Chẩn đoán và điều trị u nhầy xoang bướm qua phẫu thuật nội soi mũi - xoang

Hướng lan Có đến 72,7% các trường hợp có khối u lan vào ổ mắt, 21,2% các trường hợp u đã lan vào hốc mũi, 15,2% các trường hợp khối u lan vào xoang sàng và đặc biệt có 1 trường hợp (3,0%), khối u đã lan vào não. Việc xác định hướng lan của u là rất quan trọng trong điều trị, một số trường hợp u lớn lan vào ổ mắt và hốc mũi, việc chẩn đoán có thể dựa vào lâm sàng. Tuy nhiên trong các trường hợp u nhỏ hơn hay cần chẩn đoán phân biệt với u đích thực hay u chèn ép gây bít tắc ứ đọng trong lòng xoang thì chụp cắt lớp vi tính là cần thiết. Chụp cắt lớp vi tính còn giúp ta chẩn đoán phân biệt u nhầy với một số loại u khác của xoang bướm(3) và xác định mức độ ăn mòn các vách xương. Điều trị phẫu thuật Các phương pháp phẫu thuật Trong 33 trường hợp bệnh nhân u nhầy được phẫu thuật có 28 trường hợp (84,8%) được phẫu thuật nội soi mũi xoang đơn thuần và 5 trường hợp (15,2%) được phẫu thuật theo hai đường phối hợp. So với các nghiên cứu về u nhầy trước kia ở trong nước, thì tỷ lệ phẫu thuật nội soi ngày càng tăng lên. Theo Nguyễn Chí Hiểu tiến hành năm 2000(3) có tới 90,4% được phẫu thuật bằng đường ngoài, chỉ có 9,6% qua đường nội soi. Phẫu thuật nội soi có ưu điểm là không có sẹo ngoài da, thời gian hậu phẫu ngắn, các triệu chứng cơ năng giảm nhanh sau mổ hơn so với đường ngoài. Thêm nữa, nội soi giúp ta mở một đường dẫn lưu rộng rãi đủ để khối u không tái phát. Trong khi tiến hành phẫu thuật nội soi, chúng tôi dùng kim số 14 để chọc thăm dò trước, ở vùng phồng căng nhất, mà thường nhất là ở vùng mặt trước xoang bướm. Nếu có dịch nhầy đặc, chúng tôi sẽ tiến hành mở rộng ra tạo thành đường dẫn lưu rộng rãi cho khối u. Kỹ thuật này cũng đã được một số tác giả đề cập đến(3,4,7). Ngoài ra trường hợp u đã lan qua xoang bướm vào não, thì đường phối hợp là cần thiết. Nó vừa tạo điều kiện để dẫn lưu u nhầy một cách rộng rãi, vừa giúp kiểm sóat tốt thành sau xoang bướm.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 138 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chẩn đoán và điều trị u nhầy xoang bướm qua phẫu thuật nội soi mũi - xoang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học 37 sexual function and sexual distress. The Journal of Sex Medicine Jul;5(7):1681-93 6. Kadri N, McHichi Alami KH&McHakra Tahiri S (2002). Sexual dysfunction in women: Population-based epidemiological study. Archives of Women Mental Health,5; 59-63 7. McAnulty RD.; Burnette MM (2006). Sexual function and dysfunction. Sex and Sexuality, volume 2 14-32. 8. Meston CM (2003) Validation of the Female Sexual Function Index (FSFI) in Women with Female Orgasmic Disorder and in Women with Hypoactive Sexual Desire Disorder. J Sex Marital Ther 29:39-46. 9. Moreira ED, Brock G, Glasser DB, Nicolosi A, Laumann EO, Paik A, Wang T, Gingell C (2005). Help-seeking behavior for sexual problems: the Global Study of Sexual Attitudes and Behaviors. Int J Cin Pract; 59:6-16.doi:10.111/j.1742- 1241,2005.00382x(PudMed(Cross Ref)) 10. Najman J M, Dunne M, Boyle FM, Cook M D & Purdie D M (2003). Sexual Dysfunction in the Australian population. Australian Family Physician 32; 951-54. 11. Nguyễn Thành Như. Rối loạn tình dục nữ. Hội nghị Việt-Pháp châu Á-Thái Bình Dương lần VIII, tháng 5/2008. 12. Nusbaum MR & Gamble G (2001). The prevalence and important of sexual concerns among female military beneficieries. Military Medicine Nov-Dec 166; 208-10. 13. Oksuz E, Malhan S (2005). Prevalence of male sexual dysfunction and potential risk factors in Turkish men: a web- based survey. Int J Import Res 17(6):539-45 14. Peeyananjarassri K, Liabsuetrakul T, Soonthornpun K, Choobun T, Manopsilp P (2008). Sexual functioning in postmenopausal women not taking hormone therapy in the Gynecological and Menopause Clinic, Songklanagarind Hospital measured by Female Sexual Function Index questionnaire. J Med Assoc Thai May;91(5):625-32 15. Rosen R, Brown C, Heiman J, Leiblum S, Meston C, Shabsigh R, et al (2000). The Female Sexual Function Index (FSFI): a multidimensional self-report instrument for the assessment of female sexual function. J Sex Marital Ther 26:191-208. 16. Sanders SA, Graham CA, Bass JL & Bancroft J (2001). A prospective study of the effects of oral contraceptives on sexuality and well-being and their relationship to discontinuation. Contraception, 64;51-8 17. Singh JC, Tharyan P, Kekre NS, Singh G, Gopalakrishnan G (2009). Prevalence and risk factors for female sexual dysfunction in women attending a medical clinic in south India. J Postgrad Med Apr-Jun;55(2):113-20. 18. Ulusoy E, Cayan S, Akbay E, Bozlu M, Canpolat B, Acar D (2004). Prevalence of female sexual dysfunction and potential factors that may impair sexual dysfunction in Turkish women. Urol Int 72:52-7. 19. West SL, Vinikoor LC, Zolnoun D (2004). A systematic review of the literature on female sexual dysfunction prevalence and predictors. Annu Rev Sex Res 15: 40-172 20. Wiegel M, Meston C, Rosen R (2005). The Female Sexual Function Index (FSFI): Cross-validation and Development of Clinical Cutoff Scores. J Sex Marital Ther 31:1-20. CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ U NHẦY XOANG BƯỚM QUA PHẪU THUẬT NỘI SOI MŨI-XOANG Võ Thanh Quang* TÓM TẮT Mục tiêu: nghiên cứu triệu chứng lâm sàng và hình ảnh tổn thương trên phim chụp cắt lớp vi tính của u nhầy xoang bướm; Đánh giá kết quả điều trị u nhầy xoang bướm qua phẫu thuật nội soi mũi-xoang (NSMX). Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu lâm sàng mô tả từng ca có can thiệp trên 33 bệnh nhân u nhầy xoang bướm được mổ NSMX tại BV Tai Mũi Họng TƯ từ 2005-2009. Kết quả: Các triệu chứng lâm sàng chủ yếu gồm đau đầu, ảnh hưởng thị lực (63,6), lồi mắt (9,1%) và song thị (18,8%). Trên CT Scan phát hiện hình ảnh ăn mòn và tiêu xương ở 23 bệnh nhân (97,3%). Phẫu thuật nội soi xoang bướm đơn thuần hoặc phối hợp được áp dụng cho tất cả bệnh nhân và tỷ lệ khỏi bệnh là 93,2%. Một bệnh nhân (3,4%) có tái phát sau mổ. Kết luận: triệu chứng lâm sàng chính của u nhầy xoang bướm là đau đầu, hình ảnh trên CT Scan là khối u ngấm thuốc đều, ăn mòn và tiêu xương xung quanh. Điều trị bằng phẫu thuật NSMX là chỉ định hợp lý và cho kết quả tốt ở 97%. Từ khóa: U nhầy, xoang bướm, phẫu thuật nội soi xoang. * Khoa Mũi Xoang, bệnh viện Tai Mũi Họng Trung Ương Tác giả liên lạc: BS. Võ Thanh Quang ĐT: 0913555115 Email: vothanhquang@vnn.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011 38 ABSTRACT MUCOCELES OF THE SPHENOIDAL SINUSES: DIAGNOSIS AND TREATMENT BY ENDOSCOPIC SINUS SURGERY (ESS) Vo Thanh Quang * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 – No. 1 – 2011: 37 - 42 Objectives: Clinical and CT Scan findings of sphenoid sinus mucocele; Evaluate the results og the treatment by EES. Material and methods: Clinical trial with intervention on 33 patients treated at National ENT Hospital in the period from 2005 to 2009 for sphenoid sinus mucocelle by FESS. Results: The most frequent symptoms of sphenoidal mucocelle were headache, visual impairment (63,6%), exophtalmy (9,1%) and diplopia (18,8%). Destruction of sinuses and antero-inferior bony wall of the sinus was found in 23 patients (79.3%). Endoscopic intranasal surgery was applied to all patients, complete recovery was observed in 27 (93.2%) patients. Recurrence was noted in one patient (3.4%). Conclusions: the most important clinical finding of sphenoidal mucocele is headache and CT Scan sign is an opacification tumor contrast with bony erosion of sinus walls. ESS is an optimal method for treatment with g«d rÐult in 97%. Key words: Mucocele, Sphenoidal, Endoscopic Sinus Surgery ĐẶT VẤN ĐỀ U nhầy xoang bướm là một bệnh lý lành tính có nguyên nhân do tắc lỗ thông tự nhiên của xoang. Bệnh lý này nếu không phát hiện và điều trị sớm có thể gây ra những biến chứng nặng, do khối u phát triển làm mòn và tiêu xương của thành xoang, xâm lấn và chèn ép các cơ quan lân cận, đặc biệt là não và màng não. Trong giai đoạn đầu, u nhầy xoang bướm thường khó chẩn đoán do đặc điểm và cấu trúc giải phẫu phức tạp của vùng nền sọ, xoang bướm và do bệnh triển chậm, kín đáo. Mặt khác, những biểu hiện đầu tiên của u chủ yếu lại là biểu hiện ở vùng mắt (mờ mắt). Giai đoạn sau khối u phát triển gây đè đẩy, chèn ép, dẫn đến các triệu chứng đau đầu, hạn chế vận động nhãn cầu, biến dạng ổ mắt Trong những năm gần đây nhờ sự phát triển của các phương tiện chẩn đoán và điều trị hiện đại như chụp cộng hưởng từ hạt nhân, cắt lớp vi tính, nội soi mũi xoang việc chẩn đoán u nhầy xoang bướm trở nên chính xác hơn và điều trị có nhiều tiến bộ hơn. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với các mục tiêu: - Nghiên cứu bệnh cảnh lâm sàng và hình ảnh tổn thương trên phim chụp cắt lớp vi tính của u nhầy xoang bướm. - Đánh giá kết quả điều trị u nhày xoang bướm qua phẫu thuật NSMX. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng 33 bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị u nhầy xoang bướm tại bệnh viện Tai Mũi Họng trung ương từ năm 2005 đến 2009. Không phân biệt tuổi, giới. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả lâm sàng từng ca có can thiệp. Chẩn đoán u nhầy xoang bướm dựa vào: - Các triệu chứng lâm sàng, khám nội soi hốc mũi. - Chụp cộng hưởng từ hạt nhân hoặc cắt lớp vi tính xoang theo 2 bình diện coronal và axial, lát cắt dày 3 mm. Các bệnh nhân sau đó được phẫu thuật NSMX, mở vào xoang bướm bằng một trong hai phương pháp: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học 39 - Đường ngách bướm-sàng, mở rộng lỗ thông xoang bướm, lấy thành trước xoang và vách ngăn giữa 2 xoang. - Đường xuyên xoang sàng trước-sau, mở qua tế bào Onodi vào mặt trước xoang bướm, lấy bỏ thành trước xoang. Khối u trong xoang sau khi bộc lộ sẽ được xác định bằng chọc kim số 14, hút ra dịch nhầy đặc sánh, màu trắng đục. Lấy hết chất nhầy trong xoang, lấy phần trước vỏ u, bộc lộ rộng lòng xoang bướm, kiểm tra kỹ các thành, đặc biệt là thành sau-ngoài đề phòng những tổn thương mạch máu, thần kinh. Chăm sóc và theo dõi sau mổ như quy trình của phẫu thuật NSMX thường quy. Khám kiểm tra theo dõi sau 3 tháng, 6 tháng và 1 năm. Thu thập số liệu, thống kê và xử lý theo chương trình SPSS 9.0 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tuổi và giới Lớn nhất là 82 tuổi, nhỏ nhất là 10 tuổi, trung bình 46,3 tuổi, gồm 18 nam và 15 nữ, tỷ lệ nam là 54,5% và nữ là 45,5%. Bảng 1: Phân bố giới Giới Số bệnh nhân % Nam 18 54,5 Nữ 15 45,5 Tổng số 33 100 Nơi đến khám ban đầu Bảng 2: Nơi đến khám ban đầu. Giới Số bệnh nhân % Mắt 22 66,67% Tai Mũi Họng 11 33,34% Tổng số 33 100 Chỉ có 33,3% bệnh nhân đến khám tại cơ sở Tai Mũi Họng đầu tiên, còn lại có tới 66,7% đến khám đầu tiên tại chuyên khoa Mắt. Triệu chứng mắt Bảng 3: Các triệu chứng mắt Triệu chứng Số lượng % Mờ mắt 21 63,6 Nhìn đôi 6 18,8 Lồi mắt 3 9,1 Triệu chứng Số lượng % Sụp mi 2 6,1 Hạn chế vận động nhãn cầu 1 3,0 2/3 số bệnh nhân có biểu hiện mờ mắt ở các mức độ khác nhau (63,6%), 18,8% có nhìn đôi, sụp mi gặp ở 2 bệnh nhân (6,1%) và hạn chế vận động nhãn cầu chỉ gặp ở 1 bệnh nhân. Triệu chứng mũi xoang 36.4 33.3 42.4 9.1 69.7 0 10 20 30 40 50 60 70 80 Giãn rộng ngách bướm sàng Ngạt mũi Phồng mặt trước xoang Ping pong Đau nhức Biểu đồ 1: Các triệu chứng mũi xoang Đau nhức đầu kiểu xoang sau, vùng chẩm, gáy gặp ở 2/3 trường hợp (69,7%), phồng mặt trước xoang bướm (42,4%), ngạt mũi gặp ở 1/3 số bệnh nhân (33,3%) và dấu hiệu dãn rộng, đẩy phồng ngách bướm-sàng gặp ở 36,7%. Hướng lan Bảng 4: Hướng lan của khối u Hướng lan của khối u Số lượng % Lan vào ổ mắt 24 72,7 Lan vào xoang bướm 8 24,2 Lan vào hốc mũi 7 21,2 Lan vào xoang sàng 5 15,2 Lan vào não 1 3,0 72,7% các trường hợp có khối u lan vào ổ mắt, 21,2% các trường hợp u đã lan vào hốc mũi, 15,2% các trường hợp khối u lan vào xoang sàng và đặc biệt có 1 trường hợp khối u đã lan vào não. Điều trị phẫu thuật Các phương pháp phẫu thuật Bảng 5: Các đường phẫu thuật Đường phẫu thuật Số lượng % Đường nội soi 28 84,84 Đường phẫu thuật 5 15,16 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011 40 Có 28 trường hợp (84,8%) được phẫu thuật nội soi mũi xoang đơn thuần và 5 trường hợp (15,2%) được phẫu thuật theo hai đường phối hợp. Kết quả điều trị phẫu thuật Trong số 33 trường hợp u nhầy đã phẫu thuật thì 32 bệnh nhân có tiến triển rất tốt. Không tái phát trong suốt thời gian theo dõi. Có 1 trường hợp tái phát sau mổ nội soi, bệnh nhân quay trở lại với triệu chứng tái phát rất sớm, sau 4 tháng kể từ khi phẫu thuật. BÀN LUẬN Tuổi và giới Tuổi trung bình là 46,3 tuổi, lớn nhất là 82 tuổi, nhỏ nhất là 10 tuổi. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của các tác giả như Perrin(5), Nguyễn Huy Tần(7), trong đó cho thấy, u nhầy xoang bướm có thể gặp ở hầu hết các lứa tuổi, thường trội hơn vào tuổi trung niên. Chúng tôi không gặp trường hợp nào nhỏ dưới 10 tuổi. Tỷ lệ nam là 54,5% và nữ là 45,5%, sự khác biệt về giới là không có ý nghĩa thống kê. Nhận xét này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Huy Tần(7). Nơi đến khám ban đầu Chỉ có 33,3% bệnh nhân đến khám tại cơ sở Tai Mũi Họng đầu tiên, còn lại 66,7% đến khám đầu tiên tại chuyên khoa Mắt. Nhận xét này phù hợp với kết quả nghiên cứu của hầu hết các tác giả trong và ngoài nước như Nguyễn Chí Hiểu(3), Har-El và cs(2), Klossek(4) và Wang TJ(8). Sở dĩ có điều này là do liên quan giải phẫu chặt chẽ giữa xoang bướm và hốc mắt cũng như dây thần kinh thị giác. Khi u trong xoang phát triển to ra thường đè đẩy, ăn mòn các thành xương và đi qua những chỗ yếu của thành xoang như thành sau xoang sàng, thành bên xoang bướm để vào ổ mắt gây lồi mắt và chèn ép thần kinh thị gây nhìn mờ(2,4). Đây là lý do chủ yếu khiến bệnh nhân lo lắng và thường tới chuyên khoa Mắt để khám trước. Theo Nguyễn Huy Tần(7), một số bệnh nhân có thể có dấu hiệu đau căng trong đầu kéo dài nhiều năm, đến khám tại chuyên khoa thần kinh, được chỉ định chụp cộng hưởng từ hạt nhân từ đó mới phát hiện có khối u xoang bướm và chuyển đến chuyên khoa Tai Mũi Họng. Triệu chứng mắt Có tới 63,6% bệnh nhân có biểu hiện mờ mắt. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu của Phạm Thắng (82,8%) và chênh lệch không có ý nghĩa với Nguyễn Huy Tần(7). Nó cũng phù hợp với lý thuyết cho rằng u nhầy xoang bướm phát triển rộng ra thường gây ăn mòn, đè đẩy xương thành trong hoặc trên trong của xoang bướm gây chèn ép dây thần kinh thị từ đó ảnh hưởng đến thị lực. Có 3 trường hợp lồi mắt, điều này được lý giải là do u phát triển chủ yếu ra phía trước, đè đẩy thành sau ổ mắt gây lồi mắt. Ngoài ra các triệu chứng khác như nhìn đôi, sụp mi, hạn chế vận động nhãn cầu cũng chiếm những tỷ lệ khác nhau (18,8%, 6,1%, 3,0%). Các triệu chứng này chứng tỏ u đã lan rộng vào hốc mắt gây chén ép các cơ và thần kinh của mắt(8). Tuy nhiên, so với các nghiên cứu trước đây(3,7), thì tỷ lệ này có giảm. Điều này cho thấy trong thời gian gần đây bệnh nhân u nhầy xoang bướm đã được phát hiện và điều trị ở giai đoạn sớm hơn, khi u chưa lan nhiều vào hốc mắt. Triệu chứng mũi xoang Triệu chứng mũi xoang chủ yếu là hiện tượng đè đẩy làm phồng mặt trước xoang bướm (42,4%). Tuy nhiên, dấu hiệu này không thấy được khi khám thông thường mà phải qua nội soi hốc mũi kỹ càng mới phát hiện được. Trong giai đoạn đầu sự phồng nhẹ mặt trước xoang bướm nếu không thăm khám và chú ý kỹ thì cũng khó phát hiện ra. Dấu hiệu bóng bàn còn gọi là dấu hiệu ping pong, là biểu hiện của khối u ăn mòn mặt trước xoang, phát hiện được khi dùng que thăm đầu tù thăm dò vào khối u thấy có cảm giác căng và “bập bồng”như quả bóng bàn hoặc có thể thấy Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học 41 một vùng khuyết trên xương. Đây được coi là dấu hiệu đặc trưng cho u nhầy, tuy vậy, trong nghiên cứu này dấu hiệu ping pong có tỷ lệ không cao (9,1%) có lẽ do việc thăm khám phát hiện còn nhiều khó khăn. Ngạt mũi (33,3%) là triệu chứng đặc trưng của bệnh lý mũi xoang. Tuy nhiên, trên các bệnh nhân u nhầy triệu chứng này thường xuất hiện muộn sau triệu chứng mắt và lại thường là một bên, ít gây phiền tóai cho bệnh nhân, nên thường chỉ phát hiện qua hỏi bệnh, thăm khám, ít khi bệnh nhân đến khám vì lý do này. Giãn rộng, đẩy phồng ngách bướm sàng là một triệu chứng quan trọng, khi có dấu hiệu này, ta có thể chẩn đoán được là khối u đã lan đến sát và đẩy dồn khiến vách mũi xoang chỉ còn là một vách mỏng. Phẫu thuật nội soi trong trường hợp này là lý tưởng, vì chỉ cần chọc dò u tại điểm phồng nhất, xác định đúng vị trí rồi mở rộng lỗ chọc dò là có thể tạo một đường dẫn lưu cho u nhầy(7). Trong nghiên cứu của chúng tôi, qua thăm khám lâm sàng kết hợp với nội soi, triệu chứng này chiếm 36,4% các trường hợp. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả sử dụng phương pháp thăm khám nội soi(5) và cao hơn so với các tác giả sử dụng phương pháp thăm khám thông thường(3). Đau nhức là triệu chứng thường gặp của u nhầy xoang bướm, khi u phát triển to ra gây chèn ép, đè đẩy nền sọ, làm hẹp đường dẫn lưu gây ứ tắc dịch tiết, tạo điều kiện cho viêm xoang phát triển. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 69,7% các trường hợp bệnh nhân được hỏi phàn nàn về triệu chứng này. Nhức đầu thường âm ỉ, nặng trong đầu, không xác định được cụ thể vị trí đau nhưng bệnh nhân thường có cảm giác đau vùng đỉnh kéo dài, thậm chí nhiều năm, dùng các thuốc giảm đau không đỡ. Hướng lan Có đến 72,7% các trường hợp có khối u lan vào ổ mắt, 21,2% các trường hợp u đã lan vào hốc mũi, 15,2% các trường hợp khối u lan vào xoang sàng và đặc biệt có 1 trường hợp (3,0%), khối u đã lan vào não. Việc xác định hướng lan của u là rất quan trọng trong điều trị, một số trường hợp u lớn lan vào ổ mắt và hốc mũi, việc chẩn đoán có thể dựa vào lâm sàng. Tuy nhiên trong các trường hợp u nhỏ hơn hay cần chẩn đoán phân biệt với u đích thực hay u chèn ép gây bít tắc ứ đọng trong lòng xoang thì chụp cắt lớp vi tính là cần thiết. Chụp cắt lớp vi tính còn giúp ta chẩn đoán phân biệt u nhầy với một số loại u khác của xoang bướm(3) và xác định mức độ ăn mòn các vách xương. Điều trị phẫu thuật Các phương pháp phẫu thuật Trong 33 trường hợp bệnh nhân u nhầy được phẫu thuật có 28 trường hợp (84,8%) được phẫu thuật nội soi mũi xoang đơn thuần và 5 trường hợp (15,2%) được phẫu thuật theo hai đường phối hợp. So với các nghiên cứu về u nhầy trước kia ở trong nước, thì tỷ lệ phẫu thuật nội soi ngày càng tăng lên. Theo Nguyễn Chí Hiểu tiến hành năm 2000(3) có tới 90,4% được phẫu thuật bằng đường ngoài, chỉ có 9,6% qua đường nội soi. Phẫu thuật nội soi có ưu điểm là không có sẹo ngoài da, thời gian hậu phẫu ngắn, các triệu chứng cơ năng giảm nhanh sau mổ hơn so với đường ngoài. Thêm nữa, nội soi giúp ta mở một đường dẫn lưu rộng rãi đủ để khối u không tái phát. Trong khi tiến hành phẫu thuật nội soi, chúng tôi dùng kim số 14 để chọc thăm dò trước, ở vùng phồng căng nhất, mà thường nhất là ở vùng mặt trước xoang bướm. Nếu có dịch nhầy đặc, chúng tôi sẽ tiến hành mở rộng ra tạo thành đường dẫn lưu rộng rãi cho khối u. Kỹ thuật này cũng đã được một số tác giả đề cập đến(3,4,7). Ngoài ra trường hợp u đã lan qua xoang bướm vào não, thì đường phối hợp là cần thiết. Nó vừa tạo điều kiện để dẫn lưu u nhầy một cách rộng rãi, vừa giúp kiểm sóat tốt thành sau xoang bướm. Kết quả điều trị Trong số 33 trường hợp u nhầy đã phẫu thuật thì 32 bệnh nhân có tiến triển rất tốt, xoang Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011 42 bướm được dẫn lưu rộng rãi, hốc mổ khi khám lại sau thời gian 3 tháng, 6 tháng và 1 năm đều rất rộng, niêm mạc trở lại gần như bình thường với các mạch máu tân tạo rõ rệt, không hình thành khối u tái phát. Có 1 trường hợp tái phát sau mổ nội soi, bệnh nhân quay lại với triệu chứng tái phát sau 4 tháng kể từ khi phẫu thuật. Đây là một bệnh nhân ở xa, không đến theo dõi và làm thuốc sau phẫu thuật, khi khám lại thì u phát triển đã to, hốc mũi xơ dính hoàn toàn, khiến cho việc phẫu thuật lại rất khó khăn. KẾT LUẬN Nghiên cứu 33 trường hợp bệnh nhân u nhầy xoang bướm được điều trị tại Bệnh viện Tai Mũi Họng trung ương từ năm 2005 đến năm 2009 thấy có những đặc điểm nổi bật như sau: Về lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh - U nhầy thường được phát hiện ở lứa tuổi trung niên. - Không có sự khác biệt về giới. - Bệnh nhân thường đến khám tại chuyên khoa mắt trước, triệu chứng lâm sàng về mắt biểu hiện nhiều và rõ ràng hơn triệu chứng mũi- xoang. - Triệu chứng lâm sàng chủ yếu bao gồm đau đầu, ảnh hưởng thị lực (63,6), lồi mắt (9,1%) và song thị (18,8%). Vị trí và hướng lan phát hiện qua khám nội soi, cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ hạt nhân có giá trị quyết định trong điều trị. Về phương pháp điều trị - Phẫu thuật nội soi là chỉ định lý tưởng khi u còn khu trú hoặc mới lan ra hốc mũi, xoang sàngvà cho kết quả tốt ở 97% các trường hợp. - Đường phối hợp được chỉ định khi khối u lan rộng xâm lấn vào nội sọ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bourdiniere J., Leclech G., Varenne A., et al (1986). “Apport de l’imagerie par resonnance magenetique en pathologie cranio- faciale‘’. Ann. Oto-Laryngol, Paris, (vol. 103) p. 547-553. 2. Har-El, Gady M.D (2001). ‘’Endoscopic management of 108 sinus mucoceles’’, laryngoscope, (Vol.111.),No.12, p.2131 - 2134. 3. Nguyễn Chí Hiểu (2000). “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và điều trị các u nhầy xoang mặt tại viện Tai-Mũi-Họng”. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội trú bệnh viện, Đại học Y Hà Nội. 4. Klossek J.M., Serrano E., Dessi P., Fontanel J.P (2004). “Chirurgie mucocele”, Chirurgie endonasale sous guidage endoscopique, Mason, Paris, p.123-125. 5. Perrin C., Bodelet B (1973). “Mucoceles: Etude critique essai d’interpretation pathogenique deductions therapeutiques”. Cahiers d’ORL, tom. 8, No. 4, p. 329 - 353. 6. Raji.A., Detsouli M (1995). “Les mucoceles sinusiennes”, annales d’oto - laryngologie et de chirurgie cervico - faciale, (Vol.112), p.73 - 77. 7. Nguyễn Huy Tần (2005). “Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị u nhày trán sàng”. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ Nội trú bệnh viện, Đại học Y Hà Nội, tr.1-2, tr. 38-53. 8. Wang T.J., Liao S.L., Jou J.R., and Lin L.L (2005). “Clinical manifestations and management of orbital mucoceles: the role of ophthalmologists”. Jpn. J Ophthalmol., (Vol. 49), No. 3, p. 239- 245. 9. Yardeni Eli (1995). “Les mucoceles sinusiennes : Place de la chirgurgie endoscopique”, la these pour le doctorat d’etat en medecine, Toulouse III facultes de medecine, p. 1-86.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchan_doan_va_dieu_tri_u_nhay_xoang_buom_qua_phau_thuat_noi_s.pdf
Tài liệu liên quan