Khóa luận Nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động ở Việt Nam

Để thực hiện thành công chủ trương và phương hướng XKLĐ của Đảng và Nhà nước, nhằm đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới, ngoài các giải pháp nêu trên, cơ quan quản lý Nhà nước cần tiến hành một số giải pháp khác để chỉ đạo thống nhất hoạt động XKLĐ, đó là các giải pháp sau : - Xây dựng quy trình XKLĐ riêng biệt. XKLĐ của ta đã tiến hành được gần 20 năm, nhưng chưa có một quy trình tổng quát, thống nhất. Do đó sự phối hợp giữa các ngành, các cấp thiếu đồng bộ, không nhịp nhàng đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công việc. Quy trình XKLĐ gồm ba giai đoạn : Giai đoạn một là giai đoạn tìm kiếm và ký kết hợp đồng, giai đoạn hai là giai đoạn tuyển chọn và làm thủ tục xuất cảnh, giai đoạn ba là quản lý ở nước ngoài và thanh lý hợp đồng. Trong giai đoạn hai thì việc tiến hành làm thủ tục cho lao động xuất cảnh còn nhiều phiền hà ở các cấp, các ngành thuộc các địa phương đã làm chậm trễ tiến độ xuất cảnh ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp XKLĐ. Thậm chí, nhiều khi, phải bỏ cả yêu cầu cung cấp lao động của chủ nước ngoài nhất là đối với thuyền viên (do phải dùng hai hộ chiếu) - Xây dựng hợp đồng mẫu cho các loại lao động đi làm việc ở nước ngoài. Hợp đồng mẫu là những quy định tối thiểu về điều kiện làm việc, tiền lương, điều kiện ăn ở, bảo hiểm, giải quyết tranh chấp và các điều kiện về bảo đảm nhân phẩm và an ninh. Ban hành hợp đồng mẫu là nhằm bảo vệ các quyền lợi tối thiểu của người lao động khi làm việc ở nước ngoài, tránh sự bóc lột và đối xử phân biệt của chủ đối với lao động - Xây dựng và ban hành mức lương tối thiểu cho từng khu vực thị trường sử dụng lao động Việt Nam. - Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ. Đó là một trong các giải pháp góp phần tăng cường quản lý Nhà nước, đưa hoạt động XKLĐ đạt được hiệu quả KT - XH cao. Việc đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ hàng năm nhằm xác định khả năng và hiệu quả của XKLĐ, động viên khuyến khích các doanh nghiệp năng động, tìm tòi mọi biện pháp để mở rộng thị trường và kịp thời uốn nắn những sai lệch trong hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp.

doc67 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p thời yêu cầu của chủ sử dụng lao động nưóc ngoài. Còn có nhiều đối tượng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài không được pháp luật lao động điều tiết, dẫn đến việc người lao động phải đầu tư tốn kém bằng các con đường không hợp pháp như đi thăm thân nhân, du lịch.Trong giải quyết thủ tục xuất nhập cảnh đã xếp loại lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài vào nhóm đi việc riêng (cùng loại với nhựng người đi thăm thân nhân, đi du lịch) nên không được quan tâm tạo điều kiện, làm người lao động phải mất nhiều thời gian, tiền bạc, nhiều hợp đồng phải huỷ bỏ vì lý do chậm thủ tục. c. Công tác nghiên cứu thị trường: Việc tìm và áp dụng các biện pháp mở rộng thị trường còn nhiều yếu kém. Có nhiều thị trường nhận lao động nước ngoài nhưng do ta còn chỉ đạo dè dặt nên chưa xâm nhập được thị trường như khu vực châu Phi- Mỹ latinh, Vùng Vịnh, Châu úc. d. Công tác tổ chức quản lý xuất khẩu lao động: Chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, chưa tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan chức năng trong việc quản lý và triển khai hợp đồng lao động, việc làm thủ tục qua nhiều khâu trung gian chưa loại bỏ được các Công ty trung gian, môi giới nên người lao động mất nhiều thời gian và chi phí bất hợp lý. Tình trạng này dẫn đến một số nơi tuyển chọn không đúng đối tượng, thu tiền của người lao động cao hơn mức qui định của nhà nước, thậm chí có một số tổ chức kinh tế phần lớn là các Công ty trách nhiệm hữu hạn, Trung tâm xúc tiến việc làm và cá nhân giả danh các công ty được phép xuất khẩu lao động để lừa đảo thu tiền bất chính của người lao động, hiện tượng này gây cho người lao động thiếu lòng tin, có ấn tượng trong dư luận xã hội và nhân dân. e. Chất lượng lao động xuất khẩu: Chất lượng lao động xuất khẩu của ta không cao. Thể lực của người lao động Việt Nam yếu, tay nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghệ sản xuất hiện đại, ý thức tổ chức kỷ luật còn thấp, nhận thức về quan hệ chủ - thợ không phù hợp với cơ chế thị trường của nước ngoài, khả năng ngoại ngữ kém. Vì vậy sức cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế còn thấp. Mặt khác, người lao động chưa chuẩn bị kỹ cho mục tieeu về lợi ích của đất nước, trong đó có một bộ phận không tôn trọng hợp đồng lao động đã ký, có sự vi phạm ảnh hưởng đến uy tín của lao động Việt Nam như một số tu nghiệp sinh tại Nhật Bản (bỏ ra ngoài sống bất hợp pháp, phá hợp đồng, không chịu về nước khi hết hạn hợp đồng, ăn cắp trong siêu thị, đánh nhau....) f. Các tổ chức kinh tế xuất khẩu lao động chưa mang lại hiệu quả: Thực chất chỉ có 30% trong tổng số doanh nghiệp xuất khẩu lao động đạt hiệu quả. Lượng lao động mà các doanh nghiệp này đưa ra nước ngoài chiếm tới 90% tổng số lao động xuất khẩu trong 2 năm gần đây. Có đến 25% tổng số doanh nghiệp còn quá yếu kém và không đưa được lao động đi làm việc ở nước ngoài. Điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chính là thiếu vốn, không được đầu tư về tài chính, thiếu cán bộ có năng lực và công tác tiếp cận thị trường còn kém. Các doanh nghiệp chưa liên kết và gắn bó lẫn nhau. g. Thủ tục hành chính: Thủ tục hành chính đưa lao động ra nước ngoài làm việc còn quá rườm rà, tốn nhiều thời gian, công sức, nhất là thủ tục nhân sự, xuất nhập cảnh chưa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đáp ứng kịp thời nhu cầu lao động của nước ngoài. 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế. 2.3.3.1. Về khách quan: Do những biến động chính trị, các thị trường tiếp nhận truyền thống đều bị thu hẹp, các thị trường mới ta còn khó khăn trong việc tiếp cận. Trong những năm 70, do bùng nổ giá dầu mỏ, các nước Vùng Vịnh nhận ồ ạt lao động nước ngoài để xây dựng thì ta chưa có điều kiện đưa lao động ra nước ngoài làm việc. Hiện nay thị trường cũ của ta là Liên xô (cũ), các nước Xã hội chủ nghĩa Đông âu và Irắc đang gặp nhiều khó khăn. Khi ta thay đổi cơ chế và tìm cách mở hướng xuất khẩu lao động và chuyên gia sang các khu vực khác thì thị trường đã bị các nước xuất khẩu lao động khác như Philippin, Thái lan, Pakistan...chiếm lĩnh và cạnh tranh gay gắt. 2.3.3.2. Về mặt chủ quan: Việc cụ thể hoá chủ trương, xây dựng cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện chưa phù hợp và chưa đáp ứng được yêu cầu lao động quốc tế. Quan điểm về mở thị trường, địa bàn xuất khẩu lao động, về sự tham gia của các thành phần kinh tế, khuyến khích mọi khả năng tìm việc làm ở nước ngoài còn khác nhau nên chưa đẩy mạnh được sự nghiệp xuất khẩu lao động như yêu cầu đặt ra. Việc phối hợp giữa các ngành, các cấp trong công tác xuất khẩu lao động trên tất cả các khâu như: tìm kiếm thị trường, ký kết hợp đồng, tuyển chọn, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài còn yếu kém. Công tác quản lý người lao động ở nước ngoài chưa được quan tâm một cách thích đáng. Đội ngũ cán bộ quản lý lao động ở nước ngoài của ta còn kém cả về số lượng và chất lượng nên đã không ngăn chặn được tình trạng lao động bỏ việc hoặc tuỳ tiện bỏ hợp đồng đi làm việc ở xí nghiệp khác. Trong việc tổ chức thực hiện còn dè dặt. Chủ trương khuyến khích xuất khẩu lao động theo hướng nhận thầu công trình, lao động kỹ thuật và lao động tay nghề cao là đúng nếu xét về lâu dài, nhưng việc chỉ đạo đưa lao động tay nghề thấp và lao động không nghề đi làm việc ở nước ngoài hiện nay là chưa phù hợp với tình hình của nước ta và nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài hiện nay. Trong khi thị trường có nhu cầu về loại hình này, ta có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu đó thì lại bị hạn chế. Ta khuyến khích xuất khẩu lao động có tay nghề cao trong khi bản thân nền kinh tế nước ta lại thiếu, hiện tượng thừa thầy, thiếu thợ là rất đáng lo ngại. Nước ta chưa coi việc người lao động tự tìm việc ở nước ngoài thông qua người thân, bạn bè ở nước ngoài bảo lãnh hoặc giới thiệu việc làm là việc cần khuyến khích nên chưa tăng cường quản lý loại hình này, trong khi đây là một lực lượng rất lớn đã và đang gửi một lượng ngoại tệ không nhỏ về cho đất nước. Việc phát hiện và xử lý trước pháp luật các hiện tượng lừa đảo, kiếm tiền bất hợp pháp chưa kịp thời, thiếu nghiêm khắc và thường xuyên nên chưa chặn đứng được hiện tượng này. Nguồn lao động chưa được đào tạo phù hợp với yêu cầu thị trường lao động quốc tế, bao gồm đào tạo nghề, đào tạo ngoại ngữ, đào tạo về tác phong công nghiệp và giáo dục về nhận thức quan hệ chủ - thợ trong cơ chế thị trường, nhận thức đầy đủ về trách nhiệm đi đôi với quyền lợi người lao động trong thực hiện hợp đồng. Một bộ phận lao động còn chạy theo lợi ích trước mắt mà không nghĩ đến lợi ích lâu dài, ảnh hưởng đến uy tín lao động Việt Nam và các Công ty xuất khẩu lao động nước ta. Chương 3 Định hướng và giải pháp nâng cao khả năng XKLĐ của Việt Nam trong những năm tới 3.1. Định hướng xuất khẩu lao động của Đảng và Nhà nước ta. 3.1.1. Quan điểm chỉ đạo. Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế và còn là một bộ phận hữu cơ của kinh tế đối ngoại do tính chất đặc thù của nó. Xuất khẩu lao động phải được áp dụng quản lý theo cơ chế thị trường, chấp nhận và tuân thủ mọi qui định của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là qui luật cạnh tranh không thể tránh khỏi. Nghị quyết đại hội Đảng IX đã khẳng định "Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Xây dựng và thực hiện đồng bộ , chặt chẽ cơ chế, chính sách về đào tạo nguồn lao động, đưa lao động ra nước ngoài, bảo vệ quyền lợi và tăng uy tín của người lao động Việt Nam ở nước ngoài". Để thực hiện được mục tiêu xuất khẩu lao động trong thời gian tới, chúng ta cần quán triệt chủ trương của Đảng trong xuy nghĩ và việc làm cụ thể, đó là: Thứ nhất: Các Bộ, ngành và địa phương cần coi xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế đối ngoại có tính chất chiến lược lâu dài gắn với chiến lược kinh tế xã hội và chiến lược đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực để bằng mọi biện pháp đưa được một số lượng lớn lao động đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian tới. Thứ hai: Xuất khẩu lao động phải phù hợp với cơ chế thị trường; phải đa dạng hoá thị trường lao động, về ngành nghề đưa đi; từng bước thí điểm để mở rộng cho các thành phần kinh tế được tham gia xuất khẩu lao động theo qui định của pháp luật và dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Thứ ba: Tập trung nghiên cứu mở rộng thị trường, ưu tiên thị trường khu vực, giữ vững và củng cố các thị trường truyền thống, các thị trường hiện có lao động Việt Nam ổn định và phát triển lâu dài. Thứ tư: Tăng cường việc thống nhất quản lý nhà nước đối với sự nghiệp xuất khẩu lao động theo qui định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế. 3.1.2. Định hướng. Trong một báo cáo gần đây của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội trình Thủ tướng Chính phủ có nêu rõ phương hướng đối với công tác xuất khâủ lao động và chuyên gia thời kỳ 2001- 2005, trong đó "coi trọng vấn đề mở, ổn định và phát triển thị trường; nâng cao chất lượng tuyển chọn, đào tạo, giáo dục người lao động; củng cố, hoàn thiện các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, tăng cường trách nhiệm quản lý Nhà nước để xuất khẩu lao động trở thành chiến lược và nhiệm vụ chung của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng xã hội". Mục tiêu của nước ta trong năm 2003 là đưa số lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài từ khoảng 40 000 đến 50 000 người và sẽ tăng dần số lượng trong những năm tiếp theo để đến năm 2005 đưa được 100 000 người ra nước ngoài làm việc đồng thời mở rộng các thị trường mới như : Brunei, Cộng hoà Ailen, Hilạp, libi Nga, Malaixia, Séc.... Theo ông Trần văn Hằng- Cục trưởng Cục quản lý lao động với nước ngoài, để đạt được mục tiêu đề ra cần phải mở rộng hơn nữa qui mô cung ứng lao động sang những địa bàn mới. Các thị trường lao động hiện có như Lào, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Libi sẽtiếp tục được ổn định và phát triển. Tiếp tục đa dạng hoá các ngành nghề để tăng số lượng cung ứng lao động cho các nước có nhu cầu sử dụng lao động. Ngoài các ngành nghề đã đưa được số lượng lớn lao động đi như: dệt, may, giầy da, cơ khí, diện tử, xây dựng, chế biến nông - lâm - thuỷ sản.... sẽ hướng tới đầu tư cho lĩnh vực tin học để cung ứng cho các nước châu âu, Mỹ, Canada, Đài Loan và Singapo. Mở rộng cung ứng lao động giúp việc gia đình, điều dưỡng viên, thuỷ thủ, thuyền viên đánh cá và chuyên gia nông nghiệp. Nhà nước sẽ tiếp tục bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp qui về xuất khẩu lao động và chuyên gia, trong đó ưu tiên việc nghiên cứu, sửa đổi một số nội dung Nghị định của Chính phủ về xuất khẩu lao động trong tình hình mới về vấn đề tài chính, bảo hiểm đối với người lao động, đặc biệt chú ý đến việc xử lý các trường hợp vi phạm trong xuất khẩu lao động. Cục quản lý lao động với nước ngoài sẽ tăng cường phối hợp với các Đại sứ quán, các tổ chức của Việt Nam ở nước ngoài cũng như các cơ quan đại diện văn phòng nước ngoài ở Việt Nam trong việc nắm bắt thông tin nhu cầu về số lượng lao động, ngành nghề tiếp nhận lao động, chính sách nhập cư để các doanh nghiệp trong việc khảo sát thị trường, ký kết hợp đồng cung ứng lao động. Trong năm nay, hệ thống trường dạy nghề, trung tâm đào tạo nguồn lao động xuất khẩu sẽ được thiết lập và xây dựng. Do hoạt động XKLĐ ở các nước đang phát triển có vai trò quan trọng, thậm chí một số nước đã coi việc phát triển lĩnh vực này như là một thế mạnh kinh tế quốc gia. Vì vậy việc đề ra những định hướng và chủ trương cho hoạt động này là rất cần thiết. ở nước ta, chiến lược phát triển KT - XH của Nhà nước đang thu được những kết quả khả quan. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII đã nhấn mạnh chủ trương: “Trong những năm trước mắt, phải giải quyết tốt một số vấn đề xã hội, tập trung sức tạo việc làm... Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh XKLĐ, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”. Chủ trương này đã được Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 khoá VIII cụ thể hoá như sau : “ Mở rộng XKLĐ trên thị trường đã có và thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu và làm dịch vụ XKLĐ trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Kiên quyết chấn chỉnh những hoạt động dịch vụ XKLĐ trái quy định của Nhà nước”. Nhằm cụ thể hoá thêm một bước và đánh giá vai trò của XKLĐ trong điều kiện hiện nay, ngày 22 tháng 9 năm 1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 41- CT/TW khẳng định : “ XKLĐ và chuyên gia là một hoạt động KT- XH góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước. Sự nỗ lực tạo thêm việc làm trong nước và ngoài nước chỉ mới giải quyết được một phần trong khi số lao động không có việc làm ở đô thị còn khá cao. Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn còn rất thấp. Hàng năm lại có hơn một triệu người đến tuổi lao động. Trước tình hình đó, cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, XKLĐ và chuyên gia còn có vai trò quan trọng trước mắt và lâu dài”. Từ quan điểm và chủ trương tổng quát mà Đảng đã đề ra, định hướng phát triển của XKLĐ trong thời gian tới sẽ bao gồm : 3.1.2.1. Định hướng chung. - XKLĐ là một chiến lược quan trọng, lâu dài, là một nội dung của Chương trình quốc gia về việc làm, một hoạt động KT - XH góp phần phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là một bộ phận của hợp tác quốc tế góp phần tăng cường mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa Việt Nam với các nước và củng cố cộng đồng người Việt ở nước ngoài. - Đẩy mạnh XKLĐ trước hết là trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung Ương tới địa phương phải có sự phối hợp đồng bộ trong việc đầu tư mở rộng thị trường, đào tạo nguồn nhân lực xuất khẩu, cụ thể hoá chủ trương, chính sách và chỉ đạo để đẩy mạnh XKLĐ. - Phải có chiến lược về mở rộng thị trường XKLĐ, củng cố thị trường truyền thống, giữ và phát triển thị trường hiện có, khai thông các thị trường mới. Mỗi khu vực cần xây dựng đề án riêng cho phù hợp với đặc điểm và tình hình của khu vực đó. - Thực hiện việc XKLĐ theo quan hệ cung - cầu của thị trường lao động. Đa dạng hoá thị trường XKLĐ, cung cấp lao động cho mọi thị trường cần lao động Việt Nam nếu ở đó phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đảm bảo an ninh và quyền lợi kinh tế cho người lao động. - Đa dạng hoá ngành nghề, trình độ lao động, cung cấp lao động với mọi ngành nghề và trình độ tay nghề khác nhau. XKLĐ phải đảm bảo tính cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật và chuyên gia, nâng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu...Mặt khác phải đa dạng hoá thành phần tham gia XKLĐ, củng cố các doanh nghiệp chuyên XKLĐ, mở rộng diện các doanh nghiệp Nhà nước có đủ điều kiện trực tiếp để nhận thầu công trình, đưa lao động đi làm việc tại các thị trường nước ngoài... Bên cạnh đó phải đa dạng hoá hình thức đưa lao động đi nước ngoài theo các hướng ưu tiên sau : - Đi tập thể, do các doanh nghiệp tổ chức dưới các hình thức nhận thầu cong trình công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi, giao thông dân dụng... ở nước ngoài. - Chuyên gia trên một số lĩnh vực mà ta có điều kiện. - Công nhân có tay nghề làm việc theo hợp đồng ký giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. - Lao động phổ thông trong một số lĩnh vực theo yêu cầu của phía nước ngoài và theo quy định của Chính phủ. - Đầu tư để phát triển sự nghiệp XKLĐ, nâng cao năng lực của cơ quan quản lý Nhà nước, đầu tư cho các tổ chức XKLĐ và người lao động. Đầu tư đào tạo về ngoại ngữ, tay nghề và chuyên môn, đáp ứng yêu cầu thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. 3.1.2.2. Định hướng cụ thể Trên thế giới hiện nay, nhìn chung nhu cầu sử dụng lao động không còn cao như thời kì trước do nhiều nước đang cải cách kinh tế, các tập đoàn đổi mới sản xuất kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất để tiết kiệm lao động. Muốn hình thành được một hệ thống thị trường lao động quốc tế tiếp nhận và sử dụng lao động Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng cụ thể cho các năm trước mắt và nỗ lực thực hiện những chủ trương, định hướng đó. Định hướng của Đảng và Nhà nước ta từ nay đến năm 2010 về lĩnh vực XKLĐ là : Với chủ trương mở rộng, đa dạng hoá trong XKLĐ, những chính sách cởi mở tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, cho người lao động như đã trình bày ở phần trên, trong bối cảnh quan hệ ngoại giao và quan hệ hợp tác kinh tế giữa nước ta với nước ngoài đã có nhiều thuận lợi thì khả năng đưa được một số lượng lớn lao động ra nước ngoài làm việc là một hiện thực trong những năm tới. Trong thời gian tới, nước ta phấn đấu đạt quy mô đưa lao động ra nước ngoài như sau : - Từ năm 2001 - 2005: bình quân hàng năm khoảng 50.000 - 100.000 người. - Từ năm 2006 - 2010: trung bình hàng năm đưa đi khoảng 100.000 - 150.000 người. Phấn đấu luôn có khoảng 400.000 đến 500.000 lao động làm việc thường xuyên ở nước ngoài. 3.2. Giải pháp. Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua tháng 6 năm 1994 và nghị định số 07 ngày 20 tháng 1 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ qui định chi tiết một số đièu của Bộ luật Lao động về xuất khẩu lao động là cơ sở pháp lý để thực hiện chủ trương của Đảng là mở rộng xuất khẩu lao động với nhiều hình thức thích hợp và xem chương trình xuất khẩu lao động là một chương trình kinh tế xã hội quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2005 và những năm tiếp theo. Để thực hiện hiệu quả chủ trương và định hướng xuất khẩu lao động đến năm 2010 cần tăng cường quản lý nhà nước bằng các giải pháp thiết thực. 3.2.1. Các giải pháp về cơ chế quản lý : 3.2.1.1. Cần thiết lập quan hệ Nhà nước với các nước có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài: Nhà nước đóng vai trò quyết định cho sự ổn định và phát triển của XKLĐ. Ngoài chức năng xác định chủ trương, định hướng chiến lược...để hỗ trợ cho XKLĐ phát triển, Chính phủ còn có vai trò hết sức to lớn trong mở rộng thị trường lao động ngoài nước, cũng là khâu mang tính quyết định trong chu trình XKLĐ của bất kỳ nước nào. Do vậy, cần thiết lập quan hệ Nhà nước, hình thành hệ thống tuỳ viên lao động để tham mưu, tư vấn cho Nhà nước các Hiệp định khung hoặc các thoả thuận nguyên tắc để mở đường cho các doanh nghiệp ký kết và thực hiện các hợp đồng cụ thể. Đối với các nước XKLĐ truyền thống, có thể thấy vai trò của tuỳ viên lao động rất lớn, có tính quyết định cho việc thâm nhập, cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường. 3.2.1.2.Tổ chức tốt hoạt động Marketing về xuất khẩu lao động đối với thị trường ngoài nước. Đối với tất cả các hoạt động kinh tế, tiếp thị là một khâu hết sức quan trọng. Qui mô và chất lượng của nó góp phần quyết định hiệu quả của kinh doanh. Xuất khẩu lao động cũng chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi làm tốt công tác tiếp thị. Tiếp thị trong xuất khẩu lao động là nắm bắt nhanh nhạy nhu cầu lao động của các tổ chức kinh tế nước ngoài về số lượng cơ cấu nghề ngiệp, đòi hỏi trình độ, giới tính, ngoại ngữ... cùng với nó là điều kiện làm việc, sinh hoạt, tiền lương, giá cả sinh hoạt vad những vấn đề liên quan đến bảo hiểm, bảo vệ lao động di cư đến điều kiện hoà nhập của lao động ta. Hoạt động tiếp thị không những phải giúp nắm chắc "cầu" lao động và các cận giới hạn của giá nhân công thị trường lao động nước ngoài trước mắt. Ngoài ra còn phải tìm ra những yếu tố khác có tính chất dự báo cho việc hoạch định chính sách xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn tới. Các cơ quan xúc tiến xuất khẩu lao động và bản thân doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải tổ chức nhiều hình thức tiếp thị khác nhau để tién hành thông tin quảng cáo về cầu lao động của chúng ta đến với bạn hàng khắp thế giới. Do vậy cần nhanh chóng đẩy mạnh hoạt động, rút kinh nghiệm đế hoàn thiện xuất khẩu lao độngvới nhiều hình thức: Thông qua hoạt động của các đại diện tổ chức kinh tế, đại diện nhà nước ta ở nước ngoài, thông qua các tổ chức quốc tế, thông qua khảo sát, đàm phán và khai thác thông tin. Một hình thức tiếp thị mới xuất hiện gần đây nhưng ngay lập tức đã chứng minh được tính hiệu quả của nó, đó là việc lồng ghép nội dung hợp tác lao động và các cuộc gặp gỡ, đàm phán cấp cao giữa lãnh đạo các nước. Khi vấn đề hợp tác lao động được chính thức đưa vào nội dung của các văn kiện, biên bản ghi nhớ, hiệp định hợp tác kinh tế thương mại giữa hai hay nhiều quốc gia hay chương trình hoạt động của các uỷ ban hỗn hợp sẽ tạo động lực rất lớn thúc đẩy hoạt động xuất - nhập khẩu lao động giữa các quốc gia đó. Hiện nay, Chính phủ đã giao cho Bộ ngoại giao, đại sứ quán Việt Nam tại các nước cùng tham gia tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động thông qua thăm dò tình hình phát triển kinh tế, đầu tư các dự án lớn về xây dựng cầu, cảng, đường... của các nước. Để dành được các dự án đấu thầu lớn ở nước ngoài, Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần vốn cho doanh nghiệp trong nước tham gia đấu thầu. 3.2.1.4. Phân định rõ vai trò và trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan và chính quyền các cấp trong XKLĐ cụ thể như sau : Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan Chính phủ, thống nhất quản lý Nhà nước về XKLĐ có trách nhiệm : Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, khai thác thị trường lao động quốc tế, nhằm hình thành một hệ thống thị trường sử dụng lao động Việt Nam ổn định và phát triển; nghiên cứu và tổ chức triển khai các chính sách, chế độ về XKLĐ; tổ chức quản lý, kiểm tra đồng thời chỉ đạo và hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp triển khai công tác XKLĐ theo đúng luật pháp lao động. Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thiết lập, thúc đẩy và tăng cường quan hệ hợp tác song phương với các nước có khả năng thu hút lao động và chuyên gia Việt Nam; chỉ đạo các cơ quan đại diện ở nước ngoài nghiên cứu tình hình và cung cấp cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thông tin về thị trường lao động nước ngoài, thực hiện chức năng lãnh sự, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp Việt Nam, luật pháp nước sở tại và luật pháp quốc tế... Bộ Công An phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý việc xuất nhập cảnh của người lao động đi làm việc ở nước ngoài kể cả lao động tự túc, chỉ đạo các cấp triệt để cải cách hành chính trong các khâu thuộc Bộ, đảm bảo thuận lợi, nhanh chóng tránh phiền hà cho người lao động, chuyên gia và tổ chức kinh tế XKLĐ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Văn hoá, Bộ Xây dựng, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn...và chính quyền các cấp theo chức năng của mình đẩy mạnh hoạt động XKLĐ trong phạm vi thuộc Bộ, ngành, địa phương mình theo quy định của Nhà nước; chỉ đạo các tổ chức kinh tế XKLĐ tổ chức tốt đời sống văn hoá tinh thần cho người lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Bên cạnh đó các tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị khác nên tổ chức vận động, giáo dục tuyên truyền chủ trương, chính sách về XKLĐ và giám sát, triển khai công tác XKLĐ. 3.2.1.5. Mở rộng phạm vi về thành phần kinh tế tham gia XKLĐ, đồng thời đa dạng hoá hình thức và ngành nghề đưa đi: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các khu vực kinh tế cùng tham gia hoạt động trong một lĩnh vực thì sẽ có tác đông hoàn thiện quá trình và không ngừng tăng hiệu quả. Tăng thành phần tham gia XKLĐ sẽ giúp số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng lên, Nhà nước thu hút được nguồn ngoại tệ lớn, quyền lợi người lao động được bảo đảm hơn do quy luật cạnh tranh điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp. Đa dạng hoá ngành nghề, công việc trong XKLĐ trong giai đoạn tới đối với nước ta là một giải pháp mang tính chủ trương lớn và có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển XKLĐ. Cần mạnh dạn cho thí điểm đưa lao động đi phục vụ gia đình (hiên nay chủ yếu tại thị trường Đài Loan) loại công việc này sẽ thu hút một số lượng lớn lao động nước ngoài. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải chuẩn bị chu đáo để bảo vệ quyền lợi người lao động. 3.2.1.6. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý lĩnh vực xuất khẩu lao động Các cơ sở kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu lao động tuy đã được thành lập từ năm 1992 ( từ khi chuyển đổi xuất khẩu lao động theo cơ chế mới) nhưng còn non trẻ, thiếu đội ngũ tổ chức hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì vậy cần có chính sách thích hợp, tạo điều kiện cho các cơ sở kinh tế về nhiều mặt: vật chất kỹ thuật, đào tạo nâng cao trình độ quản lý cũng như nghiệp vụ của cán bộ, để những cơ sở kinh tế này nhanh chóng vươn lên ngang tầm với các đối tác của mình trên nhiều mặt. Bên cạnh đó, cần tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động. Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở kinh tế nắm bắt được những thông tin về thị trường mới một cách kịp thời để tránh sơ hở trong ký kết hợp đồng do thiếu kinh nghiệm. Nhà nước chỉ thực hiện cấp giấy phép cho những doanh nghiệp có đủ điều kiện hoạt động trong lĩnh vực này và chỉ cho phép những đơn vị này thực hiện những hợp đồng xuất khẩu lao động nếu xét thấy đảm bảo. Nhà nước kiểm tra và đình chỉ hoạt động của những doanh nghiệp không chấp hành đúng qui chế về hoạt động xuất khẩu lao động. Dự kiến trong thời gian tới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiến hành sắp xếp lại các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Theo kế hoạch này, Bộ sẽ chọn từ 10- 15 doanh nghiệp để đầu tư, nâng cấp thành doanh nghiệp mạnh nhất trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, còn các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả thì sau 18 tháng kể từ khi cấp giấy phép mà không ký được hợp đồng sẽ rút giấy phép, hoặc sau 12 tháng không có đủ điều kiện mới như: vốn điều lệ từ 7 tỷ đồng trở lên, 7 cán bộ chuyên trách có trình độ đại học, có trụ sở ổn định và cơ sở đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động... thì cũng bị rút giấy phép. Thực tế có rất nhiều trường hợp vi phạm, điển hình là vụ công ty CIEPICO đã bán giấy phép kinh doanh đưa người lao động ra nước ngoài cho những đơn vị không có chức năng xuất khẩu lao động, các đơn vị này đã lừa 580 người lấy 800 000 USD. Nhiều tổ chức, cá nhân không có chức năng xuất khấu lao động nhưng vẫn đứng ra tuyển lao động hoặc làm trung gian cho một tổ chức khác với mục đích lừa đảo người lao động để thu lời bất chính. Mới đây, Công an Hà Nội đã khám phá và xử lý hàng loạt những vụ lừa đảo có tổ chức và qui mô lớn trong đó có những công ty " ma"và nhiều đường dây lừa đảo khác, hơn 1000 nạn nhân đã mất cả triệu USD. Một số công ty nhà nước trong quá trình thực hiện các hợp đồng xuất khẩu lao động không có trách nhiệm với người lao động, do đó nhiều lao động Việt Nam bị chủ ngược đãi, nợ lương... phải nhờ đến sự can thiệp của nhà nước mới được trở về an toàn. 3.2.1.7. Tổ chức quan hệ phối hợp liên ngành tăng cường công tác quản lý lao động Một trong những yếu tố để cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế là yếu tố thủ tục xuất cảnh. Có khi hợp đồng đã ký xong, bên nước bạn cần lao động gấp mà lao động xuất khẩu nước ta phải qua nhiều thủ tục rườm rà nên không đưa được lao động đi ngay, do đó không đáp ứng được nhu cầu của chủ sử dụng lao độngvà người lao động sẽ làm mất uy tín của nước ta. Vì vậy, sau khi được tuyển chọn, việc làm thủ tục nhân sự xuất cảnh phải nhanh gọn, đơn giản hoá tiến tới thực hiện chính sách một cửa theo qui trình riêng, chặt chẽ, thông thoáng cho lao động xuất khẩu. Về vấn đề này, nước ta cũng nên nghiên cứu học tập kinh nghiệm của một số nước có nhiều thành công trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, thích hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam như Philippin, công dân được cấp sẵn hộ chiếu, khi có hợp đồng lao động với nước ngoài họ chỉ cần xin cấp visa... việc làm đó rất thuận lợi cho người lao động. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong quá trình tuyển chọn và làm thủ tục xuất cảnh cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ( về kiểm tra sức khoẻ ), Bộ Công An ( về xác minh chính trị ), Bộ Ngoại giao ( về hộ chiếu và thị thực nhập cảnh ).... sao cho có hiệu quả. Cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng nâng cao chất lượng thanhtr, kiểm tra theo chuyên đề, theo các vùng trọng điểm nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các hiện tưọng tiêu cực trong tuyển chọn lao động đi làm việc ở nước ngoài. 3.2.2. Các giải pháp về chính sách 3.2.2.1. Xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật Một trong những trở ngại cho sự phát triển của hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta hiện nay là chưa có một hệ thống văn bản pháp qui đầy đủ, qui định chung về hoạt động này do đó các doanh nghiệp thiếu các cơ sở pháp lý cần thiết để tiến hành xuất khẩu lao động. Do vậy, một trong những giải pháp đầu tiên mang tính chất đột phá là nhà nước cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, nhất là cơ chế tài chính để nâng cao khả năng hoạt động và tạo sự chủ động cho doanh nghiệp xuất khẩu. Về chính sách điều tiết tài chính trong hoạt động xuất khẩu lao động cần phải tính theo hướng tạo cho các doanh nghiệp cung ứng lao động Việt Nam có lợi thế về giá nhân công so với các nước khác để có thắng thế trong đàm phán hợp đồng. Trong trường hợp này, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ giúp tăng được số lượng người đi lao động xuất khẩu. Trong các hợp đồng cung ứng lao động cho nước ngoài hiện nay, toàn bộ các nguồn thu của tổ chức kinh tế hoạt động xuất khẩu lao động, thu bảo hiểm xã hội cho lao động và nộp ngân sách nhà nước đều được trích từ tiền lương hàng tháng mà chủ sử dụng trả cho người lao động theo thoả thuận trong hợp đồng. Nếu tỷ lệ thu ngân sách được điều chỉnh theo hướng doanh nghiệp và người lao động thì mối quan hệ lợi ích giữa tổ chức kinh tế- người lao động - nhà nước sẽ không chỉ có lợi cho riêng bên nào mà tạo thành lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế. Lợi ích của nhà nước do hoạt động xuất khẩu lao động mang lại được thể hiện ở cả hai mặt: kinh tế và xã hội. Từ khoản tiền thu nộp ngân sách trực tiếp theo tỷ lệ qui định, nhà nước có được một nguồn ngoại tệ lớn hơn nhờ có xuất khẩu lao động, đồng thời không phải bỏ một lượng vốn từ ngân sách đầu tư tạo việc làm trong nước cho số lao động này. Nhà nước sẽ có chính sách như hỗ trợ các chi phí, miễn thủ tục hành chính ràng buộc người lao động trước khi đi xuất khẩu lao động, tạo điều kiện cho lao động nghèo có điều kiện đi xuất khẩu lao động. Trong thời gian tới, nước ta sẽ có Ngân hàng chính sách cho người đi xuất khẩu lao động vay vốn. Ngày 12 tháng 9 năm 2000, Văn phòng chính phủ có văn bản số 3951/ VPCP - KTTH thông báo ý kiến của phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về việc xử lý rủi ro vốn vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh đối với người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài. Theo đó, toàn bộ số dư nợ và nhiệm vụ cho vay đối với người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài thuộc diện chính sáchsẽ được chuyển giao cho ngân hàng chính sách khi ngân hàng này được thành lập. Trường hợp cho vay đối với người lao động có thời hạn ở nước ngoài thuộc diện chính sách có phát sinh rủi ro do nguyên nhân khách quan, ngân hàng nhà nước Việt Nam có trách nhiệm tổng hợp các trường hợp đó và kiến nghị biện pháp xử lý cụ thể, báo cáo Thủ tướng chính phủ xem xét, quyết định. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần có những chính sách hỗ trợ lập quĩ phúc lợi xã hội về xuất khẩu lao động để giúp giải quyết những khó khăn cho người lao động khi sang làm việc ở nước ngoài. 3.2.2.2. Đầu tư xây dựng các doanh nghiệp XKLĐ đủ mạnh để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trước mắt, chúng ta cần đầu tư vốn, phương tiện hoạt động, xây dựng bộ máy và đào tạo cán bộ có khả năng tiếp cận và tìm kiếm thị trường. Các cơ quan chủ quản và các cơ quan quản lý Nhà nước cần hỗ trợ về vốn và về cán bộ để đầu tư xây dựng các tổ chức kinh tế tham gia vào XKLĐ trở thành các tổ chức kinh tế mạnh, có đủ kinh nghiệm và khả năng cạnh tranh trên thị trường XKLĐ quốc tế, xây dựng một số tổ chức kinh tế thành công ty đấu thầu quốc tế. Ban hành các chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp XKLĐ trong các lĩnh vực tài chính, như cho vay với lãi suất thấp, xây dựng chi phí môi giới... tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm được hợp đồng XKLĐ. Có thể xem xét theo định hướng là đối với các doanh nghiệp tham gia XKLĐ thì được hưởng ưu đãi theo luật thuế quy định, mức ưu đãi sẽ được Bộ Tài chính quy định cụ thể ở các văn bản dưới luật. Nghiên cứu thành lập Hiệp hội XKLĐ và chuyên gia để các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và bảo vệ quyền lợi cho nhau trước sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực XKLĐ 3.2.2.3. Đào tạo nguồn lao động xuất khẩu đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động quốc tế. Thị trường lao động quốc tế ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt, chất lượng lao động trở thành yếu tố quan trọng quyết định khả năng mở rộng thị trường của các quốc gia xuất khẩu lao động. Nước ta có những thuận lợi nhất định, nhất là về yếu tố giá nhân công nhưng để giành ưu thế trên thị trường lao động quốc tế thì cần phải thực hiện một chương trình hành động quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực. Trước hết, chúng ta phải chú trọng tới việc mở rộng các ngành nghề đào tạo, sau đó đào tạo theo chiều sâu những ngành nghề có thế mạnh như: dệt, may, giầy da, điện tử, xây dựng.Khi đã đáp ứng được yêu cầu về chất lượng đào tạo, các nước có nhu cầu sử dụng lao động sẽ tin tưởng vào lao động Việt Nam và xem Việt Nam như một địa chỉ cung cấp lao động đáng tin cậy. Do vậy, Việt Nam cần phải đầu tư bằng nhiều cách, trong đó tập trung xây dựng thêm cơ sở đào tạo, mở rộng đào tạo theo yêu cầu của thị trường, trong đó nguồn nhân lực phải đạt chuẩn về ngoại ngữ, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội dự kiến trong 10 năm tới sẽ đầu tư khoảng 3000 tỷ đồng cho hoạt động đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề và trình độ cao nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và phục vụ xuất khẩu lao động. Có thể đánh giá đây là việc làm cần thiết trong chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu lao động nước ta. Trong những năm tới, chất lượng lao động ở các thị trường như Đông Bắc á, Đông Nam á, Trung Đông... có những đòi hỏi ngày càng khắt khe. Mặc dù lực lượng lao động xuất khẩu Việt Nam được coi là khá đa dạng nhưng nếu không nâng cao chất lượng thì chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong công tác đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Khó khăn lớn nhất của lao động xuất khẩu Việt Nam là các vấn đề về ngoại ngữ, tay nghề, giáo dục định hướng và việc tìm kiếm giải pháp tháo gỡ những vấn đề này là thực sự cần thiết. Các giải pháp chính xuất phát từ phía các doanh nghiệp, do vậy phải căn cứ vào nhu cầu thị trường lao động và khả năng ký kết hợp đồng để lập kế hoạch xuất khẩu lao động, phối hợp với các địa phương để chuẩn bị nguồn lao động đưa vào đào tạo chuyên môn, ngoại ngữ. Các doanh nghiệp phải thành lập cơ sở đào tạo có khả năng đào tạo thường xuyên từ 100 lao động trở lên. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần liên kết với các trường dạy nghề để đào tạo nguồn lao động có chất lượng cung cấp cho doanh nghiệp. Trong chương trình đào tạo, nội dung đào tạo về giáo dục định hướng, những vấn đề về hiểu biết và ý thức chấp hành luật pháp, kỷ luật lao động tác phong công nghiệp, thái độ ứng xử cho người lao động trước khi ra nước ngoài là rất quan trọng, góp phần đảm bảo thực hiện tốt hợp đồng, nâng cao uy tín của đội ngũ lao động ta trên thị trường lao động quốc tế. Trước mắt, chúng ta cần nghiên cứu và biên soạn các chương trình đào tạo cho từng thị trường một cách đầy đủ và cập nhật các nội dung về luật cơ bản của các nước. Do vậy, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo nguồn lao động xuất khẩu. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ rõ với việc chuẩn bị được lực lượng lao động phù hợp, có chất lượng so với yêu cầu quốc gia sẽ có khả năng cạnh tranh và chiếm giữ được thị trường. Chất lượng lao động càng cao thì hiệu quả càng cao. Cho phép sử dụng cơ chế ba bên, Nhà nước - Doanh nghiệp, người lao động cùng đầu tư để đào tạo nguồn lao động cho xuất khẩu. Kết hợp đào tạo kỹ thuật với đào tạo ngoại ngữ, phong tục tập quán, kiến thức pháp luật cho lao động. Đây cũng là chính sách đào tạo đôi ngũ lao động kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu sử dụng trong nước khắc phục tình trạng thiếu công nhân có kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 3.2.2.4. Sử dụng và phát huy tốt khả năng của số lao động trở về sau khi hết hợp đồng ở nước ngoài Đây là vấn đề giải quyết một cách tổng thể giữa lợi ích của một thương gia xuất khẩu lao động và người lao động trong nước để đảm bảo công bằng xã hội. Sau khi hết hạn hợp đồng, người lao động đem theo ngoài số lớn vốn tích luỹ được còn là khả năng ngoại ngữ, kỹ năng lao động.... Đó là những yếu tố cần được phát huy nhằm giải quyết việc làm cho họ và những người khác. Để làm được việc này, ta cần giúp đỡ họ về các mặt như: tư vấn việc làm, đào tạo, bồi dưỡng và có chương trình hỗ trợ vốn theo yêu cầu và điều kiện cho hép. Có thể nói tới một số giải pháp nhỏ như sau: Thứ nhất: Người tham gia xuất khẩu lao động sau một thời gian làm việc đã có một khoản thu nhập tương đối thì nên khuyến khích họ tự lo cuộc sống của mình. Thực tế những năm qua, số lao động xuất khẩu giàu có khi về đều tự tham gia kinh doanh dạng kinh tế tư nhân hoặc góp vốn vào các công ty cổ phần. Trong quá trình lập nghiệp, nhà nước nên quan tâm giải quyết những khó khăn ban đầu cho số lao động này. Thứ hai: Có kế hoạch thu hút lại một số người đeer đưa đi xuất khẩu lao động tiếp trong trường hợp họ có nhu cầu, có tay nghề cao và phải có yêu cầu của phía nước bạn nhưng phải điều chỉnh ở mức thu nhập cao hơn trước. Thứ ba: Dựa vào lợi thế sẵn có về ngôn ngữ và quen với công việc, phong cách làm ăn của từng nước mà có kế hoạch đưa những người đã lao động ở nước đó khi trở về vào làm cho các công ty của họ tại Việt Nam hay khu chế xuất do nước đó đầu tư. Để thực hiện được điều này là rất khó, cần phải có sự giúp đỡ của các cấp, các ngành liên quan nhằm mở rộng hơn nữa mạng lưới công ty liên doanh, các khu công nghiệp, khu chế xuất. Khi đã ổn định và sử dụng tốt số lao động này, ngoài việc ổn định xã hội, về mặt tâm lý số lao động đang và sẽ đi lao động nước ngoài không phải lo lắng nhiều về việc làm sau này. Do đó tránh được tình trạng sau khi hết hợp đồng họ trốn ở lại nước bạn hoặc vượt biên trái phép sang nước thứ ba, còn số lao động sắp đi sẽ yên tâm thực hiện hợp đồng mới. 3.2.3. Hoàn thiện chính sách về tài chính Chính sách tài chính là đòn bẩy thúc đẩy mở rộng và nâng cao hiệu quả XKLĐ. Trong chính sách tài chính, vấn đề cơ bản cần quan tâm là bảo đảm hài hoà các lợi ích: Lợi ích của người lao động, lợi ích của các tổ chức XKLĐ, lợi ích của Nhà nước và cũng cần chú ý tới lợi ích của chủ thuê lao động. Nên phân định rõ và giao các chính sách này cho các cơ quan quản lý chức năng cụ thể như Bộ Văn hoá - Thông tin thực hiện tốt dịch vụ văn hoá tinh thần phục vụ cộng đồng lao động của ta ở nước ngoài, các ngành có liên quan như ngành Hàng không, Thuế, Hải quan cần ban hành các quy chế ưu đãi trong việc làm thủ tục và giá cước đối với sản phẩm dành cho người lao động khi đưa ra nước ngoài phục vụ lao động nước ta. 3.2.3.1. Đối với các doanh nghiệp. Nhà nước cần tăng cường ban hành các chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp XKLĐ trong các lĩnh vực tài chính, như cho vay với lãi suất thấp, xây dựng chi phí môi giới... tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm được hợp đồng XKLĐ. Có thể xem xét theo định hướng là đối với các doanh nghiệp tham gia XKLĐ thì được hưởng ưu đãi theo luật thuế quy định, mức ưu đãi sẽ được Bộ Tài chính quy định cụ thể ở các văn bản dưới luật. 3.2.3.2. Đối với người lao động Nghiên cứu qui định hợp lý chi phí dịch vụ việc làm ở nước ngoài. Phí dịch vụ này nên quy định thành 3 mức cố định : Đối với lao động phổ thông; đối với lao động kỹ thuật và đối với lao động “chất xám”. Không nên quy định thành tỉ lệ phần trăm theo lương, sẽ gây nên việc khó tính toán và khó thực hiện. Cần nghiên cứu, ban hành các chính sách thuế hợp lý, nên miễn thuế thu nhập cao nhằm đảm bảo và khuyến khích người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Mặt khác, nên sửa đổi bổ sung chế độ bảo hiểm xã hội, cho người lao động tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội chứ không nên bắt buộc đóng bảo hiểm xã hội như hiện nay. Nghiên cứu và sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội cho phù hợp với người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Nhà nước cần có chính sách cho người lao động được vay vốn với lãi suất ưu tiên để chi phí cho việc đi nước ngoài làm việc. Xây dựng cơ chế cho vay tín dụng từ các nguồn vốn quốc gia giải quyết việc làm, quỹ xoá đói giảm nghèo và các nguồn khác để cho các đối tượng nghèo và đối tượng chính sách được vay với lãi suất ưu đãi. Nếu được thì sẽ tạo tâm lý an tâm cho người lao động đi làm việc, chấp hành tốt các quy định ở nước ngoài vì họ không phải lo lắng gì về những khoản vay nợ cá nhân. Tiến hành mở tài khoản cá nhân cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Giải pháp này sẽ giải quyết được ba vấn đề: Quản lý và theo dõi được lượng ngoại tệ chuyển vào nước ta, người lao động an tâm khi họ biết được tiền của họ được bảo vệ và chuyển về nước an toàn, giúp đỡ người nhà gặp khó khăn khi họ còn làm việc ở nước ngoài. Nên có chính sách khuyến khích người lao động và chuyên gia làm việc ở nước ngoài dùng thu nhập ở nước ngoài mà họ kiếm được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tư vấn việc làm, đào tạo lại cho người lao động sau khi về nước. Bên cạnh đó với những lao động đã hoàn thành hợp đồng trở về nước khác, cần tạo điều kiện tiếp nhận họ vào làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh vì họ có thế mạnh tay nghề, tác phong công nghiệp, ngoại ngữ... Nghiên cứu để ban hành các chính sách thưởng phạt nghiêm minh đối với mọi đối tượng có liên quan đến XKLĐ. Có các biện pháp ngăn chặn tình trạng tiêu cực trong hoạt động của lĩnh vực này. 3.2.4. Các giải pháp về tổ chức quản lý. 3.2.4.1. Hoàn thiện hệ thống quản lý và tổ chức bộ máy cán bộ quản lý Nhà nước về XKLĐ. Để phù hợp với cơ chế thị trường và cải cách nền hành chính quốc gia nhằm tăng cường và nâng cao năng lực của quản lý Nhà nước, hệ thống quản lý XKLĐ cần được đổi mới theo hướng tinh giảm đầu mối trung gian, tập trung chức năng quản lý Nhà nước vào một số cơ quan của Chính phủ. Hệ thống tổ chức quản lý XKLĐ trong thời gian tới cần bao quát được các nội dung quản lý Nhà nước trong và ngoài nước nhưng bảo đảm tính linh hoạt và năng động. Về cán bộ cần tập trung đào tạo kiến thức kinh tế thị trường, kiến thức Marketing, ngoại ngữ, kiến thức về lao động, luật pháp, đối ngoại mới đủ điều kiện để làm công tác quản lý. 3.2.4.2. Các giải pháp về tổ chức thực hiện và quản lý Để thực hiện thành công chủ trương và phương hướng XKLĐ của Đảng và Nhà nước, nhằm đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới, ngoài các giải pháp nêu trên, cơ quan quản lý Nhà nước cần tiến hành một số giải pháp khác để chỉ đạo thống nhất hoạt động XKLĐ, đó là các giải pháp sau : - Xây dựng quy trình XKLĐ riêng biệt. XKLĐ của ta đã tiến hành được gần 20 năm, nhưng chưa có một quy trình tổng quát, thống nhất. Do đó sự phối hợp giữa các ngành, các cấp thiếu đồng bộ, không nhịp nhàng đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công việc. Quy trình XKLĐ gồm ba giai đoạn : Giai đoạn một là giai đoạn tìm kiếm và ký kết hợp đồng, giai đoạn hai là giai đoạn tuyển chọn và làm thủ tục xuất cảnh, giai đoạn ba là quản lý ở nước ngoài và thanh lý hợp đồng. Trong giai đoạn hai thì việc tiến hành làm thủ tục cho lao động xuất cảnh còn nhiều phiền hà ở các cấp, các ngành thuộc các địa phương đã làm chậm trễ tiến độ xuất cảnh ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp XKLĐ. Thậm chí, nhiều khi, phải bỏ cả yêu cầu cung cấp lao động của chủ nước ngoài nhất là đối với thuyền viên (do phải dùng hai hộ chiếu) - Xây dựng hợp đồng mẫu cho các loại lao động đi làm việc ở nước ngoài. Hợp đồng mẫu là những quy định tối thiểu về điều kiện làm việc, tiền lương, điều kiện ăn ở, bảo hiểm, giải quyết tranh chấp và các điều kiện về bảo đảm nhân phẩm và an ninh. Ban hành hợp đồng mẫu là nhằm bảo vệ các quyền lợi tối thiểu của người lao động khi làm việc ở nước ngoài, tránh sự bóc lột và đối xử phân biệt của chủ đối với lao động - Xây dựng và ban hành mức lương tối thiểu cho từng khu vực thị trường sử dụng lao động Việt Nam. - Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ. Đó là một trong các giải pháp góp phần tăng cường quản lý Nhà nước, đưa hoạt động XKLĐ đạt được hiệu quả KT - XH cao. Việc đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ hàng năm nhằm xác định khả năng và hiệu quả của XKLĐ, động viên khuyến khích các doanh nghiệp năng động, tìm tòi mọi biện pháp để mở rộng thị trường và kịp thời uốn nắn những sai lệch trong hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp. Kết luận Xuất khẩu lao động là một hoạt động mang lại lợi ích kinh tế đáng kể trong công cuộc phát triển kinh tế ở Việt Nam. Đồng thời đây là một hoạt động mang tính xã hội cao, do đó mà xuất khẩu lao động sẽ không ngừng lại và tiếp tục phát triển phù hợp với sự phát triển của kinh tế thế giới. Những kết quả mà hoạt động xuất khẩu mang lại trong những năm vừa qua không thể phủ nhận. Số lượng lao động xuất khẩu ngày càng tăng và thị trường xuất khẩu cũng ngày càng mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho số lao động thiếu việc làm trong nước có cơ hội nhiều hơn trong việc tìm kiếm việc làm. Hoạt động xuất khẩu cũng được hoàn thiện về thủ tục, cơ cấu tổ chức, các chính sách giúp người lao động giải quyết việc làm nhanh hơn, ngoài mục đích giải quyết việc làm cho người lao động thì hoạt động này còn góp phần khẳng định quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước trên thế giới. Bên cạnh những kết quả đạt được thì xuất khẩu lao động không tránh khỏi những hạn chế như: chất lượng đào tạo lao động chưa đạt yêu cầu, người lao động bị lừa đảo, bị trả về nước hay tự ý phá hợp đồng chốn ra ngoài làm việc, người lao động chưa tạo được niềm tin thực sự ở nước ngoài, chưa đáp ứng được đòi hỏi của công việc. Để hoạt động này ngày được mở rộng và hoạt động có quy mô thì Đảng và Nhà nước cần củng cố, xây dựng và ban hành các văn bản mới tạo hành lang pháp lý cho hoạt động lao động. Hiện nay công tác xuất khẩu lao động còn nhiều khó khăn do vậy mà phải có sự quan tâm của các nghành, các cấp để người lao động thực sự đặt niềm tin vào công việc họ lựa chọn. Cụ thể là Đảng và Nhà nước phải có những chính sách hợp lý, cách nhìn đúng đắn để xuất khẩu lao động được nâng cao hơn nữa về mặt số lượng cũng như chất lượng, đạt hiệu quả kinh tế và từng bước để Việt Nam khẳng định mình trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tài liệu tham khảo Tạp chí Thông tin thị trường lao động, số 1&9/1999,2&5/2000 “ Thị trường lao động và việc làm ở Việt Nam năm 1996, 1997” Thị trường lao động- Thực trạng và giải pháp. PTS.Nguyễn Quang Hiển- NXB Thống kê Hà Nội-1995. Thị trường lao động và việc làm. Thị trường lao động và vấn đề giải quyết việc làm ở các nước trên thế giới “ - 1990 “Báo cáo tổng kết 10 năm hợp tác lao động với nước ngoài”- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Website: Website: Website: Đề án đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia giai đoạn 1998-2010, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 1998 Đề án chấn chỉnh và tăng cường năng lực hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia , Bộ lao động - Thương binh và Xã hội , Hà Nội, 2001 Các loại chi phí và tiền đặt cọc khi đi lao động nước ngoài, Thời báo kinh tế, 13/3/2000 Chính sách di cư liên hợp quốc, 1998. CIEM - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Lao động, việc làm và thu nhập, Kinh tế Việt Nam, năm 2000. Kim Ho-Jin, Hệ thống giấy phép lao động đối với nước ngoài, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 2/2001 Lê Trung, Nhìn lại vấn đề việc làm sau 15 năm đổi mới , Tap chí Thông tin thị trường lao động, số 1/2001. Manuel Imson, Kinh nghiệm của Philipin trong tìm kiếm việc làm nước ngoài, Tạp chí Việc làm nước ngoài, cục quản lý lao động với nước ngoài, số 4/2000 Lương Đức Long, Kết quả bước đầu cầu lao động Việt Nam ở thị trường Đài Loan, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 5/2001. Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ quy định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Nguyễn Quang Vinh, Xuất khẩu lao động nhìn từ đào tạo, tạp chí Việc làm nước ngoài , Cục quản ký lao động nước ngoài, số 4/2000 Nguyễn Xuân Lưu, Những thuận lợi và khó khăn trong việc hội nhập và cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế, Tạp chí Việc làm nước ngoài , cục quản lý lao động với nước ngoài, số 2/2002 PGS.TS Phạm Đức Thành và TS Mai Quốc Khánh, Kinh tế lao động, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Giáo dục,1998. PGS.TS Phạm Đắc Sửu, Xuất khẩu thuyền viên Việt Nam, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 5/2000 Phan thị Bé, Xây dựng cơ chế tài chính phù hợp với hoạt động XKLĐ, Tạp chí Việc làm nước ngoài, cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/1999 Sơ kết việc XKLĐ, báo Nhân dân, 19/12/2001 Thông báo kết quả hội nghị toàn quốc về XKLĐ, Tạp chí Việc làm nước ngoài, số 3/2000. Th.S Nguyễn Lương Phương, những định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh XKLĐ trong tình hình mới, Tạp chí việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động nước ngoài, số 6/2002. Tin kinh tế ngày 16/9/2002, tình hình lao động ở Châu á,Tạp chí việc làm nước ngoài, cục quản lý lao động với nước ngoài, số 5/2002. Trần Văn Hoan, Đào tạo người lao động tại các doanh nghiệp ở một số khu vực thi trường lao động, Tạp chí việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động nước ngoài, số 5/2002. TS.Cao Văn Sâm, Tăng cường đào tạo ngoại ngữ cho lao động xuất khẩu và chuyên gia, Tạp chí việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động nước ngoài, số 1/2001. TS.Phạm Đỗ Nhật Tân, Thị trường lao động ngài nước.Thực trạng và giải pháp ổn định, phát triển thị trường, Tạp chí việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động nước ngoài, số 6/2002. TS.Trần Văn Hằng, hoạt động XKLĐ và chuyên gia năm 2000 nhiệm vụ và định hướng công tác năm 2001, Tạp chí việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động nước ngoài, số 6/1999. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII - 1996. Viện chiến lược phát triển, cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển KT - XH Việt nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, nhà xuất bản Chính trị quốc gia HN - 2001. “Báo cáo tổng kết họat động xuất khẩu lao động giai đoạn 1991-2002”, Cục quản lý lao động nước ngoài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36987.doc
Tài liệu liên quan