trực tiếp lao động và tiền lương ở khu vực hành chính, còn khu vực sự nghiệp và sản xuất kinh doanh, Nhà nước quản lý một cách gián tiếp thông qua các chính sách của mình. Cơ chế quản lý tiền lương, như trên vừa nói, còn nhiều bất cập trong điều kiện kinh tế thị trường. Vì thế, cần xây dựng cơ chế quản lý tiền lương có hiệu quả, tạo ra khung pháp lý cho việc điều chỉnh lương theo mức độ trượt giá và tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ có như vậy mới đảm bảo được tiền lương thực tế trong điều kiện kinh tế thị trường. 3.2.2. Tiếp tục cải cách chính sách thuế nhằm điều tiết thu nhập hợp lý Chính sách tài chính là một trong những chính sách chủ yếu để Nhà nước phân phối và điều tiết thu nhập. Để phát huy vai trò đó, chính sách tài chính cần vận dụng tốt các hình thức cụ thể của cơ chế tài chính: thuế và trợ cấp tài chính. Việc chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải cải cách đồng bộ hệ thống thuế. Cải cách chính sách thuế theo hướng: Một là, hệ thống thuế phải thực hiện được các chức năng cơ bản của thuế là động viên nguồn thu cho NSNN, điều tiết kinh tế vĩ mô, đảm bảo công bằng xã hội. Thứ hai, cơ cấu lại mức huy động của từng sắc thuế, tăng mức động viên các loại thuế và phí, nâng tỷ trọng của thuế trực thu trong tổng số thu về thuế vào NSNN không phải bằng cách nâng thuế suất thuế thu nhập, mà bằng cách mở rộng diện chịu thuế thu và thu hẹp diện miễn giảm thuế. Ba là, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, giảm thuế suất, thực hiện một thuế suất chung đối với các loại đối tượng, đặc biệt là đối với thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp đảm bảo tỷ lệ động viên công bằng (thuế suất như nhau). Bốn là, thực hiện mở rộng diện chịu thuế đối với các thuế trực thu và thuế gián thu, đồng thời giảm đến mức thấp nhất các trường hợp ưu đãi, miễn giảm thuế. Những miễn giảm thuế nhằm vào các mục tiêu xã hội cần được thay bằng các biện pháp hỗ trợ về tài chính, tín dụng. Năm là, tính phức tạp của hệ thống thuế vẫn còn là vấn đề lớn, do đó, yêu cầu cấp thiết của cải cách hệ thống thuế là làm đơn giản hoá hệ thống thuế. Hệ thống thuế rộng lớn và phức tạp bao gồm luật thuế giá trị gia tăng, luật thuế tiêu thụ đặc biệt, luật thuế xuất nhập khẩu, luật thuế thu nhập doanh nghiệp, luật thuế thu nhập cá nhân, luật thuế sử dụng đất, luật thuế tài nguyên, pháp lệnh phí và lệ phí. Dưới đây nghiên cứu nội dung và giải pháp hoàn thiện một số loại thuế có tác động mạnh đến điều tiết thu nhập đảm bảo công bằng xã hội. Thuế thu nhập là một loại trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các thể nhân và pháp nhân. Nó không chỉ là một trong những nguồn thu chủ yếu của NSNN, mà còn là công cụ của Nhà nước để điều tiết thu nhập và thực hiện công bằng xã hội. Phương hướng hoàn thiện thuế thu nhập trong thời gian tới là giảm mức thuế suất và mở rộng diện chịu thuế thu nhập cá nhân và các tổ chức kinh tế, đảm bảo tăng dần tỷ trọng của thuế thu nhập trong tổng số thu về thuế và phí vào NSNN, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng cải cách thuế trên thế giới. Kết quả nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn cho thấy thuế thu nhập càng cao thì càng gây ra những méo mó trong nền kinh tế. - Hoàn thiện thuế thu nhập cá nhân. Do chỉ đánh thuế đối với những người có thu nhập cao, nên hiện nay loại thuế này chiếm tỷ trọng 2% trong tổng số thu về thuế và phí. Trong thời gian tới cần nâng dần mức động viên của loại thuế này (các nước trên thế giới là 10 - 40%). Bộ tài chính cần nghiên cứu trình Quốc hội ban hành Luật thuế thu nhập thay cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Trước đây khi nền kinh tế thấp và thu nhập cá nhân còn thấp, thì việc ban hành và áp dụng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là phù hợp với hoàn cảnh đó. Nhưng đến nay cần thiết phải có Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm tăng cường trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp cho xã hội của công dân, tăng nguồn thu cho NSNN. Về đối tượng nộp thuế, mọi cá nhân có thu nhập phát sinh tại Việt Nam, đều là đối tượng nộp thuế thu nhập, không phân biệt cá nhân đó có thu nhập cao hay thấp, cá nhân kinh doanh hay không kinh doanh. Cần mở rộng đối tượng nộp thuế như các hoạ sĩ, ca sĩ, bác sĩ khám tư có thu nhập cao cần được quản lý và đưa vào diện nộp thuế. Về đối tượng chịu thuế, cần mở rộng diện chịu thuế, tất cả các khoản thu nhập thường xuyên và không thường xuyên đều phải đưa vào diện chịu thuế. Phương hướng và nội dung cải cách thuế thu nhập cá nhân như vậy cũng phù hợp với xu hướng cải cách thuế thu nhập cá nhân trên thế giới hiện nay: giảm thuế suất thuế thu nhập cá nhân, đồng thời mở rộng diện chịu thuế. Những thành tựu về lý thuyết và thực tiễn đã chỉ ra rằng thuế suất cao không khuyến khích lao động và tiết kiệm, nhưng đồng thời lại khuyến khích việc lợi dụng những khe hở của thuế. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến trào lưu cắt giảm thuế suất. Một số nước có tỷ lệ cắt giảm thuế suất cao nhất là Pháp, Hy lạp, Ailen, Nhật Bản, Anh, Mỹ. ở đa số các nước cắt giảm thuế suất thu nhập cá nhân, nguồn thu tài chính giảm sút được bù đắp bằng cách mở rộng diện chịu thuế, thuế thu nhập cá nhân của đa số các nước trên thế giới đã được đơn giản hoá theo hướng giảm bớt số lượng thuế suất và sự khác biệt giữa các bậc thuế suất nhỏ hơn. Về lâu dài không cần phân biệt thu nhập thường xuyên và không thường xuyên, mà nên phân biệt thu nhập từ lao động và thu nhập từ đầu tư để có chính sách thuế suất phù hợp. Về mức khởi điểm chịu thuế, cần xác định mức khởi điểm chịu thuế hợp lý. ở nhiều nước trên thế giới, mức khởi điểm chịu thuế được xác định căn cứ vào mức thu nhập trung bình của xã hội, tức là mức thu nhập nuôi sống được bản thân và người ăn theo. Hiện nay mức khởi điểm chịu thuế của Việt Nam chưa được xác định dựa trên những cơ sở khoa học và thường xuyên bị điều chỉnh khi có những biến động nào đó trong nền kinh tế. Trong thời gian tới, mức khởi điểm chịu thuế thu nhập phải được xác định căn cứ vào mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người, đồng thời xem xét hoàn cảnh gia đình của người nộp thuế để có mức khấu trừ gia cảnh một cách hợp lý. Thu nhập trên mức trung bình sẽ phải nộp thuế thu nhập theo tỷ lệ luỹ tiến từng phần. Để xác định đúng mức khởi điểm chịu thuế cần nghiên cứu kỹ các điều kiện về kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời gian tới, phù hợp với mức sống của phần lớn dân cư và phù hợp với thông lệ quốc tế. Về thuế suất, thuế suất thuế thu nhập cá nhân được áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần, các thu nhập như qùa biếu, quà tặng, trúng sổ số cần được điều chỉnh với mức thuế suất cao nhằm điều tiết thu nhập một cách công bằng giữa các thành viên trong xã hội. Hiện nay áp dụng hai biểu thuế suất với mức khởi điểm chịu thuế và tỷ lệ luỹ tiến từng phần khác nhau. Tuy nhiên, cần dần dần thu hẹp khoảng cách giữa người trong nước và người nước ngoài để tiến tới áp dụng chung một biểu thuế. - Hoàn thiện thuế thu nhập doanh nghiệp Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu, chức năng của nó là tạo nguồn thu cho NSNN, phân phối và điều tiết thu nhập, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Hiện nay thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước ta chiếm khoảng 13 - 14% tổng số thu về thuế và phí. Trong thời gian tới tỷ lệ này cần được nâng dần lên. Để thuế thu nhập doanh nghiệp trở thành nguồn thu chủ yếu của NSNN, kích thích sản xuất phát triển, thu hút đầu tư ngoài, góp phần thực hiện công bằng xã hội, cần xây dựng chính sách thuế thu nhập có tính trung lập, giảm tối đa các ưu đãi về thuế, khắc phục sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khi hoàn thiện thuế thu nhập doanh nghiệp cần xác định rõ đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế và mức thuế suất hợp lý. Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm Công ty thường trú và công ty không thường trú có phát sinh thu nhập tại Việt Nam. Đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp cần bao quát hầu hết các nguồn thu cả tiền lãi cho vay, lợi tức cổ phần, chuyển nhượng tài sản. Thu nhập chịu thuế cần được chia thành thu nhập từ kinh doanh và thu nhập đầu tư vào chứng khoán, tiền gửi, tiền bản quyền. Về thuế suất, cần áp dụng một mức thuế suất cơ bản đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bãi bỏ thuế suất thu nhập bổ xung và thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Mức thuế suất điều tiết cụ thể cần được giảm dần theo lộ trình phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế; cần thu hẹp diện miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, chỉ đưa vào diện miễn giảm thuế các trường hợp đặc biệt và có thời hạn. Như vậy, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng được cải cách theo xu hướng cắt giảm thuế suất và mở rộng diện chịu thuế, Điều đó phù hợp với xu hướng cải cách thuê doanh nghiệp trên thế giới hiện nay, bởi lẽ trong điều kiện toàn cầu hoá, việc một nước duy trì mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao sẽ trở nên bất lợi cho nước đó, có nguy cơ làm “biến mất các đối tượng nộp thuế”. - Hoàn thiện thuế tiêu thụ đặc biệt Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu. Việc hoàn thiện loại thuế này nhằm mục tiêu thực hiện chính sách điều tiết thu nhập của Nhà nước đối với tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ đặc biệt, hướng dẫn tiêu dùng, đảm bảo nguồn thu cho NSNN trong điều kiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian tới, cần mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, đưa một số mặt hàng thuộc danh mục cắt giảm thuế nhập khẩu sang chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và bổ xung thêm một số hàng hoá, dịch vụ cần điều tiết khác như mỹ phẩm, đá quý, xe máy... điều chỉnh thuế suất các mặt hàng cho phù hợp, đồng bộ với các luật thuế khác như luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, luật thuế GTGT. Việc cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt theo hướng trên cũng phù hợp với xu hướng thay đổi cấu trúc thuế của các nước là giảm dần thuế trực thu và tăng tỷ lệ thuế gián thu. Do sự cảm nhận về tính không khích tiết kiệm của thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp, đa số các nước phát triển thực hiện cắt giảm thuế trực thu và chuyển dần gánh nặng sang các loại thuế tiêu dùng như thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc cải cách hệ thống thuế - công cụ chủ yếu của chính sách tài chính - như trình bầy ở trên sẽ đảm bảo cho hệ thống thuế thực hiện được các chức năng của nó, đồng thời tăng cường vai trò của Nhà nước đối với phân phối thu nhập, góp phần thực hiện công bằng xã hội. 3.2.3. Hoàn thiện các chính sách xã hội 3.2.3.1. Tập trung sức tạo việc làm và xoá đói, giảm nghèo * Tập trung sức tạo việc làm Việc giải quyết vấn đề việc làm trong thời gian qua đã có bước tiến vững chắc như đã đánh giá ở chương 2. Tuy nhiên, số lao động chưa có việc làm và thiếu việc làm còn lớn. Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị khá cao (6,28% năm 2001), chuyển dịch cơ cấu lao động chậm, đến nay vẫn còn hơn 70% lao động ở khu vực nông thôn và hơn 60% lao động nông nghiệp. Cơ chế, chính sách lao động - việc làm còn thiếu đồng bộ, chưa có chính sách đủ mạnh và cơ chế phù hợp để huy động mọi nguồn vốn trong dân vào phát triển sản xuất, tạo việc làm. Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định phát huy nhân tố con người, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội và là vấn đề bức súc hiện nay. Vấn đề cấp thiết được đặt ra là đến năm 2005 phải thu hút và tạo việc làm thêm cho khoảng 7,5 triệu lao động, bình quân 1,5 triệu lao động/ năm, thu hút và tạo việc làm thêm khoảng 1,78 triệu người ở thành thị và giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn khoảng 5,4%, nâng quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên khoảng 80%, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 30%. Đến năm 2010 tạo việc làm mới và ổn định việc làm cho khoảng 13 triệu lao động, trung bình mỗi năm 1,3 triệu, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80 - 85%, tỷ lệ lao động được đào tạo khoảng 40%. Để thực hiện được các mục tiêu đó, cần giải quyết hai vấn đề then chốt có tính chất quyết định: tăng cường kinh tế nhanh, bền vững và thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Bản thân sự tăng trưởng kinh tế đã bao hàm ý nghĩa xã hội sâu sắc là tăng thêm việc làm , tăng thêm thu nhập, tạo tiền đề vật chất cải thiện đời sống nhân dân. Vì vậy, cần tập chung nguồn lực, tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương và sự nỗ lực của các ngành, các địa phương thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2005, nhờ đó tạo thêm việc làm. Việc thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần sẽ giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa các nguồn lực bên trong và bên ngoài vào phát triển kinh tế, tạo việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân. Dưới đây bàn về một số giải pháp tạo việc làm. Thứ nhất, phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Như đã biết, do cải cách hành chính và sắp xếp các DNNN, lao động trong khu vực Nhà nước giảm từ 14,7% năm 1991 xuống còn 9% năm 2000.Theo tiến trình đổi mới DNNN, đến năm 2005 sẽ có khoảng 25 vạn lao động dôi dư cần được bố trí việc làm. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ thu hút được 33 vạn lao động, nếu kể cả số lao động gián tiếp thì sử dụng được khoảng 1% lực lượng lao động. Như vậy, việc làm mới được tạo ra trong thời gian qua chủ yếu do khu vực kinh tế tư nhân. Việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng đối với việc tạo nhiều việc làm mới, giảm bớt đói nghèo. Các bộ phận chủ yếu của kinh tế tư nhân là các hộ gia đình, các trang trại, các doanh nghiệp tư nhân. Trong những năm gần đây mức tăng việc làm của doanh nghiệp tư nhân trong nước là lớn, mặc dù số lượng nhân công chỉ khoảng 0,5 triệu, các hộ gia đình và trang trại khoảng 34 triệu. Khu vực tư nhân phi nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng, vì khu vực này chính là nơi có tiềm năng tạo việc làm lớn nhất. Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ của khu vực kinh tế tư nhân cũng là một giải pháp tốt để tạo việc làm. Xét về hiệu quả thì chi phí để tạo một việc làm trong DNNN cao từ 4 đến 26 lần so với chi phí để tạo một việc làm trong các loại hình doanh nghiệp tư nhân chính thức. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ tạo ra một số lượng lớn việc làm trong tương lai. Hiện nay chính phủ đã giải quyết một số những hạn chế mà khu vực kinh tế tư nhân gặp phải, nhưng vẫn có sự thiên lệch về chính sách không có lợi cho sự phát triển của khu vực tư nhân. DNNN vẫn tiếp tục được hưởng sự tiếp cận ưu đãi với hầu hết các nguồn lực trong nước và tiếp tục được bảo hộ khỏi cạnh tranh. Vì thế, để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với khu vực này: (1) Đơn giản hoá việc xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập thị trường và rút khỏi thị trường của doanh nghiệp, đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật. (2) Sửa đổi luật đất đai tạo cơ sở hình thành thị trường đất, thị trường bất động sản, xoá bỏ sự phân biệt đối sử giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh về các quyền sử dụng đất. Cải cách hệ thống tín dụng, phát triển thị trường vốn, xoá bỏ những quy định mang tính phân biệt giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong lĩnh vực tín dụng. (3) Hoàn thiện chính sách lao động, hình thành và phát triển thị trường lao động, linh hoạt hơn trong việc ký kết hợp đồng lao động, tuyển dụng và sa thải lao động. (4) Tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp bằng cách hoàn thiện pháp lệnh hợp đồng kinh tế, chính sách cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, từng bước xoá bỏ những quy định mang tính chất phân biệt đối sử ; đổi mới chính sách thương mại; hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ giải quyết các vấn đề về vốn, về kỹ thuật- công nghệ, về thông tin, thị trường; tiếp tục cải cách hệ thống thuế theo hướng ổn định, công bằng, đơn giản hoá để kích thích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng nêu trên sẽ kích thích phát triển kinh tế tư nhân, tạo thêm việc làm trong thời gian tới. Thứ hai, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn. Như đã biết, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, tỷ trọng lao động nông nghiệp còn khá cao - khoảng 63% năm 2000 và dự tính đến năm 2010 giảm lao động nông nghiệp xuống còn 50%. Từ đó có thể thấy trong thời gian tới, nông nghiệp không phải là lĩnh vực thu hút lao động ở nông thôn. Để giải quyết việc làm ở nông thôn cần tập trung sức đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng trưởng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong GDP của nông thôn. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đó sẽ thu hút lao động vào các ngành nghề. Vì thế, phát triển ngành nghề nông thôn được coi là động lực trực tiếp giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Có thể nói khu vực tạo việc làm chủ yếu và có nhiều tiềm năng nhất là khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn. Do đó, cần chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn theo hướng cần ít vốn đầu tư với công nghệ thích hợp giải quyết được nhiều việc làm. Tiềm năng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn còn rất lớn. Để khai thác tiềm năng đó, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ tiểu thủ công nghiệp nông thôn phát triển và chuyển thành các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Nhà nước tạo môi trường thực sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong các lĩnh vực: thuê đất phục vụ sản xuất kinh doanh, vay vốn và bảo lãnh tín dụng, xuất khẩu trực tiếp, hỗ trợ đào tạo cán bộ và chuyển giao công nghệ,.... khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống, xây dựng và phát triển các ngành nghề mới ở nông thôn. Có thể cho rằng việc giải quyết việc làm trong thời gian tới chủ yếu phụ thuộc vào sự phát triển của khu vực phi công nghiệp ở nông thôn. Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong những năm gần đây xẩy ra tình trạng tỷ lệ thất nghiệp của những người lao động đã được đào tạo lớn hơn tỷ lệ thất nghiệp chung của xã hội, nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp không tìm được việc làm hoặc tìm được việc làm nhưng không đúng với chuyên môn được đào tạo. Nguyên nhân của tình trạng đó là do việc đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Nước ta đang thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật cao thuộc các ngành mũi nhọn, lao động nông thôn chưa qua đào tạo đang là trở ngại cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Vì thế cần phải phát triển giáo dục - đào tạo, đặc biệt là nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới nội dung và cơ cấu ngành nghề đào tạo phù hợp với ngành nghề trong nền kinh tế thị trường; cần quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề một cách hợp lý, tiến hành quy hoạch các cơ sở dạy nghề kỹ thuật cao và nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu của các ngành kinh tế mũi nhọn, các khu công nghiệp tập trung, xuất khẩu lao động và chuyên gia. Làm như vậy sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện chỉ tiêu đến năm 2005 tỷ lệ lao động trình độ cao chiếm khoảng 15% lực lượng lao động và đến năm 2010 là khoảng 20%. Đồng thời cần tuyên truyền để nâng cao nhận thức của nhân dân, đặc biệt là thanh niên về nghề nghiệp nhằm định hướng lại giá trị xã hội đối với nghề nghiệp, hình thành quan niệm mới về lao động và việc làm. Thứ tư, đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia. Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một giải pháp giải quyết việc làm. Số lượng lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài đã tăng từ một nghìn người năm 1991 lên 37.000 năm 2001. Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động cần phải tăng cường đào tạo nghề cho người lao động; mở rộng thị trường xuất khẩu lao động bằng cách tăng thị phần ở các thị trường hiện có, nghiên cứu mở thêm thị trường mới về xuất khẩu lao động; đa dạng hoá ngành nghề, hình thức và thành phần tham gia xuất khẩu lao động. Cần chấn chỉnh và sắp xếp lại các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động và tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp này, xử lý nghiêm các vi phạm để tránh gây thiệt hại cho người lao động. Đồng thời nâng cao sự hiểu biết của người lao động về quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong thoả thuận và thực hiện hợp đồng lao động. Thứ năm, tăng quỹ quốc gia về việc làm và sử dụng có hiệu quả quỹ đó, thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá giải quyết việc làm. Quỹ quốc gia giải quyết việc làm ở Việt Nam được hình thành từ năm 1992 đến năm 2000 có khoảng 2000 tỷ đồng hỗ trợ trực tiếp việc giải quyết việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm và các đối tượng yếu thế. Từ năm 1996 đến năm 2000 quỹ đã giải quyết việc làm 1,8 triệu người. Trong thời gian tới cần tăng đầu tư cho Quỹ quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm và sử dụng có hiệu quả quỹ đó. Cần sử dụng tổng hợp các nguồn lực trong nước: sự đóng góp của các doanh nghiệp, các đoàn thể và cộng đồng, và sự giúp đỡ của quốc tế để giải quyết vấn đề lao động và việc làm. * Thực hiện tốt chủ trương xoá đói giảm nghèo. Đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Bước vào thiên niên kỷ mới, đói nghèo vẫn là một trong những thách thức lớn của nhân loại. Vì thế, xoá đói giảm nghèo được coi là một trong những nội dung quan trọng, ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI. Tại khoá họp đặc biệt của Đại hội đồng liên hợp quốc đã kêu gọi cộng đồng quốc tế “tấn công vào đói nghèo” Nhận thức được tầm quan trọng của công cuộc xoá đói giảm nghèo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương tấn công vào nghèo đói và đã đạt được những thành tựu nổi bật trong xoá đói giảm nghèo mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận. Theo chuẩn của Bộ lao động - thương binh và xã hội thì tỷ lệ nghèo đói năm 1992-1993 là 30%, năm 1999 là 13%, năm 2000 là 11% ( nếu tính theo chuẩn mới điều chỉnh của Bộ lao động - Thương binh và xã hội thì tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam năm 2000 là 17,5%, năm 2001 là 16% và năm 2002 là 14,3% ), mức sống của người nghèo được cải thiện. Tuy nhiên, tỷ lệ đói nghèo trong thời gian qua còn ở mức cao, thành quả giảm đói nghèo chưa thật vững chắc, hiện tượng tái nghèo vẫn tiếp diễn. Mục tiêu tổng quát xoá đói, giảm nghèo là phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo, đại bộ phận người nghèo tiếp cận được các dịch vụ xã hội, hoàn thành cơ bản các mục tiêu trợ giúp các xã đặc biệt khó khăn, mở rộng cơ hội cho mọi người thụ hưởng các chính sách trợ giúp xã hội và phúc lợi xã hội. Phấn đấu đến năm 2005 không để tái đói kinh niên, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10% theo chuẩn nghèo mới ( nếu tính theo chuẩn cũ còn khoảng 5%), cơ bản các xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu. Để thực hiện mục tiêu trên, những vấn đề có tính quyết định là duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và tạo được nhiều việc làm cho người lao động. Muốn thực hiện được điều đó, như đã phân tích, cần khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân, vì khu vực này là khu vực có khả năng tạo ra nhiều việc làm trong tương lai, góp phần tích cực vào xoá đói giảm nghèo. Dưới đây sẽ bàn một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo ở nước ta trong thời gian tới. Thứ nhất, tạo môi trường kinh tế - xã hội, cơ chế chính sách thuận lợi cho các thành phần kinh tế, đặc biệt cho kinh tế tư nhân phát triển, mọi công nhân được quyền tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật. Nhờ đó huy động tối đa các nguồn lực vào phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập. Đây là giải pháp cơ bản nhất để xoá đói giảm nghèo nhanh và bền vững. Thứ hai, phát triển nông nghiệp và nông thôn. Có thể coi đây là hướng trọng tâm của chiến lược xoá đói, giảm nghèo. Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Thực hiện đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp bằng cách đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi, lựa chọn các cây, con có giá trị kinh tế cao. Đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là công nghệ sinh học, kỹ thuật thâm canh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH,HĐH, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ, đưa ngành nghề mới vào nông thôn. Việc phát triển khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm cho người lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế nông thôn. Các cuộc điều tra về thu nhập và mức sống cho thấy những vùng thuần nông, những hộ thuần nông thường có thu nhập và mức sống thấp hơn mức trung bình. Do đó, cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn sẽ có tác dụng tích cực đến xoá đói, giảm nghèo. Thứ ba, tăng cường hỗ trợ cho người nghèo phát triển sản xuất vươn lên làm giàu: (1) hỗ trợ vốn. Trong thời gian qua chỉ có 33% người nghèo được vay vốn từ các cơ quan tài chính Nhà nước. Nếu không tiếp cận được các nguồn vốn, thì người nghèo cũng khó có thể phát triển được sản xuất. Vì thế, cần mở rộng diện cho vay, kéo dài thời hạn vay, giảm mức lãi suất cho vay và nới lỏng điều kiện cho vay đối với người ngèo. Đồng thời hướng dẫn họ biết cách sử dụng vốn, tìm hướng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. (2) hướng dẫn người nghèo làm kinh tế. Người nghèo không chỉ thiếu vốn, mà còn thiếu kiến thức chuyên môn kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, không biết rõ nhu cầu của thị trường về các loại nông phẩm. Vì thế, cần bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin, giúp tiêu thụ sản phẩm đối với vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo. Do đó liên kết bốn nhà (nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp và Nhà nước trong sản xuất nông nghiệp) trong sản xuất nông nghiệp là mô hình trợ giúp thiết thực cho nông dân nói chung và người nghèo nói riêng. Đồng thời tăng cường hơn nữa công tác khuyến nông và tổ chức mạng lưới khuyến nông đến tận thôn xã giúp nông dân sử dụng vốn đúng mục đích, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, nhờ đó góp phần xoá đói giảm nghèo;(3) tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc biệt cho các xã khó khăn, trước hết là xây dựng đường giao thông đến các xã, thôn, bản tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Thứ tư, tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội. Phúc lợi xã hội là một công cụ mà Nhà nước có thể sử dụng để làm giảm bớt sự chênh lệch quá lớn, đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, một số công trình nghiên cứu cho thấy những trợ cấp này còn chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng thu nhập của dân cư, nghĩa là dân cư Việt Nam có thu nhập từ lao động cá nhân và gia đình là chủ yếu, thu nhập do phân phối lại mang tính xã hội còn thấp. Một đặc điểm đáng lưu ý là các tầng lớp trung lưu được hưởng nhiều hơn từ sự phân phối phúc lợi xã hội so với những nhóm khác. Các nghiên cứu cũng cho thấy học vấn càng cao thì càng có khả năng thuộc vào nhóm có mức sống cao. Vấn đề đặt ra là tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận được các dịch vụ xã hội, đặc biệt là các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục, kế hoạch hoá gia đình, nước sạch sinh hoạt,..... Thứ năm, thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá công tác xoá đói, giảm nghèo. (1) Đa dạng hoá các nguồn lực cho xoá đói, giảm nghèo ngoài nguồn đầu tư của Nhà nước , cần huy động các nguồn lực tại chỗ, hỗ trợ của các tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng và sự trợ giúp quốc tế cho chống đói nghèo.(2) Tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm xoá đói, giảm nghèo từ Trung ương đến cơ sở và người dân, tạo phong trào và sức mạnh tổng hợp xoá đói, giảm nghèo. Xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo của cấp uỷ đảng; chức năng nhiệm vụ của các bộ ngành; vai trò của mặt trận tổ quốc và các đoàn thể, khơi dậy trách nhiệm của cộng đồng, tinh thần lá lành đùm lá rách và sự vươn lên của chính bản thân người nghèo.(3) Thực hiện quy chế dân chủ, đảm bảo cho người nghèo tham gia vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo, công khai về nguồn lực tài chính đảm bảo sự trợ giúp đến được với người nghèo. (4) Tổ chức thực hiện nhân rộng các mô hình xoá đói, giảm nghèo thành công: mô hình tiết kiệm - tín dụng của hội phụ nữ, mô hình xoá đói giảm nghèo theo hướng tự cứu ở các tỉnh miền Trung, mô hình hướng dẫn cách làm ăn cho đồng bào dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc,...... ; lồng ghép các chương trình kinh tế, xã hội với chương trình xoá đói giảm nghèo. 3.2.3.2. Hoàn thiện hệ thống an ninh xã hội * Hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế Trong thời gian qua, chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế đã từng bước được cải thiện và trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển con người của Đảng. Việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đã có chuyển biến mạnh mẽ, đạt được những kết quả bước đầu quan trọng: phạm vi và đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội từng bước được mở rộng, chính sách bảo hiểm xã hội được áp dụng thống nhất cho mọi loại hình lao động đã tạo lập sự bình đẳng giữa những người lao động trong các thành phần kinh tế, với sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động đã giảm gánh nặng chi cho bảo hiểm xã hội của NSNN. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội còn những hạn chế cần được khắc phục: đối tượng tham gia bảo hiểm còn hạn hẹp, nhận thức về chính sách bảo hiểm chưa đồng đủ, nên nhiều đối tượng không tham gia bảo hiểm, nợ đọng bảo hiểm, chế tài xử lý vi phạm chính sách bảo hiểm còn quá nhẹ chưa có tác dụng giáo dục, răn đe,....Vì thế chính sách bảo hiểm xã hội trong thời gian tới cần được tiếp tục đổi mới, hoàn thiện. Mục tiêu của chính sách bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà nước là chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, chăm lo sức khoẻ cho người lao động. Để thực hiện mục tiêu đó cần thiết lập một hệ thống đồng bộ và đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội. Dưới đây bàn về các giải pháp hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội. Thứ nhất, sớm xây dựng và ban hành Luật bảo hiểm xã hội ( bao gồm cả bảo hiểm y tế) tạo hành lang pháp lý cơ bản cho hoạt động bảo hiểm xã hội, trong đó, các chế độ bảo hiểm xã hội cần được quy định phù hợp, khắc phục được những hạn chế, bất cập trong thời gian qua, nhất là tuổi về hưu. Nâng độ tuổi nghỉ hưu của cán bộ, chuyên gia làm công tác nghiên cứu khoa học, cán bộ nữ làm công tác quản lý và nghiên cứu khoa học. Thứ hai, khẩn trương mở rộng thêm đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội để thu hút tất cả lao động thuộc các thành phần kinh tế đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện bảo hiểm xã hội. Với loại hình bảo hiểm bắt buộc nên quy định những doanh nghiệp có từ 5 lao động trở lên đều phải tham gia, vì ở nước ta các doanh nghiệp vừa và nhỏ là chủ yếu. Về loại hình bảo hiểm tự nguyện cần được mở rộng trên phạm vi cả nước. Tổ chức thực hiện thí điểm bảo hiểm thất nghiệp, sau đó từng bước đưa bảo hiểm thất nghiệp vào hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội Việt Nam. Thứ ba, mức đóng góp và mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội cần được nghiên cứu, xác định cho phù hợp để đảm bảo cuộc sống ổn định của đối tượng, tính toán đảm bảo công bằng giữa đóng góp và hưởng thụ, cân đối giữa thu và chi để đảm bảo an toàn quỹ bảo hiểm xã hội lâu dài. Do đó cần xây dựng phương án bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm dài hạn để đảm bảo cân đối thu chi độc lập. Thứ tư, tiếp tục mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế, tiến tới thực hiện bảo hiểm y tế cho toàn dân theo tinh thần Đại hội đảng lần thứ IX nêu ra. Nguyên lý của bảo hiểm là lấy đóng góp của số đông bù cho số ít gặp rủi ro ốm đau. Trong thời gian qua, ngoài loại hình bảo hiểm y tế bắt buộc, các cơ quan bảo hiểm y tế đã triển khai nhiều loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện. Tuy nhiên, số lượng người tham gia các loại hình bảo hiểm này còn hạn chế so với tiềm năng thực tế. Trong thời gian tới để mở rộng bảo hiểm y tế cần có sự điều chỉnh về cơ chế hoạt động này, cụ thể như sau: (1) Phát triển và mở rộng bảo hiểm y tế học sinh, thực hiện mục tiêu xã hội hoá công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ học sinh, giảm bớt gánh nặng về tài chính cho cha mẹ học sinh. (2) Mở rộng bảo hiểm y tế cho nông dân. Khoảng 76% dân số Việt Nam là nông dân, thu nhập của họ thấp, nhiều người nghèo là nông dân. Vì thế, để giúp số đông nông dân tham gia bảo hiểm y tế, cần có sự hỗ trợ một phần kinh phí mua thẻ bảo hiểm y tế, ít nhất là trong giai đoạn đầu như một số địa phương đã làm. (3) Duy trì và mở rộng thêm diện được cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo. Nhà nước cần dành riêng một khoản ngân sách ổn định hàng năm để mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo. Theo một số nghiên cứu, nhu cầu y tế sẽ tăng trong thời gian tới, để cân đối quỹ bảo hiểm y tế, cần thực hiện phương thức cùng chi trả chi phí khám chữa bệnh đối với các đối tượng đã được quy định tại Điều lệ bảo hiểm y tế đã ban hành. Thứ năm, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống bảo hiểm Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải tiến lề lối làm việc, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về trình độ chính trị, chuyên môn, đạo đức hết lòng phục vụ đối tượng. * Thực hiện tốt chính sách cứu trợ và ưu đãi xã hội. - Cứu trợ xã hội là một bộ phận hợp thành của chính sách xã hội (an ninh xã hội) nhằm thực hiện chủ trương của Đảng: tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong những năm qua, Nhà nước ban hành một hệ thống văn bản về cứu trợ xã hội: cứu trợ đột xuất do thiên tai, bão lụt, thiếu đói và cứu trợ thường xuyên cho người già cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật không người nôi dưỡng, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa.... Nhìn chung công tác cứu trợ xã hội được thực hiện tốt, đáng khích lệ. Trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện, thể chế hoá chủ trương của Đảng về cứu trợ xã hội thành hệ thống chính sách thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các ngành, các địa phương, các tổ chức thực hiện chính sách cứu trợ xã hội; đồng thời cần có sự đổi mới toàn diện trong công tác quản lý và chỉ đạo thực hiện công tác cứu trợ xã hội. Nguồn kinh phí cho cứu trợ xã hội trong thời gian tới cần được tăng lên bằng cách huy động từ nhiều nguồn; trong đó nguồn chi từ NSNN vẫn là chủ yếu; thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá công tác cứu trợ xã hội; đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện. - Ưu đãi xã hội: Đảng và Nhà nước ta khẳng định rằng ưu đãi xã hội là trách nhiệm đặc biệt của toàn dân đối với thương binh, bệnh binh, thanh niên xung phong, các gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng. Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội không chỉ thể hiện công bằng xã hội, mà còn thể hiện sự đền ơn đáp nghĩa, “uống nước nhớ nguồn”, góp phần giáo dục trách nhiệm công dân, đặc biệt là giáo dục thế hệ trẻ. Vì thế, trong thời gian tới, cần tổ chức tốt việc thực hiện Pháp lệnh về người có công. Đảm bảo cho người có công với cách mạng, với đất nước có đời sống vật chất và tinh thần ít nhất bằng với mức sống trung bình của nhân dân ở nơi cư trú. Để thực hiện được điều đó, ngoài nguồn lực của Nhà nước là chủ yếu, cần huy động sự đóng góp tự nguyện của các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân trong xã hội, mở rộng phong trào đền ơn, đáp nghĩa, chăm sóc gia đình chính sách. Kết luận Từ trước đến nay vấn đề phân phối luôn giữ vai trò quan trọng trong lý luận kinh tế. Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chứ không phải là kinh tế thị trường TBCN. Việc làm rõ bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN nói chung và chế độ phân phối của nó nói riêng có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn. Công trình nghiên cứu này cũng đã làm rõ giá trị khoa học lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối và Đảng ta đã vận dụng sáng tạo lý luận đó trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN như thế nào; làm rõ các nguyên tắc phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò của Nhà nước và cơ chế điều tiết của Nhà nước đối với phân phối thu nhập để đảm bảo sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng. Vai trò của Nhà nước đối với phân phối thu nhập trong thời gian qua ở nước ta được đánh giá thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng các chính sách phân phối, hệ thống an ninh xã hội và mức sống của các tầng lớp dân cư, cũng như mức độ phân hoá giầu nghèo ở nước ta hiện nay. Các chính sách phân phối đã từng bước được đổi mới và trở thành công cụ có khả năng điều tiết thu nhập trong xã hội, thực hiện chủ trương của Đảng: gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian tới, các chính sách phân phối thu nhập cần được tiếp tục đổi mới, hoàn thiện phù hợp với kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa hiệu quả và công bằng cần được tiếp tục nghiên cứu. Tài liệu tham khảo 1. C. Mác và Ph. Ăng ghen Tuyển tập, T1, NXB CTQG, H, 1980 2. C. Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, T19, NXB CTQG, H, 1995 3. C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, T21, NXB CTQG, H 1995 4. C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, T23, NXB CTQG, H, 1993 5. C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, T25, NXB CTQG, H, 1993 6. C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, T 25, Phần I, NXB CTQG, H, 1993 7. C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, T12, NXB CTQG, H, 1995. 8. C. Mác: Tư bản: Q3, T3, NXB ST, H, 1968 9. Ph. Ăng ghen: Chống Đuy- rinh. NXB ST, H, 1971. 10. V.I. Lênin: Bàn về công nghiệp nặng và điện khí hoá cả nước . NXB ST, H, 1962. 11. V.I. Lênin: Toàn tập, T3, NXB TB, M, 1977 12. V.I. Lênin: Toàn tập, T 33, NXB TB, M, 1976 13. V.I. Lênin: Toàn tập. T35, NXB TB, M, 1976 14. V.I. Lênin: Toàn tập, T 44, NXB TB, M, 1978 15. C. Mác, Ăng ghen, Lênin và Stalin: Bàn về phân phối NXB ST, H, 1974. 16. Hồ Chí Minh: Toàn tập T7, NXB CTQG, H, 2000 17. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T8, NXB CTQG, H, 2000 18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T9, NXB CTQG, H, 2000 19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T10, NXB CTQG, H, 2000 20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T11, NXB CTQG, H, 2000 21. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T12, NXB CTQG, H, 2000 22. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB CTQG, H, 1996 23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG, H, 2001 24. Một số chính sách quốc gia về việc làm và xoá đói giảm nghèo. NXN LĐ, H, 2002 25. Bộ luật lao động của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. NXB CTQG, H, 1994 26. Lý Bân: Lý luận chung về phân phối của chủ nghĩa xã hội. NXB CTQG, H, 1999 27. Cốc Thư Đường (chủ biên): Lý luận mới về kinh tế học xã hội chủ nghĩa. NXB CTQG, H, 1997 28. Chu Thượng Văn: Chủ nghĩa xã hội là gì? xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào? NXB CTQG, H, 1999 29. TS. Nguyễn Kim Bảo: Thể chế kinh tế thị trường XHCN có đặc sắc Trung quốc. NXB KHXH, H, 2002 30. Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin. NXB CTQG, H, 1999 31. P.A. Samucelson và W.D. Nordhaus: Kinh tế học, T1, Viện quan hệ kinh tế quốc tế, 1989 32. P.A. Samucelson và W.D. Nordhaus: kinh tế học, T2, Viện quan hệ kinh tế quốc tế, 1989 33. David Begg: kinh tế học, T1, NXB GD, H, 1992 34. Đại từ điển kinh tế thị trường. Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, H, 1998 35. Tổng cục thống kê: Số liệu về sự biến đổi xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. NXB Thống kê, H, 2000 36. Trinh Duy Luân ( Chủ biên): Phát triển xã hội ở Việt Nam - Tổng quan xã hội học năm 2000. NXB KHXH, H, 2002 37. TS. Lê Đăng Doanh và TS. Nguyễn Minh Tú: Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội trong quá trình chuyển đổi từ 1991 đến nay. NXB LĐ, H, 2001 38. GS.TS. Phạm Xuân Nam: Sự quản lý phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng: NXB CTQG, H, 2001. 39. TS. Phạm Thị Thu Hằng: Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ. NXB CTQG, H, 2002. 40. Bộ tài chính: Một số vấn đề về chính sách tài chính trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập giai đoạn 2001 - 2010, H, 1999 41. Các quy định mới về doanh nghiệp Nhà nước. NXB Thống kê, H, 1997 42. Đỗ Minh Cương (chủ biên): Tìm hiểu về chế độ tiền lương mới NXB CTQG, H, 1993 43. Kỷ yếu hội thảo: Phương hướng và bước đi của tiền lương tối thiểu và quan hệ tiền lương trong các khu vực thời kỳ 2001 - 2005. Tháng 7/2001. 44. Đinh Trọng Thắng và Ngô Văn Giang: Một số vấn đề cần quan tâm trong cải cách tiền lương hiện nay. Tạp chí Lao động và xã hội. Số 186 tháng 3/2002 45. Thảo Lan: Cải cách tiền lương trong khu vực Nhà nước ở Việt Nam. Tạp chí Lao động và xã hội, số 186 tháng 3/2002 46. Nguyên Xuân Nga: Cơ sở tiền lương tối thiểu và phương pháp tiếp cận xác định. Tạp chí Lao động và xã hội, số 186 tháng 3/202 47. GS. Lương Trọng Yêm: Vài suy nghĩ về cải cách tiền lương cán bộ, công chức hiện nay. Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 7/2001 48. Đoàn Cường: Về chính sách tiền lương chức vụ trong cơ quan Nhà nước. Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 8/2001 49. Những hướng dẫn mới về tiền lương, thời gian làm việc, bảo hiểm xã hội, thi đua khen thưởng. NXB LĐ, H, 2000 50. Ngô Thị Ngọc Anh: Giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp ở nước ta hiện nay - Tạp chhí Giáo dục lý luận, số 3/2003 51. Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ: Tài liệu hội thảo về cải cách chính sách tiền lương Nhà nước giai đoạn 2001 - 2005, Hà Nội tháng 5/2001 52. PGS.TS. Mai Ngọc Cường: Về cải cách tiền lương của cán bộ công chức ở Việt Nam những năm tới. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 64 tháng 10/2002 53. Trần Văn Chử: Quan hệ giữa chất lượng lao động và giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tạp chí Lý luận chính trị số 2/2002. 54. Nguyễn Văn Định: Bảo hiểm xã hội và một số vấn đề đặt ra trong quá trình cải cách tiền lương ở Việt Nam. Tạp chí kinh tế và phát triển, số 64 tháng 10/2002. 55. Nguyễn Kim Đình: Tiền lương phải phù hợp với giá trị sức lao động. Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2002. 56. GS. TS. Tống Văn Đường: Những nội dung cơ bản của cải cách chính sách tiền lương ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Kinh tế và phát triển, só 47, tháng 5/2001. 57. Trần Thị Hằng: Về phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay. Tạp chí Lý luận Chính trị, số 1/2002. 58. TS. Vũ Thị Hiểu: Về sự hình thành và sử dụng vốn hỗ trợ cho người nghèo ở Việt Nam trong thời gian qua. Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 54 tháng 12/2001. 59. Kết quả thực hiện các chương trình 135, xoá đói giảm nghèo, việc làm năm 2001 và mục tiêu kế hoạch 2002 - 2005. Tạp chí Kinh tế và Tự do hoá, số 8/2002. 60. Bạch Kim: Cải cách theo hướng nào để tiền lương thực sự là đầu tư phát triển nguồn lực con người. Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7/2002. 61. Một số chính sách quốc gia về việc làm và xoá đói giảm nghèo. NXB Lao động, Hà Nội - 2002. 62. Phát triển nông nghiệp và nông thôn - Mấu chốt của chiến lược tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo. Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 6/2002. 63. Lê Phượng: Tăng lương theo hướng nào? Báo Đầu tư, số 123 ( 920) ra ngày 14/10/2002. 64. TS. Nguyễn Ngọc Quân - Đặng Đức Huyền: Quan điểm và các giải pháp cải cách chính sách tiền lương, chính sách xã hội. Tạp chí kinh tế và phát triển, số 49, tháng 7/2001. 65. PGS.TS. Phạm Đức Thành: Mối quan hệ giữa nhu cầu tối thiểu, mức sống tối thiểu với tiền lương tối thiểu. Tạp chí kinh tế và phát triển, số 51, tháng 9/2001. 67. Đỗ Xuân Trường: Tín dụng cho người nghèo và các quỹ xoá đói, giảm nghèo ở nước ta. Tạp chí Lý luận chính trị, số 2/2002. 68. Thông báo Hội nghị lần thứ tám BCHTƯ Đảng khoá IX. Tạp chí cộng sản, số 21 tháng 7/ 2003 69. Nguyễn Văn Hiệu: Những xu hướng cải cách thuế trên thế giới trong những năm cuối thế kỷ XX. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 277,tháng 6/ 2001. 70. Nguyễn Văn Hiệu: Sự phát triển của kinh tế học đánh thuế qua các thời kỳ và xu hướng cải cách thuế đương đại. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 284 tháng 1/2002. 71. Hà Đức Trụ: Mười năm cải cách thuế Nhà nước: Thành công và bất cập. Tạp chí nghiên cứu kinh tế ,số 299 tháng 4/2003 72. Nguyễn Thị Hằng: Bước tiến mới của sự nghiệp xoá đói giảm nghèo. Tạp chí cộng sản, số 5 tháng 3/2001 73. Nguyễn Thị Hằng: Lao động và việc làm - những bước tiến quan trọng. Tạp chí cộng sản, số 23 tháng 8/2002 74. Nguyễn Thị Hằng: Cải cách và thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công. Tạp chí cộng sản, số 21 tháng 7/2003 75. Đường Minh Sường: Vấn đề việc làm: Thực trạng và triển vọng giải quyết. Tạp chí cộng sản, số 6 tháng 3/2001 76. Nguyễn Huy Ban: Bảo hiểm xã hội - một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển con người của Đảng. Tạp chí cộng sản, số 17 tháng 6/2003. 77. Phạm Mạnh Hùng: Thực hiện định hướng công bằng và hiệu quả trong chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Tạp chí cộng sản, số 15 tháng 8/ 2001. 78. Đại học KTQD: Thực trạng và cacá giải pháp chủ yếu cái cách chính sách tiền lương ở Việt Nam. 79. Đại học KTQD : Báo về công tác xoá đói giảm nghèo và an sinh xã hội mục lục Trang Mở đầu Chương 1: Lý luận về vai trò của nhà nước trong phân phối thu nhập 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về phân phối 1.1.1. Lý luận của chủnghĩa Mác – Lê nin về phân phối 1.1.2. Một số lý thuyết về phân phổi trong kinh tế học hiện đại 1.1.3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phân phối thu nhập 1.2. Những nhân tố quy định phân phối và những nguyên tắc phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN 1.2.1. Những nhân tố quy định phân phối 1.2.2.Những nguyên tắc phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN 1.3. Vai trò điều tiết của nhà nước trong phân phối thu nhập 1.3.1. Vai trò của nhà nước trong phân phối thu nhập quốc dân 1.3.2. Cơ chế và chính sách phân phối thu nhập của nhà nước Chương 2: Thực trạng vai trò điều tiết của nhà nước đối với phân phố thu nhập trong thời gian qua ở nước ta 2.1. Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua 2.1.1. Thực trạng chính sách tiền lương 2.1.2. Thực trạng chính sách thuế đối với phân phối 2.1.3. Thực trạng một số chính sách xã hội 2.2. Đánh giá kết quả chung và những vấn đề đặt ra đối với sự điều tiết của nhà nước về phân phối thu nhập 2.2.1. Thu nhập và mức sống 2.2.2. Đánh giá về sự đổi mới các chính sách phân phối và điều tiết thu nhập của nhà nước 2.2.3. Những vấn đề đặt ra đối với sự điều tiết của nhà nước về phân phối thu nhập Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường vai trò của nhà nước trong phân phối thu nhập nhằm thực hiện định hướng XHCN 3.1. Những quan điểm về phân phối và điều tiết thu nhập trong kinh tế thị trường XHCN ở Việt Nam 3.2. Những giải pháp tăng cường vai trò của nhà nước trong phân phối thu nhập nhằm thực hiện định hướng XHCN ở nước ta 3.2.1. Cải cách chính sách tiền lương 3.2.2. Tiếp tục cải cách chính sách thuế nhằm điều tiết thu nhập hợp lý 3.2.3. Hoàn thiện các chính sách xã hội Kết luận Danh sách thành viên tham gia đề tài 1 PGS. TS Mai Hữu Thực Chủ nhiệm đề tài 2 TS. Đào Phương Liên Thư ký 3 PGS. TS. Trần Bình Trọng Thành viên 4 TS. An Như Hải Thành viên 5 PGS.TS. Phạm Quang Phan Thành viên 6 TS. Tô Đức Hạnh Thành viên 7 PGS. TS. Phan Thanh Phố Thành viên 8 TS. Lê Thục Thành viên 9 CN. Mai Lan Hương Thành viên 10 Th.S. Nguyễn Thị Thu Hương Thành viên Các từ viết tắt CNXH – Chủ nghĩa xã hội XHCN – Xã hội chủ nghĩa CNTB – Chủ nghĩa tư bản TBCN – Tư bản chủ nghĩa DNNN – Doanh nghiệp nhà nước NSNN – Ngân sách nhà nước GTGT – (thuế) Giá trị gia tăng TTĐB – (thuế) Tiêu thụ đặc biệt BHXH – Bảo hiểm xã hội BHYT – Bảo hiểm y tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0065.doc
Tài liệu liên quan