Xây dựng văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay

- Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và trong nhân dân về vai trò, vị trí của văn hóa trong kinh tế. Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương và toàn xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp trong việc đầu tư cho văn hóa như là một phần chiến lược kinh doanh và thể hiện trách nhiệm với xã hội, cộng đồng. Huy động sự tham gia rộng rãi, có hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển văn hóa trong kinh tế và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, phát triển thị trường văn hóa lành mạnh. - Xây dựng và phát triển toàn diện con người làm nền tảng, mục tiêu để phát triển kinh tế. Những giá trị văn hóa cơ bản là chân, thiện, mỹ là những giá trị định hướng cơ bản trong phát triển kinh tế và con người. Trong đó, xây dựng con người, đặc biệt là xây dựng con người về tư tưởng, đạo đức, lối sống là vấn đề cốt lõi để tạo nên động cơ chính trị và động cơ kinh tế lành mạnh. Cần có chiến lược xây dựng đạo đức kinh doanh, đạo đức doanh nghiệp ngay từ trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực để đạo đức trở thành lối sống của người tìm kiếm lợi ích vật chất, tìm kiếm của cải thặng dư và sử dụng nguồn của cải đó./.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 53 (03/2019) 55-61 55 XÂY DỰNG VĂN HÓA TRONG KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY BUILDING CULTURE IN ECONOMY IN VIETNAM Nguyễn Thị Phương Liên*1 Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 6/9/2018 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 7/3/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/3/2019 Tóm tắt: Văn hóa trong kinh tế tại Việt Nam được Đảng và Nhà nước quan tâm, thể hiện ở triết lý phát triển kinh tế gắn với định hướng phát triển đất nước. Văn hóa trở thành “vốn kinh tế”. Nguồn lực con người là nhân tố quyết định việc sử dụng các nguồn lực khác và tạo dựng môi trường văn hóa trong hoạt động kinh tế. Bài viết phân tích những biểu hiện và nội dung của văn hóa trong kinh tế và đề xuất một số giải pháp giúp xây dựng văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: văn hóa trong kinh tế, triết lý, định hướng, giải pháp, Việt Nam. Abstract: Culture in the economy in Vietnam is concerned by the Party and the State, reflected in the philosophy of economic development associated with the development orientation of the country. Culture becomes "economic capital". Human resources are the determining factor in the use of other resources and the creation of a cultural environment in economic activities. The paper analyzes the expression and content of culture in the economy and proposes some solutions to build the culture in the economy in Vietnam today. Keywords: culture in economy, philosophy, orientation, solutions, Vietnam. *1Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong 56 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Văn hóa trong kinh tế tại Việt Nam được Đảng và Nhà nước quan tâm, thể hiện ở triết lý phát triển kinh tế gắn với định hướng phát triển đất nước, văn hóa trở thành “vốn kinh tế”, nguồn lực con người là nhân tố quyết định việc sử dụng các nguồn lực khác và tạo dựng môi trường văn hóa trong hoạt động kinh tế. Văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam được thể hiện ở một số phương diện: Một là, triết lý phát triển kinh tế găn liền với xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, gắn liền với phát triển bền vững. Các giá trị cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam phấn đấu là đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững gắn liền với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, quản lý tài nguyên và môi trường, đảm bảo tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế nhân văn, đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần để phát triển kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế bền vững. Đảng ta xác định “Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mố quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững”1. Đồng thời Đảng ta cũng nhấn mạnh: “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật 1 ĐCSVN. Văn kiện hội nghị lần thứ BCH TW khóa VIII. NXB CTQG. HN 1998. Tr55 2 ĐCSVN. Văn kiện hội nghị lần thứ BCH TW khóa VIII. NXB CTQG. HN 1998. Tr55 pháp, kỷ cươngbiến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”2. Quan điểm về phát triển kinh tế bền vững của Đảng và nhà nước phù hợp với xu thế phát triển kinh tế của thế giới hiện nay. Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên nhiều mặt của nền kinh tế có tác động tích cực, bao trùm lên toàn bộ xã hội. Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế, đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế và chất lượng cuộc sống của tất cả các tầng lớp xã hội. Phát triển kinh tế hiện nay được cộng đồng quốc tế nhấn mạnh là phát triển bền vững kinh tế của mỗi quốc gia. Những nội dung cơ bản của phát triển kinh tế bền vững và bao trùm gồm: - Tăng trưởng kinh tế là điều kiện đầu tiên. Tăng trưởng kinh tế bao gồm gia tăng về quy mô sản lượng và năng suất trong nền kinh tế, và nó phải diễn ra trong thời gian tương đối dài và ổn định - Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế thể hiện trong tỉ trọng các ngành, các thành phần kinh tế, các vùng, các miền Trong đó, tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tương đối so với tỷ trọng đô thị. Tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng. - Đời sống đại bộ phận nhân dân tốt đẹp hơn. Giáo dục, y tế, văn hóa, tinh thần của người dân được chăm lo nhiều hơn. Môi trường được đảm bảo. - Trình độ tư duy khoa học của xã hội được phát triển - Nền kinh tế mở cửa, năng động và giàu khả năng thích ứng - Phát triển kinh tế liên tục theo thời gian và do toàn bộ nhân tố nội tại quyết định quá trình phát triển đó. Mục tiêu của sự phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 57 về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người với tự nhiên. Bốn trụ cột của sự phát triển bền vững mà Việt Nam hướng tới là kinh tế, xã hội, môi trường và văn hóa. Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế không chỉ bao hàm tăng thu nhập bình quân đầu người mà phải hướng tới sự phát triển bền vững của hiện tại và tương lai, chú ý cả bốn nhân tố: kinh tế, xã hội, môi trường và văn hóa, duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, tăng thu nhập phải gắn với nâng cao chất lượng cuộc sống, tăng phúc lợi xã hội và xóa đói giảm nghèo bền vững. Các nhân tố đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế bền vững bao gồm: - Bảo vệ môi trường - Dựa vào sức mạnh nội tại - Bình đẳng trong thu nhập - Xác định một thị trường lao động thống nhất - Xây dựng một hệ thống an sinh xã hội vững chắc Như vậy, phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa và con người, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Con người vừa là chủ thể của nền sản xuất xã hội, vừa là mục tiêu, động lực phát triển kinh tế – xã hội. Các giá trị văn hóa và con người phải trở thành điểm xuất phát và mục tiêu phấn đấu của phát triển kinh tế. Đảng đã nhiều lần khẳng định, phải đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển kinh tế. Trong các chương trình, dự án phát triển kinh tế, vừa phải chú ý tới hiệu quả kinh tế, vừa phải chú ý tới hiệu quả văn hóa xã hội. Không chạy theo tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi giá, hy sinh văn hóa, xã hội và môi trường. Đây là những quan điểm khoa học và nhân văn trong 31ĐCSVN. Văn kiện hội nghị lần thứ 5 BCH TW khóa VIII. NXB CTQG. HN 1998. Tr.73-74 định hướng giá trị văn hóa trong kinh tế ở nước ta trong bối cảnh đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Hai là, văn hóa phải gắn liền với nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho con người. Nói cách khác, đây là thực hiện chức năng kinh tế của văn hóa. Nhận thức về chức năng của văn hóa trong nhứng năm đổi mới vừa qua ở Việt Nam đã có những đổi mới rõ rệt. Văn hóa là nguồn vốn, nguồn lực để làm giàu cho xã hội. Đặc biệt, trong thời kỳ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, gắn liền với việc phát triển nền kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo, yếu tố văn hóa, thẩm mỹ gắn liền với sự sáng tạo đa dạng của con người, ngày càng gắn kết chặt chẽ với các nhân tố kinh tế, kỹ thuật và công nghệ để tạo nên những sản phẩm hàng hóa đa chức năng phục vụ nhu cầu có tính tổng hợp của con người. Đó là sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa như phát thanh và truyền hình, dịch vụ trò chơi điện tử, công nghệ phần mềm, điện ảnh, thời trang, quảng cáo, biểu diễn nghệ thuật, ca nhạc, du lịch văn hóa, giải trí, sản xuất các đồ thủ công mỹ nghệ Các lĩnh vực hoạt động văn hóa này đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, đóng góp ngày nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế thế giới. Vì vậy, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có bước đột phá đổi mới tư duy về văn hóa, xác định đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển, và xác định xây dựng, ban hành “ chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính, hỗ trợ cho phát triển văn hóa, đồng thời đảm bảo yêu cầu chính trị, tư tưởng cho hoạt động văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”31 Đồng thời, xây dựng ban hành “chính sách 58 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion văn hóa trong kinh tế, đảm bảo cho văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế tạo điều kiện nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển văn hóa”41 Như vậy, văn hóa không phải là kết quả thụ động của kinh tế, không phải là nhân tố đứng bên ngoài quá trình phát triển kinh tế mà là nguyên nhân, là động lực và là nguồn lực để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Để khai thác nguồn lực văn hóa cho phát triển kinh tế, các nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu về khái niệm “vốn” và “vốn văn hóa”. Theo Hernando De Soto, trong công trình “Bí ẩn của vốn – vì sao chủ nghĩa tư bản thành công ở phương Tây và thất bại ở mọi nơi khác” thì “vốn” (capital) trong tiếng latinh ban đầu để chỉ gia súc, vật nuôi (nguồn của sự giàu có), và theo thời gian “vốn” được dùng để chỉ giá trị thăng dư thu được từ nguồn gia súc đó (Hernando, tr.43)5.2Trong quá trình chuyển từ xã hội nông nghiệp dựa trên cơ sở tự cung tự cấp sang xã hội thương mại mà ở đó nhu cầu trao đổi cao nên sự phụ thuộc lẫn nhau không ngừng tăng lên, “vốn” được trừu xuất ra, “không phải là tài sản, mà là khả năng nó chứa đựng để triển khai ra sản xuất mới”6.3 Các nhà nghiên cứu đi đến thống nhất: “Vốn là một giá trị lâu dài, cái được 41ĐCSVN. Văn kiện hội nghị lần thứ 5 BCH TW khóa VIII. NXB CTQG. HN 1998. Tr.73-74 52Hernando De Soto (2000). Bí ẩn của vốn- vì sao chủ nghĩa tư bản thành công ở phương Tây và thất bại ở mọi nơi khác . Nguyễn Quang A dịch. NXB CTQG. HN, 2006. Tr.43 63Hernando De Soto (2000). Bí ẩn của vốn- vì sao chủ nghĩa tư bản thành công ở phương Tây và thất bại ở mọi nơi khác. Nguyễn Quang A dịch. NXB CTQG. HN, 2006. Tr.44 74Hernando De Soto (2000). Bí ẩn của vốn- vì sao chủ nghĩa tư bản thành công ở phương Tây và thất bại ở mọi nơi khác . Nguyễn Quang A dịch. NXB CTQG. HN, 2006. Tr.45 85Hernando De Soto (2000). Bí ẩn của vốn- vì sao chủ nghĩa tư bản thành công ở phương Tây và thất bại ở mọi nơi khác. Nguyễn Quang A dịch. NXB CTQG. HN, 2006. Tr.45 96Dẫn theo Trần thị An. Mối quan hệ giữa vốn văn hóa và vốn xã hội trong bối cảnh chuyển đổi ở cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Văn hóa và phát triển: Những vấn đề của Việt Nam và kinh nghiệm của thế giới do Hội đồng lí luận TW và Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam tổ chức. HN 2017. Tr.163. 107Nicolas Journet. “Văn hóa như là vốn” Như Thành dịch. Tạp chí văn hóa nghê thuật số 323, tháng 5 – 2011. nhân lên và không tàn lụi. Giá trị này được tách khỏi sản phẩm tạo ra nó, trở thành một đại lượng siêu hình và phi thực thể luôn luôn nằm trong sự chiếm hữu của bất kể ai tạo ra nó, mà đối với họ, giá trị này có thể được cố định ở các dạng khác nhau”.74“Về bản chất, vốn là phi vật chất vì không phải vật chất tạo ra vốn mà là giá trị của vật chất ấy, giá trị không có cái hữu hình”.85 Trong công trình bàn về các loại vốn, xuất bản năm 1986, Pierre Bourdieu đã phân loại có 4 loại vốn gồm: vốn kinh tế (Economic Capital), vốn xã hội ( Social Capital), vốn văn hóa (Culcure Capital) và vốn biểu tượng( Symbolic Capital)9.6 Vốn văn hóa được nhận diện theo hai loại sở hữu khác nhau: sở hữu cá nhân và sở hữu cộng đồng. Theo Pierre Bourdieu, vốn văn hóa là “sự quy thuộc của cá nhân với môi trường văn hóa: sự biểu hiện mình, lối nói năng, ăn mặc, kiểu tóc, những cách ăn uống, sở thích âm nhạc, văn học, điện ảnh”.107Ông cho rằng tất cả các hoạt động văn hóa( tham quan bảo tàng, nghe hòa nhạc, đọc sách báo) và sở thích văn chương hội họa, âm nhạc gắn liền với trình độ giáo dục nhất định( được đánh giá qua văn bằng và thời gian học). Còn Trần Hữu Dũng cho rằng, có hai loại vốn văn hóa: vật thể ( Công trình kiến Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 59 trúc, di tích lịch sử) và phi vật thể ( tập quán, phong tục, tín ngưỡng). Nguồn tài nguyên có thể cung cấp một luồng dịch vụ có thể thụ hưởng ngay, hoặc dùng trong sản xuất những sản phẩm và dịch vụ trong tương lai, văn hóa cũng như ngoại văn hóa. Theo ông, vốn văn hóa mà cộng đồng có được là do quá trình tích lũy các sản phẩm văn hóa do cộng đồng sáng tạo nên trong lịch sử.111 Nhận thức rõ về hai chủ thể: cá nhân và cộng đồng sở hữu nguồn vốn văn hóa sẽ góp phần khai thác và phát huy nguồn vốn văn hóa này vào trong quá trình phat triển kinh tế. Tuy nhiên, ở đây cần nhận thức sâu sắc hơn về cơ chế để tạo ra nguồn vốn văn hóa là gì? Trong cuốn “Bí ẩn về vốn” của Hernando De Soto đã nêu ở trên, ông đã cho rằng quyền sở hữu đã khái niệm hóa giá trị của tài sản, và là nơi vốn được hình thành, giống như điện được tạo ra từ thế năng của nước ở một cái hồ trên núi cao. Tương tự như vậy, toàn bộ tài sản văn hóa của cá nhân và cộng đồng chưa phải là “vốn văn hóa”. Chỉ khi nào các tài sản này được chuyển hóa, chưng cất lên thành giá trị có thể sử dụng (trong du lịch, trong công nghiệp văn hóa), thành các chuẩn mực định hình cho ứng xử, lối sống, lý tưởng, khát vọng của toàn thể cộng đồng và sức mạnh mềm của quốc gia (như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, nhân ái) hoặc những giá trị mà cộng đồng quốc gia có thể chấp nhận và chia sẻ (với tư cách là phương tiện quốc gia) vì sự phát triển của quốc gia.122Mỗi cá nhân đều sở hữu những giá trị, chuẩn mực, tri thức văn hóa nhất định của cộng đồng và chuyển các giá trị, chuẩn mực, tri thức đó vào hoạt động thực tiễn thì lúc đó vốn văn hóa của cá nhân mới xuất hiện. 111Trần Hữu Dũng (2002). Vốn văn hóa. Tạp chí tia sáng 12-2002 122Xem Trần Thị An: Mối quan hệ giữa vốn văn hóa và vốn xã hội trong bối cảnh chuyển đổi ở Việt Nam cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, Thông tin Khoa học xã hội, 11 (419) 2017. Tr.165 Cũng tương tự như vậy, các nguồn lực và tài nguyên văn hóa của cộng đồng được cá nhân và cộng đồng sử dụng để tạo ra giá trị thặng dư mới trong quá trình sản xuất thì lúc đó vốn văn hóa mới xuất hiện. Đây là những tiền đề lý thuyết cần thiết để chúng ta có thể kế thừa và vận dụng nhằm khai thác phát huy các tài nguyên văn hóa, kể cả vật thể và phi vật thể, kể cả cá nhân và cộng đồng trong việc tìm kiếm “giá trị thặng dư” từ nguồn vốn văn hóa phong phú và đa dạng của đất nước. Tuy nhiên, cần phải bổ sung “giá trị thặng dư” của vốn văn hóa không chỉ ở chỗ nó tạo ra tiền bạc mà còn là quảng bá các giá trị của nó sâu rộng trong cộng đồng, đáp ứng nhu cầu tinh thần phong phú, đa dạng của xã hội. Khi bàn về văn hóa trong kinh tế, Max Veber (1864-1920), nhà xã hội người Đức đã để lại những luận điểm khoa học và những công trình khoa học có tầm ảnh hưởng lớn lao trong giới khoa học và chính trị. Trong những công trình nghiên cứu về các tôn giáo lớn trên thế giới như Do Thái giáo cổ đại, Lão giáo, Khổng giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, ông đã tìm cách xác định vai trò của các nền văn hóa tôn giáo và các nền đạo đức tôn giáo với tư cách là những nhân tố thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của các nền văn minh công nghiệp của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Trong công trình “Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản” được viết vào năm 1904-1905, là công trình để lại nhiều đóng góp quý báu và cả những ý kiến tranh biện trái chiều. Trong cuốn sách này, Weber đã khảo sát quan niệm đạo đức và động cơ ứng xử của các cá nhân thuộc giáo phái Tin lành, cũng như ý nghĩa mà họ gán cho hành động xã hội của mình, nhằm đi đến giả thuyết 60 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion cho rằng nền đạo đức Tin lành có một mối liên hệ “tương hợp chọn lọc” (wahlverwandtchaften) với “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản, và do vậy đã tạo ra một số động lực tinh thần cần thiết và thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu. Quan điểm của Max Veber đã cho thấy một cái nhìn biện chứng hơn về tác động tinh tế của đạo đức tin lành, một phần quan trọng của văn hóa Tin Lành đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Châu Âu và điều này cũng thống nhất với quan điểm của Các Mác về tác động năng động của ý thức xã hội, của kiến trúc thượng tầng đối với tồn tại xã hội và cơ sở hạ tầng. Ba là, xây dựng văn hóa trong kinh doanh. Môi trường văn hóa trong hoạt động kinh tế trước hết ở các giá trị văn hóa như cái đúng, cái tốt, cái đẹp được cộng đồng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ kinh tế chia sẻ để tạo nên bầu không khí tinh thần lành mạnh, tin tưởng, đoàn kết, có khả năng tạo cảm hứng trong lao động sáng tạo theo đuổi mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. Môi trường văn hóa cho quá trình phát triển kinh tế phải ổn định, quan hệ dân chủ, minh bạch, công khai giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân, trên cơ sở đồng thuận và chia sẻ bình đẳng về lợi ích, trách nhiệm, nghĩa vụ. Ở cấp độ vi mô, đó là vấn đề xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân, vấn đề đạo đức kinh doanh, đạo đức trong kinh tế. Trong những năm gần đây ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Phong trào xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong sản xuất và kinh doanh dịch vụ. Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 9 khóa XI của Đảng đã khẳng định: “Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế, con người thực sự là trung tâm trong quá trình pát triển kinh tế- xã hội. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại, để các doanh nghiệp tham gia, xay dựng phát triển văn hóa”. Để phát triển văn hóa trong kinh tế trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, cần tập trung vào một số giải pháp sau: - Xây dựng thể chế chính trị phù hợp. Mối quan hệ giữa văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế không phải là mối quan hệ lệ thuộc của chính trị vào kinh tế hay kinh tế lệ thuộc vào chính trị, mà giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, gắn bó, tương tác, ảnh hưởng qua lại và hỗ trợ lẫn nhau. Văn hóa trong chính trị thể hiện quan điểm về quyền lực và sức mạnh của chính trị trong việc xác định đường lối phát triển kinh tế của quốc gia. Lý tưởng chính trị, hệ tư tưởng chính trị đóng vai trò quyết định đối với đường lối xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua việc xác lập thể chế chính trị và thể chế kinh tế, các giá trị văn hóa trong chính trị quy định chức năng, nhiệm vụ, phương hướng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, đạo đức trong chính trị, trong các chủ thể chính trị khác nhau có tác động mạnh mẽ tới đạo đức trong kinh tế, có thể thúc đẩy kinh tế phát triển lành mạnh thông qua cơ chế hoạt động minh bạch, công khai, trách nhiệm giải trình, thực hiện dân chủ của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. - Xây dựng đạo đức công vụ cho cán bộ, đảng viên. Mọi chủ trương chính sách, luật pháp, thể chế đều thông qua hoạt động thực tiễn của con người mới đi vào cuộc sống. Đạo đức công chức, công vụ lành mạnh, làm giảm các chi phí tiêu cực, kích thích sự cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế và ngược lại. Vì vậy, xây dựng đạo đức công chức, công vụ đóng vai trò hàng đầu trong xây dựng văn hóa trong chính trị, đồng thời có tác động tích cực tới xây dựng văn hóa trong kinh tế hiện nay. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 61 - Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và trong nhân dân về vai trò, vị trí của văn hóa trong kinh tế. Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương và toàn xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp trong việc đầu tư cho văn hóa như là một phần chiến lược kinh doanh và thể hiện trách nhiệm với xã hội, cộng đồng. Huy động sự tham gia rộng rãi, có hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển văn hóa trong kinh tế và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, phát triển thị trường văn hóa lành mạnh. - Xây dựng và phát triển toàn diện con người làm nền tảng, mục tiêu để phát triển kinh tế. Những giá trị văn hóa cơ bản là chân, thiện, mỹ là những giá trị định hướng cơ bản trong phát triển kinh tế và con người. Trong đó, xây dựng con người, đặc biệt là xây dựng con người về tư tưởng, đạo đức, lối sống là vấn đề cốt lõi để tạo nên động cơ chính trị và động cơ kinh tế lành mạnh. Cần có chiến lược xây dựng đạo đức kinh doanh, đạo đức doanh nghiệp ngay từ trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực để đạo đức trở thành lối sống của người tìm kiếm lợi ích vật chất, tìm kiếm của cải thặng dư và sử dụng nguồn của cải đó./. Tài liệu tham khảo: 1. ĐCSVN. Văn kiện hội nghị lần thứ BCH TW khóa VIII. NXB CTQG. HN 1998 2. Trần Hữu Dũng (2002). Vốn văn hóa. Tạp chí tia sáng 12-2002. 3. Trần Thị An: Mối quan hệ giữa vốn văn hóa và vốn xã hội trong bối cảnh chuyển đổi ở Việt Nam cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, Thông tin Khoa học xã hội, 11 (419) 2017 4. Hernando De Soto (2000). Bí ẩn của vốn- vì sao chủ nghĩa tư bản thành công ở phương Tây và thất bại ở mọi nơi khác . Nguyễn Quang A dịch. NXB CTQG. HN, 2006. Tr.45 5. Mối quan hệ giữa vốn văn hóa và vốn xã hội trong bối cảnh chuyển đổi ở cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Văn hóa và phát triển: Những vấn đề của Việt Nam và kinh nghiệm của thế giới do Hội đồng lí luận TW và Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam tổ chức. HN 2017. Tr.163. 6. Nicolas Journet. “Văn hóa như là vốn” Như Thành dịch. Tạp chí văn hóa nghê thuật số 323, tháng 5 – 2011. 7. Hernando De Soto (2000). Bí ẩn của vốn- vì sao chủ nghĩa tư bản thành công ở phương Tây và thất bại ở mọi nơi khác . Nguyễn Quang A dịch. NXB CTQG. HN, 2006. Tr.43 8. Dẫn theo Trần thị An. Mối quan hệ giữa vốn văn hóa và vốn xã hội trong bối cảnh chuyển đổi ở cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Văn hóa và phát triển: Những vấn đề của Việt Nam và kinh nghiệm của thế giới do Hội đồng lí luận TW và Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam tổ chức. HN 2017. Tr.163. 9. Nicolas Journet. “Văn hóa như là vốn” Như Thành dịch. Tạp chí văn hóa nghê thuật số 323, tháng 5 - 2011. Địa chỉ tác giả: 220 Đường Láng Email tác giả: phuonglien.lhp80@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfxay_dung_van_hoa_trong_kinh_te_o_viet_nam_hien_nay.pdf
Tài liệu liên quan