Xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU: Thực trạng và giải pháp

Ngành công nghiệp da giầy Việt Nam đã và đang trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. Kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép trong những năm qua luôn đứng thứ ba sau mặt hàng dầu khí và dệt may. Để thực hiện quan điểm Nghị quyết của Đại hội Đảng VIII đó là: “tăng trưởng với nhịp độ nhanh; tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội, đẩy mạnh xuất khẩu để tăng nhanh năng lực tích luỹ, góp phần phát triển nguồn nhân lực có khả năng thực hiện công nghiệp hoá nước nhà” ngành công nghiệp da giầy Việt Nam đã đề ra cho mình những mục tiêu trước mắt và lâu dài như sau: Thứ nhất, mục tiêu dự kiến đến năm 2005 công nghiệp da giầy Việt Nam sản xuất gần nửa tỷ đôi giầy dép và ước 15000 tấn đồ da: xuất khẩu đạt trên 3,1 tỷ USD. ở giai đoạn này, mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp là 13-14% còn mức tăng xuất khẩu trên 16% bình quân năm. Thứ hai, đến năm 2010 mức sản xuất phải vượt trên 650 triệu đôi giầy dép và 20000 tấn đồ da, giả da, lúc đó xuất khẩu sẽ đạt 4,7 tỷ USD. Dự kiến mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp và xuất khẩu hàng năm của giai đoạn này là 8-10%. Các sản phẩm giầy dép và đồ da được sản xuất và xuất khẩu trong giai đoạn này đều phải có xu thế phát triển mạnh trên thị trường trong và ngoài nước; có khả năng khai thác tối đa công suất và có khả năng đầu tư thêm chiều sâu, tốn ít vốn để đầu tư; ưu tiên các sản phẩm có tiềm lực nguyên liệu nội, có hàm lượng chế biến sâu từ các nguyên liệu thô ngoại nhập để sử dụng nhiều nhân công và có điều kiện nâng cao hàm lượng kĩ thuật; để đưa công nghệ xích lại gần với thời trang trên cơ cấu sản xuất mềm dẻo, uyển chuyển, linh hoạt, nhạy cảm với thị trường và thị hiếu người tiêu dùng tạo ra được khả năng trả nợ nhanh; các sản phẩm thích hợp theo vùng sinh thái, vùng lãnh thổ và theo nhu cầu của từng thị trương tiêu thụ.

doc79 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nhưng lại là phương thức phù hợp với giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển của ngành công nghiệp giầy dép mà nhiều nước đang phát triển đã áp dụng thành công. Bởi vì hầu hết các doanh nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu hiện nay đang trong tình trạng hạn chế về vốn, về sáng tác phát triển mẫu mốt và về quản lý để thâm nhập trực tiếp vào thị trường nhập khẩu. Hình thức gia công xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, học hỏi kinh nghiệm quản lý, từng bước tiếp cận với thị trường nước ngoài. 2. Những tồn tại trong hoạt động tăng cường khả năng xuất khẩu các sản phẩm giầy dép Việt Nam vào thị trường EU. Có thể nói, bên cạnh những ưư điểm trên, công tác mở rộng thị trường còn hạn chế, trên nhiều thị trường, mối quan hệ với bạn hàng còn lỏng lẻo, hoạt động xuất khẩu nhiều lúc còn mang tính bị động, thiếu định hướng, nhiều khi khách hàng tìm đến các doanh nghiệp chứ không phải các doanh nghiệp tìm đến khách hàng. Một số thị trường mặc dù đã thâm nhập được nhưng còn nhièu bấp bênh. Trong một thời gian dài , việc mở rộng thị trường chưa được đề cao một cách đúng mức. Hoạt động nghiên cứu thị trường diễn ra lẻ tẻ, chưa cập nhật đầy đủ thông tin về sự biến động của thị trường thế giới, có những biến động lớn thì vẫn chậm đưa ra những giải pháp đối phó. Ngoài ra sức cạnh tranh của hàng giầy dép còn yếu trên thị trường quốc tế. Mới chỉ có một số doanh nghiệp được đàu tư thiết bị công nghệ hiện đại (công ty giày Thăng Long, Giầy Phú Lâm...) còn rất nhiều doanh nghiệp vẫn còn sử dụng các trang thiết bị lạc hậu, cũ kỹ do đó chất lượng, mẫu mã sản phẩm còn thua kém nhiều so với một số hàng giầy dép của một số nước khác như Thái Lan, Trung Quốc... Nhiều doanh nghiệp bị thiếu vốn đầu tư, một số khác không thích nghi được với điều kiên kinh doanh mới nên không dám bỏ vốn đầu tư, do đó sản phẩm làm ra vẫn còn nhiều hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn chưa, còn nhiều đơn vị làm ăn thua lỗ. Nguyên nhân của các tồn tại. . Nguyên nhân chủ quan. Thứ nhất là: Mặc dù sản phẩm giầy dép là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực và đạt doanh thu lớn, song các doanh nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu lại chưa chú ý đúng mức đến vai trò của công tác nghiên cứu và dự đoán thị trường. Chưa xác định đúng vai trò và chức năng của hoạt động nghiên cứu thị trường. Từ đó việc tổ chức, xác định mục tiêu nghiên cứu cho hoạt động này chưa phù hợp, chưa đem lại thông tin cần thiết cho việc hoạch định các chiến lược và các chính sách phát triển của các doanh nghiệp . Kinh phí cho hoạt động này còn eo hẹp, vì vậy các thông tin thu thập được về thị trường chưa nhiều, chưa có độ tin cậy cao để đáp ứng cho việc hoạch định chiến lược và các chính sách phát triển thị trường. Thứ hai là: Các doanh nghiệp chưa xây dựng được một chiến lược mở rộng thị trường cụ thể và hợp lý, các hoạt động xuất khẩu còn nhiều bị động, việc so sánh và lựa chọn thị trường nước ngoài chưa tốt, các thông tin thu thập được còn thiếu chính xác. Do vậy chưa đưa ra được các chính sách mở rộng và thâm nhập thị trường hợp lý. Thứ ba là: Chưa tạo lập được một mạng lưới phân phối tốt trên các thị trường nước ngoài. Việc lập các cửa hàng đại lý và văn phòng đại diện ở nước ngoài còn rất hạn chế. Việc xuất khẩu chủ yếu là thông qua đơn đặt hàng của các đối tác nước ngoài. Thứ tư là: Các doanh nghiệp chủ yếu làm gia công cho phía nước ngoài nên giá thành xuất khẩu bị giảm nhiều, thị trường xuất khẩu không ổn định, bị ép giá, không trực tiếp tiếp xúc với thị trường…Nhiều doanh nghiệp vẫn cho rằng làm gia công thì an toàn, ít rủi ro, không sợ bị phá sản, do đó chưa chủ động chuyển sang các hoạt động xuất khẩu mang tính thương mại. Thị trường xuất khẩu còn phụ thuộc nhiều vào Quota và hạn nghạch được cấp từ phía Nhà nước. Việc chủ động tìm kiếm thị trường của nhiều doanh nghiệp còn chưa được thực hiện hoặc còn nhiều yếu kém, do vậy nhiều doanh nghiệp chủ yếu là ngồi chờ các công ty nước ngoài đến đặt hàng, rất bị động trong việc xuất khẩu. Thứ năm là: Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu Việt Nam chưa tạo lập được một hệ thống nhãn mác có uy tín trên thị trường thế giới. Nhãn mác các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu được gắn nhãn các hãng nổi tiếng nước ngoài như NIKE, ADIDAS…do vậy thực tế hàng giầy dép Việt Nam không được người tiêu dùng quốc tế biết đến. Điều này cũng một phần là do hàng của ta chủ yếu làm theo hình thức gia công hoặc xuất sang các nước khác được gắn mác mới rồi mới được tái xuất khẩu đi. Mặt khác, cũng còn nhiều doanh nghiệp chưa tự tin, mạnh dạn trong việc sử dụng nhãn mác riêng cho sản phẩm của mình mặc dù chất lượng không thua kém hàng ngoại. Thứ sáu là: Do nước ta mới mở của, do vậy mức tiếp cận với các thị trường nước ngoài còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thị trường EU. Nhiều doanh nghiệp còn thiếu kinh nghiệp trong việc mở rộng và thâm nhập thị trường nước ngoài. Do đó tốc độ mở rộng thị trường còn chậm và kém hiệu quả. Thứ bẩy là: Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các công ty trong toàn nghành nhằm tranh thủ năng lực thiết bị của nhau, đặc biệt là giữa các công ty thuộc Tổng công ty giầu dép Việt Nam. Vẫn còn tình trạng cạnh tranh nội bộ, thiếu hỗ trợ nhau, chạy theo lợi ích cá nhân. mặt khác, các doanh nghiệp chưa chủ động trong việc tạo nguồn nguyên liệu cho sản xuất, đa số nguồn nguyên liệu vẫn phải nhập. . Nguyên nhân khách quan. Thứ nhất: Bảo hộ mậu dịch của các nước và các khu vực thị trường đối với sản phẩm giầy dép rất mạnh. Các yêu cầu về xuất xứ hàng hoá để được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập rất khắt khe. Mặt khác, hàng Việt Nam phải chịu sự cạnh trang rất khốc liệt từ các đối thủ cạnh tranh khác, như Trung Quốc, Thái Lan... Thứ hai: Việc nhà nước áp dụng một lúc ba loại thuế mới: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu từ năm 1999 đã gây không ít biến đổi trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề khấu trừ thuế đối với hàng xuất khẩu gặp phải nhiều thủ tục rườm rà, gây chậm trễ ứ đọng vốn không đáng có, làm hiệu quả kinh doanh chung bị suy giảm. Thứ ba: Môi trường pháp lý và thủ tục hành chính của nước ta rườm rà, thiếu linh hoạt, trong đó thủ tục hải quan là một trong những khâu còn nhiều vướng mắc, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động mở rộng thị trường của các doanh nghiệp. Những tồn tại về hải quan chủ yếu xoay quanh việc áp giá, áp mã để tính thuế và thủ tục thông quan, giải phóng hàng hoá. Từ sau cuộc tiếp xúc của Thủ tướng Chính phủ với các giám đốc doanh nghiệp đầu năm 1998, những vướng mắc này đang được tháo gỡ và bước đầu đã có kết quả tốt trong việc là thủ tục thông quan hàng hoá, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất giầy dép giao hàng nhanh chóng và đúng hạn- một trong những yêu cầu chặt chẽ của đối tác nước ngoài. Thứ tư: Tình trạng thiếu nguyên liệu trong nước phục vụ cho sản xuất giầy dép. Trong nhưng năm qua, chúng ta mới chỉ cú trọng đến việc đàu tư vào việc phát triển cơ sở sản xuất giầy dép chứ chưa chú trọng đến việc đầu tư vào các cơ sơ sản xuất nguyên, phụ liệu. Do vậy cúng ta bị lệ thuộc quá nhiều vào việc cung ứng nguyên vật liệu, phụ liệu, phụ tùng, thiết bị máy móc từ nước ngoài. Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường EU I. Định hướng và những quan điểm xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU. Định hướng phát triển của nghành công nghiệp da giầy Việt Nam. Ngành công nghiệp da giầy Việt Nam đã và đang trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. Kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép trong những năm qua luôn đứng thứ ba sau mặt hàng dầu khí và dệt may. Để thực hiện quan điểm Nghị quyết của Đại hội Đảng VIII đó là: “tăng trưởng với nhịp độ nhanh; tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội, đẩy mạnh xuất khẩu để tăng nhanh năng lực tích luỹ, góp phần phát triển nguồn nhân lực có khả năng thực hiện công nghiệp hoá nước nhà” ngành công nghiệp da giầy Việt Nam đã đề ra cho mình những mục tiêu trước mắt và lâu dài như sau: Thứ nhất, mục tiêu dự kiến đến năm 2005 công nghiệp da giầy Việt Nam sản xuất gần nửa tỷ đôi giầy dép và ước 15000 tấn đồ da: xuất khẩu đạt trên 3,1 tỷ USD. ở giai đoạn này, mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp là 13-14% còn mức tăng xuất khẩu trên 16% bình quân năm. Thứ hai, đến năm 2010 mức sản xuất phải vượt trên 650 triệu đôi giầy dép và 20000 tấn đồ da, giả da, lúc đó xuất khẩu sẽ đạt 4,7 tỷ USD. Dự kiến mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp và xuất khẩu hàng năm của giai đoạn này là 8-10%. Các sản phẩm giầy dép và đồ da được sản xuất và xuất khẩu trong giai đoạn này đều phải có xu thế phát triển mạnh trên thị trường trong và ngoài nước; có khả năng khai thác tối đa công suất và có khả năng đầu tư thêm chiều sâu, tốn ít vốn để đầu tư; ưu tiên các sản phẩm có tiềm lực nguyên liệu nội, có hàm lượng chế biến sâu từ các nguyên liệu thô ngoại nhập để sử dụng nhiều nhân công và có điều kiện nâng cao hàm lượng kĩ thuật; để đưa công nghệ xích lại gần với thời trang trên cơ cấu sản xuất mềm dẻo, uyển chuyển, linh hoạt, nhạy cảm với thị trường và thị hiếu người tiêu dùng tạo ra được khả năng trả nợ nhanh; các sản phẩm thích hợp theo vùng sinh thái, vùng lãnh thổ và theo nhu cầu của từng thị trương tiêu thụ. Thứ ba, hướng mục tiêu phát triển của nghành công nghiệp da giầy vào khai thác tốt lợi thế nguồn lực lao động, nhanh chóng biến nghành da giầy trở thành một ngành công nghiệp xuất khẩu chính của đất nước với tầm vóc không thua kém các nước trong khu vực. Dự kiến sau năm 2005 các doanh nghiệp về cơ bản đã thoát khỏi cảnh gia công với công phí ít ỏi. Lúc này ngành da giầy sẽ là ngành công nghiệp có một lực lượng sản xuất với một cơ cấu tổ chức hiện đại, hoàn toàn thích nghi với máy móc và công nghệ hiện đại,có một tiềm lực khoa học công nghệ, thiết kế mẫu mốt thời trang để làm chủ được thị trường đầy tính năng động; vượt qua mọi yếu kém để nâng cao tích luỹ từ nội bộ ngành, cải thiện tốt đời sống vật chất, tinh thần người lao động để họ tự hào và gắn bó với màu cờ sắc áo của doanh nghiệp mình. Như vậy, chiến lược phát triển ngành công nghiệp da-giầy trong những năm tới là: Một là, tiếp tục phát triển ngành da giầy hướng ra xuất khẩu để khai thác lợi thế và tiềm năng của Việt Nam. Hai là, chuyển dần từ gia công xuất khẩu là chủ yếu sang xây dựng một ngành công nghiệp da-giầy cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Chiến lược phát triển ngành công nghiệp giầy-dép Việt Nam nêu trên được xây dựng trên cơ sở những đánh giá tổng quan về tình hình sản xuất cũng như sản phẩm tiêu thụ và nhập khẩu da giầy trên thế giới như sau: Theo đánh giá và dự đoán của các chuyên gia thì trong những năm tới, các nước châu á và Viễn Đông sẽ chiếm tới 75% sản lượng giầy dép toàn thế giới ( khoảng trên 10 tỷ đôi), trong đó Việt Nam cũng sẽ là một trong các nước có tiềm năng để phát triển ngành hàng này. Các nước và khu vực có mức tiêu thụ và nhập khẩu giầy dép lớn trên thế giới mà Việt Nam có thể xâm nhập là EU, Mỹ, Nhật Bản. Hiện nay, EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất đối với hàng giầy dép Việt Nam, chiếm xấp xỉ 80% kim nghạch. Chúng ta cần củng cố và phát triển thị trường này, khai thác tối đa các ưu đãi mà thị trường này dành cho Việt Nam ( chưa bị quản lý bằng hạn ngạch, được hưởng ưu đãi thuế quan bằng 70% mức thuế MFN nếu đảm bảo được các tiêu chuẩn mà họ yêu cầu). Tăng cường mối quan hệ kinh doanh trực tiếp với các nhà nhập khẩu EU, một vấn đề đang được EU quan tâm. Nhật Bản là thị trường có nhu cầu nhập khẩu hàng năm khoản 350 triệu đôi giầy dép từ nước ngoài. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu giầy dép Việt Nam vào Nhật Bản chỉ chiếm 7-8% tổng kim ngạch nhưng chúng ta có khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này trong những năm tới. Mỹ là nước có nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu giầy dép lớn nhất thế giới, hàng năm nhập khẩu khoảng 1,4 tỷ đôi giầy dép các loại trị giá 14-15 tỷ USD. Hiện nay Việt Nam mới đạt kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ khoảng trên 110 triệu USD ( chiếm trên 10% kim ngạch xuât khẩu toàn ngành). Nếu các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường này và có khả năng cạnh tranh thì chúng ta có thể xuất khẩu giầy dép sang Mỹ với kim ngạch không thua kém vào EU, thậm chí có thể cao hơn. Ngoài ra, các khu vực thị trường thế giới khác như: Trung Đông, Bắc Âu, úc, các chuyên gia đã dự báo ngành giầy dép Việt Nam trong những năm tới có thể đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 20-25% về kim ngạch xuất khẩu. Những quan điểm xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU. Trong chiến lược phát triển đến năm 2010, ngành giầy dép đã xác định mục tiêu “hướng ra xuất khẩu” để thu hút ngoại tệ, tự cân đối các điều kiện để sản xuất và phát triển. Với mục tiêu đó, ngành giầy dép đã có những quan điểm của mình trong việc tăng cường khả năng xuất khẩu sang EU trong những năm tới như sau: Quan điểm hướng ra xuất khẩu và chuyển từ gia công sang mua nguyên vật liệu, bán thành phẩm nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả, tăng nhanh tích uỹ, nâng cao chất lượng và đa dạng háo những mạt hàng xuất khẩu. ưu tiên phát triển những cơ sở sản xuất nguyên liệu phụ, hoá chất phục vụ cho ngành nhằm tiết kiệm ngoại tệ, hạn chế sự phụ thuộc và tạo thế chủ động trong sản xuất kinh doanh. Coi trọng thị trường nội địa, khai thác tối đa năng lực để nhằm khai thác nhu cầu ngày càng tăng của tiêu dùng trong nước cũng như quốc tế. Chú trọng khâu thiết kế và triển khai những mẫu mã đẹp,mới đáp ững yêu cầu ngày càng tăng của thị trường trong nước cũng như quốc tế. Bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề để đảm bảo sự tiếp thu nhanh chóng chuyển giao công nghệ, phấn đấu làm chủ trong sản xuất và không phụ thuộc vào đối tác nước ngoài. Chú trọng đầu tư chiều sâu để đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, bổ sung các thiết bị lẻ, thay thế những thiết bị lạc hậu, đổi mới công nghệ làm tăng sản lượng, tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và hạn chế ô nhiễm môi trường. II. Quan hệ cung cầu trên thị trường EU về hàng giầy dép. Xét về mức tiêu dùng các sản phẩm giầy dép, trong những năm tới, EU vẫn là thị trường có mức tiêu thụ giầy dép lớn nhất trên thế giới, và mức tiêu thụ sẽ không chỉ dừng ở mức 4-5 đôi/người/năm, bởi hiện nay, đời sống nhân dân trong EU ngày càng cao, và xu hướng của họ là làm đẹp là chính, đồng thời thị hiếu tiêu dùng của họ liên tục thay đổi. Do vậy, trong thời gian tới, xu hướng tiêu dùng giầy dép sẽ gia tăng rất lớn, có thể lên đến 5-6 đôi/người/năm vào năm 2005. Xét về cơ cấu, chủng loại sản phẩm giầy dép, trong số giầy dép tiêu dùng, nhu cầu bảo vệ chân chỉ dười 35% còn lại hơn 65% là giầy dép mẫu mốt thời trang với yêu cầu chất lượng cao. Do đời sống cao nên xu hướng tiêu dùng ở đây v ề giầy da nhiều hơn với những yêu cầu như có độ bền cao, giữ dáng tốt trong quá trình sử dụng, mềm mại, độ thẩm thấu mồ hôi tốt. Song song với mức tiêu dùng giầy da tăng, giầy thể thao cũng gia tăng về mức tiêu dùng bởi hiện nay, giầy thể thao không chỉ là mặt hàng dùng trong vui chơi giải trí mà còn là mặt hàng thời trang. III. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU. Giải pháp về phía nhà nước. Cải thiện môi trường đầu tư và môi trường thương mại. a) Chính sách đầu tư. Đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng nhất để phát triển bất cứ một ngành sản xuất kinh doanh nào. việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam đòi hỏi phải có sự đầu tư đồng bộ từ khâu nguyên liệu, sản xuất, tìm kiếm thị trường và xuất khẩu hàng hoá. Do đó vấn đề đầu tư càng trở nên quan trọng. Quan điểm chung của đầu tư cho ngành giầy dép là phải tính trên phạm vi toàn nghành, trong đó tập trung phát triển các ngành thuộc da, chế biến nguyên liệu cho sản xuất giầy dép để các ngành này có thể theo kịp ngành sản xuất giầy dép. Đầu tư chọn lọc theo mặt hàng có thế mạnh nhằm tạo khả năng liên kết, hợp tác và khai khác tốt hơn năng lực thiết bị. Khuyến khích đầu tư nước ngoài, nhất là cho việc sản xuất các sản phẩm giầy dép cao cấp đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Ưu tiên với các dự án sản xuất các mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hay nhu cầu về mặt hàng đó đang tăng ở thị trường EU. Để làm được điều đó, đẩy mạnh việc thu hút các nguồn vốn đầu tư thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư và môi trưoưng thương mại. Về cải thiện môi trường đầu tư, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 ( Báoc cáo của Ban chấp hàn Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng) đã chỉ rõ : “tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Giảm mạnh, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước và đàu tư nước ngoài. Cải tiến nhanh các thủ tục hành chính để đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, thực hiện từng bước cơ chế đăng ký đầu tư. Chú trọng thu hút đầu tư của các công ty nắm công nghệ nguồn và có thị phần lớn trên thế giới…” Cải thiện môi trường đàu tư phải tính đến vấn đề hoàn thiện các văn bản luật và dưới luật. Thường xuyên có sự điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hay chưa rõ ràng. Với Luật thương mại, cần bổ sung rõ ràng các biện pháp quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu. Luật đầu tư nươc ngoài cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia về đàu tư trong lĩnh vực thương mại. Luật khuyến khích đầu tư trong nước phải quy định rõ các ngành nghề khuyến khích. Thu hút các nguồn vốn đầu tư đang là biện pháp cần thiết với các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam hiện nay để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Vốn có thể khai khác từ nhiều nguồn: nguồn trong nước, nguồn từ bên ngoài… Với chính sách đầu tư trong nước, nhà nước nên tập trung đầu tư vào một số các doanh nghiệp nhà nước có năng lực, có khách hàng, làm ăn có hiệu quả. Tiến hành cổ phần hoá, tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, cần có chính sách khuyến khích đầu tư dưới mọi hình thức: các xí nghiệp liên doanh, cổ phần hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tập trung đầu tư vào các mặt hàng mới phức tạp mà các doanh nghiệp chưa có khả năng sản xuất. Thu hút sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, tăng cường khai khác quỹ Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Liên minh Châu Âu để phát triển doanh nghiệp giầy dép. Đặc biệt tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trường thế giới cho “sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”. Cải thiện môi trương thương mại phải bbắt đầu từ cải cách các thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục hải quan, áp dụng công nghệ thông tin vào kê khai và tính thuế hàng hoá xuất nhập khẩu. Đồng thời, nâng cấp cơ sở hạ tầng cũng là biện pháp thu hút vốn đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Cải thiện môi trường thương mại là giải pháp hết sức cơ bản nhưng lại mang tính tổng hợp cao độ. Vì vậy cần có sự phối hợp của Chính phủ, các Bộ, ngành chức năng và các định chế xã hội, văn hoá. b) chính sách thuế: với vai trò là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của đất nước cùng với những đặc điểm riêng của ngành như nghành phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu phụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, chủ yếu là gia công hàng giầy dép xuất khẩu … chính phủ nên có những chính sách ưu đãi về thuế: áp dụng thuế suất 0% đối với nguyên liệu chính nhập khẩu như da thuộc… và áp dụng thuế suất ưu đãi cho các nguyên liệu phụ khác. Xây dựng mức thuế nhập khẩu chi tiết cho các loại nguyên liệu nhập khẩu. Xoá bỏ tình trạng một loại nguyên liệu với các thông số kỹ thuật khác nhau, định mức tiêu hao cùng nhiều chức năng khác nhau được áp dụng cho cùng một thuế suất. điều này gây nhiều thiệt thòi cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp giầy dép sử dụng lợi tức để tái đầu tư thì được miễn thuế lợi tức với phần đầu tư đó. Tổ chức tốt hệ thống thông tin. Thông tin là yếu tố vô cùng quan trọng, đặc biệt với hoạt động xuất khẩu. Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU không thể không quan tâm đến vấn đề thông tin. Thông tin phải đảm bảo các nguyên tắc: Chính xác, rõ ràng. Thường xuyên, dầy đủ và thống nhất về tiêu chí. Phù hợp thông lệ quốc tế. Các biện pháp để hoàn thiện hệ thống thông tin bao gồm: Về tổ chức thông tin: thiết lập mạng thông tin cơ bản giữa các cơ quan quản lý hoạt động xuất nhập khẩu như Tổng cục Hải quan, Bộ thương mại, Ngân hàng ngoại thương, Uỷ ban vật giá…Hoàn thiện hệ thống thông tin giữa các cơ quan trung ương và địa phương. Thành lập trung tâm thông tin ngành dệt may với các chức năng : thu thập, phân tích và thông tin cho các doanh nghiệp về xu thế mới, kiểu dáng, chất liệu, các thông tin về mẫu mốt, kỹ thuật công nghệ mới, dự báo tình hình thế giới, tổ chức họi thảo định kỳ, xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và các dịch vụ tư vấn. Đồng thời, phải tổ chức trung tâm thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh và xuất khẩu của các doanh nghiệp giầy dép để có các biện pháp kịp thời như điều chỉnh cơ cấu, cân đối giữa các mặt hàng, giữa các yếu tố sản xuất, để tạo nên sự đồng bộ trong sản xuất kinh doanh và tận dụng tối đa khả năng sản xuất và những cơ hội có được. Về nội dung thông tin: để đảm bảo tính đầy đủ và chính xác, thông tin cần nêu lên được các vấn đề: Thông tin về thị trường thể hiện qua nhu cầu của thị trường (tập quán, thị hiếu tiêu dùng…), khả năng sản xuất , khả năng tiêu thụ của thị trường , các đòi hỏi về chất lượng , tập quán thương mại quốc tế của thị trường… Thông tin về sản xuất trong nước. Thông tin về tình hình xuất khẩu và khả năng xuất khẩu của từng doanh nghiệp và của toàn ngành. Thông tin về các đối thủ cạnh tranh. Thông tin về các yếu tó ảnh hưởng đến sản xuất và xuất khẩu hàng giầy dép thế giới như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, sự tăng trưởng giảm tỷ giá hối đoái… Chính phủ nên nhanh chóng thành lập cục xúc tiến thương mại, nơi chuyên cung cấp thông tin về thị trường thế giới, trong đó có thị trường EU. Cơ quan này sẽ đóng vai trò cung cấp thông tin môi giới thương mại cho cả hai bên. . Đẩy mạnh công tác xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU. Từ sau khi đạt được “Hiệp định khung” với EU ngày 17/07/1995, và sau khi hàng hoá Việt Nam nhập khẩu vào EU được hưởng GSP ngày 1/1/1996, hàng hoá Việt Nam nhập khẩu vào EU nói chung, và giầy dép nói riêng ngầy càng gia tăng về số lượng. Tuy nhiên EU dành cho hàng Việt Nam những ưu đãi về thuế và mở cửa đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam thì cũng đòi hỏi Việt Nam phải đối xử tương tự với EU. Hơn nữa, chính sách thương mại của EU đối với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) là không cố định. EU có thể đột ngột thay đổi chính sách đối với Việt Nam nếu phát hiện ra những sai phạm nhỏ của ta, chẳng hạn sẽ áp dụng hạn ngạch đối với mặt hàng giầy dép, hoặc bỏ mặt hàng giầy dép ra khỏi danh sách những hàng hoá được hưởng GSP. Do vậy, lúc này đây khi năng lực cạnh tranh của hàng giầy dép Việt Nam trên thị trường EU còn yếu nên cần sự giúp đỡ của nhà nước trong họat động xúc tiến xuất khẩu. Chính phủ Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa trong đàm phán với Uỷ ban Châu Âu (EC) để giảm thuế và mở rộng thị trường hơn nữa cho hàng giầy dép Việt Nam, đặc biệt đến năm 2005, khi Trung Quốc đạt được quy chế tối huệ quốc (MFN) với EU thì hàng giầy dép Việt Nam sẽ khó có khả năng cạnh tranh vơí hàng Trung Quốc về giá cả. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang EU là công việc chính của doanh nghiệp, nhưng tại thời điểm này là do có những hạn chế nhất định nên rất cần sự trợ giúp của Nhà nước. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp và hàng giầy dép Việt Nam thâm nhập dẽ dàng và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU, nhà nước nên thực hiện mọt số hoạt động trợ giúp sau: Đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển thị trường EU thông qua việc đàm phán, ký kết các Hiệp định, thoả thuận thương mại song phương, đa phương nhằm tạo ra các tiền đề, hành lang pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu. Nhà nước Việt Nam cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hộ chợ, triển lãm hoặc hội thảo chuyên đề thị trường, giúp các doanh nghiệp trực tiếp tiếp cận thị trường, trực tiếp tiếp cận thị trường, trực tiếp tìm hiểu nhu cầu thị hiếu của thị trường và trực tiếp giao dịch với các nhà nhập khẩu chính của thị trường EU. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến và tiếp cận thị trường. Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện nay gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm đối tác EU, nhất là những đối tác tin cậy. Do vậy cần thiết phải nâng cao vai trò của các thương vụ trong việc xúc tiến thương mại, tìm các đối tác, ngân hàng tin cậy cho doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, do điều kiện đi lại xa xôi, chi phí tón kém nên vấn đề tìm hiểu , nghiên cứu thị trường cũng như những thay đổi diễn ra trên thị trường rất bị hạn chế. Vì vậy, Bộ thương mại phải yêu cầu các nước EU tăng cường hoạt động của mình. Thương vụ phải thường xuyên thông báo về Bộ thương mại từng diễn biến trên thị trường như thay đổi về luật pháp, quy chế nhập khẩu… đến các vấn đề như cung cầu, giá cả, thị hiếu, kênh phân phối…tất cả những việc làm trên phải được nhà nước hỗ trợ một phầm kinh phí chứ không nên để doanh nghiệp chịu tât cả. . Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng giầy dép của Việt Nam đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu không cao; vì thế để đẩy mạnh, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường này, nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn thông qua hệ thống ngân hàng. Để triển khai hoạt động hỗ trợ này, nhà nước Việt Nam nên thựuc hiện các biện pháp sau: Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, giải quyết được khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị. Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thâm nhập được thị trường EU- một thị trường có yêu cầu rất khắt khe về hàng hoá và kênh phân phối phức tạp trên thế giới. Đảm bảo sự bình đẳng thực sự trong quan hệ tín dụng ngân hàng trên cơ sở luật pháp giữa các thành phần kinh tế (hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực tư nhân không được lấy giá trị quyền sử dụng đất đai để thế chấp khi vay vốn). Mở rộng khả năng tiếp cận nguồn tín dụng chứng từ các ngân hàng cũng như các định chế tài chính. Đơn giản hoá thủ tục vay vốn và yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Xúc tiến thành lập ngân hàng chuyên doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp lớn với sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức Quốc tế. Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước cần thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này thực hiện boả lãnh cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển nhưng không đủ tài sản để thế chấp vay vốn. Quỹ được thành lập dưới hình thức là một tổ chức tài chính của nhà nước , hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho, phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả được vay vốn theo phương thức tự vay, tự trả. Thực hiện lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất khẩu sang EU có hiệu quả. Giải pháp về phía doanh nghiệp. . Đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU. Để làm chủ nguồn nguyên liệu, chủ động trong sản xuất kinh doanh, từng bước chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam phải chú trọng đến đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, thay thế các máy móc thiết bị lạc hậu để nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm. Để khắc phục tình trạng lạc hậu của máy móc thiết bị công nghệ, phương án tối ưu cho các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU là nhập khẩu máy móc, công nghệ nguồn từ EU. Các nước EU hiện nay có thế mạnh trong các lĩnh vực: điện tử viễn rhông, sản xuất máy móc thiết bị,. Nhập khẩu máy móc công nghệ nguồn từ EU ta không chỉ giải quyết vấn đề về phương tiện sản xuất hiện đại mà còn giải quyết phần nào những khó khăn do yêu cầu khắt khe về chất lượng từ phía EU. Trong điều kiện các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam hiện nay còn thiếu vốn và trình độ hiểu biết còn hạn chế, nhập khẩu máy móc công nghệ nguồn từ EU tốt nhất là thông qua việc thu hút các nhà đầu tư EU tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Thực hiện được biện pháp này, Việt Nam vừa thu hút công nghệ ngùn từ EU, vừa nâng cao và tiêu chuẩn hoá chất lượng sản phẩm hàng hoá xuất khẩu nói chung và hàng hoá xuất khẩu sang thị trường EU nói riêng. Chất lượng hàng hoá là yêú tố quyết định khả năng mở rộng xuất khẩu của Việt Nam sang bất kỳ thị trường nào, trong đó có thị trường EU. Để hàng giầy dép Việt Nam xuất khẩu có thể chiếm được thị phần lớn hơn và đúng vững trên thị trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải giải quyết được vấn đề cơ bản nhất, đó là nâng cao chất lượng, sản xuất sản phẩm đáp ứng yêu cầu tiêu dùng, thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng theo thị hiếu khách hàng, hạ giá thành sản phẩm, giao hàng đúng thời hạn, giữ uy tín với khách hàng và hàng hoá xuất khẩu phải phù hợp với các quy định nhập khẩu của EU. Các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm gồm có: Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, boả quản tốt nguyên phụ liệu. Tuân thủ đúng các quy định của bên đặt hàng về nguyên liệu phụ, mẫu mã,kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói, bao bì… Thực hiện quy trình kiểm tra nghiêm ngặt chất lượng hàng hoá trước khi xuất khẩu. Hạ giá thành sản phẩm, mặc dù giá thành sản phẩm không phải là yếu tố quyết định với hàng giầy dép, song đó lại là một trong những nhân tố quan trọng trong cạnh tranh. Sản phẩm cùng loại với chất lượng như nhau, người ta sẽ lựa chọn sản phẩm có giá rẻ hơn. Hạ giá thành sản phẩm bằng cách hợp lý hoá lại quá trình sản xuất, tận dụng các nguyên phụ liệu trong nước sản xuất được nhưng vẫn đảm bảo duy trì về chất lượng. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, các nước ASEAN áp dụng giảm giá nhâ công để cạnh tranh về giá, vì vậy giá nhân công của ta hiện nay có xu hướng cao hơn các nước khác trong khu vực, đây là một bất lưọi của ta trong việc giảm giá thành. Hoạt động gia công cũng bị hạn chế do trong gia công giá nhân công là yếu tố quyết định. Các doanh nghiệp cần có biện pháp điều chỉnh giá nhân công cho phù hợp mà vẫn giữ được cuộc sỗng cho người lao động. . Lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào các kênh phân phối trên thị trường EU. Có rất nhiều phương thức để các doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập vào thị trường EU, như : xuất khẩu qua trung gian, xuất khẩu trực tiếp, liên doanh, đầu tư trực tiếp. Mỗi phương thức thâm nhập thị trường trên đây có những ưu thế và hạn chế riêng. Xuất khẩu qua khâu trung gian là con đường mà phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng để thâm nhập thị trường EU ở thời kỳ ban đầu, mới khai phá thị trường này. khi đó, thị trường EU còn rất mới mẻ và bỡ ngỡ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, hơn nữa lại thiếu kinh nghiệm về thương trường nên không thiết lập được quan hệ bạn hàng trực tiêp với các nước EU. Do vậy, các doanh nghiệp đã xuất khẩu sang EU qua các bạn hàng trugn gian mà chủ yếu là qua các nước Châu á. Xuất khẩu trực tiếp là con đường chính thâm nhập thị trường EU hiện nay của doanh nghiệp giầy dép Việt Nam. Hình thức này thích hợp với thời kỳ sau khai phá khi quy mô xuất khẩu còn nhỏ bé và các mặt hàng xuất khẩu còn phân tán, nên dễ tao ra thế bị động cho các nhà xuất khẩu do khó nắm bắt các thông tin kịp thời từ thị trường, cần áp dụng đàu tư trực tiếp và liên doanh. Đầu tư trực tiếp không phải là hưỡng chính trong thời gian trước mắt, nhưng chí ít nó cũng cần thiết trong một số lĩnh vực như các cơ sở tiếp thị và dịch vụ. Liên doanh có thể dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hoá. Thời điểm này, hàng giầy dép Việt Nam chưa có danh tiếng, nên rất kháo thâm nhập vào thị trường EU. Hơn nữa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Do vậy, liên doanh dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hoá, tên thương phẩm có thể sẽ là biện pháp tối ưu nhất để các nhà xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam có thể thâm nhập được vào thị trường này. Trong thời gian tới, một mặt các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam vừa duy trì xuất khẩu trực tiếp để thâm nhập thị trường EU, mặt khác cần có sự nghiên cứu để lưạ chọn phương thức thâm nhập bằn hình thức liên doanh và đầu tư trực tiếp. Các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam có thể thực hiện cá giảipháp sau để thâm nhập vào các kênh phân phối này. Thứ nhất, đối với các doanh nghiệp sản xuất giầy dép vừa và nhỏ Việt Nam do tiềm lực kinh tế hạn chế nên có thể liên kết với cộng đồng người Việt Nam ở Châu Âu để đàu tư sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng giầy dép hiện đang có xu thế gia tăng tiêu dùng ở Châu Âu. hợp tác kinh doanh có thể dưới hình thức liên doanh, trong đó đối tác nước ngoài sẽ là người Việt Nam ở Châu Âu. phía Việt Nam sẽ chịu trách nhiệm sản xuất hàng hoá theo đúng thiết kế, còn phía nước ngoài sẽ có trách nhiệm tiêu thụ hàng hoá. Bằng cách này, hàng giầy dép sản xuất ra sẽ đáp ứng tốt thị hiêu luôn thay đổi của thị trường EU và thâm nhập vào được kênh phân phối trên thị trường này. Thứ hai, các doanh nghiệp lớn có tiềm lực kinh tế mạnh hơn có thể là liên doanh để trở thành các công ty con của các công ty xuyên quốc gia EU . Do vậy hàng giầydép Việt Nam sẽ dễ dàng xâm nhập vào thị trường EU hơn. . Đẩy mạnh công tác xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU (thúc đẩy hoạt động marketing). EU là thị trường lớn trên thế giới, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa hàng năm rất lớn. Tuy nhiên hàng Việt Nam chỉ mới chiếm một thị phần nhỏ trên thị trường này. hàng giầy dép Việt Nam cho đến nay vẫn chưa thâm nhập trực tiếp được nhiều vào thị trường này, ngoài nguyên nhân chính là do sức cạnh tranh của hàng Việt Nam chưa cao phải kể đến nguyên nhân quan trọng là công tác xúc tiến xuất khẩu của ta còn yếu, chưa hỗ trợ được nhiều cho việc đưa hàng hoá thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường EU. Do vậy ngoài việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành snr phẩm, các doanh nghiệp giầy dép cần phải chú ý đến năng lực tiếp thị , tích cực mở rộng hoạt động xúc tiến sang thị trường EU: chủ động tìm kiếm đối tác chào hàng thông qua cac Hội chợ, triển lãm và các hội thảo chuyên đề. Tìm hiểu và nghiên cứu thị trường EU trực tiếp hoặc thông qua phòng thương mại Eu tại Việt Nam, phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Cục xúc tiến thương mại-Bộ thương mại, Tham tán thương mại tại các nước EU để biết được các chính sách kinh tế thương mại của EU, nhu cầu và thj hiếu tiêu dùng của thị trường, biến động cung cầu của thị trường… Các doanh nghiệp Việt Nam phải ứng dụng các nghiệp vụ Marketing để phát hiện những biến đổi về thị hiếu nhu cầu tiêu dùng, tăng cường đầu tư cho các mặt hàng đem lại lợi nhuận cao. Tổ chức tốt các dịch vụ trước và sau khi bán hàng để duy trì và củng cổ uy tín của hàng giầy dép Việt Nam với người tiêu dùng trong Liên minh. . Bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực. Con người là yếu tố quan trong của quá trình sản xuất. Để hàng sản xuất ra đáp ứng được tốt nhu cầu của người tiêu dùng, ngoài việc trang bị máy móc thiết bị phải có những cán bộ, công nhân kỹ thuật giỏi. Hiện nay, nước ta rât thiếu cán bộ kỹ thuật cao nên dẫn tới tình trạng hàng hoá sản xuất ra chất lượng kém, không đồng đều, kiêu dáng đơn điệu, thiéu tính sáng tạo. vì thế khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam rất thấp. Để khắc phục tình trạng này, cần chú trọng tổ chức các chương trình chuyên sâu cho cán bộ kỹ thuật. Tuy nhiên chỉ đào tạo cán bộ kỹ thuật giỏi thôi chưa đủ mà còn phải đào tạo cả đội ngũ cán bộ thương mại giỏi thì mới có thể đưa những mặt hàng có chất lượng đến với thị trường EU. Ngoài ra để doanh nghiệp có thể phát triển lại cần phải có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực. Trong ngành giầy dép yếu tố lao động đóng góp quan trọng vào giá trị sản phẩm. Do đó việc đào tạo nâng cao năng lực cán bộ công nhân là việc làm rất cần thiết. Công tác đào tạo đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa nhà nước và doanh nghiệp. nâng cao năng lực cán bộ công nhân phải bắt đầu tư nâng cao năng lực chuyên môn: - Đào tạo đội ngũ công nhân thông thạo về kỹ thuật, nghiệp vụ nhằm nâng cao năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm. - Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật để tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng tốt thị hiếu của người tiêu dùng. Đồng thời nâng cao năng lực của cán bộ thương mại để đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng EU. - Đào tạo đội ngũ chuyên về thiết kế, tạo mẫu thời trang cho phù hợp với thị hiếu và nhu cầu tiêu dùng của EU, đồng thời tạo nét đặc sắc riêng cho hàng giầy dép Việt Nam để từ đó hàng giầy dép Việt Nam tìm được chỗ đứng cho mình trên thị trường EU. - Tổ chức lớp huấn luyện, đào tạo nhằm nâng cao kiến thức kinh doanh và trình độ quản lý cho các cán bộ quản lý và chỉ đạo kinh doanh của doanh nghiệp. Mở các lớp thuyết trình các thông tin mới nhất về chính sách, chế độ, các thể lệ kinh doanh thương mại cũng như các nghiệp vụ xuất nhập khẩu như Marketing, vận tải, bao bì thanh toán ... tổ chức các buổi hội thảo để trao đổi học hỏi kinh nghiệp đối với các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam với nhau và với giới kinh doanh EU. . Đẩy mạnh việc áp dụng các tiêu chuẩn ISO để đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật của EU. - Thị trường EU có hệ thống quản lý chất lượng hàng nhập khẩu khá chặt chẽ. Hàng hoá từ bên ngoàimuốn vào thị trường này phải vượt qua rào cản kỹ thuật của EU. Rào cản kỹ thuật chính là quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của EU được cụ thể hóa thành 4 tiêu chuẩn của sản phẩm: Tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng và tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. Hàng giầy dép Việt Nam muốn vào thị trường này cũng phải vượt qua các rào cản kỹ thuật này và cụ thể là phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng và tiêu chuẩn về môi trường. Đối với mỗi tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển ISO 9000 do tổ chức tiêu chuẩn quốc tế đặt ra nhằm giúp các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản lý nhằm đạt được các mục tiêu tăng năng xuất và chất lượng sản phẩm, giảm lãng phí và tỷ lệ phế phẩm để duy trì một dạng sản phẩm luôn có chất lượng đồng nhất phù hợp với giá thành. Do đó đối với doanh nghiệp áp dụng hệ thông quản lý chất lượng ISO 9000, người tiêu dùng có thể yên tâm hơn với chất lượng sản phẩm. Nói cách khác ISO 9000 có thể coi như một “ngôn ngữ” để xác định chữ tín giữa người sản xuất với người tiêu dùng, giữa các nghề với nhau, là con đường hội nhập khi các nhà sản xuất thâm nhập vào các khu vực mậu dịch và là sự khẳng định của nhà sản xuất cung ứng các sản phẩm có chất lượng tin cậy. Thực tế cho thấy ở các nước Châu á và Việt Nam, hàng của các doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng hoá của các doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này. Đối với các tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, ký mã hiệu trở nên quan trọng số 1 trong lưu thông hàng hoá trên thị trường EU. Các doanh nghiệp giầy dép phải chú ý đến vấn đề gắn ký mã hiệu trên hàng hoá đây là yếu tố bắt buộc đối với hàng nhập khẩu vào EU. Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 ngày càng trở lên quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng giầy dép Việt Nam. ISO14000 đem đến các tiếp cận hệ thống cho việc quản lý môi trường và cung cấp các công cụ liên quan như đánh giá môi trường, nhãn môi trường, phântích chu kỳ sống của sản phẩm.... cho các doanh nghiệp và các tổ chức cơ sở khác để quản lý sự tác động của các hoạt động của họ với môi trường, ngăn ngừa ô nhiễm và liên tục cải thiện môi trường với sự cam kết của lãnh đạo và sự tham gia có ý thức của mọi thành viên từ người sản xuất đến các cán bộ quản lý. Ngay từ bây giờ,các doanh nghiệp phải chú ý đến vấn đề nhãn môi trường cho sản phẩm giầy dép. Chứng chỉ ISO 14000 sẽ là phương tiện và thước đo để khách hàng EU có thể yên tâm hơn về phương diện bảo vệ môi trường của sản phẩm. Việc thừa nhận và cam kết áp dụng ISO 14000 đã trở thành một tiêu chí để duy trì sự cạnh tranh tại thị trường EU. Bằng phương pháp này, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng được khả năng cạnh tranh và uy tín trên thị trường EU. Như vậy, có thể nói ISO 9000 Và ISO 14000 chính là chìa khoá để các doanh nghiệp sản xuất hàng giấy dép Việt Nam mở rộng cánh cửa cho hàng Việt Nam và EU. Trong giai đoạn tới khi mà EU xoá bỏ hạn ngạch cho các nước là thành viên của WTO và Trung Quốc gia nhập tổ chức này hàng giầy dép xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải đối mặt với quá trình cạnh tranh thật gay gắt để chiếnthắng cho cuộc cạnh tranh này các doanh nghiệp làm hàng giầy dép xuất khẩu Việt Nam không còn cách nào khác phải đạt các tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000. . Tăng cường khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang cần lượng vốn rất lớn để đầu tư phát triển mà trên thực tế vốn đang là vấn đề khó khăn cho hầu hết các doanh nghiệp. Vấnđề đặt ra đối với các doanh nghiệp hiện nay chính làviệc khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn hạn hẹp để đáp ứng các yêu cầu phát triển sản xuất và xuất khẩu. Các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam có thể áp dụng một số phương pháp sau: - Huy động các nguồn lực tự có như: Khấu hao cơ bản, vốn có được do bán, cho thuê tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho, huy động vốn từ cán bộ công nhân viên .... - Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tốt cần nghiên cứu khả năng phát hành trái phiếu, cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển. - Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn vốn từ bên ngoài và của mọi thành phần kinh tế. - Xin phép sử dụng vốn ngân sách cho các quy trình quy hoạch như quy hoạch các vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, quy hoạch các khu công nghiệp dệt. - Xin phép sử dụng vốn ngân sách cho các trường đào tạo, viện nghiên cứu chuyên ngành như viện tạo mẫu các trung tâm đào tạo, chuyên gia tạo mẫu... - Xin phép sử dụng nguồn vốn ODA hoặc đặc biệt ưu đãi cho việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho các nhà máy xử lý nước thải, hoặc hỗ trợ cho các doanh nghiệp khó khăn về tài chính. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư còn phải chú ý đến việc tăng nhanh khả năng thu hồi vốn. Tốc độ phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ hiện nay làm cho hao mòn mô hình trở lên nhanh chóng. Vì vậy cần rút ngắn thời gian khấu hao của máy móc mà vẫn đảm bảo sản xuất có hiệu quả. KếT LUậN Ngành công nghiệp giầy dép được khẳng định là một thế mạnh trong sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, đặc biệt với những nước đang phátn triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hoá như Việt Nam. Ngành giầy dép Việt Nam trong những năm qua luôn đóng góp một phần đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu và là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam là nhiệm vụ qun trọng để thực hiện chiến lược CNH-HĐH hướng về xuất khẩu của đất nước. Xu huớng phát triển hàng giầy dép thế giới đã mở ra nhiều cơ hội cho ngành giầy dép Việt Nam . Tuy nhiên, trong quá trình thâm nhập và tiếp cận thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường EU, ngành giầy dép Việt Nam đã và đang gặp phải không ít khó khăn chủ quan và khách quan cản trỏ kim ngạch đạt tới mức tiềm năng của ngành. Trong giai đoạn tới, với những nỗ lực đẩy mạnh hoạt động sản xuất và xuất khẩu của mình,ngành giầy dép Việt Nam nhất định sẽ tìm ra những giải pháp tốt nhất để vượt qua mọi khó khăn thủ thách và đạt được mục tiêu pát triển của mình. Mục Lục Lời nói đầu Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết phải tăng cường khả năng xuât khẩu giày dép của Việt nam……....3 I Khái niệm và các hình thức xuất khẩu chủ yếu…………………………….3 Khái niệm…………………………………………………………………....3 Các hình thức xuất khẩu chủ yếu…………………………………………….3 Xuất khẩu trực tiếp……………………………………………………….….3 Xuất khẩu uỷ thác…………………………………………………………...4 Xuất khẩu tại chỗ……………………………………………………………4 Xuất khẩu gia công uỷ thác…………………………………………………5 Buôn bán đối lưu…………………………………………………………….5 Xuất khẩu theo nghị định thư( xuất khẩu trả nợ)……………………………5 Gia công quốc tế…………………………………………………………….6 Tái xuất khẩu………………………………………………………………..6 II Nội dung của hoạt động xuất khẩu………………………………………...7 Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu……………………………………………….7 Lựa chọn thị trường xuất khẩu………………………………………………8 Lựa chọn đối tác giao dịch…………………………………………………..8 Lựa chọn phương thức giao dịch………………………………………….….9 Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu…………………………………..…10 Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán tiền…………...…11 Giục mở và kiểm tra thư tín dụng………………………………………..11 Xin giấy phép xuất khẩu…………………………………………………11 Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu……………………………………………11 Kiểm định hàng hoá…………………………………………….………12 Thuê phương tiện vận chuyển…………………………………………...12 Mua bảo hiểm cho hang hoá…………………………………………….13 Làm thủ tục hải quan……………………………………………………13 Giao hàng lên tàu………………………………………………………..14 Thanh toán………………………………………………………………14 0 Giải quyết khiếu nại(nếu có)…………………………………………15 III Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu……………………..15 Các nhân tố kinh tế…………………………………………………………15 Các nhân tố về chính trị, luật pháp của nước sở tại…………………………17 Các nhân tố văn hoá xã hội, mội trường tự nhiên…………………………18 Các nhân tố khoa học công nghệ………………………………………….18 Các nhân tố cạnh tranh……………………………………………………19 6. Các nhân tố về bản thân doanh nghiệp……………………………………20 6.1 Sức cạnh tranh của doanh nghiệp………………………………………20 6.2 Trình độ quản lý của doanh nghiệp……………………………………21 6.3 Trình độ kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp……………………21 IV Sự cần thiết phải tăng cường xuất khẩu giầy dép của Việt Nam………22 chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng GIầY DéP việt nam vào thị trường EU…………………………………………………………………23 I Khái quát về thị trường EU và các quy định nhập khẩu giầy dép của EU……………………………………………………………………………23 Sơ lược về sự hình thành và phát triển của EU……………………………..23 Đặc điểm của thị trường EU………………………………………………24 Tập quán, thị hiếu tiêu dùng của thị trường EU………………………24 Năng lực nội tại của thị trường EU về khả năng sáng tạo mốt, khả năng sản xuất và xuất khẩu…………………………………………………28 Nhu cầu nhập khẩu hàng giày dép……………………………………29 Hệ thống phân phối của hàng giày dép trên thị trường EU……………30 Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của EU………………………31 Chính sách ngoại thương ……………………………………………31 3. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập của EU dành cho các nước đang phát triển……………………………………………………………………………33 3.1. Quy định của EU đối với hàng hoá được hưởng GSP…………………….34 3.2. Các biện pháp khuyến khích trong GSP của EU………………………….36 3.3. Các điều kiện hưởng GSP của EU…………………………………………36 4. Các quy định của EU đối với hàng giầy dép xuất khẩu của Việt Nam……38 4.1. Các quy định về các mức thuế……………………………………………38 4.2. Các quy định về kiểu dáng mẫu mã……………………………………….39 4.3. Về nguyên liệu…………………………………………………………….40 II Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng giày dép Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian qua……………………………………………………….41 Kết quả xuất khẩu giầy dép Việt Nam vào thị trường EU………………….41 . Kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường EU………………………………………………………………41 . Các nước nhập khẩu chính hàng giầy dép của Việt Nam trong EU……...44 Các hình thức xuất khẩu yếu chủ giày dép Việt Nam vào thị trường EU…………………………………………………………………………..45 Cơ cấu mặt hàng giầy dép xuất khẩu sang EU……………………………..47 III Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng giày dép Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian qua…………………………………………..48 Những ưu điểm trong hoạt động tăng cường khả năng xuất khẩu các sản phẩm giầy dép của Việt Nam vào thị trường EU…………………………48 Những tồn tại trong hoạt động tăng cường khả năng xuất khẩu các sản phẩm giầy dép của Việt Nam vào thị trường EU…………………………………50 Nguyên nhân của các tồn tại………………………………………………50 Nguyên nhân chủ quan………………………………………………50 Nguyên nhân khách quan……………………………………………52 Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường EU………………………54 I Những quan điểm xuất khẩu hàng giày dép Việt Nam vào vào thị trường EU……………………………………………………………………………54 II Quan hệ cung cầu trên thị trường EU về hàng giầy dép………………57 III Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng giày dép Việt Nam vào thị trường EU………………………………………………………………………58 Giải pháp về phía nhà nước………………………………………………58 Hoàn thiện hành lang pháp lý tạo thuận lợi tối đa cho xuất khẩu…58 Cải thiện môi trường đầu tư và môi trường thương mại……………60 Tổ chức tốt hệ thống thông tin……………………………………62 Đẩy mạnh công tác xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU………64 Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu…………………65 Giải pháp về phía doanh nghiệp…………………………………………65 Đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU……………………………………………65 Thúc đẩy các hoạt động Marketing………………………………66 Lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào các kênh phân phối trên thị trường EU…………………………………68 Hoàn thiện các nghiệp vụ xuất khẩu………………………………69 Đẩy mạnh việc áp dụng các tiêu chuẩn ISO để đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật của EU………………………………………………70 Tăng cường khai khác và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư…72 Tài liệu tham khảo Giáo trình thương mại quốc tế-Trường Đại học Kinh tế quốc dân-PGS.Ts Nguyễn Duy Bột chủ biên. Giáo trình Kinh Doanh quốc tế (Sau Đại học)-Trường Đại học Kinh tế quốc dân-Ts.Đỗ Đức Bình chủ biên. Các báo cáo Xuất khẩu nước-Tổng cục Hải quan. Những điều cần biết về Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập. Tạp chí Nghiên cứu châu Âu các số năm 1999-2000-2001. Thời báo Kinh tế Việt Nam, thương mại, Thương nghiệp thị trường. Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu- Bộ Thương mại. Một số bài viết về Tổng công ty Da-Giầy Việt Nam trong trang Wed của thời báo kinh tế Việt Nam: ệtNam/doanh_nghiep/nganh/da_giay/ Tạp chí Công nghiệp Da-Giầy Việt Nam (Hiệp hội - Da giầy Việt Nam ) năm 1999,2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0402.doc
Tài liệu liên quan