Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Văn Bàn

Thực hiên chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước và của ngành, hệ thống ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT nói riêng đã xác định rõ vị trí, nhiệm vụ của mình đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, đã xác định được bước đi đúng hướng, phù hợp với ý Đảng, lòng dân được các cấp các ngành đồng tình ủng hộ. Mục tiêu của NHNo&PTNT là lấy nông nghiệp nông thôn làm địa bàn hoạt động và hộ nông dân là đối tượng cấp tín dụng chính. Là một ngân hàng thương mạimục đích kinh doanh không chỉ vì lợi nhuận mà NHNo&PTNT còn luôn trú trọng quan tâm tới các mục tiêu, chính sách xã hội đặc biệt là việc cho hộ nông dân nói chung và hộ nông dân nghèo vay vốn tổ chức sản xuất.

doc46 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Văn Bàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngừng tăng lên. Nó thể hiện công tác cho vay của ngân hàng rất tíc cực và liên tục qua các thời điểm. Năm 2004 tổng dư nợ hộ sản xuất là 34.554 triệu đồng trong đó dư nợ trung, dài hạn chiếm 81,2% dư nợ ngắn hạn là 18,8%. Năm 2005 tổng dư nợ hộ sản xuất là 46.511 triệu đồng tăng 11.967 triệu đồng so với năm 2004 tương ứng tăng 34,6%. Đến năm 2006 thì dư nợ hộ sản xuất tiếp tục yăng cao tổng dư nợ hộ sản xuất đạt 58.725 triệu đông tăng 12.214 triệu đồng so với năm 2005 tương ứng tăng 26,3%. Nhìn chung việc giải ngân nguồn vốn tuy chưa đều nhưng do biết phát huy những thế mạnh của mình nên ngân hàng và hộ sản xuất đã có quan hệ chặt chẽ với nhau để cùng phát huy tối đa nguồn vốn tín dụng đã được giải ngân. 2. Thực trạng chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn. 2.1. Tình hình nợ quá hạn đối với hộ sản xuất. Trong kinh doanh ngân hàng tất yếu không tránh khỏi những bất trắc rủi ro xẩy ra và nợ quá hạn là hiện tượng thường xuyên xảy ra ở bất cứ loại hình cho vay nào. Vơi đặc thù đa số hộ sản xuất nông nghiệp, một trong những nghành kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết, khí hậu và bị thiẹt hại lớn bởi thiên tai, dịch bệnh. Do đó làm cho nhiều hộ sản xuất thua lỗ trong kinh doanh vì việc tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn, khả năng thu hồi vốn bị chậm trễ từ đó thiếu khả năng trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng. Chính vì thế các Ngân hàng thương mại nói chung và chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn nói riêng cần có những biện pháp hữu hiệu để hạn chế tình trạng nợ quá hạn. Cụ thể phải thực hiện phân tích đánh giá chính xác về khách hàng, phân tích dự án vay vốn của khách hàng(tính pháp lý và tính khả thi của dự án). Hiện nay tỷ lệ nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng và mức rủi ro tín dụng ngân hàng, nó thể hiện qua bảng số liệu sau: ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Tổng dư nợ 34.544 46.511 58.725 Nợ quá hạn 137 282 391 NQH/Tổng dư nợ(%) 0,39 0,6 0,66 Nguồn: Báo cáo tổng kết 2004-2006, chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn Qua bảng số liệu ta thấy ta thấy nợ quá hạn có xu hướng tăng qua các năm, năm 2004 nợ quá hạn là 137 triệu đến năm 2005 nợ quá hạn là 282 triệu đồng tăng 145 triệu đồng so với năm 2004, năm 2006 nợ quá hạn đã tăng lên 391 triệu đồng tăng 109 triệu đông so với năm 2005. Tuy nợ quá hạn tăng về số tuyệt đối qua các năm nhưng chênh lệch tăng có xu hướng giảm dần qua các năm điều này chứng tỏ chất lượng tín dụng ngày càng được nâng lên. Nợ quá hạn tăngcó thể do hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng còn nhiều hạn chế, sự giám sát thẩm định khi cho khách hàng vay của ngân hàng chưa thật tốt, ngân hàng cũng chưa có biện pháp thúc đẩy khách hàng trả nợ đúng kỳ hạn. Hơn nữa như chúng ta đã biết ngân hàng đầu tư cho hộ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu mà đặc thù của sản xuất nông nghiệp là chịu nhiều ảnh hưởng của tự nhiên (khí hậu, thời tiết, dịch bệnh…) nên thường chứa đựng nhiều nguy cơ dẫn đến rủi ro. Mặt khác, do chính bản thân hộ sản xuất chưa biết sử dụng vốn có hiệu quả, sử dụng vốn sai mục đích, giá cả thị trường thay đổi theo hướng bất lợi cho người sản xuất, do thiên tai dịch bệnh, do những chính sách ưu đãi, trợ cấp của nhà nước đã thay đổi… Đã là những nguyên nhân làm cho nợ quá hạn của hộ sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao. Đây là vấn đề mà chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn và các ngành các cấp có liên quan cần quan tâm. Tuy nợ quá hạn tăng liên tục qua các năm nhưng mức độ tăng không đáng kể và ở tỷ lệ này có thể đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng là tương đối tốt (Theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam thì tỷ lệ NQH/ Tổng dư nợ < 3% thì được coi là đơn vị có chất lượng tín dụng tốt).Có đựoc kết quả như trên là do: - Ban giám đốc NHNo&PTNT tỉnh đã vận dụng một cách sáng tạo các quyết định, thể chế mới ban hành của Ngân hàng Nhà nước để chỉ đạo điều hành việc cho vay, thu nợ cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. - Một bộ phận không thể không kể tới là các cán tín dụng bộ trực tiếp cho vay, thu nợ với bản chất cần cù sáng tạo trong lao động, với tinh thần trách nhiệm cao, với bề dày kinh nhiệm đã được đúc kết trong quá trình công tác cũng như trong học tập. Các cán bộ tín dụng đã theo sát từng món vay, đôn đốc thu nợ khi đến hạn mặc dù điều kiện làm việc còn gặp nhiều khó khăn như: Địa bàn công tác phân tán, rải rác, vùng sâu vùng xa, số lượng món vay nhiều nhưng số tiền mỗi món vay nhỏ. Khó khăn là thế nhưng các cán bộ tín dụng của NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Như vậy công tác sử dụng vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn trong những năm qua luôn được mở rộng về quy mô, đáp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh trên địa bàn đặc biệt là đối tượng hộ sản xuất với khối lượng tín dụng ngày càng lớn, chất lượng tín dụng được đảm bảo. Điều này khẳng định rằng xhi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn đã góp một phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình, từng bước nâng cao đời sống của người dân trên địa bàn huyện. Thực chất nợ quá hạn ở NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn được đánh giá và thể hiện qua các chỉ tiêu sau : 2.1.1.Nợ quá hạn theo loại cho vay hộ sản xuất Bảng : Nợ quá hạn theo loại cho vay hộ sản xuất ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ quá hạn 137 100 282 100 391 100 NQH Ngắn hạn 30 21,9 31 10,9 45 11,5 NQH Trung-dài hạn 107 78,1 251 89,1 346 88,5 Nguồn: Báo cáo tổng kết 2004-2006, chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn Trong năm 2004 tổng dư nợ quá hạn là 137 triệu đồng nhưng sang năm 2005 đã tăng lên 282 triệu đồng, năm 2006 là 391 triệu đồng. Trong đó nợ quá hạn ngắn hạn có tăng nhưng tỷ lệ tăng rất ít điều này chứng tỏ chất lượng tín dụng đối với cho vay ngắn hạn đã được nâng lên, bên cạnh đó nợ quá hạn trong cho vay trung và dài hạn lai có xu hướng tăng lên qua các năm. Nguyên nhân là do các khách hàng vay vốn trung và dài hạn chủ yếu là hộ sản xuất mà vốn vay chủ yếu nhăm thực hiện các dự án sản xuất nông nghiệp như : Cây, con giống, xây dựng chuồng trại, cải tạo ao hồ, mua máy móc nông nghiệp … mà không phải các dự án sản xuất này bao giờ cũng thành công, suôn sẻ mà thường gặp khó khăn, vướng mắc bởi cả các nguyên nhân chủ quan và khách quan. 2.1.2 Nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất theo thời gian Cách phân loại nợ quá hạn theo thời gian giúp cho ngân hàng tính toán được khả nang thất thoát vốn (nợ khó đòi) trên cơ sở lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng đồng thời hỗ trợ công chỉ đạo tác điều hành trong ngân hàng. Bảng : Nợ quá hạn hộ sản xuất theo thời gian Năm Dư nợ QH NQH đến 180 ngày NQH từ 181-360 ngày NQH trên 360 ngày 2004 137 129 5 3 2005 282 216 7 59 2006 391 372 14 5 Nguồn: Báo cáo tổng kết 2004-2006, chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn Theo qui định trích lập quỹ phòng tránh rủi ro: Tỷ lệ trích dự phòng nợ quá hạn 360 ngày chiếm tỷ lệ nhỏ, có thể coi đây là dấu hiệu đáng mừng bởi những khoản nợ này được xem như là những khoản nợ không có khả năng thu hồi, năm 2004 nợ quá hạn loại này chỉ là 3 triệu đồng nhưng đã tăng đột biến lên 59 triệu đồng vào năm 2005 nhưng sang năm 2006 đã giảm đi đáng kể chỉ còn 5 triệu đông điều này thể hiện sự nỗ lực cố găng của ngân hàng trong việc quản lý và thu hồi các khoản nợ khó đòi. Nợ quá hạn theo thời gian chiếm tỷ lệ cao nhất là loai nợ quá hạn < 180 ngày tuy nhiên tỷ lệ nợ quá hạn tư 181 đến 360 ngày lại chiêm tỷ lệ thấp điều này chứng tỏ ngân hàng đã có các biện pháp thu hồi nợ khó đòi rất có hiệu quả, mặt khác cũng thể hiện sự cố gắng của người dân trong việc hoàn trả nợ cho ngân hàng trong thời gian sớm nhất. 2.1.3.Nợ quá hạn theo nguyên nhân - Về nguyên nhân khách quan: Tổn thất do thiên tai bất khả kháng chiếm tỷ trọng cao gần như 100% tổng số nợ quá hạn. do sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường như thời tiết không thuận lợi, sâu bệnh ở cây trồng, các loại dịch bệnh ở vật nuôi…mặt khác hộ sản xuất lại bị tác động bởi giá cả thị trường biến động, các chính sách của Nhà nước, địa phương… Tất cả những điêu này đều gây ảnh hưởng xấu và làm giảm thu nhập của hộ sản xuất và giảm khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. - Về nguyên nhân chủ quan: Đó là các nguyên nhân từ phía ngân hàng và hộ sản xuất. Nguyên nhân từ phía ngân hàng chủ yếu là do cán bộ tín dụng làm sai qui trình cho vay, có sự buông lỏng kiểm tra món vay, xử lý gia hạn nợ không kịp thời, định kỳ hạn nợ cho khách hàng không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh danh của khách hàng, việc phân tích nợ chưa được tiến hành thường xuyên, đúng quy cách nên phát sinh nợ quá hạn là tất yếu tuy nhiên tỷ lệ nợ quá hạn do nguyên nhân này tại chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn là rất thấp. Một nguyên nhân khác đến từ phía khách hàng (hộ sản xuất) là việc sử dụng vốn kém hiệu quả, sử dụng vốn sai mục đích vay… dẫn đến nguồn vốn tín dụng của ngân hàng bị thất thoát đồng thơi bản thân hộ sản xuất bị giảm hoặc không có khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. 2.2 Chất lượng tín dụng hộ sản xuất qua chỉ tiêu: Vòng quay vốn tín dụng ĐVT: Triệu đồng Năm Doanh số cho vay Doanh số thu Dư nợ Vòng quay VTD 2004 24.533 17.437 34.544 0,5 vòng 2005 31.380 23.583 46.511 0,51 vòng 2006 44.008 31.702 58.725 0,54 vòng Nguồn: Báo cáo tổng kết 2004-2006, chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn Vòng quay tín dụng hộ sản xuất tương đối tốt, tăng đều qua các năm cho thấy khả năng thu hhồi nợ đến hạn tốt, vốn tín dụng đảm bảo có hiệu quả và như vậy chất lượng tín dụng của ngân hàng tương đối tốt. III. Đánh Giá Về Chất Lượng Tín Dụng Hộ Sản Xuất Tại NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn. 1.Những kết quả đạt được. Qua phân tích ở trên chúng ta nhân thấy công tác cho vay tại chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn chủ yếu là cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất. Dư nợ hộ sản xuất chiếm tơi 94,4%/ tổng dư nợ. Số lượt hộ vay vốn luôn có xu hương tăng. Doanh số cho vay, dư nợ luôn tăng vơi tỷ lệ cao, tỷ lệ nợ quá hạn luôn ở mức cho phép, chất lượng tín dụng ngày càng được nâng ccao và tương đối ổn định. Tại chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn từ khi có quyết định 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/03/1999 làm cho nông thôn của huyện khởi sắc qua việc hỗ trợ vốn cho người dân đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và việc khoán doanh số cho vay, số hộ vay, tỷ lệ nợ quá hạn cho từng cán bộ tín dụng đã đem lai hiệu quả cao Qua thời gian hoạt động của mình chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn không những đã giữ được những khách hàng truyền thống mà còn thu hút được nhiều khách hàng mới tạo điều kiện cho việc tăng quy mô tín dụng, mở rộng phạm vi, đối tượng đầu tư Nông dân đã đạt được những thắng lợi lớn trong sản xuất khi được ngân hàng khi đầu tư cho vay đã bám sát vào chương trình kinh tế của địa phương, xem xét từng địa bàn để thấy được thế mạnh của từng xã, phù hợp với điều kiện tự nhiên và tập quán ở đó Nhớ có vốn của ngân hàng mà nông dân có điều kiện mở mang diện tích cây trồng, mua giống, phân bón, có điều kiện đầu tư áp dụng kỹ thuật vào sản xuất nhờ thế mà năng suất cây trồng vật nuôi được nâng cao từ đó làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân Ngân hàng cũng tập trung vốn cho các hộ vay để trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc. Việc cho nông dân vay vốn trồng rừng đã mở ra và thôi thúc nông dân làm kinh tế rừng, kinh tế trang trại, tạo đà cho phát triển toàn diện kinh tế nông thôn Đa dạng hoá các hình thức cho vay nhưng vẫn luôn đảm bảo chất lượng tín dụng, ngân hàng còn phối hợp với các tổ chức đoàn thể xã hội nhất là hội phụ nữ, hội nông dân, khuyến nông giúp cho nguời dân biết sử dụng đồng vốn của ngân hàng có hiệu quả, đúng mục đích vay vốn Đạt được những kết quả như trên là do sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của tập thể cán bộ công nhân viên chức của NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn nói chung và những cán bộ làm công tác tín dụng nói riêng 2. Những mặt còn tồn tại và nguyên nhân của tồn tại 2.1 Những mặt còn tồn tại - Doanh số cho vay tuy có tăng nhưng vẫn ở mức thấp do phần lớn hộ nông dân vẫn còn ở tình trạng sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, đa số chưa quyen vơi nền kinh tế thị trường, vẫn còn tồn tại kiểu sản xuất tự cấp tự túc, trình độ hạch toán, trình độ hiểu biết về tín dụng ngan hàng còn hạn chế nên ngại tiếp cận với vốn vay ngân hàng, sợ làm ăn thua lỗ không trả được nợ - Nợ quá hạn tuy ở mức thấp nhưng vẫn liên tục tăng qua các năm do người dân làm ăn thua lỗ, sử dụng vốn không hiệu quả, sai mục đích hoặc do dịch bệnh, thiên tai, mất mùa … thường xuyên xảy ra - Nông dân miền núi chưa có thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định mà họ làm ra. Điều này làm cho các hộ nông dân không dám mở rộng qui mô sản xuất mặc dù còn nhiều tiềm năng để phát triển - Do hộ nông dân không những thiếu vốn để sản xuất mà còn thiếu hiẻu biết về khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý…trong khi năng lực của các cán bộ của ngân hàng chư thể đáp ứng được nhu cầu của họ. Một bộ phận cán bộ làm nghiệp vụ cho vay vốn còn ít hiểu biết về nông nghiệp nông thôn, về cây con, kiến thức mùa vụ… nên việc xác định mưc vốn vay, định kỳ hạn nợ, tính hiệu quả kinh tế, mức sinh lời của dự án vay vốn còn thiếu cơ sở khoa học, thiếu thực tế, việc kiểm tra trước và sau khi cho vay chưa thường xuyên nên hiệu quả vốn vay còn thấp. - Địa bàn hoạt đọng của NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn rộng, dân cư rải rác, chủ yếu là nông dân làm ăn nhỏ, suất đầu tư thấp, thời hạn cho vay dài. Một cán bộ quản lý nhiều khách hàng nên có hiện tượng quá tải nhưng lại chưa có chính sách thoả đáng đảm bảo quyền lợi cho họ nhất là các cán bộ tín dụng phụ trách các xã vùng sâu vùng xa. Bên cạnh đó giữa ngân hàng và các tổ chức đoàn thể xã hội tuy đã có sự hợp tác nhưng sự phối kết hợp chưa thực sự chặt chẽ với nhau để quản lý, chuyển tải vốn và hướng dẫn các hộ sử dụng vốn vay nhằm mở rộng nâng cao chất lượng tín dụng. - Ngoài những kết quả đã đạt được thì những tồn tại trên đây cộng với khí hậu, thời tiết khắc nhiệt, thiên tai, dịch bệnh… đã gây cản trở tới việc mở rộng khả năng tiếp cận vốn ngân hàng đến người sản xuất, hạn chế phát huy sử dụng vốn hiệu quả ở khu vưc kinh tế nông thôn. Vấn đề này đòi hỏi cần có một hệ thống chính sách điều chỉnh đồng bộ từ trung ương đến địa phương, đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ và tốt hơn nữa giữa ngân hàng và các tổ chức đoàn thể xã hội để đưa ra những cách thức giải quyết tốt nhất nhằm cho việc đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng. 2.2. Nguyên nhân của tồn tại. - Nguyên nhân khách quan: + Môi trường kinh doanh chưa ổn định: Nền kinh tế việt nam chuyển sang nền kinh tế thị trường mới được một thời gian ngắn nhiều hộ nông dân không bắt kịp những thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô cũng như đòi hỏi ngày càng cao và luôn thay đổi của thị trường về chất lượng, giá cả, chủng loại sản phẩm hàng hoá. Mặt khác sự hỗ trợ của Nhà nước về vốn, công nghệ, cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn còn thấp kém, mạng lưới cung cấp nguyên liệu dầu vào, thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa phát triển đã ảnh hưởng nhiều đến sản xuất của các hộ sản xuất và vì thế các khoản cho vay của ngân hàng sẽ có rủi ro cao, khó thu hồi theo đúng hạn. + Tổn thất do thiên tai bất khả kháng như thời tiết không thuận lợi, sau bệnh ở cây trồng, các dịch bệnh ở vật nuôi làm ảnh ảnh hưởng xấu đến thu nhập của hộ sản xuất làm giảm khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng dẫn đến nợ quá hạn. + Ngoài ra việc khách hàng kinh doanh thua lỗ cũng là nguyên nhân gay nên nợ quá hạn. Điều này xuất phát từ năng lực sản xuất kinh doanh của nhiều hộ còn yếu kém, thiếu thông tin về thị trường nhất là thông tin về giá cả hàng hóa. Tình trạng ép giá lúc nông sản thu hoạch vẫn thường xuyên xảy ra làm giảm thu nhập của người lao động. Nhiều hộ do không tính toán được nhu cầu thị trường nên đầu tư lớn cho sản xuất nhưng đến khi bán sản phẩm lại vượt quá nhu cầu thị trường nên dãn đến thua lỗ, không trả được nợ ngân hàng. Đây là một nguyên nhân khách quan nhưng cũng có nhiều trường hợp do việc xác định kỳ hạn nợ không hợp lý nên dù chưa có sản phẩm để bán mà khách hàng đã đến hạn phải trả lãi do đó khách hàng phải dùng vốn lưu động hay đi vay nóng với lãi xuất cao để trả nợ cho ngân hàng. Kết quả là gây khó khăn cho hoạt động sản xuất và có thể dẫn đén thua lỗ. + Khách hàng dùng sai mục đích số tiền vay hay còn gọi là “rủi ro đạo đức”. Do tâm lý muốn giàu nhanh chóng nên một số khách hàng đã dùng tiền vay ngân hàng để kiếm lợi bất hợp pháp như đánh đề, cờ bạc, chơi họ, hay buôn lậu … Do số lượng khách hàng quá đông mà số lượng cán bộ tín dụng lại quá nhỏ dẫn dến việc kiểm tra sau khi cho vay lơi lỏng, không kỹ càng tạo điều kiện cho khách hàng có những hành vi sử dụng vốn sai mục đích ban đầu khi đi vay. + Một nguyên nhân khchs quan khác là hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn trong lĩnh vực nông nghiệp với khách hàng chủ yếu là hộ sản xuất nông nghiệp với qui mô nhỏ, sản xuất manh mún, hoạt động sản xuất lại phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, trình độ quản lý không có hay yếu kém, khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật sản xuất tiên tiến còn nhiều hạn chế… Tất cả những điều này đều ảnh hưởng không tốt tới kết quả sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất, làm giảm khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nguyên nhân chủ quan : + Xuất phát từ đặc thù của sản xuất nông nghiệp, các món vay nhỏ lẻ, số lượng các món vay lớn mà chi phí cho vay nhiều gồm chi phí tìm kiếm và quản lý các khoản vay, chi phí điều tra tín dụng, lưu trữ bảo quản hồ sơ tín dụng, quản lý tài sản thế chấp, cầm cố và chi phí thu nợ. Bởi vậychi phí cho từng món vay cao, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. + Do phương thức cho vay còn nghèo nàn, chủ yếu là cho vay theo món, phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng có áp dụng song còn rất ít. Bên cạnh đó, hình thức cho vay thực tế áp dụng tai ngân hàng cũng rất hạn chế, chủ yếu là hình thức bán lẻ, cho vay trực tiếp. Hình thức cho vay thông qua tổ vay vốn đã được quan tâm phát triển xong dư nợ cho vay theo hình thức này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ cho vay hộ, cá thể của ngân hàng (chiếm khoảng trên 25%) + Việc áp dụng các hình thức cho vay qua tổ vay vốn khó phổ biến do các tổ trưởng có trình độ không cao nên dẫn đến hay làm sai qui chế mặc dù ngân hàng tổ chức nhiều lớp tập huấn hướng dẫn họ tốn kém nhiều chi phí. + Đã có sự quá tải công việc đối với cán bộ tín dụng dẫn đến cán bộ tín dụng nhiều khi đã kiểm tra hồ sơ thiếu chặt chẽ, sơ sài, thiếu kiểm tra thực tế nhưng có lúc lại quá thận trọng dẫn đến mất nhiều cơ hội kinh doanh có lợi cho ngân hàng. Mặt khác cơ chế giải ngân. Thu nợ trực tiếp cũng là nguyên nhân gây quá tải đối với cán bộ tín dụng. + Công tác kiểm tra kiểm sát chưa phát huy hết vai trò, chưa thường xuyên, chưa sâu sát và nghiêm túc cả về nội dung và phương pháp. + Trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng nhất là đội ngũ cán bộ tín dụng chưa đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của kinh doanh ngân hàng. Cán bộ tín dụng nhiều khi sử dụng kinh nghiệm truyền thông hơn là dựa trên những kỹ thuật phân tích tài chính và thẩm định dự án cho vay để có cơ sở đư ra quyết định cho vay chính xác, đúng đắn. + Do cán bộ tín dụng thực hiện quy trình, nghiệp vụ cho vay còn có nhiều sai sót, điều tra ban đầu chưa sát với thực tế dẫn đến cho vay không đúng nhu cầu, định kỳ hạn nợ tuỳ tiện gây khó khăn cho sản xuất hoặc trả nợ ngân hàng của khách hàng, sự hiểu biết về kiến thức và kỹ thuật canh tác nông nghiệp còn nhiều hạn chế. Tóm lại: Chất lượng tín dụng là kết quả tổng hoà của nhiều nhân tố trong đó nợ quá hạn là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và cụ thể nhất. Tuy vẫn còn một số tồn tại nhưng NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn vẫn đảm bảo kinh doanh có lãi, vẫn đứng vững và khẳng định vai trò to lớn của mình trong sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương đặc biệt là nâng cao đời sống của các hộ dân, góp phần thực hiện các chính sách tiền tệ, đẩy lùi lạm phát, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy vậy những vấn đề còn tồn tại vẫn cần được xem xét nghiêm túc để có những biện pháp giải quyết hữu hiệu nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng hộ sản xuất nói riêng. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI NHNo&PTNT HUYỆN VĂN BÀN I. Định Hướng Về Hoạt Động Tín Dụng Đối Với Hộ Sản Xuất Của NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn Đến Năm 2010. - Thứ nhất: Bám sát mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương,chủ động kịp thời nắm bắt nhu cầu đầu tư,dự án đầu tư, đối tượng đầu tư ở từng vùng,từng xã để thực hiện đầu tư có trọng tâm, có trọng điểm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Phấn đấu tốc đọ tăng trưởng nguồn vốn hàng năm từ 22-25%, tốc độ tăng trưởng dư nợ từ 20 – 22% trong đó dư nợ hộ sản xuất tăng từ 22 – 25%, tỷ trọng dư nợ cho vay trung dài hạn từ 50-60%. - Thứ hai: Gắn tín dung với đầu tư phát triển nông thôn qua quá trình liên kết các thành phần kinh tế, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật chuyển đổi cơ câu cây trồng, vật nuôi, khép kín đầu tư từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu. Cụ thể là: + Tập trung vốn tín dụng cho sản xuất, mua giống lúa mới có năng xuất và chất lượng cao, xây dựng các công trình thuỷ lợi nội đồng, mua phân bón, hoá chất, thiết bị công tác. + Tiếp tục cho vay phát triển chăn nuôi theo chương trình dự án nhằm nâng cao năng xuất và chất lượng sản phẩm. + Nghiên cứu đầu tư phát triển mô hình kinh tế trang trại nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, lao động, đất đai. - Thứ ba: Giảm thấp nợ quá hạn theo phương châm “ an toàn để phát triển, phát triển phải an toàn ”. Mục tiêu là tỷ lệ nợ quá hạn hàng năm là dưới 0,5%. II. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn Với mục đích góp thêm một số hiểu biết về đảm bảo an toàn vốn, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam nối chung và NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn nói riêng. Trong phần này tôi xin đề cập và đua ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng và tăng cường bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng của NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn trong cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta. Hoàn thiện chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng vô cùng quan trọng trong thực tiễn hoạt động tín dụng của ngân hàng. Chính sách tín dụng quy định mục tiêu hành vi ứng sử của ngân hàng trên thị trường, quy định các công cụ sử dụng khi thực hiện hoạt động tín dụng. Chính sách tín dụng bao gồm chiến luợc kinh doanh của ngân hàng: Mục tiêu, nguyên tắc, quy trình thể lệ, chế độ. Kết quả cuối cùng của việc hoạch định chính sách lả phát triển một chiến lược để sử dụng các nguồn lực của ngân hàng trong phạm vi môi trường hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu trong kinh doanh. Chiến lược kinh doanh cần phải thực sự có sức sống, phải thể hiện tính khả thi, khoa học, sát với thực tế. Chính vì vậy việc mở rộng đối tượng cho vay đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng cần chú ý đến một số vấn đề sau: + Một là: Phải căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế của từng vùng, từng khu vực để từ đó xác định nhóm khách hàng mục tiêu. Đây chính là chủ thể kinh tế để thực hiện các mục tiêu đã đề ra + Hai là: Phân loại khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng để có kế hoạch tiếp cận thị trường và khách hàng một cách thích hợp nhằm tăng cường mở rộng tín dụng hơn nữa. Đối với khách hàng đến giao dịch lần đầu ngân hàng phải có những thông tin cụ thể, chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh của họ để tránh tình trạng lựa chọn sai lầm do thông tin thiếu chính xác. Ngoài những hồ sơ cần thiết mà khách hàng mang đến ngân hàng thì ngân hàng cần phài tìm hiểu kỹ hơn từ những thông tin bên ngoài. Các quan hệ với khách hàng có thể vừa giúp ch ngân hàng huy động vốn từ họ vừa giảm được các chi phí tìm hiểu, đánh giá khách hàng. Đây cũng là một cách tốt để thu nhập thông tin đầy đủ, tin cậy và là cơ sở để ngân hàng tiết kiêm chi phí cho việc thẩm định, giám sát khách hàng, kế hoạch hoá được nguồn vốn của mình nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu của khách hàng với mức lãi suất phù hợp hơn nhờ đó mà ngân hàng vừa mở rộng lại vừa nâng cao được chất lượng tín dụng. Các chính sách cho vay cụ thể: 1.1. Đẩy mạnh cho vay hộ sản xuất qua tổ nhóm tương trợ Tổ tương trợ là mô hình cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập dưới sự chỉ đạo của chính quyền xã hay các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội được UBND xã công nhận và cho phép hoạt động. Hoạt động của tổ tương trợ là nhằm giúp đỡ nhau giữa các thành viên và giải quyết tốt các vấn đề sau: - Tổ là nơi sản xuất và đánh giá nhu cầu vay vốn của hộ sản xuât bảo đảm công khai, chuẩn xác, kịp thời nhờ đó ngân hàng giải ngân nhanh mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng - Việc hình thành tổ tín chấp vay vốn có quy ước riêng và là điều kiện cần thiết để thực hiện vai trò kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc sử dụng vốn vay, trả nợ đúng hạn của hộ vay vốn - Tổ cũng là nơi để các hộ sản xuất tương trợ nhau không những về nhu cầu tín dụng mà còn về kiến thức, kỹ thuật sản xuất, về nguyên vật liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra - Cho vay qua tổ tín chấp sẽ khắc phục được khó khăn về tài sản thế chấp của hộ xin vay mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng bởi lý do tài sản thế chấp gần như không có khả năng phát mại do tập quán của người Việt Nam không muốn mua lại các tài sản này. Hình thức chuyển tải vốn tín dụng tới hộ sản xuất thông qua tổ tín chấp đem lại lợi ích cho cả hai phía là hộ vay vốn và ngân hàng: Đối với hộ gia đình thì họ có khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng mà không mất nhiều chi phí giao dịch, đi lại. Điều này có ý nghĩa quan trọng vì hiện nay đa phần số tiền vay của các hộ còn nhỏ lẻ nên người dân dễ nảy sinh tâm lý ngại đi vay ngân hàng mà sẽ đi vay mượn những người xung quanh gây nên tình trạng đi vay nặng lãi không có hiệu quả kinh tế xã hội. Văn Bàn là một huyện miền núi dân cư còn thưa thớt, sống rải rác cho nên mô hình cho vay theo tổ nhóm là rất phù hợp và bước đầu đã có những kết quả nhất định. 1.2. Thực hiện cho vay không phải thế chấp. Theo qui định hiện nay thì những hộ vay vốn sản xuất kinh doanh dưới 10 triệu đồng thì không phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Qui định này tạo điều kiện cho nhiều hộ sản xuất nhỏ, thu nhập thấp tiếp cận với vốn tín dụng ngân hàng nhưng mặt khác cũng làm phát sinh nguy cơ nhiều món vay nhỏ bị mất an toàn. Do đó trên thực tế ngân hàngvẫn yêu cầu khách hàng phải kê khai tài sản thế chấp, để giải quyết mâu thuẫn này ngân hàng cần thực hiện giải pháp sau: - Ngân hàng nên bỏ thông lệ yêu cầu người vay kê khai tài sản và coi tài sản kê khai là tài sản thế chấp. Danh sách tài sản nên chỉ được sử dụng là thông tin cần thiết cho cán bộ tín dụng và chỉ được sử dụng trong quá trình thẩm định món vay đồng thời khẳng định tính nghiêm túc của mục đích vay vốn. - Để giải quyết vấn đề về tài sản thế chấpcủa người xin vay vốn mà không bỏ lỡ cơ hội thiết lập quan hệ tín dụng với các hộ có tiềm năng, các cán bộ tín dụng có thể tham khảo phương pháp cho điểm tín dụng. Phương pháp này nhằm xác định rủi ro tín dụng theo những khía cạnh đánh giá khác nhau - Ngoài các biện pháp trên, ngân hàng còn phải áp dụng các biện pháp tổ chức và kiểm soát quá trình giải ngân để đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích như thoả thuận trong hợp đồng tín dụng . 2. Tăng cường huy động vốn và tiếp tục mở rộng các hình thức cho vay hộ sản xuất. 2.1. Tăng cường công tác huy động vốn. Để mở rộng kinh doanh đối với mọi thành phần kinh tế nói chung và kinh tế hộ sản xuất nói riêng thì vốn là yếu tố quyết định. Việc tăng trưởng nguồn vốn là rất cần thiết và quan trọng đối với ngân hàng, do đó trong thời gian tớiangan hàng cần thực hiện: Tăng cường công tác huy động vốn để cho vay, tổ chức ngân hàng liên xã ở những khu vực kinh tế kém phát triển, tổ chức huy động nguồn vốn có lãi suất thấp từ các tổ chức tài chính trong và ngoài địa bàn huyện. Thực hiện tốt việc mở tài khoản tiền gửi cho các tổ chức kinh tế xã hội và mở tài khoản tiền gửi cá nhân, tăng cường trang thiết bị và cải tiến công tác thanh toán tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân thanh toán qua ngân hàng được thuận tiện. Hàng tháng ngân hàng phải xây dựng chỉ tiêu huy động vốn đến từng cán bộ chi nhánh. Để đạt mục tiêu tăng trưởng cao, tạo ra nhiều công ăn việc làm và giảm đói nghèo trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương thì cần phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn, trong đó vốn vay ngân hàng đóng vai trò quan trọng. Để duy trì tốc độ huy động vốn ngân hàng sẽ mở rộng các hình thức như cho vay, nâng cao chất lượng huy động vốn, gắn huy động vốn với phát triển công nghệ và tăng tiện ích cho người gửi tiền. 2.2. Tiếp tục mở rộng các hình thức cho vay hộ sản xuất. Ngân hàng cần tiếp tục quan tâm mở rộng các hình thức vay vốn ch phù hợp với địa bàn. Quy luật mùa vụ luôn là nhân tố quyết định hiệu quả cảu việc sử dụng vốn đối với người nông dân. Chính vì vậy cần xác định thời hạn cho vay linh hoạt, thủ tục vay ngắn gọn. Cán bộ tín dụng ngân hàng cần nắm bắt được chu kỳ của quá trình từ khi chuẩn bị sản xuất đến khi thu hoạch và đa dạng hoá các hình thức cho vay. Hiện tại NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn chỉ có hình thức cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất tức là tín dụng song phương chỉ có NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn và hộ sản xuất tham gia. Do đó NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn cần mở rộng thêm các hình thức cho vay trực tiếp đa phương tức là có sự tham gia của ba bên ngoai ngân hàng và hộ sản xuất còn có những tổ chức có trách nhiệm cung ứng vật tư hàng hoá thuộc đối tượng vay. Hoạt động cho vay hộ sản xuất tạo ra thu nhập hàng đầu của ngân hàng. Sự tồn tại và phát triển của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng cơ cấu vốn đầu tư và được dảm bảo khi có sự lựa chọn khách hàng cẩn thận, kỹ càng. Tất cả những điều này nằm trong chính sách cho vay hay kế hoạch chiến lược các hoạt động cho vay của ngân hàng bao gồm: - Xác định thị trường: Là đề ra phương hướng cho vay của ngân hàng bao gồm việc lựa chọn các nghành, các hoạt động kinh tế có hiệu quả, hạn chế cho vay các nghành hoạt động kém hiệu quả - Xác định phương hướng chung phân bổ các khoản cho vay thuộc các nhóm nghành. Điều này giúp ngân hàng phân bổ một cách cân đối cơ cấu đầu tư nhằm đạt được sự tăng trưởng bền vững trong nghành được tài trợ trong khi vẫn cho phép đa dạng hoá hoạt động, phân tán rủi ro cho vay Việc lập kế hoạch cho vay chính xác và khoa học sẽ hướng dẫn các cán bộ tín dụng tập trung nỗ lực vào đối tượng khách hàng chính một cách hiệu quả hơn. Đa dạng hoá các loại hình cho vay, phương thức cho vay bằng cách mạnh dạn áp dụng các phương thức cho vay mới khi có điều kiện. Hiện nay NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn chủ yếu cho vay theo phương thức từng lần. Phương thức này chỉ thích hợp với hộ vay vốn không thường xuyên sản xuất theo mùa vụ, chu chuyển vốn chậm. Thủ tục vay vốn còn chậm, phức tạp cần nhiều giấy tờ gây khó khăn cho khách hàng. Đối với những khách hàng có vòng quay vốn thường xuyên và quá trình vay trả sòng phẳng, có tín nhiệm trong quan hệ giao dịch thì ngân hàng có thể cho vay theo hạn mức tín dụng. Phương thức này cho phép khách hàng có thể duy trì một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất định theo chu kỳ của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong phạm vi hạn mức tín dụng và thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, mỗi lần vay tiền khách hàng chỉ phải lập giấy nhận nợ tiền vay kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng do đó tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí quản lý hồ sơ của ngân hàng. 3. Đổi mới công tác tổ chức đào tạo cán bộ Con người là nhân tố quan trọng quyết định đến sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế xã hội và lĩnh vực ngân hàng cũng không phải là ngoại lệ. Nghi quyết trung ương VI đã đặt trọng tâm vào sự nghiệp giáo dục đào tạo để có được đội ngũ con người đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngoài hoạt động kinh doanh ngân hàng phải thường xuyên đào tạo, hướng dẫn, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho cán bộ tín dụng như thể lệ, chế độ của ngành,liên ngành và các văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động tín dụng, đường lối phát triển kinh tế của địa phương. Đặc biệt ngân hàng nên trú trọng đào tạo, tập huấn các phương pháp thẩm định dự án trung và dài hạn. Các hoạt động tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ phải luôn gắn với thực tiễn hoạt động kinh doanh trên địa bàn huyện. Tổ chức thường xuyên các cuộc họp rút kinh nghiệm cũng như trao đổi kinh nghiệm giữa các cán bộ tín dụng với nhau. 4. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng và áp dụng các biện pháp phân tích tài chính kỹ thuật trong quy trình tín dụng. 4.1. Nâng cao chất lượng thẩm định. Thẩm định tín dụng là việc xác định khả năng hay ý muốn của người vay trong việc hoàn trả tiền vay. Có nhiều yếu tố mà các ngân hàng cần phải xem xét khả năng trả tiền vay phù hợp với các khoản trong hợp đồng tín dụng. Trong đó đặc biệt chú ý đến 5 nhân tố quan trọng: Năng lực sản xuất và quản lý sản xuất. Uy tín trong quan hệ với các bạn hàng. Khả năng về vốn. Giá trị đảm bảo. Điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu như khâu thẩm định được thực hiện tốt thì ngân hàng có cơ sở để đưa ra được những quyết định đúng đắn. Ngoài ra ngân hàng cần phải thu thập thông tin về tính ổn định của nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm của khách hàng. Thu thập các thông tin về uy tín của khách hàng trong các lần vay trước nếu có để từ đó có thể đua ra đánh giá một cách chính xác và khách quan về khách hàng vay. Bên cạnh đó ngân hàng cần thu thập thêm các thông tin từ bên ngoài để đưa ra quyết định cho vay. 4.2. Áp dụng các biện phápphân tích tài chính kỹ thuật trong qui trình tín dụng. Ngân hàng phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh của hộ xin vay vốn, thực hiện nghiêm túc quá trình thẩm định trước khi ra quyết định cho vay. Ngân hàng yêu cầu cán bộ tín dụng sử dụng các phương pháp phân tích về tài chính cũng như về kỹ thuật để thẩm định dự án. Cán bộ tín dụng phải thẩm định được khả năng sinh lời của dự án để từ đó ra quyết định cho vay hay không cho vay. Đối với những món vay nhỏ cần áp dụng thủ tục riêng để thẩm định làm cho hoạt động phân tích trở nên đơn giản hơn. Ngân hàng cần cải tiến thủ tục thẩm định món vay trung và dài hạn. Ngoài ra ngân hàng cần soạn thảo các mô hình tài chính cho quá trình sản xuất, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng trọt… để giúp cho cán bộ tín dụng thẩm định món vay cả về phương diện kỹ thuật và tài chính. Để làm được điều này ngân hàng cần triển khai các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về các vấn đề này nhằm nâng cao khả năng cũng như trình độ thẩm định dự án của cán bộ tín dụng. Khi quyết định thời hạn cho vay và định kỳ hạn nợ, ngân hàng yêu cầu cán bộ tín dụng phải sử dụng phương pháp phân tích dòng lưu chuyển tiền tệ và gắn với chu kỳ sản xuất kinh doanh hơn là kinh nghiệm truyền thống đồng thời ngân hàng phải trợ giúp cán bộ tín dụng kiến thức về vấn đề này thông qua các khoá đào tạo. 5. Tăng cường biện pháp quản lý tín dụng. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng thì nhất thiết từ nhà quản lý đến cán bộ tín dụng đều phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các thể lệ, chế độ, quy trình tín dụng. Phải thực hiện các giải pháp đồng bộ như quy trình cho vay, sử dụng tốt các biện pháp hạn chế, đảm bảo tiền vay, các biện pháp cơ chế phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh tín dụng, tăng cường các biện pháp kiểm tra và các giải pháp xử lý, khai thác nợ quá hạn. Kiểm tra trong khi vay. Đây là một khâu quan trọng nhằm phát hiện và xử lý vấn đề ngay trong khi sử dụng tiền vay, nó đánh giá tình hình sử dụng vốn, tiến độ thực hiện dự án của khách hàng. Nếu ngân hàng phát hiện thấy dự án sản xuất kinh doanh của khách hàng có vấn đề, không chắc chắn mà tiếp tục đầu tư vốn có thể sẽ gặp rủi ro thì cần ngay lập tức có biện pháp xử lý kịp thời: Huỷ bỏ hợp đồng vay vốn của khách hàng. Kiểm tra sau khi vay: Đây là công việc không thể thiếu để xem xét tình hình sử dụng vốn, hiệu quả của dự án, tiến độ thực hiện trả nợ của khách hàng. Đặc biệt, cán bộ tín dụng phải xem xét kỹ giá trị bảo đảm tiền vay từ đó để có biện pháp xử lý kịp thời, đồng thời phải kết hợp kiểm tra đột xuất các hộ sản xuất vay vốn của ngân hàng. Các cán bộ tín dụng cũng phải thường xuyên nhắc nhở khách hàng có ý thức, trách nhiệm trong sử dụng vốn và trả nợ ngân hàng. 6. Không ngừng đổi mới khoa học công nghệ. Để đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng tăng lên, số lượng người vay ngày càng nhiều thì trong thời gian tới ngân hàng cần được trang bị thêm hệ thống máy móc, thiết bị hiện dại, hệ thống mạng quốc tế đảm bảo thông tin thị trưòng thông suốt, luôn cập nhật,gắn với thị trường quốc tế để xử lý thông tin về tỷ giá, rủi ro tín dụng. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nước ta mới gia nhập WTO và ngân hàng là lĩnh vực được quan tâm và có sức hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư nước ngoài. 7. Các giải pháp đối với nợ quá hạn. Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu đồng thời đây cũng là hoạt động tiền ẩn nhiều rủi ro nhất của ngân hàng, trong hoạt động tín dụng thì nợ quá hạn được coi là vấn đề khó tránh khỏi và đay cũng là vấn đề tiềm ẩn rủi ro cao nhất. Chính vì vậy muốn hoạt động tín dụng của ngân hàng có hiệu quả, đảm bảo sự tồn tại và phát triển, không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng thì ngân hàng phải tích cự tìm mọi biện pháp xử lý nợ quá hạn. Để xử lý nợ quá hạn có hiệu quả thì trước hết ngân hàng phải làm rõ nguyên nhân của nợ quá hạn, ngân hàng phải liên lạc với khách hàng để thảo luận về vấn đề nợ, kiểm tra tình hình tài chính, tình hình tà sản thế chấp, tinh thần trách nhiệm trả nợ tiền vay của khách hàng. Nếu các khoản vay sắp đến hạn trả mà mà khách hàng đưa ra yêu cầu gia hạn nợ, để biết được yeu cầu của khách hàng có chínhđáng hay không đòi hỏi ngân hàng phải kiểm tra cẩn thận nhất là các cán bộ tín dụng cho các hộ đó vay. Khi đó có thể đưa ra hướng giải quyết thích hợp nhất vừa có lợi cho ngân hàng vừa tạo điều kiên cho các hộ có kế hoạch trả nợ ngân hàng đúng hạn. Các giải pháp cụ thể: 7.1. Thực hiện công tác thu nợ có hiệu quả, ngăn ngừa nợ quá hạn tiềm ẩn và nợ quá hạn mới phát sinh. - Chất lượng tín dụng cao còn thể hiện qua công tác thu nợ có hiệu quả. Do đó ngân hàng cần xây dựng một hệ thống quản lý nợ và thu nợ để nhắc nhở những khoản nợ đến hạn của khách hàng cũng như đôn đốc họ trả nợ - Duy trì các hoạt động tổ chức phân tích tình hình dư nợ ở từng xã, từng cán bộ và từng khách hàng. Thông qua việc phân tích nhằm xác định món vay có vấn đề, nợ quá hạn theo các mức độ khác nhau để có biện pháp xử lý thu nợ kịp thời, ngăn chặn nợ quá hạn phát sinh 7.2. Ngân hàng chủ đông tìm các dự án và tư vấn cho khách hàng Một nguyên nhân dẫn đến khách hàng không có khả năng trả nợ là khách hàng không biết sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và tiêu thụ ở đâu. Vì vậy nhu cầu tư vấn của khách hàng rất lớn. Để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng cần thực hiền các giải pháp sau: - Ngân hàng chủ động phối hợp cùng các ngành khác tìm các dự án sản xuất, kinh doanh đưa đến cho khách hàng và trợ giúp vốn cho khách hàng. Ngân hàng giúp cho khách hàng lập dự án và tính toán khả năng sinh lời của dự án. - Ngân hàng phối hợp cới các cơ quan khoa học, kỹ thuật đẻ giúp tư vấn cho khách hàng về kỹ thuật sản xuất, về các hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh, về ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. - Ngân hàng tổ chức các lớp đào tạo cho cán bộ tín dụng vè KHKT liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, về pháp luật… để cán bộ tín dụng trực tiếp tư vấn cho khách hàng. - Ngân hàng tư vấn cho khác hàng về các vấn đề pháp lý liên quan đến các hợp đồng sản xuất, kinh doanh, hợp đồng thực hiện dự án khi có nhu cầu. - Nhân hàng chủ động phối hợp cùng các nghành khác tìm thị trường cung ứng và thị trường tiêu thụ sản phẩm cho khác hàng. Đồng thời Ngân hàng cũng thực hiện cho hộ sản xuất vay thông qua các Công ty cung ứng vật tư và tổ chức bao tiêu sản phẩm. Đây là hình thức cho vay gián tiếp đến hộ sản xuất của Ngân hàng với quy trình tín dụng có cơ cấu 3 bên: Ngân hàng, Công ty cung ứng vật tư hoặc đơn vị bao tiêu sản phẩm và hộ sản xuất. 7.3. Đưa ra các sản phẩm khuyến khích. Các sản phẩm này vừa khuyến khích hộ sản xuất vay vốn vừa khuyến khích hộ trả nợ đúng kỳ hạn. Khuyến khích hoàn vốn nhanh: Theo đặc tính này, Ngân hàng định ra một mức lãi xuất cao hơn mức lãi xuất vay thông thường. Nếu khách hàng trả lãi và gốc đúng kỳ hạn hoặc trước hạn thì vào ngày đáo hạn khách hàng đó sẽ được hưởng một phần số lãi mà họ đã thanh toán trong ngân hàng. Yếu tố này thúc đẩy họ thanh toán đúng hạn. Bên cạnh đó, đặc tính này tạo ra sự gặp gỡ thường xuyên giữa ngân hàng và khách hàng , sự giao dịch thường xuyên này giúp cho ngân hàng giám sát và đưa ra giải pháp giám sát nợ khó đòi có thể xảy ra hoặc hỗ trợ khách hàng trong sản xuất. Cho vay trả góp: Việc thu nợ gốc vào cuối kỳ hạn nợ đã không tạo cho khách hàng thói quen trả nợ đặc biệt là đối với những hộ thu nhập thấp. Vì vậy ngân hàng đưa ra phương thức cho vay trả góp, phương thức này cho phép khách hàng trả nợ gốc làm nhiều lần trong kỳ hạn vay. Số lần trả nợ gốc phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và các khoản thu nhập để trả nợ của khách hàng. Lãi suất linh hoạt: Ngân hàng định ra nhiều mức lãi suất khác nhau ứng với từng mức vay tiền cụ thể, từng loại hình sản xuất kinh doanh cụ thể để khuyến khích khách hàng vay vốn tập trung vào những mục tiêu phát triển kinh tế cụ thể của đất nước và địa phương. Kết hợp tín dụng với tiết kiệm:Ngân hàng đưa ra sản phẩm tiết kiệm nhằm khuyến khích hộ sán xuất đặc biệt là hộ có thu nhập thấp gửi tiết kiệm và vay vốn hoàn trả đúng hạn, ứng với mỗi số tiền tiết kiệm khách hàng được vay một hạn mức tín dụng có ưu đãi hơn về lãi xuất, thời hạn. Sản phẩm này vừa giải quyết vấn đề về tài sản thế chấp, vừa là một bảo đảm để khách hàng trả tiền vay đúng hạn đồng thời lại góp phần giúp các hộ sản xuất tiết kiệm tiền nâng cao mức sống, mở rộng sản xuất kinh doanh. 7.4. Duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng vay vốn Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng vay vốn là mối quan hệ hai chiều chặt chẽ. Ngân hàng hộ trợ về vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng và ngược lại, khách hàng vay vốn đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Do đó chính sách đối với khách hàng vay vốn là trọng tâm trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng Tuỳ từng đối tượng hộ vay, ngân hàng có những chính sách thích hợp: Đối với khách hàng vay vốn lần đầu, nhân viên ngân hàng phải xoá bỏ tâm lý e ngại ban đầu thông qua việc chủ động giúp đỡ họ giải quyết những vướng mắc về thủ tục vay, cách thức giải ngân, thu lãi và nợ gốc. Tiến hành giải ngân nhanh chóng sau khi xét duyệt cho vay để tạo ra ấn tượng ban đầu tốt đẹp về hình ảnh của ngân hàng. Đối với khách hàng đã có quan hệ từ trước và có tín nhiệm, ngân hàng có thể ưu đãi về lãi xuất cho vay, giảm bớt các điều kiện vay vốn… Mặt khác nếu trong quá trình kinh doanh khách hàng gặp khó khăn chưa trả được nợ thì ngân hàng có thể gia hạn nợ hoặc diều chỉnh kỳ hạn nợ để họ yên tâm tiếp tục sản xuất kinh doanh. Các cán bộ ngân hàng cũng nên thăm hỏi, tặng quà nhân dịp lễ, tết đối vợi các khách hàng vay lớn có tín nhiệm cao để thắt chặt quan hệ. III. Các kiến nghị. 1. Kiến nghị với chính phủ. Chính phủ cần có chính sách ưu tiên đầu tư cho phát triển nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp và nông thôn phát triển. Bao gồm hệ thống các chính sách sau: - Khuyến khích sự cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính nông thôn qua đó nang cao chất lượng của dịch vụ này. Khi đó sẽ có nhiều chương trình tiết kiệm và tín dụng được chuyển đổi thành hợp tác xã tín dụng hơn khi mà các thủ tục đăng ký hoạt động được đơn giản hoá và mức vốn pháp định cần thiết được hạ thấp hơn nữa. - Nên áp dụng các biện pháp nhằm tăng cường, nâng cao chất lượng của công tác đào tạo đối với khu vực dịch vụ tài chính nông thôn. Các biện pháp đó có thể bao gồm việc phân bổ theo một tỷ lệ phần trăm tối thiểu đã được xác định trước trong tổng chi phí cho ngân sách đào tạo. Việc chia sẻ chi phí giữa chính phủ và các định chế tài chính sẽ đẩy nhanh quá trình thực hiện. - Chính sách trợ giá: + Trợ giá đầu vào: Chính phủ nên có chính sách trợ giá để khuyến khích nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật mới hoặc tài trợ cho các doanh nghiệp nhập khẩu vật tư, thiết bị, phân bón, thuốc trừ sâu để bán cho hộ nông dân với giá cả ổn định. + Trợ giá đầu ra: Sản phẩm nông nghiệp mang tính chất thời vụ nên việc tiêu thụ sản phẩm thường gặp khó khăn. Do đó nhà nước cần gia tăng quỹ bình ổn giá cả, bù đắp cho nông dân, bảo đảm không bị rớt giá gây thua lỗ. Hoặc nhà nước trợ giá cho các đơn vị thu mua sản phẩn của người nông dân khi kết thúc mùa vụ. - Chính sách bảo hiểm: Nhà nước đẩy mạnh các hoạt động bảo hiểm ở nông thôn như bảo hiểm mùa màng, bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm tàu thuyền đánh bắt thuỷ hải sản… - Chính sách tiêu thụ nông sản nhằm tạo thị trường tiêu thụ ổn định cho người nông dân, giúp cho người nông dân yên tâm sản xuất, tránh tình trạng đến vụ thu hoạch người nông dân không biết bán sản phẩm cho ai. - Chính sách đất đai: Nhà nước đẩy nhanh quá trinh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vừa tránh tình trạng tranh chấp đất đai, sử dụng đất sai mục đích vừa tạo điều kiện cho người dân có tài sản và cơ sở pháp lý trong các hợp đồng và quan hệ tín dụng. Các hộ làm kinh tế qui mô lớn, sản xuất sản phẩm hàng hoá đang xuất hiện ngày càng nhiều tạo ra động lực thúc đẩy qúa trình phân công lao động, tăng sản phẩm hàng hoá. Vốn kinh doanh chủ yếu của các hộ này chủ yếu là vốn tự lực nhưng nhu cầu vốn bổ sung là phổ biến, nhất là vốn trung – dài hạn, nhưng khó khăn chính đối với các hộ này khi vay vốn ngân hàng là vấn đề thế chấp tài sản. Nếu tính giá trị đất sử dụng được giao để thế chấp thì mức vốn được chấp nhận vay không trang trải đủ chi phí vì suất đầu tư ban đầu là rất lớn. Khó khăn này thường gặp ở các hộ vay vốn trồng cây ăn quả, cây công nghiệp … 2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Để hoàn thiện cơ chế tín dụng hiện nay, ngân hàng Nhà nước chỉ cần ban hành một số ít khâu văn bản mang tính chất khung pháp lý chung, tổng hợp tất cả các qui định về loại hình hoạt động tín dụng, không nên quá chi tiết dẫn đến việc can thiệp quá sâu vào hoạt động của các tổ chức tín dụng lại vừa khó thực hiện. Về vấn đề này, thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực trong việc nới lỏng lãi suất, từ chỗ qui định cụ thể mức lãi suất cho từng loại tiến tới thiết lập khung lãi suất và hiện nay đang được áp dụng. Cần hoàn thiện các văn bản về cho vay và tăng cường đẩy mạnh hoạt động của trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro vì đây là đầu mối để cung cấp thông tin cho các ngân hàng thương mại, giúp cho các ngân hàng thương mại có được những quyết định đúng đắn trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng Nhà nước nên tập trung tất cả các tổ chức tín dụng trên từng địa bàn nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế ở từng địa phương dùng đòn bẩy tín dụng làm động lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở quan hệ giữa các tổ chức là bình đẳng, tự nguyện, cùng có lợi thông qua các mối quan hệ tín dụng và giúp đỡ lẫn nhau. 3. Kiến nghị với NHNo&PTNT Tỉnh Lào Cai. - Hàng năm phải có kế hoạch tổ chức mở các lớp tập huấn nghiệp vụ đặc biệt cho đội ngũ cán bộ tín dụng nhằm từng bước nâng cao kỹ năng tác nghiệp trong công tác tín dụng. - Từ những chính sách đãi ngộ đối với cán bbộ tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam cần được cụ thể hoá và áp dụng linh hoạt đối với thực tế hoạt động kinh doanh ở địa bàn tỉnh Lào Cai, đặc biệt là chế độ công tác phí cho cán bộ tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa. - Cần có cơ chế giao khoán cụ thể đối với cán bộ tín dụng, cụ thể hoá các chỉ tiêu giao khoán. Các chỉ tiêu giao khoán phải phù hợp với điều kiện kinh tế từng địa phương, Tránh tình trạng quá tải cho cán bộ tín dụng, tình trạng chạy theo dư nợ mà xem nhẹ hiệu quả sử dụng vốn vay làm giảm chất lượng tín dụng do đó mà phát sinh nợ quá hạn. KẾT LUẬN Thực hiên chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước và của ngành, hệ thống ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT nói riêng đã xác định rõ vị trí, nhiệm vụ của mình đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, đã xác định được bước đi đúng hướng, phù hợp với ý Đảng, lòng dân được các cấp các ngành đồng tình ủng hộ. Mục tiêu của NHNo&PTNT là lấy nông nghiệp nông thôn làm địa bàn hoạt động và hộ nông dân là đối tượng cấp tín dụng chính. Là một ngân hàng thương mạimục đích kinh doanh không chỉ vì lợi nhuận mà NHNo&PTNT còn luôn trú trọng quan tâm tới các mục tiêu, chính sách xã hội đặc biệt là việc cho hộ nông dân nói chung và hộ nông dân nghèo vay vốn tổ chức sản xuất. Trong thực tế các năm qua, vốn của ngân hàng đã giúp hộ nông dân đẩy mạnh sản xuất, chuyển nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá, góp phần chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế địa phương, đáp ứng dủ nhu cầu về vốn cho sự chuyển hướng nông - lâm - ngư nghiệp sang sản xuất hàng hoá, tạo ra sự thay đổi đang kể bộ mặt nông thôn. Vốn ngân hàng đã thực sự đẩy lùi và hạn chế được tệ nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giúp cho nhiều hộ thoát khỏi cảnh đói nghèo, ổn định an ninh trật tự xã hội. Xét về lợi ích của bản thân NHNo&PTNT thì hoạt đọng tín dụng nói chung và cấp tín dụng cho hộ sản xuất nói riêng là một hoạt động mang lại thu nhập lớn cho ngân hàng. Do đó việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất là điều tất yếu. Như vậy đề tài đã đi sâu phân tích thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn và đề xuất các nhóm giải pháp và kiến nhị nhằm hạn chế nợ quá hạn. Do đề tài đề cập đến một vấn đề phức tạp trong lĩnh vực quản trị nên bài viết chắc chắn còn nhiều sai sót, khiếm khuyết nên em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, giúp đỡ, hướng dẫn của thầy Nguyễn Đình Trung cùng Ban giám đốc, tập thể cán bộ công nhân viên NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn đã giúp đỡ em hoàn thành bài báo cáo này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31865.doc
Tài liệu liên quan