Chuyên đề Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam ( VPBank )

Trong thời điểm hiện tại, nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang có những biến chuyển lớn. Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề toàn cầu hoá đã và đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta, đặc biệt là ngành ngân hàng – tài chính. Nhũng tác động của ngành ngân hàng – tài chính tới nền kinh tế của một quốc gia vô cùng to lớn, nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế đồng thời cũng chịu tác động của nền kinh tế. Đây là một ngành hết sức nhạy cảm. Chính vì vậy nên việc giành những mối quan tâm đúng mức tới ngành ngân hàng là viêc nên làm đối với một quốc gia. Nếu có những rủi ro với hệ thống ngân hàng , ngay lập tức sẽ dẫn đến rủi ro với hệ thống tài chình và ảnh hưởng tới tất cả các ngành còn lại trong nền kinh tế. Việc quản lý rủi ro tín dụng với ngân hàng là vô cùng quan trọng. Đó là mục tiêu chung của các NHTM cổ phần cũng như các NHTM ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay nhằm tiến tới mục tiêu trở thành những định chế tài chính hiệu quả, an toàn và lành mạnh thúc đẩy cho quá trình phát triển kinh tế của nước ta diễn ra một cách thuận lợi và bền vững.

doc76 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1160 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam ( VPBank ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của từng khoản vay được đánh giá là quan trọng nhất. Chính vì thế VPBank đã đưa ra các bảng xếp hạng tín dụng phù hợp để đánh giá rủi ro cho từng khoản vay. Các bảng này được phân loại theo từng đối tượng vay khác nhau: Khách hàng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại dịch vụ, có báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Khách hàng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại dịch vụ, có báo cáo kết quả kinh doanh chưa được kiểm toán. Khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực trực tiếp sản xuất, báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực trực tiếp sản xuất, báo cáo tài chính chưa được kiểm toán. Khách hàng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xay dựng, báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Khách hàng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, báo cào tài chính chưa được kiểm toán. Khách hàng cá nhân. Bảng đánh giá tài sản bảo đảm: TT Loại tài sản bảo đảm Đánh giá 1 tiền gửi, thể tài khoản tại VPBank ( riêng với loại tài sản này, VPBank xét cho vay mà không cần xem xét kết quả xếp hạng rủi ro tại phần met, đồng thời áp dụng mức lãi suất ưu đãi ) Mạnh 2 Giấy tờ có giá do Chính phủ hoặc các NHTM Quốc doạnh phát hành 3 bất động sản tại các quận của đo thị lớn trực thuộc TW 4 Ôtô mới 100% 5 Bảo lãnh của Chính Phủ hoặc NHNN, NHQD Trung bình 6 Bất động sản tại các huyện ngoại thành ven đô thị lớn trực thuộc TW hoặc các quận của đô thị lớn trựct thuộc tỉnh 7 Các phương tiện vận chuyển đã qua sử dụng 8 Hàng hoá thông thường dễ chuyển nhượng 9 bất động sản ở ven đô thị trực thuộc tỉnh hoạc bất động sản khác ở nông thôn yếu 10 Hàng hoá không thông dụng hoặc tồn kho lâu ngày 11 Máy móc thiết bị sản xuất 12 bảo đảm bằng các khoản phải thu hoặc tài sản bảo đảm khác Bảng chấm điểm khách hàng: Điểm xếp loại Đánh giá Nhóm rủi ro 87 – 100 A+ Xuất Sắc Thấp 74 – 86 A Tốt Thấp 61 – 73 B+ Trung Bình Trung Bình 48 – 60 B Dưới trung bình Trung bình 35 – 47 C+ Rủi ro không thu hồi cao Cao 0 - 34 C Rủi ro không thu hồi được rất cao Cao Đánh giá tín dụng kết hợp: Xếp hạng rủi ro A+/ A B+ / B C+ / C rủi ro thấp rủi ro trung bình rủi ro cao Xếp hạng TSBĐ mạnh xuất sắc tốt trung bình/ từ chối trung bình tốt trung bình yếu trung bình trung bình/ từ chối từ chối Trong mỗi bảng xếp hạng tín dụng có nhiều yếu tố chấm điểm khác nhau, điểm tuyệt đối dành cho khách hàng là 100 và điểm tối thiểu là 20, thậm chí là âm với khách hàng cá nhân. Tuy nhiên, kết quả chấm điểm trên cũng chỉ đánh giá được phần nào chất lượng của khoản tín dụng chứ chưa phải là kết luận cuối cùng. Để có được báo cáo chính xác để trình bày với hội đồng tín dụng, nhân viên tín dụng cần phải có thêm đánh giá về tài sản bảo đảm. Kết hợp hai đánh giá này lại với nhau để đi tới kết luận cuối cùng về chất lượng khoản tín dụng. Việc xét duyệt tín dụng thực hiện qua ba cấp: nhân viên tín dụng- phòng phục vụ khách hàng- ban tín dụng ( hoặc hội đồng tín dụng tuỳ theo qui mô của khoản vay). Trong đó cán bộ tín dụng là người trực tiếp làm việc với khách hàng và có trách nhiệm với khoản vay cho tới khi nó được thu hồi, phòng phục vụ khách hàng đóng vai trò là bộ phận tư vấn đồng thời kiểm tra lại một lần nữa quyết định của nhân viên tín dụng ban tín dụng hay hội đồng tín dụng là nơi xem xét, kiểm tra lại và phê duyệt khoản tín dụng. Việc thực hiện theo cơ chế ba cấp như vậy rất hiệu quả, thứ nhất khoản vay được đánh giá một cách khách quan không phải chỉ là cái nhìn chủ quan của nhân viên tín dụng, thứ hai là khoản vay được xem xét kỹ lưỡng qua nhiều lần, thứ ba là rất công bằng vì công việc của các cấp là hoàn toàn độc lập với nhau. Ngoài ra việc tách phòng tái thẩm định tài sản bảo đảm ra khỏi phòng tín dụng là rất hay vì như vậy tài sản bảo đảm được đánh giá chính xác hơn và giảm thiểu được công việc đối với cán bộ tín dụng, hạn chế được rủi ro phát sinh từ chủ quan của nhân viên tín dụng. Việc định giá tài sản thế chấp được VPBank tiến hành thoả thuận với khách hàng dựa trên cơ sở giá cả thị trường ở thời điểm hiện. Điều này nhằm tạo điều kiện cho khách hàng tăng khả năng vay vốn của mình.vớ những hình thức cho vay thế chấp bằng tài sản thế chấp có độ rủi ro cao và tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay ngân hàng buộc khách hàng phải mua bảo hiểm cho tài sản còn với những tài sản khác thì tư vấn và vận động khách hàng mua bảo hiểm vừa phòng tránh rủi ro cho khách hàng và giảm rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Sau khi tiến hành giải ngân khoản vay ngân hàng tiến hành kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích và phương án đã đề ngân hàng xét duyệt hay không. Việc thu thập các nguồn thông tin qua kênh nội bộ cũng như kênh ngoài ngân hàng được triển khai triệt để giúp ngân hàng thu được nguồn thông tin chính xác, nhanh nhạy, kịp thời sử lý các tình huống xấu có thể dẫn tới rủi ro tín dụng. Đây là giai đoạn quan trọng quyết định hiệu quả của khoản vốn vay vì các dự án có được thực hiện tốt thì các chủ doanh nghiệp mới có luồng tiền để thanh toán cho ngân hàng. Vậy nên ngân hàng cần thể hiện vai trò tư vấn của mình đối với doanh nghiệp trong giai đoạn này, nó sẽ có lợi cho cả hai bên, ngân hàng và doanh nghiệp. Định kỳ ngân hàng trích lập quĩ dự phòng rủi ro cho các khoản tín dụng.Tỷ lệ trích lập dự phòng phụ thuộc vào giá trị khoản nợ xấu, tuỳ theo thời gian quá hạn và qui định của NHNN. VPBank có nguồn nhân lực lớn, hùng mạnh với sức trẻ và một trình độ tương đối đông đều. Với khoảng 78% tổng nhân sự VPBank có trình độ đại học. Công tác đánh giá nhân sự định kỳ và bình bầu cá nhân xuất sắc đã khuyến khích nhân viên công tác tốt và muốn gắn kết lâu dài với ngân hàng. Ngân hàng cũng có chế độ đãi ngộ nhân tài tốt nên gần đây đã thu hút được nhiều cán bộ được đào tạo ở nước ngoài mang đến một luồng sinh khí mới, lãnh đạo ngân hàng mong muốn những người trẻ tuổi, tài cao này sẽ làm thay đổi bộ mặt và thực hiện được mục tiêu đặt ra của ngân hàng. Hàng tháng ngân hàng còn phải lập các báo cáo chung về tình hình hoạt động của mình, những thành tích và những hạn chế để rút ra bài học kinh nghiệm ngay lập tức. Điều này cho thấy nhận thức của tập thể cán bộ lãnh đạo và nhân viên của VPBank trong hoạt động của mình, quyết tâm trở thành ngân hàng có chất lượng hàng đầu, ý thức trách nhiệm luôn được đặt lên trên hết có như vậy mới hạn chế được những rủi ro tín dụng với nguyên nhân từ chính ngân hàng. Vừa qua VPBank ký hợp đồng hợp tác với cổ đông chiến lược là OCCB Bank- là tập đoàn tài chính lớn của Singapore. OCCB có mạng lưới lớn gồm 310 chi nhánh và văn phòng trên đại diện tại 15 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, bao gồm: Singapore, Malaysia, Indonexia, Trung Quốc, Hồng Kông, Brunay, Nhật, Úc, Anh và Mỹ. Việc lựa chọn OCCB là cổ đông chiến lược sẽ giúp VPBank mở rộng hợp tác với nước ngoài, tiếp cận với công nghệ và cách thức làm việc chuyên nghiệp của họ trong việc quản lý và hạn chế rủi ro.Bởi lẽ họ là một tập đoàn lớn manh, đã có kinh nghiêm tham gia vào các thị trường lớn nhất trên thế giới thì công tác quản lý của họ phải vô cùng chặt chẽ. Đó chính là điều mà VPBank tiếp thu được từ đối tác của mình. 2.3.2, Những hạn chế và nguyên nhân: 2.3.2.1, Hạn chế: Tuy đã hạn chế được tỷ lệ rủi ro tín dụng ở mức thấp nhưngVPBank vẫn phải sử dụng tới quĩ dự phòng rủi ro để bù đắp tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra: Năm 2005 là 6.601 triệu đồng, năm 2006 là 7.214 triệu đồng và năm 2007 là 7.545 triệu đồng chứng tỏ là công tác quản lý rủi ro tín dụng của VPBank vẫn có những vấn đề cần phải tăng cương hơn trong thời gian tới. Mặc dù tổng dư nợ tăng thì việc rủi ro tăng cũng là chuyện bình thường nhưng phải trích lập quĩ dự phong để bù đắp rủi ro cho thấy công tác thẩm định và quản lý tài sản bảo đảm của VPBank là chưa được tốt. 2.3.2.2, Nguyên nhân: Mức độ hạn chế rủi ro tín dụng của VPBank không đạt được như kế hoạch nguyên nhân là do: Thứ nhất, ngân hàng chưa có chính sách tín dụng cho từng thời kỳ. Chính sách tín dụng của VPBank về đường lối chung là có hiệu quả, thể hiện ở kết quả đạt được trong giai đoạn vừa qua. Song chúng còn khá chung chung, chưa cụ thể hoá với từng trường hợp cụ thể. Như thời gian vừa qua, khi NHNN tăng tỷ lệ dự trữ và yêu cầu mua trái phiếu chính phủ thì VPBank cũng như những NHTM khác đều rơi vào tình trạng thiếu VNĐ để thực hiện cho vay và buộc phải nâng lãi suất huy động lên cao đến 12%, như vậy sẽ làm cho lãi suất cho vay cũng tăng cao và tăng khả năng xảy ra rủi ro tín dụng bởi khả năng thanh toán của các doanh nghiệp giảm sút. Qua thực tế trên ta thấy đứng trước một vài sự thay đổi về chính sách các NHTM Việt Nam nói chung và VPBank đã thể hiện sự lúng túng của mình và dẫn tới việc chịu ảnh hưởng một cách thụ động theo thị trường. Thứ hai, chất lượng thẩm định khách hàng của ngân hàng chưa cao. Có thể nói thẩm định là khâu quan trọng nhất trong qui trình tíu dụng. Nếu như tại khâu này cán bộ tín dụng làm việc không chính xác, dẫn đến những sai sót vể : chất lượng của khách hàng, giá trị của tài sản bảo đảm…thì ảnh hưởng rất nhiều đến chât lượng thẩm định tín dụng. Trên thực tế việc thẩm đinh tín dụng trước khi cho vay của VPBank còn dựa nhiều vào các báo cáo tài chính, các phương án kinh doanh do khách hàng vẽ ra, không chính xác khiến khoản vay có độ rủi ro cao. Đó là nguyên nhân vì sao có những dự án lúc đầu đưa ra để vay vốn thì rất tốt nhưng khi đi vào hoạt động thì dẫn đến thua lỗ. Chính vì vậy cần phải đánh giá năng lực tài chính và phẩm chất đạo đức của khách hàng qua hiểu biết thực sự về khách hàng. Điều này vẫn chưa được coi trọng đúng mức ở VPBank nên việc hạn chế rủi ro tín dụng cũng bị ảnh hưởng rất nhiều. Ngoài ra việc thẩm định trước khi cho vay của ngân hàng vẫn còn phụ thuộc lớn vào vấn đề tài sản thế chấp. Còn theo qui tắc về đảm bảo an toàn tín dụng thì các yếu tố quan trọng là: hiệu quả thẩm định của phương án xin vay, năn lực tài chính của khách hàng rổi mới tới giá trị của tài sản bảo đảm. Việc chỉ dựa vào tài sản bảo đảm làm gia tăng khả năng khách hàng có ý định lừa đảo cuả khách hàng đối với ngân hàng. Nhiều khi việc khách hàng có tài sản bảo đảm lớn được ngân hàng đánh đồng với việc có năng lực tài chính tốt, đó chỉ là cái nhìn phiến diện của cán bộ tín dụng nó ảnh hưởng tới việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng sau này không được chính xác. Trên thực tế có những tài sản đã được thế chấp tại ngân hàng này lại được đem thế chấp tại ngân hàng khác, khi phát hiện ra thì dù giải quyết cách này hay cách khá thì thiệt hại vẫn thuộc về ngân hàng. Đây không chỉ là khe hở trong qui trình thẩm định của riêng VPBank mà còn của các NHTM Việt Nam nói chung. Tiếp đến là phải kể đến vấn đề phương pháp phân tích tài chính của khách hàng ở VPBank mới chỉ được thực hiện theo phương pháp tỷ số, còn các thông số tiêu chuẩn dùng để so sánh thì lại dựa chủ yếu vào kinh nghiệm của bản thân ngân hàng. Tức là ngân hàng đã không làm đúng với qui trình của phương pháp phân tích tài chính là phải so sánh các tỷ số giữa các nảm và với chỉ số trung bình của toàn ngành. Ngoài ra việc dùng phương pháp Dupont để phân tích cặn kẽ nguyên nhân thật sự của các vấn đề trong tài chính doanh nghiệp của khách hàng cũng chưa được thực hiện như là một bước bắt buộc trong qui trình phân tích. Qua những điều trên ta thấy rằng qui trình phân tích tín dụng của VPBank chưa được hoàn thiện. Điều này có nghĩa là thêm một nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng. Thứ ba, hệ thống thông tin của VPBank chưa hoàn thiện: Như những phân tích ở trên ta đã thấy việc có một hệ thống thông tin đầy đủ góp phần quan trọng vào việc quản lý rủi ro tín dụng. Nguồn thông tin sử dụng trong ngân hàng là nguồn thông tin có tính chất hai chiều, nghĩa là: ngân hàng luôn cần thu thập các thông tin đầy đủ về khách hàng và có bộ phận tổng hợp, các nhân viên tín dụng có thể thu được những thông tin cơ bản về khách hàng thông qua bộ phận quản lý thông tín này; thứ hai là nguồn thu thập từ phía chính cán bộ tín dụng. họ là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và hoàn thiện thêm thông tin về khách hàng. Thực hiện được hai luồng thông tin này một cách độc lập với nhau sẽ giúp cho ngân hàng có được những thông tin chính xác đồng thời không bị ảnh hưởng đến nhau. Đôi khi những thông tin thu được là trái chiều, lúc đó đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải thực sự có chuyên môn cao để phân tích được nguyên nhân, đẻ không dẫn đến các kết quả sai lầm như cho vay vơi khách hàng có khả năng trả nợ kém hoặc bỏ qua các khách hàng có tiềm lực với những dự án khả thi. Việc thực hiện nguồn thông tin hai chiều của VPBank còn có những hạn chế nhất định nên làm cho việc ra quyết định cho vay của nhân viên tín dụng còn dựa vào cảm tính chủ quan nên gây ra rủi ro cao với ngân hàng. Thứ tư, hình thức cho vay chưa phong phú: Trong hai năm trở lại đây, VPBank tăng cường các hình thức tín dụng của mình tuy nhiên so với các ngân hàng khác thì vẫn chưa có những dịch vụ đặc sắc hơn, mới chỉ dừng lại ở thêm một vài tiện ích mới chứ chưa có những điều khác biệt. Điều này có nghĩa là hoạt động cho vay của VPBank chưa đa dạng chưa đạt được sự canh tranh cần thiết trong khi đa dạng hoá lại là một biện pháp hạn ché rủi ro. Chính vì thế nên đây là nguyên nhân làm giảm chất lượng hạn chế rủi ro ở VPBank. Tuy đã có những thay đổi đáng kể so với thời kỳ trước đây và thu được những kết quả đáng khích lệ nhưng không phải là không có những mặt chưa được và còn kém.Vì vậy nên lãnh đạo ngân hàng vẫn xác định là luôn luôn phải đổi mới và dần hoàn thiện ngân hàng mình để tiến tới đưa VPBank trở thành NHTM hàng đầu Việt Nam. Chương ba: một số biện pháp nhằm tăng cường hạn chế rủi ro tín dụng tại VPBank : 3.1, Định hướng phát triển hoạt động tín dụng của VPBank : VPBank tiếp tục duy trì chiến lược ngân hàng bán lẻ, tập trung vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ gia đình và các cá nhân. Để xây dựng VPBank trở thành một ngân hàng bán lẻ hàng đầu ở khu vực phía Bắc và tiến tới là ngân hàng thuộc nhóm dẫn đầu trong hệ thống ngân hàng TMCP trong cả nước theo định hướng chiến lược của HĐQT, trong năm 2008 VPBank sẽ tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm sau: Phấn đấu mức tăng trưởng hàng năm với dư nợ là 30%. Dư nợ tín dụng trong năm 2008: 20.000 tỷ Tỷ lệ nợ xấu: <1%. Một số chỉ tiêu đặt ra tới năm 2010: Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu hoạt động của VPBank từ năm 2008 – 2010 Khoản mục 2008 2009 2010 Tổng tài sản 30.000 49.500 79.600 Tổng nguồn huy động 24.000 35.000 55.000 Tổng dư nợ 20.000 26.000 33.800 Tỷ lệ nợ quá hạn <1%. <1%. <1%. Vốn điều lệ 3.000 4.000 5.000 Lợi nhuận ròng trước thuế 550 850 1.100 Mạng lưới 133 170 200 3.2, GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TẠI VPBANK Nhận thức được hậu quả của rủi ro tín dụng là hết sức to lớn nên trong những năm gần đây lãnh đạo và cán bộ nhân viên của VPBank đã tiến hành nhiều biện pháp để hạn chế rủi ro tín dụng và đã đạt được những thành công nhất định: Doanh số cho vay và dư nọ đều tăng nhanh qua các năm 2005, 2006, 2007 và dự kiến tiếp tục tăng trong những năm tiếp. Tỷ lệ nợ quá hạn giảm nhanh, rõ rệt so với thời kỳ trước năm 2004 và giữ ổn định trong các năm từ đó trở lại đây. Kết cấu dư nợ tương đối hợp lý, các chỉ số an toàn đều đáp ứng được yêu cầu của NHNN. Tuy vậy với mục tiều trở thành một NHTM hàng đầu thì hạn chế rủi ro tín dụng là việc phải làm thường xuyên, liên tục và ngày càng phải nâng cao hơn. Có như vậy uy tín của VPBank mới được nâng cao hơn và có chỗ đứng vững chắc trong thị trường tài chính – ngân hàng ngày càng trở nên khó tính. 3.2.1, Đưa ra các chính sách tín dụng cụ thể và phù hợp với từng thời kỳ: Chính sách tín dụng thể hiện phương châm, định hướng của ngân hàng nên đưa ra chính sách tính dụng như thế nào là phù hợp là câu hỏi làm đau đầu các nhà quản trị ngân hàng.Chính sách tín dụng được đưa ra cho cả thời kỳ nhưng trong mỗi thời kỳ cụ thể, hoàn cảnh cụ thể việc áp dụng chính sách đó là khác nhau nên ban lãnh đạo cần thường xuyên nắm bắt tình hình cụ thể để có những biến đổi hợp lý. Thời gian gần đây VPBank đã áp dụng những mô hình tín dụng của đối tác chiến lược của họ là tập đoàn tài chính lớn nhất Singapore – OCCB. Đó là điều kiện thuận lợi giúp cho VPBank hoàn thiện chinh sách tín dụng của mình theo tiêu chuẩn quốc tế tuy nhiên Singapore và Việt Nam dù sao cũng có những điểm khác nhau về môi trường, thể chế và qui mô thị trường nên cần có những thay đổi phù hợp với tình hình của Việt Nam hiện nay. Đồng thời, trong thời kỳ những năm bản lề của hôi nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì việc có nhiều diễn biến phức tạp của môi trường kinh doanh là hoàn toàn không thể tránh khỏi nên để có những chính sách hợp lý VPBank cần có những cán bộ giỏi với khả năng định hướng, dự báo tình hình kinh tế vĩ mô. Ngoài việc thực hiện tốt nghiệp vụ của mình những cán bộ tín dụng cũng cần phải có cái nhìn tổng quát về tình hình thị trường như vậy mới có thể có những quyết định cho vay hợp lý hạn chế được rủi ro tín dụng cho ngân hàng. 3.2.2, nâng cao chất lượng phân tích - thẩm định tín dụng: Công tác thẩm định chất lượng khách hàng và tính khả thi của các dự án góp phần quan trọng trong việc phòng chống và hạn chế rủi ro của ngân hàng. Nâng cao chất lượng thẩm định là nâng cao chất lượng nguồn thông tin của ngân hàng, nâng cao chất lượng của cán bộ tín dụng, tăng cường áp dụng các mô hình hiện đại để phân tích thông tin trong các thông số kỹ thuật. Để thưc hiện tốt việc phân tích tín dụng cần phải tập trung phân tích các vấn đề trọng tâm sau đây: Năng lực tài chính của khách hàng: Căn cứ vào các giấy tờ chứng minh tư cách pháp lý của khách hàng. Đó là các loại giấy tờ: giấy phép thành lập, đăng ký kinh doanh, chứng nhận người đại diện pháp luật của doanh nghiệp. Những giấy tờ đó cần được kiểm tra xem xét kỹ xem có đúng với qui định của các luật có liên quan: Luật doanh nghiệp , luật dân sự, luật ngân hàng… Năng lực tài chính của khách hàng: Để có được các thông tin về năng lực tài chính của khách hàng cần phải dựa vào hai nguồn thông tin đó là: một phần do khách hàng cung câp và một phần lớn do thu thập được từ bên ngoài. Các báo cáo thu được càng đầy đủ các năm các thời kỳ thì lại càng chính xác. Ngoài ra cần tận dụng nguồn thông tin liên ngân hàng để có thể biết rõ về lịch sử quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng khác và ngân hàng mình ra sao. Việc thực hiện các khâu này chủ yếu là do cán bộ tín dụng thực hiện nên dễ dẫn đến những sai sót do khối lượng công việc quá lớn chính vì vậy nên cần bố trí có thêm các cán bộ trợ giúp cán bộ tín dụng. Hiệu quả của phương án vay vốn : Nguồn thu từ phương án vay vốn chính là nguồn trả nợ đầu tiên cho ngân hàng. Chính thế nên điều không thể thiếu được là cần phải xem xét lợi nhuận thu được và tính khả thi của dự án đó. Trước tiên, để nâng cao chất lượng thẩm định dự án cần đòi hỏi người thẩm định phải có kiến thức kỹ càng về tài chính doanh nghiệp và thẩm định dự án ngoài ra còn phải nắm được nhưng qui định của Nhà nước liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Cán bộ thẩm đinh phải thường xuyên cập nhập các thông tin về: chính sách đầu tư và hợp tác của Chính Phủ, qui định của Nhà nước về tiền thuê đất, sử dụng đất, qui định về qui hoạch, về chính sách đãi ngộ với từng loại hình doanh nghiệp, về chế độ tính khấu hao tài sản cố định… Ngoài ra trong những trường hợp dự án liên quan đến nhiều ngành nghề phức tạp thì cán bộ thẩm định còn phải bổ sung những kiến thức về các ngành nghề đó. Ngoài ra một thực tế VPBank gặp phải đó là việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa và nhỏ có tuổi đời ít thì không có kinh nghiệm trong việc lập các dự án đầu tư, chính vì lẽ đó nên có nhiều dự án không đạt chỉ tiêu thực ra là vì không biết cách lập nếu vì như thế mà không cho vay được thì rất lãng phí những dự án khả thì. Vì vậy nên các cán bộ tín dụng không chỉ đóng vai trò thẩm định mà còn là những nhà tư vấn cho các doanh nghiệp. Họ sẽ phải hướng dẫn cho các doanh nghiệp cách thức lập phương án sản xuất, phương án trả nọ, về thủ tục, hớng dẫn họ cách tính toán…từ đó ngân hàng lập kế hoạch cho vay tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất và trả nợ cho ngân hàng. Phân tích dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh tới phương án vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng: Việc chịu ảnh hưởn và tác động của môi trường là không thể né tránh nên việc dự báo ảnh hưởng đó là việc cần thiết phải thực hiện. Để thực hiện tốt việc này thì đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có khả năng tổng hợp và phân tích tốt về: thực trạng đang diễn ra trong từng ngành nghề và nguyên nhẫn dẫn đến nó. Những thông số kỹ thuật về sản lượn, giá cả, mức độ hấp dẫn của nhóm ngành nghề này, qui luật tác động của thị trường tới sự phát triển của ngành. Các chỉ số kinh tế vĩ mô của đất nước như : GDP, GNP, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, chỉ số tiêu dùng, tình hình cán cân thương mại… và sự liên hệ của các chỉ số đó với thế giới. Sụ thay đổi của chính sách pháp luật , thể chế và chính trị trong thời gian cho vay. Qua những thông tin trên cán bộ tín dụng sẽ có được cái nhìn tổng quát về diễn biến chung của thị trường trogn thời gian vay. Từ đó dự đoán chiều hướng biến đổi của thị trường và sẽ có những quyết định hợp lý về việc cho vay. Đánh giá các nguồn đảm bảo của khoản vay: Đây chính là nguồn thu thứ hai của ngân hàng khi mà khách hàng không có khả năng trả nợ. Chính vì vậy nên việc thẩm định tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong góp phần hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Tại VPBank có phòng tái thẩm định tài sản bảo đảm từ đó có thể thấy việc quan trọng của việc đánh giá tài sản bảo đảm. Qui trình thẩm định phải được thực hiện theo các bước: thu thạp hồ sơ pháp lý, giấy tờ sở hữu có đảm bảo được tiêu chuẩn của tài sản bảo đảm; tiến hành phân tích tài sản thế chấp theo các phương pháp đánh giá; kết luận về giá trị của tài sản bảo đảm. Ở VPBank thì việc thực hiện các bước này đã được tiến hành khá đầy đủ song việc đưa ra mức giá thì chưa được hợp lý lắm, chưa bám sát giá thị trường. Ví như giá đất trên thị trường so với khung giá mà Nhà nước qui định có sự chênh lệch khá lớn nên đôi khi dẫn đến thiệt thòi cho khách hàng có thể vay những khoản lớn hơn khoản vay được duyệt cho vay. Nhưng cần chú ý một vấn đề nữa là tài sản bảo đảm cũng chỉ là nguồn thu sau nếu doanh nghiệp không trả nổi nợ nên nó không phải là yếu tố quan trọng nhất, quan trọng là việc ngân hàng cần đánh giá chính xác về hiệu quả của dự án vay vốn. Hoàn thiện hệ thống thông tin : Thông tin tin có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng cho vay tín dụng. VPBank cần thường xuyên thu thập các nguồn thông tin từ bên ngoài, để gây dựng cho mình một hệ thống thông tin sâu rộng về những đối tượng có thể trở thành khách hàng của mình, có như vậy mới có thể chủ động tìm đến khách hàng chứ không phải chờ đợi khách hàng tìm đến với mình. Thông tin có thể được thu từ các cơ quan chuyên cung cấp thông tin như trung tâm thông tín tín dụng NHNN ( CIC ), từ các tổ chức tín dụng. từ các nguồn thông tin khác trên các phương tiện thông tin đại chúng… Tuy nhiên ở phạm vi rộng các kênh thông tin cũng khó có thể đầy đủ và tiếp cận gần, trong khi đó cán bộ tín dụng lại bị giới hạn bời thời gian cho nên cán bộ tín dụng phải thường xuyên lưu ý việc thu thập lưu trữ thông tin một cách khoa học những ngành nghề mình phụ trách. Hiệu quả việc đo lường rủi ro tín dụng phụ thuộc nhiều vào chất lượng của hệ thồng quản lý thông tin. Hoàn thiện khâu đánh giá rủi ro và xếp hạng khách hàng: Mỗi ngân hàng đều có hệ thống đánh giá rủi ro của riêng mình, tuy nhiên mỗi hệ thống đều chứa đựng rủi ro do đánh giá chủ quan của mỗi ngân hàng. VPBank áp dụng qui trình đánh giá rủi ro gồm hai bước: xác định rủi ro và đánh giá rủi ro. + Xác định rủi ro: Nguy cơ rủi ro Một số ví dụ Công cụ phân tích để phát hiện rủi ro Rủi ro hoạt động - Bộ máy quản lý không kiểm soát được hoạ động kinh doanh gây thất thoát tài sản thua lỗ. - Tổ chức sản xuất kinh doanh không hợp lý làm tăng chi phí. - Gián đoạn trong hoạt động sản xuất do trình độ công nghệ hay thiếu nguyên liệu. - Hoạt động bán hàng không có hiệu quả gây giảm doanh thu , giảm lãi. Thẩm định về khách hàng. Rủi ro tài chính - Vốn vay lớn với lãi suất thay đổi làm chi phí lãi vay có thể biến động lớn. - Nghĩa vụ trả nợ lớn hơn nguồn trả nợ. Thẩm định về dự án hay phương án kinh doanh, chú ý yếu tố thời gian và những biến động Rủi ro quản lý - Dòng tiền không đảm bảo - Chi phí tăng. - hiệu quả thấp. Thẩm định khách hàng về số liệu tài chính và hoạt động kinh doanh Rủi ro thị trường - Sự không ổn định về ngành hàng của khách hàng trong nền kinh tế. - Vị trí của ngành còn mới và nhỏ bé. - Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường dẫn đến thua lỗ. - Doanh nghiệp vị các bạn hàng khác lừa gạt - Thẩm định dự án hay phương án kinh doanh. - Thẩm định khách hàng ( chủ yếu nhấn mạnh các yếu tố thị trường ). Rủi ro chính sách Sự thay đổi chính sách không có lợi cho doanh nghiệp - Thẩm định khách hàng. - Thẩm định dự án ( chủ yếu nhấn mạnh vào các yếu tố pháp lý ). + Đánh giá rủi ro: Ngân hàng kết hợp đánh giá rủi ro bằng phương pháp lượng hoá và phương pháp dựa vào các chỉ tiêu do kinh nghịêm thu được: VPBank cần tiếp tục xây dựng mô các mô hình lượng hoá với ngày càng nhiều các chỉ tiêu được đưa vào mô hình để từ những số liệu thu được sẽ cho kết quả phản ánh đúng mức độ rủi ro của khách hàng. Những mô hình lượng hoá này ngày càng phải trở nên tiên tiến hơn để có thể tính toán tới cả những tác động do môi trường bên ngoài. Dựa vào hai môn toán xác suất và kinh tế lượng để giải quyết các tình huống sẽ xảy ra trong tương lai giúp ngân hàng đề phòng tất cả các trường hợp có thể xảy ra. Đây là một trong những phương pháp rất có hiệu quả được các ngân hàng hiện đại nhất trên toàn thế giới áp dụng, chính vì vậy nên trong thời gian tới VPBank cần chú ý tới việc hoàn thiện dần mô hình đánh giá rủi ro theo phương pháp lượng hoá này. Song song với việc áp dụng mô hình lượng hoá thì ngân hàng vẫn cần phải phát huy thế mạnh của công cụ đánh giá rủi ro truyền thống đó là dựa vào kinh nghiệm của mình ngân hàng đưa ra bảng đánh giá mức độ rủi ro của khách hàng thông qua các dấu hiệu quan sát được. Xin được đưa ra một bảng mẫu: Dấu hiệu - kinh doanh có hiệu quả cao. - Các rủi ro đã xác định không có khả năng xảy ra rõ rệt - Kinh doanh có hiệu quả. - Có khả năng xảy ra một số rủi ro nhưng không quan trọng và mức độ thấp. - Kinh doanh có hiệu quả thấp. - Có khả năng xảy ra một số rủi ro nhang mức độ thấp - Kinh doanh không hiệu quả. - Xác định được ít nhất có một rủi ro có khả năng xảy ra cao. Ví dụ Hệ số lãi cao, ổn định hoặc tăng trưởng trong thời gian nhất định. hệ số lãi cao ổn định trong thời gian gần đây. hệ số lãi thấp Lợi nhuận âm hoặc xấp xỉ hoà vốn Rủi ro thấp Mức độ rủi ro tăng dần Rủi ro cao Sau khi có cái nhìn khái quát cán bộ tín dụng tiến hành chấm điểm khách hàng. VPBank áp dụng hệ thống chấm điểm như đã giới thiệu trong biểu…. hệ thống này cho phép nhân viên tín dụng đánh giá khách hàng qua nhiều măt : phẩm chất đạo đưc, khả năng tài chính, tư cách pháp nhân…mà các mô hình trên không thể xác định được Việc xếp hạng khách hàng cần phải được dựa trên kết quả của việc đánh giá rủi ro và đánh giá tài sản bảo đảm. Trên thực tế thì việc đánh gía khách hàng qua hệ thống này vấn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do: Chất lượng của các báo cáo tài chính ở Việt Nam vẫn còn kém, các công ty kiểm toán của chúng ta còn trẻ và thiếu kinh nghiệm nên các doanh nghiệp vẫn có thể dùng nhiều thủ thuật để che mắt được các công ty kiểm toán, chưa kể đến là còn nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa có khả năng mời kiểm toán viên nên việc phân tích tài chính chưa được làm đúng theo trình tự qui định dẫn đến nhiều sai sót. Những yếu tố vô hình như : năng lực của lãnh đạo doanh nghiêp, uy tín của doanh nghiệp đối với các đơn vị cùng ngành … chưa được đánh giá đúng mức Yếu tố thời vụ của sản phẩm, mức tiêu dùng sản phẩm trong tương lai sẽ tăng cao vẫn chưa được đánh giá hợp lý. Để làm cho những nhược điểm này giảm bớt VPBank nên chú ý việc ra các tiêu chuẩn cụ thể dối với đối tượng khách hàng của mình, sử dụng các mô hình lượng hoá với các yếu tố tính toán và phương pháp đánh giá thep kinh nghiệm để đánh giá các yếu tố vô hình không thể hiẹn qua các con số. Như vậy có nghĩa là cần phải kết hợp tất cả các phương pháp để có được kết quả tốt nhất trong việc đánh giá rủi ro đối vói khách hàng. Tuy nhiên thì ngân hàng cũng nên chú ý rằng đôi khi cũng không nên quá cứng nhắc trong việc áp dụng các điểm số này, luôn luôn có một dung sai đối với các trong số để nhân viên tín dụng qua tiếp xúc với khách hàng tự đánh giá theo nhận xét của mình về khách hàng. Để có hiệu quả hơn VPBank nên áp dụng thêm mô hình chất lượng tức là việc đánh giá rủi ro dựa trên 6 yếu tố ( 6C ). Tính cách của người vay: cán bộ tín dụng phải xem xét về tính trung thực của khách hàng, khả năng lãnh đạo và điều hành có dứt khoát, tính cách ngay thằng, thái độ làm việc nghiêm túc… Đó là những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của khoản vay . Năng lực của người vay: năng lực tài chính, năng lực lãnh đạo điều hành, quản lý, năng lực của đội ngũ công nhân lao động tham gia vào phương án vay vốn… Ngoài ra còn phải xem xét tư cách pháp lý của người vay. Dòng tiền mặt: đây là điều hết sức quan trọng và được thực hiện trong khâu thẩm định dự án. Việc xem xét sự ra vào của dòng tiền mặt ảnh hưởng trực tiếp đến phương án trả nợ của khách hàng. Khách hàng có ba nguồn có thể được dùng để hoàn trả khoản vay: dòng tiền từ doanh thu bán sản phẩm, dòng tiền từ bán các tài sản, và các nguồn từ huy động bằng cách phát hành chứng khoán hay đi vay. Trong đó nguồn từ doanh thu bán sản phẩm là nguồn cần phải xem xét kỹ lưỡng nhất. Dòng tiền mặt = Lợi nhuận sau thuế + các chi phí không bằng tiền mặt Ngoài ra các nhà phân tích tài chính cũng sử dụng những cách tính khác để tính dòng tiền mặt: Dòng tiền mặt = lợi nhuận sau thuế + các chi phí không bằng tiền mặt + các khoản phải trả bổ sung – số dư hàng tồn kho và các khoản phải thu bổ sung. Cách tính này giúp cán bộ tín dụng có những phân tích về nhiều nhân tố có thể ảnh hưởng tới dòng tiền mặt hơn. Như tình trạng sử dụng nhiều các khoản tín dụng thương mai, hàng tồn kho gia tăng, các khoản phải thu chưa thu hồi được đều có ảnh hưởng đến dòng tiền mặt của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến phương án trả nợ của khách hàng với ngân hàng. Bảo đảm tiền vay : tiền vay phải được bảo đảm bởi một tài sản hoặc những tài sản có giá trị ròng tương xứng với giá trị của khoản vay. Những yếu tố ảnh hưởng đến giá trị của khoản vay : thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ sử dụng tài sản của khách hàng. Các điều kiện môi trường : những thay đổi về môi trường kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến khản cho vay chính vì thế nhân viên tín dụng cần phải nhạy cảm trong những thay đổi của tình tình kinh tế, những biến động của ngành nghề cho vay, những biến đổi tác động trực tiếp tới khách hàng. Điều này đòi hỏi nhân viên tín dụng phải tích luỹ những thông tin môi trường, chính sách liên tục và phân tích chúng để có hiểu biết sâu rộng. Kiểm soát : đây là nhân tố cuối cùng trong việc đánh giá độ tin cậy của khách hàng. Nhân tố này xem xét xem khách hàng có đáp ứng được những yêu cầu do các cơ quan quản lý ngân hàng đặt ra không. Bên cạnh những phương pháp trên cán bộ của ngân hàng cần phải sử dụng những phương pháp tỷ số, phương pháp DUPONT để phân tích tài chính doanh nghiệp, so sánh giữa thời kỳ này với thời kỳ khác, giữa doanh nghiệp với mặt bằng chung của ngành và tìm ra nguyên nhân của những phân tích đó. 3.2.3, Đa dạng hóa và chuyên môn hóa các dịch vụ: VPBank xác định cho mình nhóm khách hàng mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên trong nhóm khách hàng này lại chia ra làm rất nhiều các đối tượng khác nhau trong nhóm ngành nghề khác nhau nên nhu cầu của họ cũng là khác nhau. Ngân hàng nên tập trung vào nghiên cứu nhu cầu của khách hàng từ đó tìm ra những sản phẩm mới vừa phù hợp vừa khác lạ so với các ngân hàng khác. Phát triển và đa dạng hóa các hình thức tín dụng là một trong những phương pháp hạn chế rủi ro tín dụng có hiệu quả cao. Song đa dạng không có nghĩa là mỗi sản phẩm một chút, hay đơn giản là đưa ra các tên gọi khác nhau cho cùng một loại sản phẩm mà cần phải có những điểm nhấn nét khác biệt khác nhau cho mỗi sản phẩm. Những khác biệt đó thể hiện chính những nhu cầu khác nhau của khách hàng. Để làm được điều này, VPBank cần phải đi sâu xát hơn với nhu cầu của khách hàng bằng cách tiếp cận với họ qua nhiều kênh như: qua những phiều thăm dò thị trường, do tiếp xúc của nhân viên ngân hàng với khách hàng, do kinh nghiệm của nhân viên tín dụng nhận ra những nhu cầu của khách hàng trong khi thực hiện các giao dịch đối với khách hàng. Để đa dạng hóa có chiều sâu thì cần phải nâng cao độ chuyên môn hóa trong hoạt động tín dụng của VPBank. Có nghĩa là trong qui trình tín dụng sẽ có sự góp mặt của nhiều các phòng ban hỗ trợ tín dụng chứ không còn chỉ là một phòng tín dụng như trước kia nữa. Trên thực tế, trong thời gian qua VPBank đã thực hiện tương đối tốt việc đa dạng hóa các loại hình sản phẩm, VPBank có rất nhiều sản phẩm, dịch vụ mới về cả mảng khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp. Đó là: “ cho vay cầm cố bằng cổ phiếu các ngân hàng thương mại”, “ cho vay cầm cố trái phiếu chuyển đổi của các ngân hàng thương mại”, “ cho vay đảm bảo bằng ôtô đã qua sử dụng”. Các nghiệp vụ tái sử dụng đó là: “ nghiệp vụ cho vay đối với các khoản vay mà nguồn tài trợ dự kiến từ tiền bán bất động sản”… dịch vụ thẻ của VPBank trong thời gian gần đây đã có những tiến bộ, điển hình là việc cho ra mắt thẻ chíp đầu tiên tại Việt Nam trong năm 2006 và thẻ đa năng MC2 trong đợt cuối năm 2007. Tuy đã có nhiều tiến bộ so với thời gian trước đây song VPBank vẫn cần phải cố gắng hơn bởi Việt Nam đang trong những năm bản lề của hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường sẽ có diễn ra vô cùng sôi nổi đòi hỏi nhiều dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu đầu tư, sản xuất và mua sắm…bên cạnh đó so với thế giới thì chúng ta còn vô cùng nghèo nàn về dịch vụ ngân hàng. Trong khi mà thế giới đã có dịch vụ thẻ từ những thập niên đầu tiên của thế kỷ trước thì chúng ta đến những năm gần đây mới bắt đầu phát triển chứng tỏ sụ đơn điệu của thị trường. Một thực trạng nữa ở Việt Nam đó là các ngân hàng chưa có thu hút khách hàng bằng những chính sự khác biệt của sản phẩm mà lại cạnh tranh bằng lãi suất là chủ yếu. Lãi suất huy động tăng làm tăng chi phí của ngân hàng dẫn đến việc tăng lãi suất cho vay, như vậy làm giảm hiệu quả khoản vay đối với người vay và nền kinh tế. Ở các nước có nền kinh tế phát triển họ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp với mức lãi suất tối thiểu bù lại họ có nhiều khoản vay hơn, làm tăng thu nhập thêm vào đó là nhiều dịch vụ đi kèm với các khoản vay cũng là những nguồn thu nhập của ngân hàng. Đa dạng hóa để để phòng rủi ro là việc nên làm ở mọi ngân hàng. Đa dạng hóa không chỉ ở hoạt động tín dụng mà trong tất cả các hoạt động của ngân hàng là mục tiêu phấn đấu của VPBank nhắm hạn chế rủi ro tín dụng và giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của VPBank tiến tới đưa VPBank trở thành một NHTM hàng đầu ở Việt Nam. 3.2.4, Nâng cao năng lực của cán bộ nhân viên: Nguồn nhân lực của VPBank có lợi thế về trình độ, về tuổi trẻ nhưng đó cũng chính là yếu thế của ngân hàng. Những người trẻ có lòng nhiệt huyết cao, có quyết tâm cao độ nhưng họ bị hạn chế về kinh nghiệm và điều này sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Vì hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng là kinh doanh tiền dựa trên chữ tín. Chữ tín ở đây là năng lực, phẩm chất của người đi vay. Muốn đánh giá đúng điều đó đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải có một cái nhìn tổng quát, thấu đáo và tường tận để có thể đưa ra một quyết định cho vay sáng suốt và hơp lý. Những điều này không có một trường lớp nào dạy được mà chỉ được đúc rút qua quá trình làm việc và kinh nghiệm sống của bản thân. Để khắc phục điều này thì VPBank đã có những giải pháp đó là tích cực chiêu mộ hiền tài, những cán bộ đã có kinh nghiệm làm việc lâu năm ở các ngân hàng danh tiếng đến làm việc tại VPBank song song với việc đào tạo và dìu dắt những cán bộ trẻ của mình để nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân viên của mình. Hoạt động ngân hàng là hoạt động có nhiều biến chuyển nhất so với các hoạt động khác của nền kinh tế.Trước đây vài năm công nghệ ngân hàng vẫn là một điều rất mới mẻ đối với các ngân hàng của chúng ta nhưng hôm nay cụm từ công nghệ ngân hàng đã không còn xa lạ nữa, các ngân hàng không chỉ cạnh tranh nhau về lãi suất, dịch vụ mà còn cạnh tranh nhau về công nghệ ngân hàng. Công nghệ càng hiện đại thì người vận hành chúng cũng cần phải hiện đại hơn. Chính vì thế nên nhân viên ngân hàng luôn phải thường xuyên học hỏi trau dồi và trang bị kiến thức cho mình một nếu không sẽ trở nên lạc hậu so với sự biến chuyển nhanh chóng đó. Hiện nay các ngân hàng nói chung và VPBank nói riêng cần thường xuyên tổ chức những khoá học để nâng cao kiến thức và kỹ năng cho nhân viên để bắt kịp với tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng thành thạo các kỹ năng tin học để có thể vận hành các chương trình và phần mềm hỗ trợ nghiệp vụ ngân hàng. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra một cách nhanh chóng và trên toàn thế giới như hiện nay đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có trình độ ngoại ngữ khá tốt, ngân hàng cũng cần phải chú ý đến vấn đề này, phải thường xuyên tạo điều kịên cho nhân viên tham gia những khoá học ngoại ngữ, tổ chức ra các diễn đàn các câu lập bộ để họ có thể trao đổi với nhau về những kiến thức còn thiếu để bổ sung cho nhau. Thực hiện được những điều trên ngân hàng sẽ có một đội ngũ nhân viên có chất lượng cao, có trách nhiệm với ngân hàng và hạn chế được những rủi ro tín dụng đến từ các nguyên nhân chủ quan do chính nhân viên ngân hàng mang lại. 3.2.5, Tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Những năm 1996 - 1999 là những năm khủng hoảng đối với VPBank. Trong đó một phần nguyên nhân là do công tác kiểm soát nội bộ không tốt, không chặt chẽ. Qua bài học đó VPBank nhận thức được tầm quan trọng của việc phòng ngừa các rủi ro chứ không phải là khi chúng xảy ra rồi mới lo chống. VPBank đã đề ra nhiều qui định, nguyên tắc để đảm bảo an toàn tín dụng chứ không còn trông chờ vào những qui định của Nhà nước như trước kia nữa. Tuy nhiên những qui định đó vẫn áp dụng trong một thời kỳ dài chứ chưa cụ thể cho từng thời điểm và từng hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy thời gian tới, VPBank phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ hơn nữa đồng thời kết hợp với hoạt động kiểm toán bắt buộc va hoạt động thanh tra của NHNN để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra. Đây là những nguồn thông tin để ngân hàng có thể sớm phát hiện những dấu hiệu của rủi ro tín dụng và những điều còn bất cập trong hoạt động tín dụng của mình. Để nâng cao chất lượng của hoạt động kiểm soát nội bộ,VPBank cần chú ý đến việc tăng cường cả chất lượng và số lượng cán bộ kiểm soát nội bộ phù hợp với qui mô phát triển ngày càng lớn của VPBank. Nâng cao chất lượng cán bộ bằng cách tuyển chọn từ khâu đầu vào là những cán bộ am tường về luật ngân hàng, kinh tế, dân sự, … đồng thời có những kiến thức chuyên sâu về ngân hàng – tài chính, kết hợp với việc đào tạo thường xuyên để cán bộ kiểm soát nội bộ có thể bắt kịp với những qui định mới, công nghệ mới trong công tác kiểm soát nội bộ. 3.2.6, Sử dụng các công cụ tài chính phái sinh: Hiện tại các công cụ tài chính phái sinh còn hết sức mới mẻ tại Việt Nam và việc áp dụng chúng vẫn còn mới mẻ và dè dặt. Nhưng trong tương lai không xa thì việc sử dụng công cụ này như một biện pháp để phòng chống rủi ro tín dụng hữu hiệu.Những công cụ phái sinh thường được sử dụng: chứng khoán hoá các khoản cho vay, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng trao đổi... Chứng khoán hoá các khoản nợ: Đây là kỹ thuật tạo vốn rất phát triển tại các trung tâm tiền tệ lớn trên thế giới tại các thập niên 80 – 90 của thế kỷ trước song đến bây giờ nó vẫn là một trong những biện pháp rất hay để phòng chống rủi ro tín dung. Biện pháp này được thực hiện như sau: ngân hàng sẽ bán những chứng khoán được phát hành trên một số tài sản nhất định của mình ( các khoản vay có thế chấp hay cho vay tiêu dùng ) ra ngoài thị trường. Ngân hàng sẽ nhận được khoản vốn đã bỏ ra để có được tài sản đó. Khi mà các khoản vay được thanh toán cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ chuyển khoản thanh toán cho người đang sở hữu chứng khoán đó. những chứng khoán này được mua bán trên thị trường tự do. Việc sử dụng công cụ này cho ta thấy rõ hai lợi ích cơ bản của nó : - Bảo đảm được tính thanh khoản và làm tăng khả năng quay cồn cho nguồn vốn, khiến nó không bị trì trệ bởi lí do khách hàng chưa có khả năng thanh toán. - Các chứng khoán được đảm bảo bởi các tài sản do ngân hàng quản lý đồng thời ngân hàng có thể đưa các khoản vay này ra khỏi bảng cân đối kế toán, từ đó loại bỏ được các rủi ro tín dụng nếu như các khoản vay này không được hoàn trả hoặc nếu có sự thay đổi lãi suất bất lợi. Bán các khoản cho vay: Ngân hàng có thể bán các khoản vay cho các tổ chức khác như: công ty bảo hiểm, các ngân hàng khác… Công cụ này giúp cho ngân hàng phòng tránh được rủi ro với các khoản nợ lớn mà khả năng thu hồi không phải là thuận lợi. Như thế nó có thể bán cho các tổ chức tín dụng khác có khả năng tài chính lớn hơn. Mọi rủi ro không thu hồi được nợ đều do các tổ chức mua nợ gánh chịu. Hịên nay thị trường mua bán các khoản nợ đã bước đầu hình thành và thu hút được nhiều sự chú ý của những người quan tâm. Công ty mua bán nợ tồn đọng của các doanh nghiệp được thành lập bời Bộ tài chính đã đi vào hoạt động hơn hai năm và xử lý được hàng trăm các khoản nợ khó đòi. Việc ra đời của loại hình dịch vụ này góp phần tích cực cho thị trường tín dụng hạn chế được nhiều rủi ro hơn. Hợp đồng quyền tín dụng: Ngân hàng phải trả môt khoản chi phí cho công ty kinh doanh quyến nếu ngân hàng mua quyền tín dụng tại công ty đó cho một khoản tín dụng mà ngân hàng lo lắng là có khả năng xảy ra tổn thất.Hợp đồng này đảm bảo thanh toán toàn bộ tiền vay cho ngân hàng nếu tổn thất nằm trong một mức nhất định nào đó hoặc không được thanh toán tuỳ theo thoả thuận của ngân hàng với công ty kinh doanh quyền. Và đương nhiên nếu rủi ro không xảy ra thì ngân hàng sẽ không nhận được gì từ công ty kinh doanh quyền. Công cụ này giúp giảm bớt tổn thất cho ngân hàng nếu rủi rỏ tín dụng có xảy ra. Hợp đồng trao đổi các khoản tín dụng: Thị trường liên ngân hàng phát triển giúp cho việc trao đổi giữa các ngân hàng trở nên dễ dàng hơn. Công cụ hợp đồng trao đổi tín dụng này có nghĩa là: hai ngân hàng A và B cùng tìm đến một tổ chức trung gian tài chính là một công ty bảo hiểm C nào đó đồng ý lập một hơp đồng trao đổi tín dụng cho hai ngân hàng trên. Hai bên sẽ trao đổi với nhau những khoản tín dụng có cùng giá trị nhưng khác nhau về thị trường, về đối tượng khác nhau… nếu các ngân hàng nhận định các khoản tín dụng là phù hợp với ngân hàng họ thì họ sẽ đồng ý trao đổi. Công cụ này làm giảm nguy cơ rủi ro cho mỗi bên tham gia hợp đồng. Bởi với ngân hàng này thì đó là khoản rủi ro nhưng với ngân hàng khác thì không hẳn là như vậy. 3.3, MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI VPBANK : 3.3.1, kiến nghị với NHNN: 3.3.1.1, NHNN cần hoàn thiện và thống nhất hệ thống văn bản: Các văn bản luật qui định về loại nợ, trích lập và sử dụng sự phòng và sử dụng quĩ dự phòng rủi ro để xử lý các khoản rủi ro tín dụng đã được qui định trong quyết định 493/ 2005/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN Việt Nam ban hành ngày 22/ 04/ 2005. Tuy vậy việc thực hiện phân loại nợ của các NHTM vẫn có những vướng mắc chưa chính xác. Nguyên nhân là do những văn bản hướng dẫn việc thực hiện quyết định vẫn chưa được đồng bộ và chuẩn. Trong thời gian tiếp theo NHNN nên có những văn bản cụ thể, chính xác và rõ ràng để không có tình trạng văn bản này ra lại văn bản khác chỉnh sửa như thế sẽ gây khó khăn cho các NHTM trong việc áp dụng đồng thời dẫn đến những trường hợp cố ý sai phạm. 3.3.1.2, Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng: Hiện nay, chúng ta đã có trung tâm thông tin tín dụng CIC đi vào hoạt động một thời gian và có những đóng góp đáng kể trong việc cung cấp thông tin cho các NHTM trong hoạt động tín dụng. Tuy nhiên so với các nước khác trong khu vực thì hoạt động thông tin tín dụng của chúng ta vẫn còn chưa nhanh nhạy và đầy đủ bằng nên hiệu quả đạt được vẫn chưa cao. Để giải quyết vấn đề này, NHNN cần có những qui định bắt buộc các NHTM cần cung cấp thông tin về khách hàng đồng thời nên tổ chức trung tâm này thành các công ty hoạt động độc như vậy sẽ đưa thông tin trở thành hàng hoá được mua bán trên thị trường. Thị trường thông tin sôi động sẽ kéo theo sự sôi động của các thị trường khác và làm cho tính công khai của thị trường càng trở nên tốt hơn. 3.3.1.3, tăng cường công tác thanh tra của NHNN: Từ thực trạng của Vpbank trong cuộc khủng hoảng những năm 1996 – 1998 cho thấy công tác thanh tra của NHNN vẫn còn nhiều vấn đề đáng bàn. NHNN đóng vai trò là người điều hành, quản lý một cách vĩ mô và đưa ra các chính sách thích hợp giúp cho hoạt động của các NHTM được ổn định. Làm tốt điều đó NHNN phải thực hiện công tác thanh tra một cách có hiệu quả. Có kiểm tra, giám sát chặt chẽ thì mới có thể đưa ra những chính sách, biện pháp một cách kịp thời và có hiệu quả cao. 3.3.2, kiến nghi với Chính phủ: 3.3.2.1, cần phải hoàn thiện môi trường pháp lý: Trong giai đoạn hội nhập kịnh tế quốc tế như hiện nay, môi trường pháp lý là vấn đề hết sức nhạy cảm và tác động mạnh tới hoạt động của NHTM. Một môi trường pháp lý ổn định và công bằng sẽ giúp cho các NHTM yên tâm trong hoạt động của mình đồng thời cũng nắm bắt được những lợi thế và khó khăn của mình qua đó thấy được những điểm mạnh và điểm yếu để phát huy và khắc phục. Môi trường thể chế của Việt Nam hiện nay đã có nhiều tiến bộ và thông thoáng hơn rất nhiều, điều này hoàn toàn phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế và hội nhập WTO của chúng ta. Tuy nhiên vấn đề pháp lý thì Chính phủ vẫn cần phải xem xét và sửa chữa dần dần. 3.3.2.2, chấn chỉnh hoạt động của hệ thống doanh nghiệp: Hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn có nhiều biến đổi. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau, điều đó có nghĩa là có nhiều vấn đề cần phải qui định hơn. Với việc tăng lên về số lượng thì chất lượng của các doanh nghiệp là điều đáng được quan tâm. Chính phủ cần tăng cường việc kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp từ việc : cấp giấy phép kinh doanh, lĩnh vực hoạt động, hiệu quả tài chính, cần phải đảm bảo về năng lực vốn cũng như năng lực về nhân sự…. Đồng thời phải qui định bắt buộc với các doanh nghiệp thực hiện đúng nguyên tắc, qui trình bắt buộc về phương pháp kế toán kiểm toán trong doanh nghiệp…Tuy nhiên việc quản lý của Chính phủ cũng dựa trên cơ sở tăng cường tính độc lập cho doanh nghiệp và chỉ quản lý ở tầm vĩ mô và mang tính hướng dẫn. KẾT LUẬN Trong thời điểm hiện tại, nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang có những biến chuyển lớn. Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề toàn cầu hoá đã và đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta, đặc biệt là ngành ngân hàng – tài chính. Nhũng tác động của ngành ngân hàng – tài chính tới nền kinh tế của một quốc gia vô cùng to lớn, nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế đồng thời cũng chịu tác động của nền kinh tế. Đây là một ngành hết sức nhạy cảm. Chính vì vậy nên việc giành những mối quan tâm đúng mức tới ngành ngân hàng là viêc nên làm đối với một quốc gia. Nếu có những rủi ro với hệ thống ngân hàng , ngay lập tức sẽ dẫn đến rủi ro với hệ thống tài chình và ảnh hưởng tới tất cả các ngành còn lại trong nền kinh tế. Việc quản lý rủi ro tín dụng với ngân hàng là vô cùng quan trọng. Đó là mục tiêu chung của các NHTM cổ phần cũng như các NHTM ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay nhằm tiến tới mục tiêu trở thành những định chế tài chính hiệu quả, an toàn và lành mạnh thúc đẩy cho quá trình phát triển kinh tế của nước ta diễn ra một cách thuận lợi và bền vững. Đối với NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam - một trong những NHTM cổ phần đô thị hàng đầu của Việt Nam vấn đề quản lý rủi ro tín dụng đã được xem trọng, thực hiện một cách nghiêm túc và đã có những thành công đáng kể. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi phần nào những thiếu sót. Chính vì vậy trong chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình em xin được lựa chọn đề tài: “ Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thơng mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam ( Vpbank )”. Đây là một đề tài lớn và có nhiều vấn đề phức tạp nên khi thực hiện em đã cố gắng hết sức để làm tốt và hoàn thành trong tầm hiểu biết của mình. Chính vì vậy nên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và sơ xuất. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và sửa chữa của thầy giáo hướng dẫn em là thầy : Hoàng Xuân Quế và các thầy cô giáo trong khoa Ngân Hàng – Tài Chính trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân. Đặc biệt em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy Hoàng Xuân Quế và các anh chị làm việc tại phòng tín dụng của Vpbank chi nhánh Ngô Quyền – Hà Nội nơi mà em đã thực tập. Sự giúp đỡ tận tình của thầy Hoàng Xuân Quế và các anh chị đã là niểm động viên giúp đỡ rất lớn đối với em để em có thể hoàn thành chuyên đề này một cách tốt đẹp. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, Tháng Tư năm 2008. Sinh viên: Nguyễn Thị Bích Ngọc DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Ngân hàng thương mại – TS.Phan Thị Thu Hà. Giáo trình tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Lưu Thị Hương PGS.TS Vũ Duy Hào. Quản trị Ngân hàng thương mại – GS.TS Lê Văn Tư. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại – TS. Nguyễn Minh Kiều. Báo cáo thường niên của VPBank các năm 2005, 2006, 2007. Tạp chí ngân hàng. Website của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam : 8. Website của NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank: MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32986.doc
Tài liệu liên quan