Chuyên đề Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - Dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm

Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng. Muốn tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường, Ngân hàng cần phải đảm bảo được hoạt động của mình cả về quy mô và chất lượng. “Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn” không chỉ là mong muốn của riêng NHNo & PTNT Hoàn Kiếm mà còn là của các NHTM Việt Nam nói chung và cũng là mong muốn của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Với suy nghĩ đó em đã chọn đề tài “Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm” để phần nào đáp ứng mong muốn này. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu luận văn đã thực hiện được những nhiệm vụ sau: 1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tín dụng Ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung – dài hạn. Khẳng định vai trò quan trọng của công tác tín dụn trung - dài hạn tại NHTM trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá. 2. Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng trung – dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm. Từ đó rút ra những vấn đề còn tồn tại và hạn chế hoạt động tín dụng trung – dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm. 3. Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần phát triển và nâng cao hoạt động tín dụng trung - dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm bao gồm: - Giải pháp mở rộng tín dụng trung - dài hạn. - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn. - Kiến nghị với chính phủ, các bộ ngành và NHNN một số vấn đề có liên quan đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại các NHTM. Đây là một đề tài có nhiều vấn đề phức tạp nên những giải pháp và kiến nghị đề xuất trong chuyên đề này chỉ là một đóng góp như trong tổng thể các biện pháp nhằm phát triển công tác tín dụng trung - dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm nói riêng và NHTM nói chung. Em xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ. Tô Ngọc Hưng, và sự giúp đỡ của các cô, chú, anh, chị ở chi nhánh NHNo & PTNT Hoàn Kiếm.

doc74 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1145 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - Dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịnh dự án chưa toàn diện: Khả năng phân tích kỹ thuật của dự án và phân tích những tác động của yếu tố thị trường của cán bộ tín dụng còn hạn chế. Việc đánh giá khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án trên thị trường liên quan đến nhiều khía cạnh. đòi hỏi khả năng phân tích, tổng hợp, dự đoán nhạy bén của cán bộ tín dụng, đây là một yêu cầu khó thực hiện đối với cán bộ tín dụng vì phần lớn không được đào tạo chuyên sâu toàn diện về lĩnh vực này nên có khi đưa sản phẩm ra thị trường rồi mới phát hiện được những bất ổn trong tiêu thụ sản phẩm làm ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của dự án. Thứ ba là Ngân hàng chưa đẩy mạnh công tác Marketing Ngân hàng: Các thông tin về thị trường và khách hàng còn thiếu và chưa thường xuyên. Ngân hàng chưa có các biện pháp tích cực để lôi kéo khách hàng, đôi khi còn quá tin tưởng vào các khách hàng. Chính vì vậy Ngân hàng cần có chính sách nghiên cứu, phân tích các thông tin lĩnh vực kinh doanh có liên quan đén khách hàng nhằm đảm bảo cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng có hiệu quả cao. Thứ tư là công tác xây dựng chiến lược cho vay trung - dài hạn chưa được quan tâm đúng mức: Ngân hàng chưa có chiến lược phù hợp để mở rộng cho vay trung - dài hạn. Công tác cho vay còn bị động, phụ thuộc vào khách hàng. Ngân hàng chỉ thẩm định những dự án do khách hàng đưa đến để xin vay mà chưa chủ động tham mưu, tư vấn cho khách hàng để tạo ra những dự án khả thi nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung - dài hạn. Nguyên nhân khách quan: Nguyên nhân chủ yếu là do khách hàng còn lúng túng trong lựa chọn hướng đầu tư, dự án thiếu tính khả thi và không đủ điều kiện về mức vốn tự có tham gia, không thoả mãn các yêu cầu về tài sản đảm bảo. Các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn rất cao nhưng họ lại không hội đủ các điều kiện vay vốn. Cụ thể: Dự án thiếu tính khả thi: Để tiến hành hoạt động tín dụng có hiệu quả, Ngân hàng phải lựa chọn những dự án có tính khả thi cao để đầu tư. Một dự án có tính khả thi phải trước tiên phải là một dự án kinh doanh có hiệu quả đảm bảo mức lợi nhuận cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp và đảm bảo khả năng trả nợ cho Ngân hàng những khoản vay, phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, thông tin đầy đủ, phân tích đánh giá tình hình một cách chính xác. Trong thực tế, hầu hết các doanh nghiệp không thể tự xây dựng dự án đầu tư trung - dài hạn dù là các dự án nhỏ. Cán bộ tín dụng nhiều khi phải giúp đỡ cùng người vay tính toán lập phương án vay vốn và trả nợ, giúp doanh nghiệp lập kế hoạch lưu chuyển vốn trong năm để Ngân hàng biết lượng tiền chu chuyển từ nguồn nào, chi vào mục đích gì, cân đối thu chi để Ngân hàng có cơ sở để ấn định thời gian, số tiền giải ngân, thời gian cho vay, số tiền thu nợ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh và Ngân hàng thu được nợ. Không đủ vốn tự có tham gia dự án: Theo qui định của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam là dự án đầu tư mới phải có 40% và đầu tư mở rộng sản xuất phải có 15% vốn tự có tham gia trong tổng chi phí dự án. Điều kiện doanh nghiệp phải có vốn tự có tham gia dự án theo một tỷ lệ nhất định là biểu hiện năng lực tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn của mình vào kinh doanh chấp nhận rủi ro sẽ làm cho Ngân hàng tin tưởng và có thể cho vay. Tuy nhiên, vốn tự có của phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam thường rất nhỏ khó có thể đảm bảo yêu cầu và tỷ lệ quy định do đó, ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định cho vay hay đầu tư của Ngân hàng. Năng lực của cán bộ quản lý doanh nghiệp không theo kịp với tốc độ phát triển của nền kinh tế thị trường, không đủ khả năng nắm bắt và phân tích thông tin, những biến động của thị trường của lĩnh vực mà doanh nghiệp tham gia hoạt động, có doanh nghiệp sau khi được Ngân hàng tư vấn giúp đỡ và đầu tư vốn vẫn hết sức lúng túng trong việc điều hành dự án dẫn đến hiệu quả của dự án giảm sút thậm chí không có hiệu quả, ảnh hưởng đén khả năng trả nợ vốn vay, làm giảm lòng tin của Ngân hàng, chất lượng tín dụng trung –dài hạn giảm, ảnh hưởng xấu đến khả năng mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Tình trạng làm ăn thiếu trung thực, chụp giật của một số doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp chỉ có cái mác bề ngoài nhưng không hoạt động nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hay tình trạng vay vốn nhưng sử dụng không đúng mục đích xin vay, cung cấp các báo cáo, số liệu hoạt động không đúng sự thật …ảnh hưởng tới việc Ngân hàng đầu tư vốn mở rộng quy mô tín dụng và ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân sau: Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng như nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác chịu ảnh hưởng của môi trường kinh doanh với các yếu tố: cạnh tranh, giá cả, sự biến động của nền kinh tế, các chính sách tác động của nhà nước của Ngân hàng cấp trên, cơ chế quản lý kém hiệu quả, hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ nhiều kẽ hở có khi còn chồng chéo tác động đến khả năng mở roọng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn của Ngân hàng. Nền sản xuất trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng ngoại nhập đặc biệt là hàng nhập lậu trốn thuế. Chính sách kinh tế vĩ mô đang trong quá trình điều chỉnh đổi mới và hoàn thiện nên các doanh nghiệp không theo kịp với sự thay đổi của cơ chế và chính sách vĩ mô dẫn đến kinh doanh thua lỗ, không đủ điều kiện trả nợ vốn vay của Ngân hàng, làm cho tỷ trọng nợ quá hạn của Ngân hàng tăng, chất lượng tín dụng của Ngân hàng giảm xuống, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Do tác động của môi trường pháp lý, các cơ chế thủ tục của Ngân hàng trong công tác thẩm định, cho vay còn nhiều bất cập. Các cơ quan chịu trách nhiệm có liên quan đến hoạt động của Ngân hàng còn hoạt động chưa đồng bộ, thiếu tính thời cơ, đặc biệt là trong việc chứng nhận quyền sở hữu đất đai, nhà cửa, tài sản… thực hiện kịp thời việc cấp giấy tờ sở hữu cho các chủ sở hữu làm cho việc thế chấp và xử lý tài sản thế chấp vay vốn Ngân hàng khó khăn phức tạp nhiều khi bị ách tắc. Việc thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê của các doanh nghiệp chưa nghiêm túc. Đa số các số liệu quyết toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc, số liệu phản ánh không chính xác thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp đặc biệt là khối kinh tế ngoài quốc doanh. + Do nền kinh tế trong nước chưa ổn định nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận được thị trường nên không dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp đầu tư hàng triệu USD để nhập dây truyền sản xuất hiện đại, công trình chưa kịp thu hồi vốn thì trên thị trường đã tràn đầy những sản phẩm ngoại nhập chất lượng cao dẫn đến việc thị trường bị bão hoà loại sản phẩm đó, kinh doanh thua lỗ, doanh nghiệp không trả được nợ, ảnh hưởng đến khả năng mở rộng hoạt động tín dụng trung - dài hạn của Ngân hàng, chất lượng tín dụng của Ngân hàng bị giảm xuống. Một điều cuối cùng nữa là các qui định có tính pháp quy của nhà nước và của ngành liên quan đến tín dụng trung - dài hạn thiếu thống nhất và không đồng bộ, gây khó khăn cho cả doanh nghiệp và Ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng trung - dài hạn. Chương 3. giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm 3.1. Định hướng hoạt động tín dụng trung - dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm trong những năm tới. Để tạo môi trường giúp các doanh nghiệp tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới công nghệ, phát huy năng lực cạnh tranh theo định hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Đất nước, để thực hiện một trong những mục tiêu phương hướng mà Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã đề ra. Tăng cường khối lượng đầu tư trung - dài hạn chiếm 25% - 30% tổng dư nợ. NHNo & PTNT Hoàn Kiếm rất cần thiết phải đẩy mạnh công tác cho vay trung - dài hạn. Chiến lược này cũng dựa trên quan điểm “Đầu tư chiều sâu cho doanh nghiệp là đầu tư cho tương lai của Ngân hàng”. Ngân hàng sẽ chú trọng mở rộng cho vay trung - dài hạn trên địa bàn mình nhất là giúp các doanh nghiệp quốc doanh địa phương phát triển để đảm bảo vai trò chủ đạo cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất kinh doanh có hiệu quả và mở rộng quan hệ tín dụng với các chủ thể có vị trí và ưu thế chiến lược trong thị trường. Định hướng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thể hiện qua nội dung sau: - Trước hết NHNo & PTNT Hoàn Kiếm sẽ lựa chọn dự án vay vốn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đất nước, của các ngành kinh tế, các vùng và kế hoạch phát triển tổng thể của từng doanh nghiệp có quan hệ với Ngân hàng. - Khi xét duyệt các dự án đầu tư, NHNo & PTNT Hoàn Kiếm trước hết lấy tiền chi hiệu quả và có khả năng thực thi của từng dự án cụ thể các trung tâm trọng điểm. Trong lúc nguồn vốn tín dụng còn có hạn chế, NHNo & PTNT Hoàn Kiếm sẽ ưu tiên giành cho các dự án đầu tư theo chiều sâu nhằm giúp các doanh nghiệp khai thác tối đa năng lực sẵn có, đồng thời đầu tư vào một số dự án có qui mô vừa và nhỏ nhất là các dự án đầu tư tạo lập doanh nghiệp mới theo luật định để có thể giải quyết việc làm cho người lao động nhất là những lao động trẻ có trình độ, tay nghề. Đặc biệt NHNo & PTNT Hoàn Kiếm sẽ tập trung một số vốn cho các dự án thuộc các vùng kinh tế, các ngành kinh tế trọng điểm, kinh tế mũi nhọn trong đó khuyến khích các dự án công nghiệp và chế biến lâm thổ sản mà có công nghệ tiên tiến hiện đại ít ô nhiễm môi trường, tạo sản phẩm tiêu dùng trong nước từng bước xuất khẩu. 3.2. Các giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm. 3.2.1. Các giải pháp mở rộng. 3.2.1.1. Đa dạng hoá cơ cấu, loại hình cho vay trung - dài hạn. Muốn phát triển và thu hút được khách hàng, Ngân hàng phải đa dạng hoá các loại hình cho vay: đa dạng về kỳ hạn, lãi suất cho vay, về loại tiền cung ứng, tạo ra nhiều sản phẩm mới, độc đáo hấp dẫn người vay về giá cả và giá trị sử dụng. Vì vậy, chiến lược sản phẩm của NHNo & PTNT Hoàn Kiếm trong thời gian tới cần hướng tới thực hiện các nội dung sau: Luôn hoàn thiện đổi mới các hình thức cho vay: đầu tư phù hợp với quá trình biến đổi nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người vay cũng như của nền kinh tế, tạo ra sự tiện lợi cho khách hàng. Ngoài hình thức cho vay theo dự án thông thường, Ngân hàng có thể nghiên cứu để phát triển các loại hình cho vay sau: Đồng tài trợ: là hình thức cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng (từ hai tổ chức tín dụng trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối phối hợp các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng. Tạo điều kiện phân tán rủi ro, tăng khả năng kinh doanh, tăng chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng. Như vậy, hình thức cho vay đồng tài trợ này sẽ không chỉ phát huy được thế mạnh của Ngân hàng, cho phép Ngân hàng tham gia vào các món vay lớn, giúp Ngân hàng phân tán rủi ro mà bên cạnh đó Ngân hàng còn có thể học hỏi kinh nghiệm từ các Ngân hàng khác. Để có thể phát triển được nghiệp vụ này, Ngân hàng cần tăng cường liên kết với các Ngân hàng khác. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, các tổ chức tín dụng Việt Nam phải hoạt động trong môi trường khó cạnh tranh với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài về cả vốn, công nghệ và cách tổ chức công việc. Do vậy, NHNo & PTNT Hoàn Kiếm nếu dựa vào chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, liên kết với các NHTM khác để xây dựng các phương án đầu tư vốn sẽ chủ động được nguồn vốn tín dụng, cho vay đúng mục đích, chủ động trong việc thẩm định đồng thời quản lý được rủi ro của mình. NHNo & PTNT Hoàn Kiếm cũng không chỉ cần liên kết với các NHTM quốc doanh mà còn cần phải liên kết cả với các Ngân hàng nước ngoài, các Ngân hàng liên doanh. các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có tiềm lực sức mạnh vệ vốn nhưng do quy định của NHNN khả năng cho vay bằng đồng Việt Nam của các Ngân hàng này rất hạn chế. Do vậy, NHNo & PTNT Hoàn Kiếm có thể liên kết với các Ngân hàng nước ngoài trong việc cho vay bằng nội tệ hay làm trung gian, đại lý cho các Ngân hàng nước ngoài. Sự liên kết này không chỉ giúp Ngân hàng mở rộng tín dụng mà còn giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả món vay, tạo điều kiện mở rộng hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó trong quá trình liên kết thực hiện cho vay, Ngân hàng và đội ngũ cán bộ tín dụng cũng học hỏi được kinh nghiệm, cách thức thẩm định đánh giá dự án, phương pháp quản lý và điều hành... Điều này sẽ giúp Ngân hàng nâng cao năng lực của mình trong hoạt động quả trị Ngân hàng nói chung và hiệu qủa hoạt động cho vay trung - dài hạn nói riêng. Cho vay tiêu dùng: Cho vay xây dựng nhà ở là một hình thức tín dụng trung - dài hạn nhằm mục đích cho vay tiền xây dựng đối với những cá nhân, những cặp vợ chồng trẻ có công ăn việc làm và thu nhập ổn định, có nhu cầu về nhà ở nhưng chưa đủ tiền xây nhà hoặc mua nhà. Đây là hình thức tuy còn mới mẻ ở nước ta nhưng lại rất phổ biến trên thế giới. Hiện nay do sự phát triển nhanh chóng của dân số, nhu cầu về nhà ở của dân cư đặc biệt là các cặp vợ chồng trên địa bàn Hà Nội là rất lớn nhưng để có thể đủ tiền mua một căn hộ ngay cả khi có một thu nhập ổn định họ phải tiết kiệm trong một thơì gian khá dài từ 5 đến 10 năm. Đây chính là nguồn khách hàng tiềm năng rất lớn của Ngân hàng. Ngân hàng có thể tiến hành cho vay dưới hình thức vay trả góp hàng năm tuỳ vào mức thu nhập của người dân. Qua đó, vừa đảm bảo khả năng mở rộng tín dụng của Ngân hàng vừa tạo điều kiện cho người dân có cơ hội ổn định chỗ ở, nâng cao mức sống . Bên cạnh việc cho vay để xây dựng, cải tạo hoặc mua nhà Ngân hàng có thể tiến hành cấp tín dụng trung - dài hạn cho người dân đáp ứng nhu cầu mua sắm các đồ dùng cao cấp như: máy giặt, ti vi, xe máy…dựa trên mức ổn định của thu nhập , Ngân hàng có thể tiến hành cho vay trả góp, cho vay bằng tài sản theo nhu cầu của người dân qua đó nâng dần mức sống của người dân và tạo điều kiện mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Hay Ngân hàng có thể cho một số doanh nghiệp, cá nhân vay để mua sắm các phương tiện vận chuyển như xe máy, ô tô. Cho vay hình thức này Ngân hàng có thể đảm bảo khoản vay của mình không gặp rủi ro nếu Ngân hàng thoả thuận được với khách hàng mua bảo hiểm cho tài sản được hình thành từ vốn vay Ngân hàng. Mảng tín dụng này có đặc điểm: dư nợ của mỗi món vay nhỏ nhưng lại rất an toàn và giúp Ngân hàng có thể chia nhỏ được tổng nguồn vốn tín dụng và đầu tư vào hình thức tài sản khác nhau, giúp phân tán rủi ro, tăng khả năng cho vay, khả năng cạnh tranh. Tín dụng thuê mua: Trong nền kinh tế thị trường nhu cầu vay vốn để cải tạo, đổi mới trang thiết bị sản xuất của các doanh nghiệp là rất lớn, tuy nhiên có những doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn Ngân hàng. Tín dụng thuê mua là một hình thức khắc phục được những hạn chế đó. ở đây Ngân hàng với vai trò người trung gian, có quan hệ rộng rãi và có uy tín sẽ đứng ra mua tài sản, rồi cho khách hàng có nhu cầu về tài sản đó thuê. Với loại hình tín dụng này, máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng của người thuê nên các doanh nghiệp nắm được chất lượng sản phẩm làm ra, khả năng tiêu thụ sản phẩm, do đó xác suất rủi ro rất nhỏ. Ưu điểm nổi bật nhất của tín dụng thuê mua là các doanh nghiệp có thể đổi mới trang thiết bị, máy móc hiện đại mà không cần đến tài sản thế chấp và số vốn lớn. Hơn nữa là máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng của người thuê nên các doanh nghiệp phát huy được tính sáng tạo và bảo đảm chất lượng sản phẩm làm ra, khả năng tiêu thụ nhanh nên sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay của Ngân hàng, hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng tăng lên. Tuy nhiên, mặc dù đã được đề cập đến vài năm nay nhưng các Ngân hàng nói chung và NHNo & PTNT Hoàn Kiếm nói riêng vẫn còn tồn taị một khó khăn là các cán bộ Ngân hàng chưa thực sự nắm vững hiểu rõ về máy móc công nghệ cần thiết nên cũng là một trong các yếu tố làm cản trở sự phát triển loại hình tín dụng này. Vì vậy, điều kiện cần thiết là Ngân hàng phải tiến hành thành lập phòng chuyên môn, đào tạo lại cán bộ trong lĩnh vực này, thuê các chuyên gia có kinh nghiệm về khoa học công nghệ. Trước mắt nên mở rộng phát triển các loại hình tín dụng trung - dài hạn như: cho vay đầu tư mở rộng chiều sâu hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư tài sản cố định, nhập khẩu máy móc, thiết bị, đầu tư góp vốn mua cổ phần hoặc liên doanh các dự án trọng điểm, tài trợ các dự án đầu tư dài hạn, bảo lãnh vay trả chậm nước ngoài, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước, cho vay đồng tài trợ, cho vay xây dựng nhà ở. Tiếp theo mở rộng cho vay, đầu tư không chỉ trong phạm vi cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất kinh doanh mà còn cho vay, đầu tư xây dựng cơ bản mới để thành lập doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số ngành được chính phủ ưu tiên phát triển như: điện tử tin học, công nghệ chế biến, cơ khí chế tạo, hoá chất và công nghệ vật liệu xây dựng. Những ngành công nghiệp cơ khí chế tạo, điện tử, tin học, hoá chất, công nghiệp vật liệu xây dựng là những ngành đang có xu hướng phát triển mạnh lại được Nhà nước khuyến khích nên có nhiều doanh nghiệp mới được thành lập trong những ngành này. Những ngành trên có đặc điểm là khối lượng vốn đầu tư không lớn, tốc độ quay vòng vốn nhanh, lợi nhuận cao, do vậy, Ngân hàng có thể mở rộng tín dụng trung - dài hạn nhờ việc cho vay vốn xây dựng và phát triển trong các lĩnh vực nói trên. 3.2.1.2. Thực hiện tốt chính sách khách hàng tích cực tìm kiếm khách hàng lớn. Chiến lược khách hàng là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi Ngân hàng: Chiến lược khách hàng là rất quan trọng, trên địa bàn thành phố Hà Nội có hơn 60 NHTM và tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ tiền tệ trong đó có 3 Ngân hàng liên doanh, 12 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và 221 văn phòng đại diện, 6 Ngân hàng cổ phần và 9 chi nhánh Ngân hàng cổ phần phần tất yếu sẽ có sự cạnh tranh gay gắt và phân chia khách hàng. Khách hàng là yếu tố quan trong nhất đảm bảo cho thành công và phát triển của Ngân hàng. Vì vậy chiến lược khách hàng cần được xây dựng trên quan điểm hợp tác kinh doanh ngày càng sâu rộng với các nhà sản xuất kinh doanh trên cơ sở lợi ích kinh tế trước mắt để có quan hệ ngày càng chặt chẽ hơn với các khách hàng nhất là các khách hàng truyền thống. Đội ngũ cán bộ có trình độ: Phải có một đội ngũ cán bộ trực tiếp giao tiếp với khách hàng giỏi về nghiệp vụ, tận tuỵ với công việc, lịch sự, vui vẻ khi giao tiếp với khách hàng. Khi giải quyết công việc cần khẩn trương nhanh chóng nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác, kịp thời. Phải có sự khiêm nhường tôn trọng, bình đẳng trong giao tiếp với khách hàng để xoá đi khoảng cách "ngại" giữa khách hàng và Ngân hàng luôn luôn làm cho khách hàng vừa lòng ngay cả khi họ không đạt được mục tiêu của mình. Đây là điểm mạnh của NHNo & PTNT Hoàn Kiếm mà Ngân hàng cần phát huy hơn nữa. Ngân hàng phải tìm hiểu nhu cầu khách hàng và cung cấp cho khách hàng nhiều sản phẩm mới, thuận tiện cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Ngân hàng cần phải là người đồng hành sát cách với doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh để kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp lúc khó khăn: có thể linh hoạt bổ sung thêm vốn hoặc gia hạn nợ khi cần thiết hoặc tư vấn cho khách hàng kế hoạch chiến lược kinh doanh, duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng truyền thống và luôn chú trọng tìm kiếm thị trường đầu tư mới trên địa bàn. Tiến hành phân loại khách hàng theo nhiều tiêu thức: *Phân loại theo ngành, thành phần kinh tế: để qua đó có thể xem xét đầu tư vào ngành nào có lợi nhuận, dễ thu hồi vốn, phù hợp với đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, hướng phát triển của thành phố. Các khách hàng có thể chia thành 2 nhóm. Nhóm 1: Các khách hàng là các doanh nghiệp Nhà nước. Nhóm 2 : Các khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhìn chung theo cách này thì Ngân hàng sẽ đánh giá các doanh nghiệp thuộc nhóm 1 cao hơn, có mức độ rủi ro thấp hơn các doanh nghiệp thuộc nhóm 2, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên cách phân loại này quá chung chung nên chỉ được xem như một tiêu thức mang tính bổ sung. * Phân loại theo tình hình tài chính, vay trả sòng phẳng: để có đối sách thích hợp, chọn lọc khách hàng, ưu tiên những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, trả nợ kịp thời. Các chỉ tiêu được sử dụng chủ yếu để cho điểm, đánh giá từ đó phân loại xếp hạng khách hàng là các chỉ tiêu về thực trạng hoạt động kinh doanh, vòng quay vốn nhanh, khả năng thanh toán, sức mạnh tài chính, mức lợi nhuận, quỹ phát triển, tình hình công nợ... Tầm quan trọng của từng chỉ tiêu như thế nào là do Ngân hàng đặt ra và điều chỉnh cho thích hợp với từng thời kỳ. Cùng với các chỉ tiêu này, sự nghiên cứu về vấn đề sản phẩm, vị thế sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường,sự ổn định của thị trường đầu vào đầu ra, tương lai phát triển của doanh nghiệp, của sản phẩm, các yếu tố về công nghệ và nhân sự cũng là các yếu tố đặc biệt quan trọng cần được xem xét tới khi phân loại khách hàng. Nhìn chung, các khách hàng có thể được nhận làm 4 loại như sau: Doanh nghiệp loại A: là các doanh nghiệp mạnh có uy tín và sức mạnh trên thị trường, có tình hình tài chính ổn định, khả năng thanh toán cao. Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp này thường là các Tổng công ty Nhà nước hay một số doanh nghiệp lớn có uy tín. Ngân hàng cần đặt ra các biện pháp chính sách nhằm tiếp cận, thu hút, lôi kéo các khách hàng này. Ngân hàng có thể cho đối tượng này hưởng nhiều dịch vụ tiện ích. Doanh nghiệp loại B: là các doanh nghiệp không được xếp vào loại A nhưng vẫn là các doanh nghiệp có tình hình tài chính tương đối ổn định, thị trường tiêu thụ sản phẩm tốt hoặc có nhiều triển vọng hứa hẹn, doanh nghiệp có ban lãnh đạo có trình độ, có tầm nhìn, có khả năng và doanh nghiệp có tiềm năng phát triển trong tương lai. Đối tượng khách hàng này mới thực sự là nhóm đối tượng quan trọng để Ngân hàng đầu tư, điều này không chỉ đơn thuần là quan hệ vay mượn trong hiện tại mà còn có thể là các bạn hàng lớn trung thành, là các quan hệ làm ăn lớn lâu dài trong tương lai. Do đó Ngân hàng có thể mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư vốn tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp này phát triển. Doanh nghiệp loại C: là các doanh nghiệp đang ở trong tình trạng căng thẳng về tài chính, sự bất ổn về sản phẩm tiêu thụ như sản phẩm đã bão hoà hay không có khả năng cạnh tranh. Đối với doanh nghiệp này, Ngân hàng cần hết sức thận trọng và thẩm định kỹ càng trước khi cho vay, nếu cho vay cần xác định rõ trách nhiệm cuả doanh nghiệp và tài sản đảm báo khoản vay. Doanh nghiệp loại D: là doanh nghiệp đang đứng trên bờ vực của sự phá sản, doanh nghiệp không còn phương hướng phát triển. Đối với các doanh nghiệp này không nên cho vay vốn. Trên cơ sở phân loại khách hàng như trên, NHNo & PTNT Hoàn Kiếm cần lập một chiến lược với các chính sách khách hàng đầy đủ và cụ thể trong đó đề ra các chính sách với từng loại khách hàng. Tuy nhiên nhìn chung chính sách khách hàng vẫn phải tạo sự thu hút về lợi ích có sự quan tâm đối với mọi đối tượng khách hàng theo chủ trương đường lối của Nhà nước và phù hợp với định hướng phát triển của Ngân hàng. Xây dựng và thực hiện chiến lựoc khách hàng là một vấn đề rất quan trong quyết định sự mở rộng hay thu hẹp hoạt động tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng của một Ngân hàng. 3.2.1.3. Cải tiến quy trình cho vay. Cải tiến quy trình cho vay để tránh sự phiền hà rắc rối, mất thời gian nhằm thu hút khách hàng đến với Ngân hàng. Việc cải tiến quy trình cho vay không có nghĩa là rút ngắn, bỏ bớt, loại bỏ bước nào trong quy trình mà là rút ngắn thời gian trong mỗi bước nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng thực hiện mỗi bước. Cụ thể như sau: Bước1: Rút ngắn thời gian thực hiện tới mức tối thiểu. Để làm được điều này thì ngay khi khách hàng đến đặt vấn đề xin vay vốn, cán bộ tín dụng đã phải hướng dẫn tỉ mỉ cụ thể, rõ ràng tất cả các thủ tục, điều kiện tín dụng hồ sơ xin vay, tránh tình trạng bắt khách hàng phải đi lại nhiều lần sửa đổi bổ sung hồ sơ gây phiền toái. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng chỉ hướng dẫn chứ không được làm thay khách hàng. Bước 2: Rút ngắn thời gian thu nhập thông tin đồng thời nâng cao chất lượng thông tin. hiệu quả của công tác tín dụng phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thông tin. thông tin là cơ sở để Ngân hàng tính toán hiệu quả kinh tế của dự án xin vay. Bước 3: Nâng cao năng lực thẩm định để có thể rút ngắn thời gian thẩm định. Bước 4: Nếu quyết định cho vay cần thực hiện giải ngân nhanh chóng. 3.2.1.4. Mở rộng tín dụng ngoài quốc doanh. Qua nghiên cứu công tác tín dụng tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm ta thấy khối kinh tế ngoài quốc doanh chiếm một phần khiêm tốn trong cơ cấu cho vay trung - dài hạn tại Ngân hàng và cũng đã tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng đó. Sự thu hẹp trong quan hệ tín dụng với khối này ngoài nguyên nhân khách quan từ phía doanh nghiệp còn có nguyên nhân từ chủ động của chính Ngân hàng. Vì vậy để mở rộng tín dụng trung - dài hạn đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trước tiên Ngân hàng phải tự mình tháo bỏ các rào cản cách ly do Ngân hàng dựng lên. Trong những năm qua do đặt mục tiêu an toàn vốn cao, Ngân hàng đã quá thận trong khi cho vay khối này, thực hiện theo đúng nguyên tắc và không giành một sự linh hoạt như đã giành cho khối kinh tế quốc doanh. Kết quả là có rất ít doanh nghiệp có thể vượt rào cản của Ngân hàng thoả mãn tất cả các điều kiện để được vay vốn. Thực ra trong tình trạng kinh doanh Ngân hàng gặp quá nhiều rủi ro thì đây là một giải pháp tình thế của Ngân hàng. Sẽ là không thích hợp nếu Ngân hàng vẫn còn tiếp tục duy trì giải pháp này. Trong thời gian tới, điều mà Ngân hàng quan tâm nhất không phải chỉ là sự an toàn mà là việc phải làm thế nào để nâng cao mức dư nợ trung - dài hạn. Trên thực tế, nhu cầu tín dụng trung - dài hạn của khối kinh tế ngoài quốc doanh rất lớn vì do tính chất của mình, nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp thuộc khối này thường hạn chế. Vì vậy một trong những giải pháp để nâng cao mức dư nợ trung - dài hạn là Ngân hàng nên mở rộng cho vay trung - dài hạn đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Vấn đề rắc rối ở đây là tài sản thế chấp. Đối với các doanh nghiệp đã có làm ăn quen biết với Ngân hàng, Ngân hàng có thể cho vay tín chấp với điều kiện phải giám sát quá trình sử dụng vốn vay một cách chặt chẽ, còn đối với các doanh nghiệp thế chấp cần phải có biện pháp kiểm tra tính hợp pháp của tài sản thế chấp và giá trị của chúng. Với khách hàng cần phải thẩm định kỹ tư cách và năng lực của họ để đảm bảo an toàn vốn vay. 3.2.1.5. Tăng cường huy động nguồn vốn trung - dài hạn. Qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm, ta thấy rằng Ngân hàng thiếu vốn trung - dài hạn cho hoạt động tín dụng, số vốn trung - dài hạn mà Ngân hàng sử dụng một phần là số vốn huy động ngắn hạn chuyển sang. Điều gì xảy ra khi đột nhiên NHNN hạ thấp tỷ lệ vốn ngắn hạn được phép chuyển sang cho vay trung - dài hạn hay số khách hàng đến vay trung - dài hạn tăng lên. Mặt khác giải pháp trên cũng không phải là giải pháp an toàn cho việc cho vay trung - dài hạn. Cách tốt nhất để chuẩn bị cho những trường hợp rủi ro có thể xảy ra là Ngân hàng nên có giải pháp để tăng nguồn này. Để có vốn đầu tư phát triển trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Ngân hàng phải thực sự lành mạnh, hoạt động ổn định, giữ vững chữ tín với nhân dân - đây là điều kiện bảo hiểm vốn tiền gũi rất hữu hiệu. Công tác huy động vốn tiền gửi của dân phải đặt vào tầm quy mô chiến lược và phải thường xuyên liên tục. Ngân hàng cần sử dụng công cụ lãi suất năng động linh hoạt, phù hợp với thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và thu hút vốn. Một số hình thức huy động vốn mà Ngân hàng có thể sử dụng là: ãTrái phiếu Ngân hàng. Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn, là giấy nhận nợ của Ngân hàng với người mua, nó là giấy chứng nhận quyền đầu tư và quyền hưởng một phần tiền lãi theo số tiền đầu tư. Huy động vốn bằng trái phiếu là hình thức đã được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới và khu vực. Nó hấp dẫn được người dân hơn là hình thức tiền gửi có kỳ hạn dài. Tại nước ta, có cũng đã chứng minh được độ hấp dẫn vì tính đa dạng trong hình thức trả lãi cũng như lãi suất huy động. Khi cần phát hành trái phiếu, để có thể thu hút được nhiều người mua, Ngân hàng có thể đưa ra mức lãi suất chiết khấu tại các mốc thời gian khác nhau trước khi trái phiếu đáo hạn. Điều này làm cho người dân an tâm hơn là mình sẽ không bị thua thiệt khi đột nhiên xuất hiện nhu cầu chi tiêu. Trước mắt, nếu không có nhu cầu huy động thêm vốn trung - dài hạn Ngân hàng có thể không sử dụng đến hình thức nào nhưng cần lập sẵn kế hoạch để có thể áp dụng ngay khi cần thiết. Tiền gửi dài hạn có lãi suất thay đổi theo thị trường hoặc được đảm bảo bằng vàng. ở nước ta, do nền kinh tế còn non yếu, chưa ổn định nên người dân không thích gửi tiền dài hạn vì sợ rủi ro. Ngân hàng có thể làm cho người gửi tiền an tâm bằng cách áp dụng lãi suất biến động theo thị trường để giảm rủi ro cho người gửi khi lãi suất thị trường tăng hoặc có thể dùng vàng để bảo đảm vì người dân vẫn tin vaò giá trị của vàng hơn. 3.2.1.6. Phân tích kinh tế, phân loại doanh nghiệp, xây dựng và sử dụng hồ sơ khách hàng có hiệu quả. Lợi thế hơn hẳn của Ngân hàng so với doanh nghiệp là nắm giữ một nguồn thông tin tương đối phong phú có giá trị về khách hàng thông qua hồ sơ khách hàng tại Ngân hàng nhờ đó Ngân hàng đưa ra quyết định về sản phẩm, lãi suất cách tiếp cận khách hàng. Để đưa ra được các quyết định đúng đắn cần có phải có đầy đủ thông tin về tài chính kinh tế, kỹ thuật, thông tin về marketing, thông tin về cá nhân khách hàng. Việc phân tích kinh tế và phân loại doanh nghiệp trong hồ sơ khách hàng sẽ giúp Ngân hàng : Nhìn nhận logic khách quan tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng cả quá khứ –hiện tại –và tương lai, dự kiến xu hướng phát triến của nền kinh tế trong tương lai để có chính sách thích hợp nâng cao hiệu quả vốn đầu tư . Đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp để xem xét xu hướng phát triển của từng ngành, lĩnh vực. Đây là cơ sở đánh giá cơ cấu chất lượng tín dụng. Hồ sơ khách hàng là cơ sở cho việc chỉ đạo điều hành kinh doanh của Ngân hàng, nhất là việc thực thi chiến lược kinh doanh chung của Ngân hàng. 3.2.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng. Mặc dù chúng ta rất nôn nóng tín dụng trung - dài hạn nhưng không vì thế mà bỏ qua vấn đề chất lượng. Quy mô và chất lượng tín dụng phải gắn liền với nhau mới đạt hiệu quả mong muốn. Các giải pháp để nâng cao chất lượng nhu sau: 3.2.2.1. Nâng cao năng lực chuyên môn hoá của cán bộ tín dụng. Để có một khoản tín dụng có chất lượng thì yếu tố đầu tiên thuộc về người cán bộ tín dụng Ngân hàng. Cán bộ tín dụng phải là người am hiểu khách hàng, hiểu biết sâu sắc thực lực tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng kể cả hiện tại cũng như sau này, xác định tiềm năng phát triển và dự báo được những biến động trong tương lai. Ngoài ra, sự tác động của các chính sách kinh tế của chính phủ hay ảnh hưởng của các biến động thị trường đến kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp là vô cùng phức tạp nên cán bộ tín dụng còn phải có vốn hiểu biết nhất định về thị trường và lĩnh vực chuyên môn mà khách hàng của mình đang tiến hành sản xuất kinh doanh. Tất cả những yêu cầu đó đối với một cán bộ tín dụng dường như là quá nhiều, một cán bộ tín dụng dù tài giỏi đến đâu cũng không thể có những hiểu biết sâu sắc về mọi lĩnh vực kinh tế. Hiện nay, NHNo & PTNT Hoàn Kiếm và các NHTM quốc doanh khác việc phân công cán bộ tín dụng cũng chỉ dựa trên cơ sở số khách hàng, mức dư nợ và thành phần kinh tế. Khi đó một người sẽ vừa phải cho vay kinh doanh vừa vừa cho vay xây dựng cơ bản chế biến. Điều này sẽ gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong quản lý. Chính vì vậy cần có chuyên môn hoá trong cán bộ tín dụng. Ngân hàng nên thực hiện chuyên môn hoá với từng cán bộ tín dụng bằng cách chia khách hàng theo từng nhóm có đặc điểm riêng rõ nhất là chi theo ngành. Trên cơ sở đó, căn cứ vào năng lực, sở trường và kinh nghiệm của từng cán bộ tín dụng hay nhóm cán bộ tín dụng để phân công thực hiện cho vay đối với một loại khách hàng nhất định. Để tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng có thể hiểu biết khách hàng một cách sâu sắc, việc thay đổi cán bộ tín dụng phụ trách cho vay vốn khách hàng trong quá trình sắp xếp phân công lại nhaan viên cũng cần đặc biệt hạn chế. 3.2.2.2. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. Như đã trình bày ở chương 1, công tác thẩm định nếu làm tốt sẽ bao quát được toàn bộ rủi ro có thể xảy ra cho khoản vay. Với lý thuyết là như vậy nhưng không phải bao giờ cũng làm được điều này. Qui trình và yêu cầu của mỗi quá trình thẩm định đặt ra rất rõ ràng, chất lượng thẩm định chỉ còn phụ thuộc vào trình độ của cán bộ tín dụng và vấn đề thông tin mà thôi. Ngân hàng vậy Ngân hàng cần. bNâng cao chất lượng thu nhập và xử lý thông tin của Ngân hàng. Các thông tin cần phải được kiểm tra tính chính xác kỹ càng trước khi phân tích. Muốn vậy, thông tin phải được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau để so sánh đối chiếu. Thông tin có thể thu thập từ chính bản thân doanh nghiệp, từ hồ sơ lưu trữ của Ngân hàng, từ các bạn hàng của doanh nghiệp, từ các Ngân hàng khác hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng... Để có thể thu thập một khối lượng thông tin như vậy trong thời gian ngắn nhất, giải pháp đề ra đối với Ngân hàng ở đây là không nên đợi đến khi có dự án mới tiến hành thu thập mà thu thập thông tin về khách hàng phải là công việc thường xuyên của Ngân hàng. b Thành lập phòng hoặc nhóm chuyên trách thẩm định dự án. Thành lập dự án là một công việc phức tạp đòi hỏi cán bộ tín dụng có trình độ cao. Vì vậy để đạt được hiệu quả cao, Ngân hàng có thể quy định có thể quy định đối với một dự án có số vốn lớn hơn một mức nào đó thì phải do một đội ngũ chuyên trách thẩm định. Mục tiêu của thẩm định thì ai cũng biết nhưng thực tế khi gặp dự án cụ thể vay trung - dài hạn thì cán bộ Ngân hàng rất lúng túng. Hiện nay hầu như các chỉ tiêu NPV, IRR đều chưa tính được thậm chí chọn lãi suất chiết khấu cũng không đơn giản, cán bộ thẩm định mới chỉ tính được lợi nhuận của dự án, thời gian thu hồi vốn. Chính vì vậy kết quả thẩm định chưa cao. Do vậy cần có một nhóm cán bộ chuyên trách cùng hợp tác đánh giá. Một cán bộ cần phải đảm nhận một lĩnh vực nhất định. Việc phân công mở rộng như thế sẽ giúp công việc thực hiện chuyên sâu, các cán bộ được tiếp xúc với nhiều dự án sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm bổ ích. Bên cạnh đó việc thành thạo trong công việc thực hiện các công đoạn thẩm định của các cán bộ chuyên trách sẽ được rút ngắn được thời gian và nâng cao chất lượng thẩm định. 3.2.2.3. Tăng cường kiểm tra, giám sát các khoản tín dụng. Sau khi giải ngân, Ngân hàng thường chỉ chú trọng xem khách hàng có trả nợ đầy đủ và đúng hạn không mà ít khi kiểm tra kỹ xem nguồn trả nợ là từ đâu. Điều này rất nguy hiểm vì Ngân hàng sẽ không nắm bắt được thời điểm khi doanh nghiệp bắt đầu gặp trục trặc trong kinh doanh, đến khi phát hiện thì đã quá muộn. Kết quả là làm nảy sinh các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn ở mức tương đối thấp nhưng không vì thế mà xao lãng công việc này. Đối với các khoản tín dụng đã quá hạn, Ngân hàng cần theo dõi khi nào có lượng tiền về doanh nghiệp để thu hồi ngay tránh để tình trạng nợ quá hạn kéo dài. 3.2.2.4. Giải pháp về tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp là sự bảo đảm cho khoản vay, Ngân hàng chỉ nên coi đó là sự cam kết sẽ trả nợ chứ không phải là nguồn trả nợ. Ngân hàng cần có sự thẩm định kỹ càng đối với tài san thế chấp cả về giá trị thị trường và tính pháp lý để tránh tình trạng các doanh nghiệp dùng một loại tài sản đi thế chấp và vay vốn ở nhiều Ngân hàng khác nhau hoặc tài sản có giá trị thấp hơn so với giá trị trên giấy tờ. Tuy nhiên các thủ tục phải nhánh chóng tránh sự phiền hà. Hiện nay các doanh nghiệp đang phàn nàn rất nhiều về thủ tục công chứng quá phức tạp, tốn thời gian (công chứng phải rà từng chữ trong văn bản cầm cố thế chấp, bảo lãnh). Ngân hàng cần có sự kết hợp với phòng công chứng để giảm bớt một số thủ tục, thời gian và chi phí giao dịch. Thời gian tới khi Nghị định của Chính phủ số 178/199/NĐ - CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng được đưa vào thực hiện, các Ngân hàng sẽ được lựa chọn khách hàng để cho vay tín chấp. Trong trường hợp này Ngân hàng sẽ càng phải thận trọng hơn trong việc lựa chọn khách hàng đủ tiêu chuẩn để tránh rủi ro có thể xảy ra. 3.2.2.5. Thành lập quỹ rủi ro tín dụng. Ngân hàng cần lập quỹ dự phòng để bù đắp thiệt hại rủi ro do hoạt động tín dụng gây nên. Quỹ này có vai trò tích cực trong việc hạn chế các thiệt hại xảy ra khi rủi ro, giúp Ngân hàng ổn định hoạt động bảo toàn và phát triển nguồn vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Rủi ro trong kinh doanh của NHTM là rất lớn, chính vì vậy Ngân hàng cần nghiêm chỉnh thực hiện đúng quy định của chính phủ về việc lập quỹ. Hiện nay, theo Nghị định số 166/1999/NĐ-CP về chế độ tài chính đối với các tổ chức tín dụng thì lợi nhuận của các Ngân hàng sau khi nộp thuế doanh nghiệp, trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, bù lỗ năm trước, nộp tiền thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước, trừ tiền phạt vi phạm pháp luật sẽ được trích 10% trong số còn lại để lậpq uỹ dự phòng tài chính (nhưng số dư của quỹ này không vượt quá 25% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng). Quỹ dự phòng tài chính dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi thường của các tô chức, cá nhân gây ra tổn thất, của tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng trích lập trong chi phí. 3.2.2.6. Chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ thẩm định. Bất kỳ một dự án đầu tư nào cũng được hình thành từ ý tưởng ban đầu của nhà đầu tư và nó kiên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực khác nhau, và chịu sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế, các chủ trương chính sách của nhà nước, có tính chất phức tạp, do vậy đòi hỏi đội ngũ cán bộ thẩm định phỉa được chuyên môn hoá cao.Căn cứ vào năng lực sở trường, kinh nghiệm của từng cán bộ tín dụng để thực hiện phân công công việc một cách hợp lý.Việc chuyên môn hoá như vậy đã tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng hiểu biết sâu sắc, nâng cao chất lượng và độ tin cậy của thông tin tín dụng, làm cơ sở xây dựng mối quan hệ khách hàng lâu dài, đồng thời tạo cơ hội sâu sát hơn trong việc điều tra, tìm hiểu khách hàng có lợi cho công tác thẩm định, phân trích tín dụng, giám sát khách hàng sử dụng tiền vay. 3.3. Một số kiến nghị. 3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Các văn bản hướng dẫn do Ngân hàng nông nghiệp ban hành cần phải được nghiên cứu một cách cẩn thận hơn trước khi ban hành tránh gây khó khăn hoặc vô tình tạo nên sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các NHTM. Phạm vi quyết định của món vay của giám đốc NHNo & PTNT Hoàn Kiếm cũng gây ra sự phân biệt đối xử đối với các thành phần kinh tế. Đối với khách hàng là Tổng công ty, được cho vay nhiều nhất là 30 tỷ đồng cho một dự án. Đối với thành viên Tổng công ty, được cho vay nhiều nhất là 20 tỷ đồng cho một dự án. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì mức quyết định là 5 tỷ đồng cho một dự án. Mức phán quyết này thể hiện một sự phân biệt đối xử rất rõ ràng giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh. Với mức phán quyết là 5 tỷ thì khách hàng ngoài quốc doanh có muốn vay nhiều sẽ rất phiền hà, mất thời gian (vì phải xin ý kiến cấp trên). Quy định này gần như là một sự thu hẹp đối với cho vay ngoài quốc doanh. Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam cũng nên tạo một sự tự chủ hơn nữa cho các Ngân hàng chi nhánh, có thể nâng cao một số chỉ tiêu, kế hoạch hoặc mở rộng phạm vi quyết định cho giám đốc các Ngân hàng chi nhánh. Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam nên có một công ty chuyên trách trong việc mua bán khai thác tài sản, bắt nợ cho các chi nhánh nhanh chóng giải quyết được nợ từ những vụ cho vay có vấn đề nhằm khơi thông bảo toàn nguồn vốn. 3.3.2. Kiến nghị với NHNN Việt Nam. Để giải quyết được vấn đề nguồn vốn cho công tác đầu tư phục vụ công nghiệp hoá và hiện đại hoá, nhà nước cần hỗ trợ NHTM trên các mặt sau: NHNN cần tạo lập một chính sách tiền tệ tích cực năng động có hiệu quả, luôn hướng dẫn mở rộng mọi nguồn vốn để đầu tư cho Đất nước, kiểm soát được mọi nguồn vốn trong và ngoài nước. Thực hiện cơ chế lãi suất linh hoạt, dùng lãi suất làm đòn bẩy thúc đẩy tạo điều kiện cho các NHTM huy động vốn cho đầu tư trung - dài hạn. Đồng thời phối hợp với các chính sách ưu đãi bảo hộ của các ngành hữu quan (về thuế, phí đăng ký, cấp giấy phép quản lý đầu tư nước ngoài...) để tạo ra độ hấp dẫn cao về lãi suất trong nước so với nước ngoài để thu hút vốn từ thị trường quốc tế vào Việt Nam. - Để việc huy động vốn đạt hiệu quả cao cần loại bỏ sự cạnh tranh thiếu lành mạnh về lãi suất. NHNN cần thống nhất với bộ tài chính để tiến tới thực hiện làm đại lý đấu thầu toàn bộ các loại trái phiếu dài hạn cho kho bạc nhà nước. Điều này sẽ tránh được sự chênh lệch lãi suất kho bạc và lãi suất của NHTM. NHNN cần nhanh chóng hình thành phát triển thị trường vốn dài hạn nhằm giải quyết nhu cầu về vốn cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trước tiên là hoàn thiện các thị trường tiền tệ ngắn hạn vì nó gián tiếp hỗ trợ việc triển khai chiến lược vốn. ổn định vốn ngắn hạn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh thúc đẩy quá trình tích luỹ tập trung vốn tự nhiên. Nhờ đó Ngân hàng có cơ hội mở mang nguồn vốn và có thêm cơ hội đầu tư trung - dài hạn. 3.3.3. Kiến nghị với chính phủ và các bộ ngành có liên quan. Muốn phát triển công tác tín dụng trung - dài hạn thì một yêu cầu đặt ra trong thời gian tới là phải taọ lập được môi trường kinh tế pháp lý đầy đủ và đồng bộ để hỗ trợ hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng theo hướng tích cực. - Tăng cường khả năng tài chính cho các doanh nghiệp trong tất cả các thành phần kinh tế bằng cách cấp vốn lưu động bổ sung cho các doanh nghiệp nhà nước nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Trấn chỉnh việc chấp hành chế độ kế toán và quản lý tài chính ở các doanh nghiệp và tăng cường kiểm soát hoạt động kinh doanh. - Nhà nước cần có biện pháp quản lý nghiêm ngặt về xuất nhập khẩu để bảo trợ cho sản xuất trong nước phát triển, hạn chế đến mức tối đa nhập khẩu hàng tiêu dùng, khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu máy móc thiết bị để tạo việc làm cho người lao động. - Ban hành luật sở hữu tài sản và các văn bản dưới luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước về cấp chứng thư sở hữu tài sản, quản lý quá trình mua bán, chuyển nhượng, thế chấp cầm cố bảo lãnh về tài sản cho các pháp nhân và thể nhân. Ban hành các văn bản dưới luật của các bộ liên bộ hướng dẫn thực hiện việc xử lý phát mại tài sản thé chấp, cầm cố, bảo lãnh, xử lý công nợ của doanh nghiệp thua lỗ phá sản giải thể. - Để huy động vốn trung - dài hạn cho nền kinh tế chính phủ cần cho phát hành trái phiếu dài hạn 2 năm, 3 năm, 5 năm... lãi suất hấp dẫn khuyến khích dân cư có vốn nhàn rỗi trong thời gian dài nhưng chưa có nhu cầu sử dụng, hoàn chỉnh thị trường trái phiếu dài hạn để người dân có thể mua bán trái phiếu dễ dàng. Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần sớm đưa ra các biện pháp thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh. Trái phiếu dài hạn, cổ phiếu công ty luôn mang tính động trong cơ chế thị trường nghĩa là nó đòi hỏi sự luân chuyển tức thời khi mà nhu cầu người sở hữu hoặc đầu tư cần. Trong điều kiện hiện nay, thị trường chứng khoán có thể nói vừa là tiền đề cơ sở vừa là hậu thuẫn chắc chẵn để NHTM tạo nguồn vốn trung - dài hạn. - Hoạt động của tín dụng Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ chịu tác động rất lớn của môi trường kinh doanh trong đó quan trọng nhất là môi trường pháp lý, môi trường kinh tế xã hội. Cả Ngân hàng và doanh nghiệp đều là đối tượng quản lý của Nhà nước nhất là các cấp chính quyền địa phương. Vì vậy muốn hoạt động đầu tư của Ngân hàng phát triển cần đẩy mạnh cải cách hành chính, tiến tới cơ chế một cửa và khắc phục tệ nạn giấy tờ phiền hà nhằm giải phóng các doanh nghiệp trong đó có Ngân hàng được tự do kinh doanh theo cơ chế vĩ mô của Nhà nước đồng thời tăng cường kiểm soát và trừng trị kẻ làm ăn phi pháp góp phần tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. 3.3.4. Kiến nghị về chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Như phần nguyên nhân đã trình bày có một nguyên nhân rất khách quan từ nền kinh tế mà Ngân hàng và doanh nghiệp không thể tự khắc phục từ đó dẫn đến tín dụng trung - dài hạn không thể mở rộng chính là sự giảm phát của nền kinh tế trong vòng 2 năm trở lại đây. Do tác động trễ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á năm 1997, những yếu kém từ trong nền kinh tế dần dần bộc lộ và phát huy ảnh hưởng xấu. Kết quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng giảm, chỉ số giá cả tăng rất chậm. Một thực tế dễ nhận thấy là hàng hoá của ta sản xuất có sức cạnh tranh kém, giá cao hơn nhiều so với hàng ngoại nhập nên không tiêu thụ được chính vì vậy dẫn đến thu hẹp đầu tư, thu hẹp sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động cầm chừng. với tình trạng này thì Ngân hàng dù có cố gắng đến mấy cũng khó đạt được mục tiêu của mình. Thực tế yếu kém của nền kinh tế bắt nguồn từ những sai lầm trong chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, để khắc phục điều này chứng ta cần xem xét các vấn đề sau: Thứ nhất cần bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư. Việc chuyển hướng trong bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư phù hợp với yêuc ầu phát triển của nền kinh tế thị trường mở cửa. Chúng ta cần đổi mới cách nghĩ cách làm, dám thừa nhận và thay đổi các quyết định sai lầm, dám xử lý kiên quyết những trường hợp phức tạp. Tất cả các ngành địa phương và đơn vị cơ sở phải chủ động quyết tâm sấp xếp lại sản xuất và kinh doanh trong phạm vi của mình, cùng với trung ương thực hiện việc điều chỉnh lớn cơ cấu sản xuất và đầu tư trong cả nước. Nước ta là nước nông nghiệp và nông nghiệp là nguồn nội lực có tính bền vững, là cầu nối quan trong cho phát triển công nghiệp trong dài hạn, chính vì vậy ta cần ưu tiên cho phát triển nông nghiệp. nhưng đầu tư cho nông nghiệp phải đồng bộ từ sản xuất đến chế biến vận chuyển bảo quản để có nhiều sản phẩm cuối cùng. Khi tập trung vào nông nghiệp đã đạt được mục tiêu của mình cả về số lượng và chất lượng tức là đã đảm bảo được an toàn lương thực, đáp ứng yêu cầu nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu đạt giá trị cao thì sẽ lập tức chuyển sang mục tiêu khác. Tiếp theo cần đẩy mạnh khu vực sản xuất máy móc thiết bị vì muốn tiến hành công nghiệp hoá cần phát triển khu vực này bên cạnh đó lựa chọn để sản xuất các hàng hoá tiêu dùng và công nghiệp cấp cao. Có điều thứ tự ưu tiễn cho mỗi mặt hàng, mỗi ngành vào các thời kỳ khác nhau thì khác nhau. Không nên sản xuất hàng loạt một cách thiếu tính toán, phải lựa chọn các mặt hàng có tính cạnh tranh quốc tế cao. Theo sự đánh giá của các chuyên gia kinh tế các nhóm mặt hàng sau có tính cạnh tranh quốc tế cao là: hải sản, cà phê, gạo, hạt tiêu, hạt điều, giày dép, may mặc, động cơ nhỏ, dịch vụ du lịch... Các nhóm sản phẩm sau cũng có tính cạnh tranh cao nếu được sự hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước là: thực phẩm chế biến, hàng điện tử, cơ khí, hoá chất, xi măng, đóng tàu, dịch vụ hàng hải, viễn thông... Các ngành có tính cạnh tranh kém là: mía, đường, bông, vải, thép, sữa... Thứ hai là cần có chính sách kích cầu với quy mô đủ lớn. Theo Keynes kích cầu phải có quy mô đủ lớn đặc biệt là trong giai đoạn đình đốn tư nhân ít chú ý đến vay tiền Ngân hàng để sản xuất các mặt hàng đã thừa và ứa đọng trên thị trường nên muốn kích cầu có hiệu quả Ngân hàng phải lạm phát và ứng tiền cho nhà nước thông qua doanh nghiệp nhà nước thực hiện một loạt các dự án đại đầu tư có quy mô lớn để làm cho nền kinh tế tăng trưởng mạnh trở lại. Thứ ba là cần có chính sách sử dụng và quản lý ngoại tệ chặt chẽ hơn để kiểm soát nguồn ngoại tệ, tránh tình trạng ngoại tệ, trôi nổi ngoài thị trường dẫn đến việc tư nhân thu gom được ngoại tệ để nhập lậu hàng tiêu dùng gây khó khăn cho hàng hoá sản xuất trong nước. Các kiến nghị đối với chính sách kinh tế vĩ mô sẽ góp phần tạo ra sự phục hồi đối với nền kinh tế, đẩy mạnh sự tăng trưởng tạo điều kiện cho tín dụng trung - dài hạn có cơ hội được mở rộng và nâng cao chất lượng. Kết luận Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng. Muốn tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường, Ngân hàng cần phải đảm bảo được hoạt động của mình cả về quy mô và chất lượng. “Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn” không chỉ là mong muốn của riêng NHNo & PTNT Hoàn Kiếm mà còn là của các NHTM Việt Nam nói chung và cũng là mong muốn của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Với suy nghĩ đó em đã chọn đề tài “Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm” để phần nào đáp ứng mong muốn này. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu luận văn đã thực hiện được những nhiệm vụ sau: 1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tín dụng Ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung – dài hạn. Khẳng định vai trò quan trọng của công tác tín dụn trung - dài hạn tại NHTM trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá. 2. Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng trung – dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm. Từ đó rút ra những vấn đề còn tồn tại và hạn chế hoạt động tín dụng trung – dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm. 3. Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần phát triển và nâng cao hoạt động tín dụng trung - dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm bao gồm: - Giải pháp mở rộng tín dụng trung - dài hạn. - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn. - Kiến nghị với chính phủ, các bộ ngành và NHNN một số vấn đề có liên quan đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại các NHTM. Đây là một đề tài có nhiều vấn đề phức tạp nên những giải pháp và kiến nghị đề xuất trong chuyên đề này chỉ là một đóng góp như trong tổng thể các biện pháp nhằm phát triển công tác tín dụng trung - dài hạn tại NHNo & PTNT Hoàn Kiếm nói riêng và NHTM nói chung. Em xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ. Tô Ngọc Hưng, và sự giúp đỡ của các cô, chú, anh, chị ở chi nhánh NHNo & PTNT Hoàn Kiếm. Mục Lục Tài LIệU THAM KHảO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0109.doc
Tài liệu liên quan