Chuyên đề Giải pháp tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn tại ngân hàng thương mại

DNVVN với những lợi thế nhất định của quy mô nhỏ đã cố gắng phát huy những tiềm lực sẵn có đóng góp tích cực vào công cuộc CNH-HĐH đất nước. Nhưng DNVVN vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc trong tiến trình phát triển và hội nhập của đất nước như đã trình bày ở chương hai. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức kinh tế, các trung tâm tư vấn hỗ trợ đã làm dịu đi những khó khăn này. Hiện nay các NHTM đã mạnh dạn hơn trong việc cho DNVVN vay giải quyết tình trạng đóng băng vốn trong ngân hàng với một cơ chế cho vay linh hoạt phù hợp hơn với DNVVN. Qua việc nghiên cứu phân tích đề tài, em đã được bổ sung thêm những kiến thức về DNVVN, về ngân hàng với những hoạt động cơ bản của ngành. Những kiến thức này là rất hữu ích, đặc biệt là đối với chúng em - những cử nhân kinh tế trong tương lai bởi doanh nghiệp ở nước ta chủ yếu là DNVVN (chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp cả nước). Hy vọng rằng những giải pháp, kiến nghị nêu lên trong đề tài sẽ có giá trị đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như ngành ngân hàng góp phần cải thiện mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp trở nên tốt đẹp và gần gũi hơn.

doc89 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1103 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn tại ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng thì con đường tất yếu của các doanh nghiệp mới thành lập là gì hẳn ai cũng đoán ra. Do đó ngân hàng cần có một cơ chế cho vay thông thoáng linh hoạt. Thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp cũng đã chứng minh tính không đồng bộ, không linh hoạt của các văn bản pháp luật đặc biệt là trong lĩnh vực thuế. Cụ thể là tháng 12 năm 1996 Bộ Tài Chính ban hành văn bản thu tiền thuê đất với mức tăng 10 lần so với thuế đất làm cho doanh nghiệp không có đối tượng phân bổ và do đó không có nguồn để nộp thuế, đến nay vẫn phải nhận nợ số chênh lệch này. Các tổ chức tín dụng cũng đang phải đối mặt với vấn đề này: Điều 12 NĐ 178 quy định về việc giữ tài sản và giấy tờ của tài sản cầm cố thế chấp như sau:"Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu... TCTD phải giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản". Thực tế hiện nay các TCTD vẫn chưa nắm rõ được danh mục các tài sản theo quy định phải đăng ký quyền sở hữu và cơ quan chức năng cấp chứng nhận quyền sở hữu đó. Điều 8 NĐ 08 quy định các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và điều 9 quy định nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan này nhưng thực tế cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và các chi nhánh chưa được hình thành. Theo điểm 2, mục 1 chương V của Thông tư 06 thì ngân hàng Nhà nước cần phải tiếp tục ban hành văn bản "quy định chế độ kế toán về cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm bằng tài sản do tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay theo chỉ định của Chính phủ" để các tổ chức tín dụng thực hiện. Đến nay văn bản này vẫn chưa được ban hành. Nghị định 178 quy định khi thế chấp tài sản gắn liền với đất, doanh nghiệp vay phải thế chấp cả giá trị quyền sử dụng đất cùng với tài sản đó. Song khi doanh nghiệp công chứng thì công chứng viên không chứng nhận hợp đồng thế chấp tài sản bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất mà chỉ chứng nhận hợp đồng thế chấp tài sản không phải là giá trị quyền sử dụng đất. Vì theo quy định của Nghị định 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ thì chỉ có Sở Địa chính mới có quyền chứng nhận hợp đồng thế chấp tài sản giá trị quyền sử dụng đất. Nhưng nếu phòng công chứng chỉ chứng nhận hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không bao gồm giá trị quyền sử dụng đất thì mặc nhiên phòng công chứng đã thừa nhận cho các doanh nghiệp được thế chấp tài sản gắn liền với đất tách rời với giá trị quyền sử dụng đất. Như thế lại trái với Nghị định 178 và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể vay vốn ở hai ngân hàng cùng một lúc làm tăng rủi ro cho ngân hàng. Môi trường pháp lý như vậy đã bó buộc hoạt động không chỉ của doanh nghiệp mà cả các hoạt động của ngân hàng. 2.3.2.2. Những hạn chế từ phía doanh nghiệp Hồ sơ tài chính và hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. DNVVN muốn vay vốn ngân hàng cần phải lập ra những báo cáo tài chính chứng minh doanh nghiệp đang làm ăn có lãi mặc dù đang bị thua lỗ, ngân hàng cho vay sẽ gặp rủi ro. Mặt khác các doanh nghiệp gửi báo cáo quyết toán hàng quý, hàng năm rất chậm khiến ngân hàng khó khăn trong việc kiểm tra theo dõi việc sử dụng vốn vay. Trình độ đội ngũ quản lý DNVVN chưa cao, bằng cấp chuyên môn chủ yếu là cao đẳng, tại chức. Đa số chủ doanh nghiệp có độ tuổi trên 40, thiếu kiến thức, kinh nghiệm, không năng động sáng tạo. Nhiều khi có ý tưởng hay độc đáo song với trình độ chuyên môn còn hạn chế nên đã không thể tự mình lập ra các phương án sản xuất kinh doanh khả thi càng không thể thuyết phục ngân hàng thấy được tính khả thi của phương án để được vay vốn. Các DNVVN với đặc điểm là vốn tự có ít, quy mô vừa và nhỏ nên năng lực tài chính thường nhỏ bé vì vậy rất cần vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất. Nhưng các DNVVN hầu như là không đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng: không có tài sản thế chấp cầm cố, không có dự án khả thi, không có hoặc thiếu vốn tự có để tham gia vào dự án theo quy định, không có khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết. Với hiện trạng như vậy các NHTM khó có thể chấp nhận cho vay. Hơn nữa DNVVN trong những năm qua đã phát triển mạnh về số lượng nhưng chất lượng, hiệu quả lại giảm đi. Tình trạng làm ăn phi pháp, gian lận, lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng tăng lên, nhiều DNVVN không có ý thức trách nhiệm đối với khoản vay. Thực tế là nếu người vay cố tình lừa đảo, chiếm đoạt tài sản ngân hàng thì ngân hàng phải chịu trách nhiệm hình sự điển hình là vụ Minh Phụng-Epco. Các DNVVN hoạt động kém hiệu quả làm ăn tắc trách đó đã tạo ra hình ảnh, ấn tượng không tốt về DNVVN đối với mọi người gây ảnh hưởng đến các DNVVN làm ăn chân chính có khả năng phát triển. Ngân hàng đã mất lòng tin đối với DNVVN. Tất cả những hạn chế trên của DNVVN đã khiến ngân hàng phải cân nhắc, suy xét kỹ càng mỗi khi DNVVN có nhu cầu vay vốn. 2.3.2.3. Những hạn chế từ phía ngân hàng ó Quan điểm của ngân hàng khi cho vay Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Do đó mục tiêu hoạt động của các NHTM không nhằm vào điều gì khác ngoài lợi nhuận. Trong hoạt động chính của ngân hàng là cho vay, các ngân hàng không hề có tư tưởng cho vay càng nhiều càng tốt mà là cho vay có chọn lọc những khách hàng có uy tín, có năng lực để giảm bớt tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Rõ ràng các DNVVN không phải là những khách hàng tiềm năng có uy tín, có năng lực của ngân hàng. Ngân hàng biết rằng cho DNVVN vay vốn là chấp nhận rủi ro mạo hiểm. Vì vậy các ngân hàng thường có tâm lý e ngại, dè chừng khi cho vay DNVVN. ó Các văn bản quy định cho vay của ngành ngân hàng chưa có tầm bao quát chung, thiếu những văn bản quan trọng có thể nói là xương sống cho hoạt động của ngân hàng Hơn nữa các văn bản này tính ổn định không cao, chưa phản ánh đúng đòi hỏi của thực tiễn và còn thụ động. Điều đó được phản ánh sinh động trong việc xây dựng và ban hành văn bản cơ chế cho vay của ngân hàng nhà nước như sau: Quyết định số 77/NH-QĐ ngày 13/6/1991, QĐ số 18/QĐ-NHNN5 ngày 16/2/1994, QĐ số 185/QĐ-NHNN5 ngày 16/9/1994, QĐ số 198/QĐ-NHNN1 ngày 16/9/1994, QĐ số 270/QĐ-NHNN1 ngày 25/9/1995, QĐ số 367/QĐ-NHNN1 ngày 21/12/1995, QĐ số 199/QĐ-NHNN1 ngày 28/6/1997, QĐ số 200/QĐ-NHNN ngày 28/7/1997, QĐ số 324/1998/QĐ-NHNN1 ngày 30/9/1998. Văn bản hiện nay đang có giá trị pháp lý thi hành là Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 và trong gần hai năm thực hiện vẫn còn nhiều bất cập hạn chế, ngân hàng nhà nước đang nghiên cứu để ban hành văn bản thay thế. Như vậy các văn bản quy định cơ chế cho vay của ngân hàng nhà nước thường xuyên thay đổi và còn nhiều hạn chế đã gây không ít khó khăn cho các ngân hàng và cho cả các DNVVN muốn vay vốn làm ăn. ó Trình độ cán bộ nghiệp vụ chưa cao Đội ngũ cán bộ tín dụng trong ngân hàng chưa có kiến thức đầy đủ về hoạt động kinh doanh ngân hàng trong cơ chế thị trường. Nhiều cán bộ tín dụng bị khách hàng lừa đảo, nhiều cán bộ ngân hàng làm phiền hà khách hàng tạo ra hình ảnh không đẹp về ngân hàng trong con mắt của mọi người. Tình trạng hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự trong quan hệ vay vốn ngân hàng với khách hàng thời gian qua đã tác động lớn đến cán bộ tín dụng. Các cán bộ tín dụng sợ phải chịu trách nhiệm hình sự nên đã hạn chế việc mở rộng tín dụng nhất là đối với kinh tế tư nhân quy mô vừa và nhỏ mặc dù họ có dự án đầu tư tốt mang tính khả thi. ó Vấn đề quan trọng không kém gây khó khăn cho các DNVVN tiếp cận vốn vay từ phía ngân hàng là các ngân hàng thường không có thông tin đầy đủ chính xác về doanh nghiệp Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp gửi cho ngân hàng là những báo cáo không trung thực với một hệ thống bảng biểu, số lượng thống kê rất phong phú tuỳ theo từng mục đích cụ thể. Với các báo cáo tài chính này thì doanh nghiệp luôn luôn làm ăn có lãi, khả năng trả nợ cao. Về các tài sản của doanh nghiệp đem thế chấp cầm cố, ngân hàng cũng không có nhiều thông tin, nhiều khi tài sản đó đang có tranh chấp nhưng doanh nghiệp lại cam kết là không có tranh chấp hoặc vẫn tài sản đó doanh nghiệp lại cầm cố thế chấp ở một ngân hàng khác thì ngân hàng càng không thể biết được. Do đó các ngân hàng đã hạn chế cho vay khu vực DNVVN vì những rủi ro bất khả kháng, không dự đoán đề phòng được. ó Vốn tự có, vốn điều lệ của ngân hàng là rất thấp Hiện nay ở nước ta chỉ có NHNo có vốn điều lệ cao nhất 2200 tỷ đồng, các NHTMQD khác có vốn điều lệ là 1100 tỷ đồng. Trong khi đó nguồn vốn huy động được của ngân hàng thường là ngắn hạn mà các DNVVN đang rất thiếu vốn trung và dài hạn để phát triển sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ cho nên ngân hàng đã hạn chế cho DNVVN vay sợ DNVVN không có khả năng trả nợ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 2.3.2.4. Những hạn chế trong cơ chế cho vay hiện nay Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng đã thay thế QĐ số 324/1998/QĐ-NHNN1 ngày 30/9/98 và có một số tiến bộ mới phù hợp hơn với thực tiễn hoạt động của TCTD. Song hiện nay qua gần hai năm thực hiện đã thể hiện những vấn đề bất cập cần chấn chỉnh bổ sung sửa đổi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng được dễ dàng hơn. Đó là: Về điều kiện vay vốn, đáng chú ý nhất là điều kiện 2 và điều kiện 4. Điều kiện 2: "Có khả năng tài chính trong thời hạn cam kết". Thời hạn cam kết ở đây là thời hạn cam kết của hợp đồng tín dụng. Nếu vay ngắn hạn thì chỉ 12 tháng, trung hạn là 5 năm, dài hạn thì trên 5 năm trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với dự án đầu tư phục vụ đời sống là một khoảng thời gian quá dài. Khả năng tài chính trước mắt của doanh nghiệp thì có thể dễ nhận biết nhưng với một khoảng thời gian dài, tài chính của doanh nghiệp là bao nhiêu diễn biến tuỳ thuộc nhiều yếu tố chủ quan. Vì thế nhận định điều kiện 2 là khó khăn, phức tạp và mạo hiểm. Điều kiện 4: "Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi có hiệu quả". Cũng như điều kiện 2 nếu doanh nghiệp vay ngắn hạn để triển khai một phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ đời sống thì có thể thẩm định được vì phương án bao giờ cũng chỉ triển khai trong thời gian ngắn. Thế nhưng quá trình tổ chức thực hiện do nhiều nguyên nhân chủ quan về phía doanh nghiệp nên tiến độ thực hiện dự án chậm, chi phí vật liệu trượt giá làm tăng giá thành so với dự định dẫn đến phương án trở thành không hiệu quả. Điều này càng đúng trong trường hợp doanh nghiệp vay trung dài hạn . Do vậy các điều kiện này cần sửa đổi nhằm giảm bớt khó khăn cho ngân hàng trong tiến trình ra quyết định cho vay. Về điều 9 quy định đối tượng cho vay: Điều này quy định quá dài có nhiều ý không rõ, trùng lặp, thiếu chuẩn xác và khó hiểu. Cụ thể khoản 1 tiết a quy định: "TCTD cho vay các đối tượng là giá trị vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị bao gồm cả thuế giá trị gia tăng nằm trong giá trị lô hàng và các khoản chi phí để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ hoặc dự án đầu tư phương án phục vụ đời sống". Trong ý này phải hiểu "và các chi phí" là những khoản chi phí nào vì trong một dự án đầu tư thì có rất nhiều chi phí trong đó có cả chi phí về số tiền lãi vay phải trả cho TCTD cho vay trong thời gian thi công. Quy định không rõ ràng như thế khiến cho các ngân hàng khi thực hiện còn lúng túng. Về điều 11 quy định lãi suất cho vay. Khoản 3 điều này quy định "Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn phải áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo quy định của Thống đốc NHNN tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng". Điều này chưa hợp lý do thực tế có thể xảy ra hai tình huống sau: - Nếu lãi suất ở thời điểm chuyển nợ quá hạn đã thay đổi thấp hơn lãi suất tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng thì khách hàng bị thiệt còn các ngân hàng được lợi. - Nếu lãi suất ở thời điểm chuyển nợ quá hạn đã thay đổi cao hơn lãi suất tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng thì ngân hàng bị thiệt còn các doanh nghiệp có lợi. Về điều 23 quy định gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ có sự nhập nhằng giữa tiết a và tiết b của khoản 1 do không quy định rõ trường hợp đặc biệt nào thì được Thống đốc cho phép, trường hợp nào thì giao cho TCTD. Về hợp đồng tín dụng quy định quá chi tiết, trong đó có nhiều nội dung của hợp đồng bảo đảm. Trong khi đó hợp đồng bảo đảm không thể gộp chung vào hợp đồng tín dụng vì bản thân hợp đồng bảo đảm có nhiều điều khoản cụ thể cần phải thoả thuận với người vay để việc xử lý tài sản sau này được thuận lợi. Và khi một hợp đồng phụ hoặc chính bị vô hiệu thì các hợp đồng còn lại thực hiện như thế nào chưa thấy quy định. Chương 3 Giải pháp tăng cường hỗ trợ các DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng 3.1. Quan điểm phát triển DNVVN ở Việt Nam tới năm 2010 v Phát triển DNVVN là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường nên các doanh nghiệp, các nhà đầu tư còn chưa có nhiều kinh nghiệm về kinh tế thị trường, sức ỳ còn lớn, chưa chú ý nhiều đến chiến lược kinh doanh lâu dài, làm ăn theo kiểu manh mún, nhỏ lẻ. Trước tình hình đó, phát triển DNVVN sẽ tạo điều kiện cho một đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam ra đời, tạo điều kiện về yếu tố con người cho các giai đoạn phát triển tiếp theo. Phát triển DNVVN sẽ khuyến khích và tăng cường cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước làm cho nền kinh tế năng động hơn. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải vươn lên không ngừng bằng chất lượng và hiệu quả. Nhờ đó nền kinh tế sẽ có cơ hội phát triển sức cạnh tranh của mình trên thị trường thế giới. DNVVN có ưu thế là tạo ra nhiều công ăn việc làm cho nền kinh tế. Điều này hết sức quan trọng đối với một nước đang phát triển có tiềm năng về lao động đồng thời lại là một gánh nặng xã hội như nước ta. Phát triển DNVVN vừa góp phần thu hút thêm lao động, tăng thêm thu nhập để cải thiện đời sống cho người lao động vừa góp phần sử dụng tốt hơn nguồn lực sẵn có nhất của nền kinh tế, là lao động tạo tiền đề tích luỹ cho các giai đoạn phát triển sau. Hơn nữa phát triển DNVVN sẽ làm tăng tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế để đạt được các mục tiêu tăng trưởng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010. v DNVVN cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường trong một số ngành có lựa chọn. Đó là các ngành: - Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh. - Các ngành tạo đầu vào cho các doanh nghiệp lớn cũng như trong các lĩnh vực phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của doanh nghiệp lớn (mạng lưới phân phối, gia công bán thành phẩm). - Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn bao gồm các sản phẩm truyền thống thuộc về các làng nghề. v Ưu tiên phát triển DNVVN ở nông thôn, cả trong công nghiệp và các ngành dịch vụ; coi DNVVN là bộ phận quan trọng nhất của chiến lược CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn. Hiện nay nước ta có khoảng 80% dân số sống ở nông thôn. Quá trình phát triển những năm qua đã tạo ra sự chênh lệch nhất định về thu nhập nói riêng và trình độ phát triển nói chung giữa thành thị và nông thôn. Tình trạng nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn chưa được sử dụng tốt cho phát triển kinh tế đã và đang dẫn đến sức ép di cư từ nông thôn vào các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn gây nên những biến động xã hội khó lường. Kinh nghiệm các nước châu á cho thấy chiến lược phát triển đất nước đi từ nông nghiệp và nông thôn là sự lựa chọn khôn ngoan hiệu quả do: - Tập trung phát triển nông thôn sẽ làm tăng thu nhập của bộ phận lớn dân cư sống ở nông thôn, góp phần giảm thiểu nhu cầu di cư vào các thành phố và trung tâm công nghiệp, ổn định xã hội, tránh cho các thành phố rơi vào tình trạng quá tải và hỗn độn về mọi mặt. - Thu nhập của dân cư nông thôn tăng lên làm cho sức mua của xã hội tăng lên. Đây là yếu tố kích thích sản xuất không chỉ đối với kinh tế nông thôn mà còn đối với cả kinh tế thành thị. Điều này sẽ làm tăng mối liên kết kinh tế giữa thành thị và nông thôn, góp phần giảm chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn. - Phát triển các DNVVN trong lĩnh vực lưu thông, phân phối hàng hoá ở nông thôn là góp phần thúc đẩy thị trường ở nông thôn phát triển, thu hút được số lượng lớn lao động nhàn rỗi. Phát triển mạng lưới phân phối nhiều cấp rộng khắp ở nông thôn sẽ tạo điều kiện tiêu thụ hàng hoá công nghiệp tốt hơn. - Nông thôn có sẵn nguồn nguyên vật liệu tại chỗ phong phú cho phát triển các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng nhất là cho các ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm; các ngành thủ công mỹ nghệ và hơn nữa lại có một lực lượng lao động dồi dào. v DNVVN được khuyến khích phát triển trong một số ngành nhất định mà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia. Nguyên lý chung là sản xuất lớn, sản xuất hàng loạt có hiệu quả hơn sản xuất nhỏ xét về mặt kinh tế. Tuy nhiên nếu xét về hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế nói chung thì không hoàn toàn như vậy. Thị trường có nhiều phân đoạn: phân đoạn dành cho các sản phẩm có số lượng tiêu thụ lớn và phân đoạn dành cho các sản phẩm đơn chiếc, đáp ứng nhu cầu hết sức riêng của một nhóm người hay một hộ tiêu thụ nào đó. Chính DNVVN thích hợp với loại thị trường thứ hai này. Thông thường nếu không có sự can thiệp của Nhà nước thì doanh nghiệp lớn thường có xu hướng tìm cách chiếm lĩnh mọi thị trường. Vì vậy cần có khuôn khổ luật pháp rõ ràng quy định loại sản phẩm nào, ngành sản xuất nào với tỷ trọng bao nhiêu được ưu tiên dành cho DNVVN đảm nhận. v Phát triển DNVVN trong mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp lớn. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, xuất phát từ định hướng phát triển kinh tế xã hội chung đã đặt ra những chương trình phát triển quy mô lớn, theo đó định hướng phát triển doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ tạo ra mối liên kết hỗ trợ lẫn nhau thông qua cơ chế chính sách của Nhà nước, tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp lớn và các DNVVN hình thành mối liên kết chặt chẽ cùng phát triển. Mối liên kết chặt chẽ thể hiện ở: - Phân công chuyên môn hoá giữa DNVVN và doanh nghiệp lớn sao cho hiệu quả. DNVVN vừa tạo đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp lớn. - Doanh nghiệp lớn hỗ trợ cho DNVVN về đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý. - Giao thầu lại cho DNVVN những phần việc trong các hợp đồng lớn mà doanh nghiệp lớn ký với nhà nước. - Hỗ trợ tài chính lẫn nhau trong quá trình phát triển. v Nghiên cứu thành lập một số khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn dành riêng cho DNVVN. Kinh nghiệm các nước cho thấy sự ra đời các khu công nghiệp tập trung dành cho DNVVN có một số tác dụng sau: - Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN về cơ sở hạ tầng: điện, nước, thông tin liên lạc, tiếp cận thị trường, giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho DNVVN với chi phí thấp hơn các khu công nghiệp tập trung hiện có mà chỉ có các doanh nghiệp lớn mới có khả năng. - Nhà nước dễ dàng thực hiện các chính sách ưu đãi và hỗ trợ cho các DNVVN nằm trong khu công nghiệp. 3.2. Một số giải pháp tăng cường hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng 3.2.1. Giải pháp vĩ mô 3.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng giữa DNVVN và ngân hàng Để có một giải pháp hoàn thiện cho việc tiếp cận vốn ngân hàng hiệu quả hơn của DNVVN thì không thể tách rời những chính sách điều hành vĩ mô của nhà nước đối với nhóm doanh nghiệp này. Có những vấn đề nếu doanh nghiệp và ngân hàng cùng cố gắng thì có thể vượt qua được. Song, cũng có những vấn đề đụng chạm đến những qui định mang tính pháp lý hoặc còn chưa rõ ràng làm cho cả ngân hàng và doanh nghiệp đều lúng túng khi thực hiện. Do dó nhà nước cần ban hành, hướng dẫn và sửa đổi các văn bản pháp lý sao cho phù hợp, đặc biệt là những văn bản qui định về tài sản thế chấp cầm cố. Đó là: - Các ngân hàng cần được quyền chủ động trong việc xử lý, phát mại tài sản thế chấp cầm cố để việc thu hồi nợ được kịp thời, giảm những chi phí không cần thiết trong quá trình phát mại. - Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế dân sự trong quan hệ vay vốn giữa ngân hàng với doanh nghiệp. Thực tế hiện nay có rất nhiều trường hợp các con nợ cố tình lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngân hàng thì ngân hàng lại phải chịu trách nhiệm hình sự. Các ngân hàng vì thế không muốn mở rộng cho vay đối với các DNVVN do rủi ro cao. - Đổi mới trách nhiệm giải trình trước cơ quan pháp luật của ngân hàng. Các ngân hàng khi có món vay liên quan đến vụ án hình sự dù đúng hay sai cũng phải mất khá nhiều thời gian, công sức để giải trình trước cơ quan pháp luật. Bất kỳ lúc nào cơ quan pháp luật cũng có quyền yêu cầu Tổng giám đốc, giám đốc trực tiếp giải trình mà không cho người khác đại diện ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là chưa kể đến trong thời gian chờ kết luận xử lý chính thức các cán bộ ngân hàng luôn lo lắng bị xử lý hình sự gây tâm lý bất ổn. Vì vậy Nhà nước cần đổi mới theo hướng mọi việc đều được thực hiện thông qua đại diện của đương sự là luật sư. - Các quy định về giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cần được nhanh chóng sửa đổi cho thống nhất giúp người đi vay hoàn thiện những thủ tục cần thiết. Đơn giản hoá công chứng nhà nước. 3.2.1.2. Đẩy mạnh nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển cũng như sự hình thành và phát triển của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN ở địa phương Nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển là một hình thức hỗ trợ thiết thực cho các DNVVN vay vốn ngân hàng. Khi không có đủ tài sản để thế chấp cầm cố song có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, Quỹ hỗ trợ phát triển sẽ đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp này để doanh nghiệp có thể vay được vốn ngân hàng. Thực tế hiện nay nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển chưa được mở rộng do các điều kiện để được bảo lãnh còn chặt chẽ và phí bảo lãnh cao. Vì thế trước mắt Nhà nước nên đẩy mạnh nghiệp vụ này, tiến hành bảo lãnh nhiều hơn cho các doanh nghiệp, các dự án đầu tư mang lại lợi ích cho xã hội. Thông tư 42/02/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 22/5/2002 hướng dẫn thi hành quyết định số 193/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, trong đó Thủ tướng Chính phủ cho phép các địa phương được thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng để cấp bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN của địa phương đó. Đây là một giải pháp rất hữu hiệu cho các DNVVN tiếp cận vốn vay. Trong thời gian qua ở nước ta mới chỉ có hai Quỹ bảo lãnh tín dụng là Quỹ bảo lãnh tín dụng thí điểm ở Bắc Giang và Quỹ bảo lãnh tín dụng từ chương trình tín dụng Việt Đức của NHCT. Vì vậy với việc cho phép hình thành các Quỹ bảo lãnh tín dụng ở địa phương, các DNVVN sẽ tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng dễ dàng hơn. Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN địa phương có ưu điểm là sát với điều kiện thực tế ở địa phương, gắn với các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, với yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp trên địa bàn. Điều này càng có ý nghĩa và thuận lợi khi mà đối tượng của Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương không phải là các DNNN, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp quy mô lớn mà chính là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ- loại hình doanh nghiệp chủ yếu ở địa phương. Giai đoạn đầu hình thành và phát triển chắc chắn còn nhiều khó khăn và hạn chế do đó Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi và đẩy mạnh hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN ở địa phương. 3.2.1.3. Nhà nước khuyến khích các NHTM cho DNVVN vay thông qua các chính sách, các hình thức hỗ trợ cụ thể Các NHTM vẫn có tâm lý dè chừng, đề phòng rủi ro khi cho vay đối với DNVVN. Để cải thiện tình hình này, Nhà nước cần hỗ trợ cho ngân hàng bằng cách tăng vốn điều lệ cho ngân hàng, hỗ trợ một phần lãi suất, đẩy mạnh hoạt động của công ty mua bán tài sản tồn đọng trực thuộc Chính phủ (AMC) cũng như một hệ thống đăng ký tập trung về tài sản qua mạng máy tính. Nguồn vốn điều lệ của ngân hàng càng lớn thì khả năng cho vay doanh nghiệp của ngân hàng càng tăng lên tương ứng. Vì thế Nhà nước muốn các NHTM cho vay DNVVN nhiều hơn nữa thì cần cấp thêm vốn cho ngân hàng từ ngân sách Nhà nưóc hoặc cũng có thể hỗ trợ lãi suất cho các ngân hàng bằng cách quy định một mức lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất cho vay trên thị trường đối với các DNVVN. Phần chênh lệch Nhà nước sẽ bù lỗ cho ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng đang gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thế chấp. Nhiều DNVVN dùng một tài sản đem thế chấp ở nhiều ngân hàng, cố tình lừa đảo ngân hàng cam kết là tài sản không có tranh chấp. Các ngân hàng không có thông tin chính xác để xác định những trường hợp này. Và một hệ thống đăng ký tập trung về tài sản qua mạng máy tính là rất cần thiết cho ngân hàng. Việc xử lý tài sản thế chấp cũng là một vướng mắc mà ngân hàng cần được Nhà nước hỗ trợ. Bằng việc đẩy mạnh hoạt động của công ty mua bán tài sản tồn đọng AMC, Nhà nước đã giúp ngân hàng xử lý tài sản thế chấp một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất tránh tình trạng đọng vốn trong ngân hàng. Ngân hàng ra quyết định cho vay nhanh hơn, mạnh dạn hơn. Đồng thời Nhà nước còn hỗ trợ về tài chính cho ngân hàng trong việc cơ cấu lại nợ, xử lý dứt điểm các khoản nợ khó đòi, nợ khoanh do các DNVVN gây ra giúp ngân hàng hoạt động bình thường trở lại. 3.2.1.4. Mở rộng mối quan hệ liên kết liên doanh giữa các DNVVN với các doanh nghiệp lớn, các tổ chức kinh tế của Nhà nước Thực tế chỉ ra rằng các DNVVN phát triển trong một môi trường cạnh tranh rất sôi động và luôn bị các doanh nghiệp lớn chèn ép đánh bại, dễ bị tổn thương trước các biến động của thị trường. Do vậy chỉ có một sự liên kết chặt chẽ với các tổ chức kinh tế, với các doanh nghiệp lớn của Nhà nước mới giúp DNVVN cải thiện được tình hình, chống chọi với những biến động của thị trường. Thông qua mối quan hệ này các DNVVN sẽ được các tổ chức, doanh nghiệp lớn của Nhà nước hỗ trợ về vốn, công nghệ, đào tạo, thông tin... mà đặc biệt là bảo đảm cho DNVVN một thị trường đầu vào, đầu ra vững chắc làm giảm chi phí và tăng doanh thu dẫn đến lợi nhuận thu được của DNVVN ngày càng tăng. Các DNVVN có thể liên kết ngang, liên kết dọc hoặc liên kết hỗn hợp tùy điều kiện mỗi doanh nghiệp. Và như thế uy tín cũng như năng lực tài chính của các DNVVN được tăng lên đáng kể, việc vay vốn ngân hàng không còn khó khăn như trước nữa. 3.2.1.5. Tăng cường năng lực tài chính hơn nữa cho các DNVVN Năng lực tài chính của một doanh nghiệp là rất quan trọng. Nó thể hiện quy mô, sức mạnh cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Các DNVVN có năng lực tài chính nhỏ bé do đó khó có thể vay vốn ngân hàng. Nhà nước đã có một số hình thức nhằm tăng năng lực tài chính cho các DNVVN như trong phần lý thuyết đã nêu và bước đầu đã thu được những kết quả nhất định. Trên thực tế việc nâng cao năng lực tài chính cho các DNVVN cần phải được tiến hành trong một thời gian khá dài và còn phụ thuộc vào chính doanh nghiệp nữa nên Nhà nước cần tăng cường, đẩy mạnh hơn các hình thức hỗ trợ này với một kế hoạch lâu dài. Nhờ đó DNVVN có tình hình tài chính ngày càng lành mạnh, việc vay vốn ngân hàng cũng sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. 3.2.2. Giải pháp vi mô Những giải pháp vĩ mô của Nhà nước nhiều khi khó tiếp cận do từ lúc đề ra đến khi đưa vào thực hiện là một khoảng thời gian tương đối dài. Vì vậy muốn các giải pháp này được áp dụng vào thực tiễn một cách nhanh chóng, Nhà nước cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể, tỷ mỷ hơn cho các ngành, các cấp thực hiện đồng bộ. Ngành ngân hàng cũng như các DNVVN muốn được hỗ trợ cũng cần phải tự xem xét đánh giá lại chính mình, tự nỗ lực bản thân vươn lên. Đây chính là các điều kiện để Nhà nước tiến hành hỗ trợ vì nếu không các doanh nghiệp sẽ chỉ trông chờ vào sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước làm giảm mục tiêu, hiệu quả của các hình thức hỗ trợ này. Các giải pháp từ phía ngân hàng, doanh nghiệp sau đây sẽ là tiền đề cho các giải pháp vĩ mô có tính khả thi cao, hiệu quả lớn. 3.2.2.1. Giải pháp của ngành ngân hàng Xây dựng cơ chế đầu tư, cho vay phù hợp với DNVVN Đảng và Nhà nước ta cũng như thực tiễn nền kinh tế trong thời gian qua đã khẳng định vị trí quan trọng của DNVVN trong công cuộc đổi mới đất nước. DNVVN đã làm cho nền kinh tế năng động hơn, giải quyết công ăn việc làm cho một khối lượng lớn lao động, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Các DNVVN hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực rộng lớn của nền kinh tế, nhu cầu về vốn của loại hình doanh nghiệp này dường như không bao giờ có thể đáp ứng được đầy đủ trong khi việc DNVVN vay được vốn ngân hàng lại rất hạn chế. Để giúp đỡ các DNVVN và cũng là để giải quyết tình trạng đóng băng vốn của mình các ngân hàng đã nghiên cứu và xây dựng nên một cơ chế cho vay theo hướng đơn giản thuận lợi mà vẫn an toàn hiệu quả như sau: Nới lỏng các điều kiện vay vốn. Với các điều kiện vay vốn như hiện nay thì các DNVVN vẫn còn nhiều bất cập trong đó đáng quan tâm là điều kiện về tài sản thế chấp. DNVVN với quy mô nhỏ bé như vậy nên vốn chủ sở hữu là quá ít ỏi, giá trị tài sản không cao. Để vay được một khoản tiền từ ngân hàng DNVVN cần thế chấp tài sản có giá trị lớn hơn khoản vay đó để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Đây quả là một thách thức lớn đối với DNVVN. Song qua thực tế hoạt động tín dụng của ngân hàng thì việc áp dụng các biện pháp thế chấp tài sản hiện nay chỉ là thủ tục và mang tính hình thức, nhiều khi chỉ là yếu tố loại trừ trách nhiệm cho các cán bộ ngân hàng khi ra quyết định cho vay. Bởi vì ngân hàng hiện nay gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý phát mại tài sản thế chấp, thời gian phát mại khá lâu và chi phí cho việc này cũng không phải là nhỏ. Vô hình chung cả ngân hàng và doanh nghiệp đã gây khó dễ cho nhau. Vì vậy các ngân hàng nên nới lỏng các điều kiện cho vay đối với DNVVN, không nên coi điều kiện về tài sản thế chấp là điều kiện tiên quyết để ra quyết định cho vay mà chỉ là điều kiện cuối cùng của quy trình cho vay. Hiện nay theo chủ trương của NHNN, các hộ nông dân vay vốn đến 20 triệu đồng và hộ nông dân sản xuất giống thủy sản dưới 50 triệu đồng được miễn điều kiện thế chấp thể hiện sự quan tâm của ngành ngân hàng tới các thành phần kinh tế quy mô nhỏ ở nông thôn và rất thiết thực. Ngoài ra ngân hàng cũng đang tiến hành cho DNVVN vay theo phương thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là một sự cố gắng lớn của ngân hàng thể hiện một chiến lược khách hàng đúng đắn. Đơn giản hoá các thủ tục cho vay. Khi doanh nghiệp đến ngân hàng vay vốn, cán bộ tín dụng hướng dẫn doanh nghiệp tiến hành các thủ tục cần thiết như lập hồ sơ vay vốn, ký hợp đồng tín dụng trong đó doanh nghiệp phải đáp ứng được rất nhiều giấy tờ như báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, tình hình tài chính thu nhập trong vài năm gần đây, các loại giấy tờ chứng minh tài sản bảo đảm có công chứng. Theo thống kê một bộ hồ sơ vay vốn cần tới 8 loại giấy tờ khác nhau trong đó 3 loại do người vay lập, 5 loại do cán bộ ngân hàng thực hiện với gần 10 con dấu. Mặc dù các thủ tục giấy tờ trên là cần thiết nhưng rõ ràng là hết sức phức tạp và gây phiền hà cho doanh nghiệp khi họ muốn vay tiền, làm chậm tiến độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc miễn điều kiện thế chấp cho các hộ nông dân vay vốn đến 20 triệu đồng và hộ nông dân sản xuất giống thuỷ sản dưới 50 triệu đồng cũng là một bước đơn giản hoá thủ tục cho vay của ngân hàng đối với hộ nông dân, họ không cần phải lo các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu và sử dụng tài sản cho ngân hàng nữa. Đối với các loại hình kinh tế khác để đơn giản hoá thiết nghĩ các ngân hàng có thể gộp chung giấy đề nghị vay vốn và đơn xin vay vốn làm một trong bộ hồ sơ vay vốn, giấy cam kết sử dụng vốn vay có thể lược bớt. Lãi suất cho vay nên linh hoạt mềm dẻo hơn. Lãi suất là một công cụ rất nhạy cảm không chỉ làm tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng mà còn khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn. Các ngân hàng thường quan niệm rằng lãi suất cho vay cao sẽ làm cho lợi nhuận của ngân hàng tăng lên. Quan niệm này chưa hẳn đã đúng vì tín dụng là một loại hàng hoá đặc biệt, nhiều khi người mua sẵn sàng trả giá cao hơn nhưng người bán vẫn có thể không bán do nhận thấy phần rủi ro phải gánh chịu có thể lớn hơn phần lợi ích mà ngân hàng nhận được. Đó là vì tình trạng thông tin không cân xứng giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chấp nhận một mức lãi suất cao hơn khi vay vốn chỉ khi doanh nghiệp đó có thu nhập cao hơn những doanh nghiệp khác mà thu nhập cao hơn là do lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp đó mạo hiểm rủi ro hơn. Vì vậy lãi suất càng tăng lên thì tỷ lệ những doanh nghiệp vay vốn có độ rủi ro cao cũng càng tăng theo. Điều này đồng nghĩa với nguy cơ họ không trả được nợ tăng lên. Hiện nay có một số ngân hàng đang giảm lãi suất cho vay xuống dưới mức lãi suất của thị trường vì ngân hàng cho rằng khi lãi suất thấp hơn, cầu về tín dụng sẽ lớn hơn cung về tín dụng khi đó các ngân hàng có quyền lựa chọn những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả an toàn hơn để cho vay không lo xảy ra tình trạng nợ quá hạn. Như thế tự ngân hàng đã làm mất đi một số khách hàng tiềm năng. Từ những vấn đề phân tích trên đây thiết nghĩ ngân hàng không nên chỉ quy định một mức lãi suất cứng nhắc được áp dụng cho mọi đối tượng vay vốn mà nên có các mức lãi suất khác nhau để có thể áp dụng linh hoạt cho từng doanh nghiệp. Với những doanh nghiệp là khách hàng truyền thống có uy tín và những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả có thông tin trung thực chính xác cho ngân hàng chắc chắn sẽ có mức lãi suất khác với những doanh nghiệp là khách hàng không thường xuyên, không có khả năng trả nợ ngân hàng gây ra tình trạng nợ quá hạn. Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ phải tương thích với chu kỳ sản xuất kinh doanh. Các DNVVN có nhu cầu về vốn trung dài hạn rất lớn do phải đổi mới công nghệ, thay thế các thiết bị cũ lạc hậu để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Do đó các NHTM cần nâng dần tỷ trọng dư nợ trung dài hạn cho DNVVN, xác định thời hạn cho vay phù hợp với khả năng sinh lời và tuổi thọ của thiết bị tạo điều kiện cho doanh nghiệp trả nợ đúng hạn. Nếu không ngân hàng sẽ khó thu hồi được nợ gốc và lãi vay do doanh nghiệp vẫn còn đang trong thời kỳ hoạt động sản xuất chưa có doanh thu nên không có nguồn nào để trả nợ. Cũng giống như thời hạn cho vay việc xác định kỳ hạn trả nợ tương thích với thời hạn đầu tư kinh doanh sẽ có lợi cho cả hai bên ngân hàng và doanh nghiệp. Về phía ngân hàng sẽ thu được nợ đúng hạn không gặp rủi ro còn về phía doanh nghiệp tạo được uy tín đối với ngân hàng trong việc bảo đảm trả nợ và trả nợ đúng thời hạn. Vì thế doanh nghiệp sẽ dễ dàng vay vốn ngân hàng hơn ở những lần sau. Các ngân hàng cũng nên tính toán bố trí thời hạn cho vay của nhiều khoản tín dụng phải được liên tục hài hoà, hạn chế thời gian "chết", vốn khả dụng không sinh lời. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định của ngân hàng Thực tế và lý luận đã chứng minh rằng điều kiện quan trọng để bảo đảm an toàn đồng vốn cho vay không phải là tài sản thế chấp mà là tính khả thi của phương án, dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp tuy thoả mãn về tài sản thế chấp song phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không khả thi nhưng vẫn được ngân hàng cho vay thì khi doanh nghiệp không trả được nợ, số tiền thu về từ việc phát mại tài sản thế chấp chẳng được là bao so với thời gian và chi phí mà ngân hàng bỏ ra để xử lý tài sản thế chấp. Hơn nữa các DNVVN thường không có tài sản thế chấp nên để khai thông mối quan hệ tín dụng giữa các NHTM với DNVVN thì cách tốt nhất là ngân hàng nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án, phương án sản xuất kinh doanh của DNVVN. Để công tác thẩm định được chính xác và chất lượng, NHTM cần đổi mới hàng loạt các nội dung yêu cầu trong đó quan trọng nhất là đội ngũ cán bộ thẩm định. Cán bộ thẩm định không chỉ tinh thông trong nghiệp vụ chuyên môn mà phải hiểu biết rộng rãi sâu sắc các nghiệp vụ bổ trợ khác như chuyên môn các ngành kỹ thuật và kinh tế khác. Điều này chỉ có thể làm được khi có sự phối kết hợp giữa ngân hàng với các chuyên gia, các cán bộ tư vấn về nhiều lĩnh vực có liên quan đến một phương án cụ thể nào đó. Ngoài ra ngân hàng nên thành lập tổ thẩm định hoạt động độc lập với phòng tín dụng để kiểm tra, đánh giá hồ sơ tín dụng, giúp đỡ tư vấn cho cán bộ tín dụng tạo điều kiện để bộ phận lãnh đạo ra quyết định cho vay. Nếu có điều kiện ngân hàng nên cử các cán bộ thẩm định đi học các lớp ngắn hạn trong nước hoặc ngoài nước nhằm nâng cao trình độ cũng là một biện pháp hữu hiệu. Tiếp tục đa dạng hoá các hình thức cho vay Trong hoạt động tín dụng ngân hàng ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam có rất nhiều hình thức cho vay. Song hiện nay ở Việt Nam sản phẩm đầu ra của các ngân hàng còn đơn điệu. Các ngân hàng huy động loại nào thì cho vay loại đó chứ không quan tâm tới nhu cầu của các khách hàng mà cụ thể là các DNVVN. Vì thế các DNVVN cần vay vốn trung và dài hạn nhưng bắt buộc phải vay vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến tình trạng lúng túng về tài chính kể cả phải lo đảo nợ khi đáo hạn. Điều này thể hiện tín dụng cho vay ra chưa luân chuyển phù hợp với sự luân chuyển của đối tượng cho vay. Do đó các ngân hàng cần tiếp tục tăng cường đa dạng hoá, mở rộng hơn nữa các hình thức cho vay hợp lý, hiệu quả và phù hợp với DNVVN. Cụ thể như: Cho vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Trong quan hệ buôn bán giữa các doanh nghiệp với nhau thường xảy ra tình trạng mua bán chịu do các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để thu hút khách hàng. Các DNVVN cũng không nằm ngoài quy luật đó. DNVVN đã có ít vốn lại bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn nên càng khó khăn hơn, không có đủ vốn để đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất. Để giúp đỡ các DNVVN khắc phục khó khăn này ngân hàng đã tiến hành cho vay dưới dạng chiết khấu thương phiếu. Với hình thức cho vay này ngân hàng đã tạo điều kiện cho DNVVN không bị gián đoạn trong sản xuất kinh doanh của mình bảo đảm vốn cho tiến trình phát triển. Cho vay có bảo lãnh. Các DNVVN khi vay vốn ngân hàng thường gặp khó khăn về tài sản thế chấp cầm cố. Vì thế các ngân hàng nên mở rộng hình thức cho vay dưới dạng bảo lãnh cho các DNVVN hoặc chấp nhận cho DNVVN vay khi có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đây là một phương thức cho vay rất thiết thực cho các DNVVN trong điều kiện hiện nay. Cho vay gộp các đối tượng cho vay. Theo cách này các đối tượng cho vay được gộp chung lại thành một mà không phân chia thành nhiều đối tượng cho vay chi tiết khi tính toán cho vay như vật tư nguyên liệu, bán thành phẩm, chi phí sản xuất và lưu thông trực tiếp gián tiếp, thành phẩm dự trữ chờ tiêu thụ, vốn trong thanh toán... Phương thức cho vay này phù hợp với tình hình thực tế của các DNVVN do hiện nay các sản phẩm của DNVVN rất đa dạng, vòng quay của sản xuất lưu thông nhanh, gối đầu liên tục, không có ranh giới cụ thể giữa các chu kỳ sản xuất lưu thông từng mặt hàng, lô hàng riêng biệt. Do đó việc tính toán cho vay không thể và cũng không thực sự cần thiết theo từng món riêng tạo cho các DNVVN sự chủ động trong quá trình sử dụng và ra quyết định đối với các món vay. Cho vay theo phần tham gia của vốn tín dụng. Theo phương thức này thì vốn tín dụng bù đắp một phần và trở thành một bộ phận xuyên suốt trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là cách cho vay rất tiên tiến với các đặc điểm cơ bản là mức cho vay không cố định mà có sự tăng giảm theo tổng mức luân chuyển của đối tượng cho vay đồng thời vốn tín dụng tham gia theo một chuỗi liên tục không gián đoạn. Hơn nữa hình thức cho vay này sử dụng một loại tài khoản đặc biệt là tài khoản thấu chi vừa mang nội dung của một tài khoản cho vay vừa mang nội dung của một tài khoản tiền gửi. Với việc sử dụng tài khoản thấu chi các doanh nghiệp sẽ được lợi nhiều hơn là ngân hàng. Về thủ tục vay doanh nghiệp chỉ phải tiến hành lần đầu, các lần tiếp sau chỉ cần lập giấy nhận nợ và giấy rút tiền là được. Cái lợi thứ hai là các khoản thu của doanh nghiệp được ghi vào tài khoản để trả nợ ngay giảm được tiền lãi phải trả ngân hàng và tương ứng với việc giảm mức dư nợ thực tế, ngân hàng sẽ tăng mức dư nợ được vay tiếp của doanh nghiệp. Có thể nói đây là một phương thức cho vay hữu ích đối với mọi loại hình doanh nghiệp trong đó có DNVVN. Tóm lại các phương thức cho vay nói trên là rất hiệu quả thuận lợi đối với DNVVN hơn nữa nghiệp vụ cũng không có gì phức tạp ngân hàng nên nghiên cứu và tiến hành triển khai, mở rộng các hình thức cho vay này làm tăng doanh thu cũng như góp phần vào việc đẩy mạnh hoạt động xúc tiến hỗ trợ cho DNVVN. v Sửa đổi những vướng mắc trong cơ chế, chính sách về cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các ngân hàng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. - Về Quyết định 284/2000/QĐ-NHNN1 của Thống đốc NHNN: Đối tượng cho vay nên xử lý theo hướng chỉ quy định những đối tượng cấm cho vay, tạo thuận lợi hơn cho các TCTD; điều kiện vay vốn cần rõ ràng, chính xác; điều chỉnh thời hạn gia hạn nợ thích hợp; lãi suất cho vay khi có nợ quá hạn phải là lãi suất nợ quá hạn tại thời điểm bị chuyển nợ quá hạn. - Về Nghị định 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ: + Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay nên giao cho TCTD thoả thuận với bên vay chứ không qua một cơ quan nào khác làm trung gian. Cơ sở xác định giá là giá thị trường địa phương hoặc có thể theo khung giá địa phương cộng với hệ số k do TCTD quy định. + Đối với những tài sản có giá trị lớn hơn món vay thì cho phép được thế chấp cho nhiều khoản vay ở nhiều TCTD miễn là tổng giá trị các món vay không vượt giá trị của tài sản đem thế chấp. + Khi thế chấp tài sản gắn liền với đất thì phải thế chấp cả giá trị quyền sử dụng đất cùng với tài sản gắn liền trên đất để việc xử lý tài sản thế chấp được thuận lợi. + Mức vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ tối thiểu là 15% vốn đầu tư vào dự án. v Đẩy mạnh hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng CIC trực thuộc NHNN. Trong thời gian qua các ngân hàng đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu thập thông tin về doanh nghiệp. Các ngân hàng đã không nắm được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như năng lực tài chính hiện có của doanh nghiệp xin vay vốn ngân hàng đặc biệt là thông tin về các tài sản đem thế chấp cầm cố, có những doanh nghiệp dùng một tài sản đem thế chấp ở nhiều ngân hàng trong khi giá trị của tài sản đó chỉ tương đương với một khoản vay. Và khi ngân hàng tiến hành xử lý tài sản thế chấp thì mới biết. Tình trạng này xảy ra là vì sự hoạt động không hiệu quả của Trung tâm thông tin tín dụng CIC, trong đó một phần là do đội ngũ cán bộ của Trung tâm thiếu năng lực, trình độ quản lý và chuyên môn còn hạn chế. Vì vậy NHNN cần đẩy mạnh hoạt động của Trung tâm này nhằm giúp các ngân hàng có đủ thông tin về những doanh nghiệp liên quan và thông tin là chính xác. Các hình thức hỗ trợ trên của ngân hàng đã thiết lập nên mối quan hệ gần gũi thân thiết giữa ngân hàng và DNVVN tạo điều kiện cho cả hai cùng phát triển. Do đó trong thời gian tới các DNVVN sẽ là những khách hàng chiến lược của ngân hàng. 3.2.2.2. Giải pháp của doanh nghiệp Như đã trình bày ở chương 2, các DNVVN đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong đó vấn đề tiếp cận vốn vay ngân hàng là vấn đề nổi cộm nhất, cấp thiết nhất vì khi doanh nghiệp có được nguồn vốn vay từ ngân hàng thì mọi khó khăn khác sẽ được giải quyết kịp thời. Để có thể tiếp cận vốn vay ngân hàng, ngoài sự giúp đỡ hỗ trợ của Nhà nước và ngân hàng, các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình về mọi mặt để đáp ứng, thoả mãn điều kiện vay vốn của ngân hàng. Trong 5 điều kiện vay vốn ngân hàng đã được đề cập tới ở phần lý thuyết thì các DNVVN thường vướng mắc ở các điều kiện về năng lực tài chính, về thế chấp cầm cố tài sản và thiếu các phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Các giải pháp chủ yếu nhằm tháo gỡ những vướng mắc này từ phía doanh nghiệp đó là: v Nâng cao trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp và trình độ tay nghề của lực lượng lao động Một trong những khó khăn hạn chế sự phát triển của DNVVN là trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp và trình độ tay nghề của lực lượng lao động. Phần lớn chủ doanh nghiệp là những người không được đào tạo một cách bài bản chuyên môn, trình độ cao đẳng đại học chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong khi đó đội ngũ lao động chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu sự sáng tạo. Chính vì chưa được trang bị kiến thức đầy đủ và điều kiện để áp dụng các phương thức quản lý sản xuất, quản lý chất lượng sản phẩm tiên tiến nên năng suất lao động của các DNVVN nói chung là thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, tính cạnh tranh kém dẫn đến năng lực tài chính kém cản trở việc doanh nghiệp tiếp cận vốn vay ngân hàng. Vì vậy để khắc phục tình trạng này các doanh nghiệp nên tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho các nhà quản lý doanh nghiệp cũng như đội ngũ lao động những kiến thức, kinh nghiệm mới tiên tiến hoặc tranh thủ sự giúp đỡ của một số trung tâm tư vấn, hỗ trợ DNVVN, các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức khác. Đồng thời các doanh nghiệp còn cần đến một chế độ khen thưởng, xử phạt công bằng, nghiêm minh để khuyến khích người lao động nâng cao trình độ tay nghề phát triển sản xuất, phát triển doanh nghiệp. Nếu làm được như thế các DNVVN sẽ hoạt động hiệu quả và vững vàng hướng tới tương lai. v ứng dụng một cách rộng rãi tin học vào công tác kế toán Như chúng ta đã biết chức năng cơ bản của kế toán là cung cấp thông tin về tình hình kinh tế - tài chính trong doanh nghiệp cho các nhà quản lý. Việc thực hiện chức năng này có tốt hay không trước hết phụ thuộc vào tính thường xuyên, kịp thời và chính xác của thông tin. Ngày nay theo đà phát triển của công nghệ thông tin việc đưa máy vi tính vào sử dụng trong công tác kế toán đã tương đối phổ biến. Tin học hoá công tác kế toán không chỉ giải quyết được vấn đề xử lý và cung cấp thông tin nhanh chóng thuận lợi mà nó còn làm tăng năng suất lao động của bộ máy kế toán tạo cơ sở để tinh giảm bộ máy nâng cao hiệu quả hoạt động kế toán. Các báo cáo tài chính (BCTC) doanh nghiệp là sản phẩm của công tác kế toán doanh nghiệp. Muốn vay vốn ngân hàng các doanh nghiệp thường xuyên phải gửi các BCTC cho ngân hàng để ngân hàng tiến hành thẩm định xem xét từ đó đưa ra quyết định có cho doanh nghiệp vay hay không. Thế nhưng các BCTC mà doanh nghiệp gửi cho ngân hàng phần lớn đều thiếu chính xác không được kiểm toán, sai lệch so với thực tế khá lớn, lỗ thì báo cáo là lãi. Để cải thiện tình hình này doanh nghiệp nên ứng dụng một cách rộng rãi tin học vào công tác kế toán đặc biệt là việc sử dụng những chương trình phần mềm kế toán hữu hiệu đồng thời phải luôn luôn đổi mới hoàn thiện các phần mềm này cho tốt hơn. v Xây dựng được các phương án sản xuất kinh doanh khả thi Phương án sản xuất kinh doanh khả thi là những phương án sau khi thực hiện sẽ thu được doanh thu và doanh thu này phải lớn hơn tổng chi phí đã bỏ ra tức là phương án tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp có những ý tưởng hay độc đáo, có khả năng thành công về phương diện tài chính, phương diện thị trường và phương diện kỹ thuật song việc biến những ý tưởng đó thành hiện thực còn là một khoảng thời gian dài do các DNVVN không có đủ vốn, trình độ để thực hiện. Về vốn, doanh nghiệp cần sự hỗ trợ từ phía ngân hàng, muốn vậy họ phải chứng minh cho ngân hàng thấy được tính khả thi của phương án. Thế nhưng rất nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn ở công đoạn này do không biết phải trình bày như thế nào, phải bắt đầu từ đâu và phương án gồm những vấn đề gì dẫn đến sự lúng túng khi trình bày. Do đó trước tiên là cần nâng cao trình độ của chủ doanh nghiệp mà chủ yếu là kiến thức về quy trình lập dự án hoặc doanh nghiệp cũng có thể thuê tư vấn khi lập dự án tránh tình trạng các doanh nghiệp thường bỏ phí những ý tưởng độc đáo hạn chế sự phát triển của nền kinh tế. Bởi vì đối với DNVVN vốn ít mà rủi ro trong kinh doanh còn nhiều thì dự án kinh doanh có hiệu quả lại càng có ý nghĩa quyết định đối với "tuổi thọ" của doanh nghiệp. Kết luận DNVVN với những lợi thế nhất định của quy mô nhỏ đã cố gắng phát huy những tiềm lực sẵn có đóng góp tích cực vào công cuộc CNH-HĐH đất nước. Nhưng DNVVN vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc trong tiến trình phát triển và hội nhập của đất nước như đã trình bày ở chương hai. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức kinh tế, các trung tâm tư vấn hỗ trợ đã làm dịu đi những khó khăn này. Hiện nay các NHTM đã mạnh dạn hơn trong việc cho DNVVN vay giải quyết tình trạng đóng băng vốn trong ngân hàng với một cơ chế cho vay linh hoạt phù hợp hơn với DNVVN. Qua việc nghiên cứu phân tích đề tài, em đã được bổ sung thêm những kiến thức về DNVVN, về ngân hàng với những hoạt động cơ bản của ngành. Những kiến thức này là rất hữu ích, đặc biệt là đối với chúng em - những cử nhân kinh tế trong tương lai bởi doanh nghiệp ở nước ta chủ yếu là DNVVN (chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp cả nước). Hy vọng rằng những giải pháp, kiến nghị nêu lên trong đề tài sẽ có giá trị đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như ngành ngân hàng góp phần cải thiện mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp trở nên tốt đẹp và gần gũi hơn. Tài liệu tham khảo I. Sách 1. Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam đến năm 2005- PGS.TS Nguyễn Cúc, NXB Chính trị quốc gia năm 2000 2. Chính sách, pháp luật và một số giải pháp hỗ trợ DNVVN ngoài quốc doanh, NXB Đại học quốc gia Hà Nội năm 2000 3. Các tổ chức hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 4.Tạo lập môi trường tài chính bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp-PGS. TS Hoàng Công Thi, Phạm Thị HồngVân, NXB Tài chính tháng 2/2000 5.Những quy định pháp luật về DNVVN- Trần Nam Sơn, Lê Hải Anh, NXB Lao động năm 2000 6. Phát triển DNVVN: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển DNVVN ở Việt Nam- Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thu Hoà, NXB Thống kê năm 2001 7. Niên giám thồng kê 2000, NXB Thống kê năm 2001 8. Những điều cần biết về vay vốn ngân hàng- Lê Thanh Châu, NXB Thành phố HCM năm 2001 9. Ngân hàng Công thương 1988-2000 II. Tạp chí 1. Ngân hàng 2. Tài chính 3. Thông tin tài chính 4. Thị trường tài chính tiền tệ 5. Nghiên cứu kinh tế 6. Phát triển kinh tế 7. Kinh tế và dự báo 8. Thương mại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0111.doc
Tài liệu liên quan