Xã hội học - Hoạt động tuyển dụng, đào tạo đội ngũ quan lại dưới thời vua quang trung và những hàm ý cho hôm nay

Không chỉ nghiêm khắc, công bằng trong giáo dục quan lại, Quang Trung còn gắng sức phát huy tinh thần “dân chủ” trong quản lý bộ máy nhà n-ớc. Các vị vua kế tiếp của triều đại Tây Sơn đã cố gắng tiếp thu t- t-ởng này của ông. Việc ban hành “Chiếu cầu lời nói thẳng”(**) nhằm thu thập ý kiến của quan dân khắp nơi để điều chỉnh hoạt động của triều chính và của ng-ời đứng đầu nhà n-ớc là một minh chứng sinh động cho tinh thần ấy: “Nay quốc gia đất rộng ng-ời nhiều, thực là nhờ công ơn của tiên hoàng đế (chỉ Vua Quang Trung) mở mang khi tr-ớc. Nh-ng đất rộng mà lắm chỗ bỏ hoang, dân nhiều mà nhiều nơi ca thán

pdf8 trang | Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 505 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xã hội học - Hoạt động tuyển dụng, đào tạo đội ngũ quan lại dưới thời vua quang trung và những hàm ý cho hôm nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hoạt động tuyển dụng, đào tạo đội ngũ quan lại dưới thời Vua Quang Trung và những hàm ý cho hụm nay(*) Nguyễn Thị Mỹ Hạnh(**) Tóm tắt: Bài viết đi tìm lại t− t−ởng và chính sách chiêu hiền đãi sĩ, đào tạo nhân tài d−ới thời Vua Quang Trung - một vị vua tài đức vẹn toàn, có nhiều đóng góp lớn lao trong công cuộc bảo vệ và dựng xây đất n−ớc ở nửa cuối thế kỷ XVIII. Từ “chiến l−ợc con ng−ời”, chiến l−ợc và sách l−ợc “dụng nhân” mà Vua Quang Trung đã vận dụng trong suốt thời gian cầm quyền ngắn ngủi của mình (1788-1792), bài viết gợi lên cho chúng ta hôm nay nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Có thể nói, t− t−ởng và chính sách chiêu hiền đãi sĩ, đào tạo nhân tài lúc bấy giờ của Vua Quang Trung không chỉ mang ý nghĩa chính trị của một thời mà nó còn vẹn nguyên giá trị trong mọi thời đại. Từ khóa: Tuyển dụng quan lại, Đào tạo nhân tài, Quang Trung (*)(**)Lời khẳng định của vị danh thần thời Lê - Thân Nhân Trung về vai trò quyết định của hiền tài đối với nội lực dân tộc từ lâu đã trở thành chân lý đ−ợc đời đời khắc ghi: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế n−ớc mạnh và h−ng thịnh. Nguyên khí suy thì thế n−ớc yếu mà thấp kém. Vì thế, các bậc thánh minh chẳng ai không coi việc kén chọn kẻ sĩ, bồi d−ỡng nhân tài, vun trồng nguyên khí là công việc cần kíp. Bởi vì, kẻ sĩ có quan hệ trọng đại với quốc gia nh− thế, cho nên đ−ợc quý chuộng không biết nh−ờng nào”. Câu (*) Bài viết đ−ợc thực hiện bởi sự tài trợ của Quỹ Nafosted - Mã số: IV1.1-2012.08. (**) TS., Đại học S− phạm Hà Nội; Email: myhanhvnh@gmail.com nói đ−ợc tạc khắc vào bia đá ở Văn Miếu - Hà Nội ấy nh− là một lời gợi nhắc về truyền thống trọng dụng nhân tài của ông cha ta từ xa x−a. Nhân tài là nguyên khí của quốc gia, thịnh loạn hay thăng trầm của đất n−ớc luôn luôn có mối t−ơng quan mật thiết với “mạch nguyên khí” đó. Tiếp nối ý thức ấy của các bậc cha anh đi tr−ớc, Vua Quang Trung trong suốt thời gian cầm quyền đã nêu tấm g−ơng sáng ngời về t− t−ởng và hành động chiêu hiền đãi sĩ, không ngừng giáo dục và bồi d−ỡng nhân tài, biến họ thực sự trở thành ngọn nguồn sức mạnh của thời đại. D−ới đây là một số nội dung về t− t−ởng và chính sách chiêu hiền đãi sĩ, đào tạo nhân tài của Vua Quang Trung. Hoạt động tuyển dụng, đào tạo 35 1. Tuyển chọn hiền tài qua nhiều hình thức dân chủ và rộng mở Suốt những năm tháng trên c−ơng vị Hoàng đế (1788-1792), Vua Quang Trung đã ban ra 4 Chiếu quan trọng là: Chiếu Cầu hiền, Chiếu Hiểu dụ các quan văn võ cựu triều, Chiếu Lập học và Chiếu mở khoa thi. Cả 4 chiếu này đều h−ớng đến việc lựa chọn, bồi d−ỡng ng−ời tài nhằm dựng xây đất n−ớc. Vua Quang Trung thấu hiểu sâu sắc vai trò và sứ mệnh của ng−ời hiền tài đối với đất n−ớc. Ông hiểu rằng: Sự nghiệp đại định của đất n−ớc đòi hỏi các bậc hiền tài phải ra sức cống hiến tài năng và nhiệt huyết của mình. Từ ý thức ấy, Vua Quang Trung đã rất chân thành bày tỏ thái độ chiêu hiền đãi sĩ của mình, tỏ rõ mong muốn thiết tha có đ−ợc sự cộng tác của các bậc hiền tài trong thiên hạ nhằm xây dựng một triều đại mới vững mạnh: “...Đ−ơng khi trời còn thảo muội, là lúc quân tử thi thố kinh luân, nay buổi đầu đại định, mọi việc còn đ−ơng mới mẻ. Mối giềng triều đình còn nhiều thiếu sót, công việc biên ải chính lúc lo toan. Dân khổ ch−a hồi sức, đức hóa ch−a thấm nhuần, trẫm chăm chắm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một cây gỗ không chống nổi tòa nhà to, m−u l−ợc một kẻ sĩ không dựng đ−ợc cuộc thái bình. Hỏi rằng trong n−ớc, một ấp mấy m−ơi nhà hẳn có ng−ời trung tín, huống chi trong cõi đất rộng lớn đến thế này, há lại không có ng−ời xuất kiệt hơn đời, để giúp rập chính sự buổi đầu cho trẫm −?”, “ban chiếu xuống, quan liêu lớn nhỏ và dân chúng trăm họ, ai có tài năng học thuật, m−u hay giúp ích cho đời đều cho phép đ−ợc dâng th− tỏ bày công việc. Lời có thể dùng đ−ợc thì đặc cách bổ dụng, lời không dùng đ−ợc thì để đấy, chứ không bắt tội vu khoát. Những ng−ời có tài nghệ gì thì có thể dùng cho đời, cho phép các quan văn võ đ−ợc tiến cử; lại cho dẫn đến yết kiến, tùy tài bổ dụng. Hoặc có ng−ời từ tr−ớc đến nay giấu tài ẩn tiếng, không ai biết đến, cũng cho phép đ−ợc dâng th− tự tiến cử...” (Xem “Chiếu lên ngôi” của Quang Trung, trong: Nguyễn Lộc chủ biên, 1993, tr.78). Rõ ràng, chủ tr−ơng cầu hiền tài của Vua Quang Trung rất dân chủ và rộng mở. Từ bậc quan liêu lớn nhỏ cho đến dân chúng trăm họ, từ những ng−ời có tài nghệ nổi danh cho đến những ng−ời giấu tài ẩn tiếng, từ những ng−ời giỏi chữ nghĩa tới những ng−ời có tay nghề cao ai cũng có thể bày tỏ sở nguyện của mình để đ−ợc cân nhắc, bổ dụng. Và không chỉ cho phép quan dân tiến cử ng−ời tài mà v−ơng triều Quang Trung còn áp dụng cả ph−ơng thức dâng th− tự tiến cử nếu ai thấy mình có khả năng phụng sự triều đình, phụng sự Tổ quốc. Qua đây, chúng ta thấy đ−ợc chính sách chiêu hiền và tuyển dụng nhân tài rất cởi mở, dân chủ của v−ơng triều Tây Sơn mà không phải triều đại phong kiến nào ở n−ớc ta cũng có đ−ợc. Thậm chí, ngay cả với những ng−ời đã từng giúp việc cho v−ơng triều Lê, Trịnh tr−ớc đây, Vua Quang Trung vẫn một lòng thu dùng và thực tâm đối đãi. Điều này đ−ợc minh chứng sinh động ngay trong “Chiếu lên ngôi” của ông: “Hai là: bầy tôi và nhân dân cựu triều hoặc bị vạ lây đã phải kết tội nặng, trừ tội đại nghịch bất đạo, còn thì đều cho đại xá quan viên văn võ cựu triều, hoặc vì tòng vong trốn tránh, cho phép đ−ợc về nguyên quán, ng−ời nào không muốn ra làm quan cũng cho tùy tiện” (Xem “Chiếu lên ngôi” của Quang Trung, trong: Nguyễn Lộc chủ biên, 1993, tr.65; Nguyễn L−ơng Bích, 1989, tr.195). 36 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 Có lẽ, chúng ta không thể quên đ−ợc những khó khăn chồng chất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã trải qua khi phải đ−ơng đầu với sự chống đối của giới trí thức Bắc Hà trong và sau cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Lý Trần Quán tự chôn sống để chết theo chúa Trịnh, Trần Ph−ơng Bình mổ bụng tự sát, Nguyễn Huy Trạc chọn chén thuốc độc để tận trung với nhà Lê. Còn Trần Danh án, Bùi D−ơng Lịch, Phạm Thái và cả Nguyễn Du cũng đã cầm g−ơm, mộ quân chống lại Tây Sơn. Chúng ta cũng không quên lập tr−ờng thủ cựu của những cựu thần Lê - Trịnh, những con ng−ời bị kìm hãm trong chữ “Trung” thiển cận, chật hẹp, ôm mối cô trung với chiếc ngai vàng mục nát và chống lại Tây Sơn quyết liệt. Vậy mà, đứng tr−ớc tình hình đó, Vua Quang Trung vẫn nhẫn nại cầu hiền, tiếp tục ban chiếu Hiểu dụ các quan văn võ triều cũ với hy vọng đem tấm chân tình của mình để cảm hóa nhân tâm: “Trẫm ba lần xa giá ra Bắc Thành(*), đã tỏ lòng che chở bao dung. Vỗn nghĩ việc x−a, có ng−ời ở Ngu thì n−ớc Ngu mất, sang Tần thì giúp Tần làm nên nghiệp bá(**), ở Tùy thì là kẻ nịnh, sang đến Đ−ờng lại trở thành ng−ời trung(***). Cho nên trẫm không hề lấy cái cớ mất đ−ợc thua để đổ lỗi cho các ng−ơi. ấy thế mà các ng−ơi lúc đầu thì kéo nhau về hàng, sau đó vẫn cùng (*) Bắc thành: chỉ thành Thăng Long. Quang Trung kéo quân ra Thăng Long ba lần vào những năm 1786, 1788, 1789. (**) Chỉ Bách Lý Hề (đời Xuân Thu) tr−ớc làm quan ở n−ớc Ngu. N−ớc Ngu mất, n−ớc Tần đón sang phong làm t−ớng quốc. Bách Lý Hề giúp Tần làm nên nghiệp bá. (***) Chỉ Bùi C−, nguyên tr−ớc là bề tôi của nhà Tùy. Tùy D−ơng Đế thích nịnh, nên Bùi C− làm nh− một nịnh thần. Đến khi Tùy mất, Bùi C− về làm tôi nhà Đ−ờng, Đ−ờng Thái Tông là ông vua sáng suốt, Bùi C− trở lại là một trung thần giúp việc rất đắc lực cho Đ−ờng Thái Tông. nhau lo lắng công việc, mà cuối cùng lại trở mặt, giáo dở bất th−ờng thực là đáng ghét. Ngày tiến vào thành, trẫm đã làm ngơ không nỡ bắt tội. Lại đã ban chiếu dụ, mở cho con đ−ờng sống khẩn khoản hai ba lần, mà các ng−ơi vẫn cứ trông ngóng chần chừ, cố ý trốn tránh, há chẳng phải là các ng−ơi còn mong, may ra viện binh lại đến, tình thế xoay chuyển, đợi xem kết cục ra sao?... Đó có phải là việc làm của ng−ời trung nghĩa sáng suốt đâu. Đáng lẽ ra oai sấm sét, khép các ng−ơi vào tội bất thần(*) Nh−ng lại l−ợng xét, các ng−ơi nh− có bệnh nặng mà mê muội nhầm lẫn, nếu không cho các ng−ơi có dịp để tự đổi mới, e rằng có hại đến đức hiếu sinh Trẫm một niềm yêu mến nhân tài, không thể chốc lát quên đ−ợc. Nên đặc ban, xá hết tội lỗi cho các ng−ơi, tất cả những ng−ời bị giam cầm đều tha hết, những kẻ trốn tránh không bị truy nã để tỏ đức khoan hồng Các ng−ơi nên nhân dịp này lập công nghiệp Cố gắng lên! Cố gắng lên” (Xem “Chiếu hiểu dụ các quan văn võ cựu triều”, trong: Nguyễn Lộc chủ biên, 1993, tr.74-75; Nguyễn L−ơng Bích, 1989, tr.195-196). Cũng ngay sau đó, Vua Quang Trung còn thể hiện lòng khoan dung, độ l−ợng của mình bằng việc ban “Chiếu chỉ tha tội và trả tài sản bị tịch thu” cho các quan triều Lê: “Văn ban, võ ban triều cũ, do vì tr−ớc đây không chịu bái yết, mang án tại đào, đã từng đ−ợc tha tội. Duy điền sản tịch thu sung công, ch−a đ−ợc trả lại, kỳ này xét ai đã tới phụng mệnh, có quan giám trị kê khai tên họ, thì cho nhận lĩnh điền sản cũ về làm kế sinh nhai để khỏi đói rét. Còn những tội phạm phải tù đồ, trừ ngụy án ra, xét tội trạng nào thuộc về tội nặng, (*) Bất thần: Không chịu thần phục. Hoạt động tuyển dụng, đào tạo 37 hãy tạm giam đợi tra xét. Ngoài ra, tha hết để thân oan cho những ng−ời lâu ch−a đ−ợc xét xử” (Nguyễn L−ơng Bích 1989, tr.196). Rõ ràng, trong nhận thức của Hoàng đế Quang Trung, khi nhân tài ch−a quy tụ về một mối, còn hoài nghi về một triều đình mà không ít ng−ời đ−ơng thời gọi là “thảo muội”, ch−a đủ chính danh, thì giáo dục có đặt ra cũng chẳng ích gì. Từ nhận thức ấy, vị Hoàng đế Quang Trung đã không ngần ngại hạ mình cầu nhân tài, không hoài nghi, không phân vân, do dự tr−ớc sự hồi tâm chuyển ý của các cựu thần thất thế. Kết quả là, nhiều ng−ời tài giỏi của triều cũ nh− Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Vũ Huy Tấn, Ninh Tốn, Bùi D−ơng Lịch đã quy tụ d−ới sự lãnh đạo của Vua Quang Trung, dốc hết tài năng, tâm huyết của mình để phụng sự triều đình, phụng sự Tổ quốc. Có thể nói, Vua Quang Trung đã thực sự thành công trong việc chinh phục trái tim của kẻ sĩ đ−ơng thời. Không chỉ cho phép tiến cử, tự tiến cử những bậc hiền tài đảm nhận những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà n−ớc, Vua Quang Trung còn ra sức đẩy mạnh ph−ơng thức tuyển dụng quan lại qua khoa cử bởi theo ông, có nh− vậy mới xây dựng đ−ợc đội ngũ quan lại thực tài, tránh đ−ợc hiện t−ợng “sinh đồ ba quan” xuất hiện từ cuối đời Lê Cảnh H−ng mà trong đó, thí sinh qua kỳ khảo hạch ở huyện để đ−ợc thi H−ơng thì chỉ cần nộp 3 quan tiền là đ−ợc lấy đỗ Sinh đồ. Tiếp nối các triều đại phong kiến tr−ớc đây, Quang Trung đã cho mở các khoa thi Võ và Văn tại kinh đô Phú Xuân, tất cả mọi ng−ời đều đ−ợc ứng thí, không phân biệt ng−ời ở vùng nào, miễn là có thực tài thì sẽ đ−ợc chọn. Về khoa thi Văn, nhà vua cho 3 năm mở một khoa, gọi là khoa Minh Kinh. Khoa thi Văn đầu tiên(*) mở vào năm 1789. Mặc dù sau khi x−ng v−ơng, Vua Quang Trung quản lý phần đất từ Phú Xuân trở ra, còn từ Quảng Nam trở vào thuộc quyền Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc; nh−ng qua các khoa thi ở Phú Xuân, Quang Trung đã tuyển chọn đ−ợc rất nhiều ng−ời ở miền trong và bổ nhiệm họ vào các chức vụ quan trọng trong triều đình. Trong số đó, chúng ta có thể kể đến những g−ơng mặt nổi bật nh−: Phan Văn Biên (ng−ời Phú Yên) giỏi về kinh sử, toán pháp, vừa thi đậu xong đ−ợc bổ ngay làm Huấn Đạo; Đinh Sĩ An (ng−ời Bình Khê), cùng Ngô Diên Diệu, Phan Đình Vân, Huỳnh Chiếu nổi danh về văn học, ng−ời đời x−ng tụng là “Tây Sơn tứ tài tử”, thi xong đ−ợc bổ làm việc ở Nội Các với hàm Hàn lâm; Phạm Văn Trung (ng−ời Phù Mỹ), Trần Trọng Vỹ (Hoài Ân), Đặng Sĩ Nguyên, Đặng Mộng Kỳ, Lý Xuân Tá (ng−ời Quảng Nam) sau khi thi đậu đều đ−ợc bổ nhiệm vào các chức vụ quan trọng theo thực tài từng ng−ời. Trong đó, Trần Trọng Vỹ là ng−ời thơ hay, theo nhà Tây Sơn làm một chức quan nhỏ, sau khi thi đỗ khoa Minh Kinh, ông liền đ−ợc bổ làm Thị Lang Bộ Lễ, Lý Xuân Tá giữ chức An Phủ ở Phú Yên (Quách Tân, Quách Giao, 2000, tr.149). Không chỉ ở phần đất phía Nam, ng−ời ở đất Thuận Hóa và Bắc Hà d−ới triều Tây Sơn cũng đỗ đạt nhiều. Trong đó, nổi tiếng nhất là Đặng Cao Phong. Sau khi thi đậu, ông đ−ợc bổ vào Nội Các với chức Hàn lâm Học sĩ, rồi thăng lên Trung Th− Thị Lang, đ−ợc nhà vua rất mực tin dùng. (*) Cũng là khoa thi Văn cuối cùng. 38 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 Về thi Võ, cũng có không ít ng−ời miền trong ra thi. Trong đó, nổi lên hai g−ơng mặt xuất sắc là Phạm Cần Chính và Lê Sĩ Hoàng, trong đó Sĩ Hoàng lập nhiều chiến công, cùng với Quang Diệu đ−ợc tôn x−ng là “Tây Sơn song đạo” (Quách Tân, Quách Giao, 2000, tr.150). 2. Phát triển hệ thống tr−ờng học trong cả n−ớc, mở rộng việc học đến mọi làng xã, tạo dựng nền tảng xã hội vững chắc cho việc tuyển chọn quan lại Bên cạnh việc tổ chức các kỳ thi tuyển chọn quan lại nêu trên, Quang Trung còn đặc biệt chú trọng đến việc mở mang, phát triển hệ thống tr−ờng học trong cả n−ớc. Ông đã xuống chiếu lập Sùng chính viện với nhiệm vụ chính là dịch những tác phẩm có giá trị về đạo đức và văn ch−ơng từ chữ Hán ra chữ Nôm để phổ biến trong toàn quốc(*). Đồng thời, Quang Trung bổ nhiệm La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đứng đầu Sùng chính viện(**). Chiếu bổ nhiệm của Vua Quang Trung cho Nguyễn Thiệp có đoạn viết rằng: “Ông tuổi đức đều cao tất cả sĩ phu đều trông ngóng nh− núi Thái Sơn, sao Bắc Đẩu, nay trong n−ớc đã yên, trẫm toan h−ng khởi chính học. Ông đã lấy học thuật hiện rõ bên tà, bên chính trong phép học, trẫm rất vui lòng, trẫm định đặt Sùng chính th− viện ở Vinh Kinh tại núi Nam Hoa, ban cho ông làm chức Sùng chính viện viện tr−ởng chuyên coi việc dạy học. Nhất định theo phép học Ch− tử, khiến cho nhân tài có thể thành tựu, phong tục trở lại tốt đẹp. Từ nay phàm trong các viên (*) Vào đầu năm Quang Trung thứ năm (1792), Viện đã dịch xong bộ Tứ Th− và Tiểu Học. Nhà Vua xuống chiếu sai dịch tiếp các bộ Kinh Thi, Kinh Th−, Kinh Dịch (**) Cộng tác cùng Nguyễn Thiếp có nhiều nhà khoa bản triều Lê nh− Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi D−ơng Lịch rất sành văn Nôm. Tự nghiệp, Đốc học, mỗi năm nếu có ai học hành tốt thì kê quê quán, tên họ đạt đến th− viện giao cho ông khảo sát đức nghiệp và hạnh nghệ tâu lên triều đình để mà bổ dung. Ông nên giảng rõ đạo đức, rèn đúc nhân tâm để cho xứng với ý trẫm khen chuộng ng−ời tuổi cao đức lớn” (Đinh Văn Niêm, 2011, tr.190). Đọc lại chiếu bổ dụng Nguyễn Thiếp nêu trên chúng ta thấy, Quang Trung đặc biệt đề cao đạo đức, nhân tâm của kẻ sĩ, nhất là những bậc thầy chuyên trông coi việc dạy học nh− Nguyễn Thiếp. Với Quang Trung, thầy giỏi ắt sẽ có trò giỏi, thầy dốt ắt sẽ cho ra đời những kẻ vô học. Thầy có đạo đức, có nhân cách sẽ đào tạo cho xã hội những ng−ời có đạo đức, có lòng vị tha, biết th−ơng ng−ời và có l−ơng tri, có lý t−ởng sống đúng đắn. Tiếp sau đó, Quang Trung mở rộng việc học đến mọi làng xã, tạo dựng nền tảng xã hội vững chắc cho việc tuyển chọn quan lại, chiêu hiền đãi sĩ phục vụ công cuộc dựng xây đất n−ớc. Trong đó, Quang Trung quy định rằng: Các xã phải lập tr−ờng học và chọn những Nho sĩ có học hạnh, đặt làm chức giảng dụ cấp xã để dạy dỗ học trò. Đây rõ ràng là một chủ tr−ơng tiến bộ của v−ơng triều Tây Sơn. ở đây, Quang Trung không chỉ quan tâm giáo dục từ bên trên mà ông đi từ gốc rễ của nó, giáo dục từ cơ sở, từ làng xã để không bỏ sót ng−ời tài. Đặt trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta mới chỉ có Phòng giáo dục cấp huyện thì việc thành lập một loại hình cơ quan quản lý nhà n−ớc về giáo dục gọi là “Nhà xã học” nh− d−ới thời Tây Sơn thực sự là một chính sách tiến bộ, thức thời, thể hiện sự sâu sát tr−ớc nhu cầu thực tiễn của một vị vua anh minh. Đối với sinh đồ ba quan (mua bằng), nhà vua c−ơng quyết bắt về làm dân: Hoạt động tuyển dụng, đào tạo 39 “Hẹn năm nay, mở khoa thi H−ơng, những tú tài thi H−ơng đỗ hạng −u đ−ợc đ−a lên tr−ờng Quốc học, đỗ hạng thứ thì đ−a vào tr−ờng phủ học. Những h−ơng cống đỗ ở triều cũ ch−a làm chức nhiệm gì, nay tới chầu thì bổ các chức huấn đạo. Tri huyện, Nho sinh và sính đồ cũ đợi kỳ thi vào thi lại, đỗ hạng −u thì tuyển dụng, hạng kém thì bãi về tr−ờng xã học. Còn những sinh đồ ba quan nhất thiết bắt về làm dân, cùng dân chịu s−u dịch”, “Vậy ban chiếu xuống cho dân các xã nên lập học xã, chọn nho sĩ trong xã có học thức, có đức hạnh, đặt làm thầy học giảng dạy cho học trò xã mình” (Xem “Chiếu Lập học”, trong: Trần Ph−ơng Hồ, 1977, tr.404- 405). Nh− vậy, theo Quang Trung, không chỉ ng−ời làm thầy phải có tài, có đức mà ngay cả thí sinh đi thi tr−ớc hết cũng phải là ng−ời có phẩm cách tốt. Chỉ khi đạt đủ tiêu chuẩn về đạo đức lẫn kiến thức thì thí sinh mới đ−ợc đỗ đạt, ra làm quan để phụng sự triều đình. Sự chặt chẽ ngay trong khâu chọn thầy dạy, trò học lúc này đã đặt nền tảng vững chắc cho khâu tuyển chọn, đào tạo đội ngũ quan lại có chất l−ợng tiếp sau. Đặc biệt, nghe theo La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Quang Trung còn chấp nhận giáo dục theo đ−ờng lối học gắn với hành của Chu tử, chứ không học theo kiểu nhồi nhét, học vẹt, nhằm thuộc lòng những bài học Thánh hiền: “Nhất định phải theo phép học Chu tử. Tr−ớc học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên, rồi đến tứ th−, ngũ kinh Học cho rộng rồi mới −ớc l−ợc cho gọn, theo điều học biết mà làm. Họa may nhân tài mới có thể thành tựu” (Hoàng Xuân Hãn, 1993, tr.184-187). Với ph−ơng châm học đi đôi với hành nh− vậy, Vua Quang Trung mong muốn đào tạo ra một thế hệ tri thức mới v−ợt ra khỏi lối học từ ch−ơng, cử nghiệp, tầm ch−ơng trích cú khi x−a để làm sao kẻ sĩ có đủ khả năng mà bắt tay vào công việc phục sinh đất n−ớc, phục vụ nhân dân. 3. Rèn luyện tài đức cho đội ngũ quan lại, gắng sức phát huy tinh thần “dân chủ” trong quản lý bộ máy nhà n−ớc Vua Quang Trung ra sức rèn luyện tài đức cho đội ngũ quan lại thông qua những hình thức th−ởng phạt nghiêm minh. Ngay cả La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp - ng−ời mà Nguyễn Huệ đã 3 lần viết th− và cử trọng thần đ−a lễ vật hậu hĩnh đến núi Bùi Phong thuộc dãy Thiên Nhẫn (giáp giới 2 huyện H−ơng Sơn, Hà Tĩnh và Thanh Ch−ơng, Nghệ An)(*) để mời ra làm quan giúp n−ớc, khi ch−a hoàn thành chu đáo trách nhiệm của mình trong vai trò Viện tr−ởng Viện Sùng chính thì cũng bị Vua Quang Trung thẳng thắn phê bình. Bấy giờ, vào ngày 11/4/1792, Vua Quang Trung có văn bản truyền cho La Sơn phu tử rằng: “Nguyên năm ngoái có chú thích các sách tiểu học xem ra thấy âm nghĩa rất sơ sài, thô l−ợc ch−a xứng đáng với th−ợng chỉ. Còn về việc viễn nghĩa Tứ Th− thì hẹn rằng mùa xuân năm nay tiến nộp, nay ch−a gửi về là sai hẹn, làm chậm. Truyền cho phải mau chóng chú thích âm và nghĩa đóng thành tập gửi về để ngữ tiến, hãy nên gia ý việc giải thích âm tiết cho tinh mật, chớ làm thô l−ợc lảo thảo nh− kỳ tr−ớc” (H.B.Q, 2010, ắt là phải thông thạo chữ Hán và chữ Nôm, phải là con ng−ời chính trực, ngay thẳng và rất đỗi chân thành thì Quang Trung mới có thể đ−a ra lời phẩm bình nh− vậy đối với Nguyễn Thiếp - một con (*) Nơi lập trại canh tác của Nguyễn Thiếp. 40 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 ng−ời mà ông hết mực kính trọng và tin dùng. Nhờ có lời phê bình, góp ý ấy mà chỉ sau một tháng, sách Tứ Th− (một danh tác của Trung Hoa) đã đ−ợc dịch xong và đóng thành 32 tập gửi về Phú Xuân. Ngay khi nhận đ−ợc sách, Quang Trung xem xong liền ban chiếu khen th−ởng. Thực chất, sự khen - chê kịp thời này cũng chính là biểu hiện của phép Khảo công vốn tồn tại từ lâu trong lịch sử phong kiến Việt Nam(*) và nó thực sự là động lực thôi thúc đội ngũ quan lại lúc bấy giờ không ngừng phấn đấu, trau dồi phẩm hạnh, tài năng của mình để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đ−ợc giao phó. Không chỉ nghiêm khắc, công bằng trong giáo dục quan lại, Quang Trung còn gắng sức phát huy tinh thần “dân chủ” trong quản lý bộ máy nhà n−ớc. Các vị vua kế tiếp của triều đại Tây Sơn đã cố gắng tiếp thu t− t−ởng này của ông. Việc ban hành “Chiếu cầu lời nói thẳng”(**) nhằm thu thập ý kiến của quan dân khắp nơi để điều chỉnh hoạt động của triều chính và của ng−ời đứng đầu nhà n−ớc là một minh chứng sinh động cho tinh thần ấy: “Nay quốc gia đất rộng ng−ời nhiều, thực là nhờ công ơn của tiên hoàng đế (chỉ Vua Quang Trung) mở mang khi tr−ớc. Nh−ng đất rộng mà lắm chỗ bỏ hoang, dân nhiều mà nhiều nơi ca thán, Trẫm run rẩy sợ (*) Theo Đại Việt sử ký toàn th− (1983), bản dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tập I, tr.278: ở n−ớc ta, đời Vua Lý Thái Tông (1051) bắt đầu định phép khảo hạch các quan văn võ. Theo đó, quan lại các cấp phải chịu sự khảo xét hành trạng tốt-xấu, những việc làm đ−ợc - không làm đ−ợc (**) Ngô Thời Nhậm thay lời Nguyễn Quang Toản (có tài liệu nói theo di chúc của Vua Quang Trung) viết nên chiếu này. Chiếu này ra đời vào lúc thái s− Bùi Đắc Tuyên đã bị giết bởi tội lộng hành quyền lực, gây quá nhiều điều bất đạo, ảnh h−ởng đến uy tín của triều đại Tây Sơn. hãi nh− sắp sa vào vực thẳm. Từ x−a công sáng nghiệp đã khó mà sự thủ thành lại càng khó hơn. Trẫm cùng các đại thần thân cận toan tính lo l−ờng nh−ng ch−a biết thế nào là phải” (Xem “Chiếu cầu lời nói thẳng”, trong: Nguyễn Lộc chủ biên, 1993, tr.84-85). Từ chỗ chân thành bày tỏ mối lo đối với quan dân tr−ớc thực trạng nguy nan của đất n−ớc nh− vậy, nhà vua thẳng thắn tự phê bình và chỉ ra căn nguyên của tình trạng ấy: “Tóm lại cái tệ trễ biếng là do cái lòng tự mãn tự túc sinh ra, tích tụ chất chứa đã lâu, không sao kể xiết” (Xem “Chiếu cầu lời nói thẳng”, trong: Nguyễn Lộc chủ biên, 1993, tr.84- 85). Từ đây, nhà vua khắc khoải mong chờ từ thần dân một lời nói thẳng để “cho trẫm đ−ợc đức hạnh tốt” và nhằm “cùng các đại thần tính toán tìm ra con đ−ờng đúng mà vẫn ch−a thấy con đ−ờng nào là thích hợp” (Xem “Chiếu cầu lời nói thẳng”, trong: Nguyễn Lộc chủ biên, 1993, tr.84-85). Đồng thời, nhà vua còn chỉ ra ph−ơng cách gửi th− kín để phát huy tối đa tinh thần góp ý xây dựng của muôn dân: “Hỡi những kẻ bày tôi và dân chúng, các ng−ơi hãy dán th− kín, nói hết đừng giấu giếm. Trong kinh thì nộp cho triều đình, ở ngoài thì nộp cho các quan trấn để chuyển đệ. Trẫm sẵn lòng nghe theo lời nói phải để thi hành ra chính sự, mong đổi đ−ợc tệ tục, làm đ−ợc việc hay” (Xem: “Chiếu cầu lời nói thẳng”, trong: Nguyễn Lộc chủ biên, 1993, tr.84-85). Có thể nói, “Chiếu cầu lời nói thẳng” chính là sự hiện thực hóa t− t−ởng lấy dân làm gốc của triều đại Tây Sơn và là cơ sở cho nhiều quyết sách, đ−ờng lối đối nội, đối ngoại đúng đắn, hợp lòng dân của v−ơng triều phong kiến này. Nh− vậy, với v−ơng triều Tây Sơn, tuyển dụng, giáo dục quan lại không chỉ Hoạt động tuyển dụng, đào tạo 41 là tin yêu, khoan dung, giao phó cho họ những trọng trách phù hợp với năng lực, sở tr−ờng của mình mà còn ra sức rèn luyện cho họ ý thức trau dồi, phấn đấu cả về đức lẫn tài, khen th−ởng và phê bình kịp thời những đóng góp lẫn hạn chế, thiếu sót của họ. Nh− vậy, chính sách chiêu hiền đãi sĩ của Quang Trung không hề một chiều, cứng nhắc mà đ−ợc vận dụng một cách đa diện, đầy linh hoạt trong từng thời điểm, với từng con ng−ời cụ thể. Quả thật, nếu không có Trí thì Quang Trung đã không thể hiểu ng−ời, không có Nhân thì ông không thể chọn ng−ời và không có Dũng thì ông đã không thể dùng ng−ời tài tình đến vậy. Chúng ta thấy, ở Quang Trung d−ờng nh− tụ hội đầy đủ cả Trí - Nhân - Dũng, những phẩm chất cần phải có của những nhà lãnh đạo trong mọi thời đại. Có thể nói, “chiến l−ợc con ng−ời”, chiến l−ợc và sách l−ợc “dụng nhân” mà Vua Quang Trung nói riêng và v−ơng triều Tây Sơn nói chung đã áp dụng nói trên (thông qua việc cải tổ giáo dục, xây dựng một hệ thống thiết chế, chính sách tuyển dụng, đào tạo rõ ràng, rành mạch đối với tầng lớp trí thức trong xã hội thời bấy giờ) không chỉ mang ý nghĩa chính trị của một thời mà nó vẹn nguyên giá trị trong mọi thời đại, thực sự đã gợi lên cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Nhất là ngày nay, khi mà cả nhân loại đang b−ớc vào thời đại kinh tế tri thức và mỗi quốc gia, dân tộc đều bị lôi cuốn vào cuộc cạnh tranh quyết liệt về trình độ khoa học công nghệ thì xét đến cùng, thực chất của cuộc cạnh tranh ấy chính là cuộc cạnh tranh về nhân tài, về thu hút và sử dụng hiền tài. Do vậy, việc đ−a chính sách phát hiện, tuyển dụng và bồi d−ỡng nhân tài lên thành quốc sách hàng đầu ở n−ớc ta hiện nay thiết nghĩ là một biện pháp đắc dụng trong công cuộc dựng xây đất n−ớc thời hội nhập  TàI LIệU trích dẫn 1. Nguyễn L−ơng Bích (1989), Quang Trung Nguyễn Huệ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 2. Đại Việt sử lý toàn th− (1983), bản dịch, Tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Hoàng Xuân Hãn (1993), La Sơn phu tử, Nxb. Văn học, Hà Nội. 4. Trần Ph−ơng Hồ (1977), Tây Sơn tam kiệt, Nxb. Văn học, Hà Nội. 5. Nguyễn Lộc (chủ biên) (1993), Tổng tập văn học Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Đinh Văn Niêm (2011), Thi cử, học vị, học hàm d−ới các v−ơng triều phong kiến Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội. 7. Quách Tân, Quách Giao (2000), Nhà Tây Sơn, Nxb. Trẻ, Hà Nội. 8. H.B.Q (2010), Khéo dụng ng−ời tài của Vua Quang Trung, kheo-dung-nguoi-tai-cua-vua-quang- trung-2496843/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf26150_87810_1_pb_2632.pdf