Chuyên đề Hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại ngân hàng eximbank - Thực trạng và các giải pháp hoàn thiện

Mọi hoạt động của các doanh nghiệp, ngân hàng đều nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Pháp luật quy định càng cụ thể, chặt chẽ thì hoạt động kinh doanh càng ít phát sinh tranh chấp, lừa đảo. Vì vậy, chính phủ cần ban hành luật sở hữu tài sản, các văn bản dưới luật liên quan đến sở hữu tài sản như cấp chứng thư sở hữu, đăng ký, chuyển nhượng, xác nhận , cũng như hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Các bộ, ngành cần nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về đấu thầu, quy chế quản lý đầu tư và xây dựng để hạn chế rủi ro như giải ngân vốn đầu tư chậm trễ, không đúng thời hạn và đầy đủ. Các luật của Việt Nam như Luật dân sự, Luật thương mại, Luật các tổ chức tín dụng đều đề cập và đưa ra khái niệm, định nghĩa về bảo lãnh nhưng vẫn chỉ giới hạn trong việc nêu ra bản chất, nguyên tắc chung của nó. Các cơ quan ban hành pháp luật cần kết hợp với các cơ quan chuyên môn nhu Ngân hàng Nhà nước, Bộ công thương, các ngân hàng thương mại để đưa ra Luật về bảo lãnh, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động bảo lãnh.

doc80 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1891 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại ngân hàng eximbank - Thực trạng và các giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các Ngân hàng muốn giữ đựơc người buộc phải nâng mức lương lên. Sự thành lập các ngân hàng mới cũng làm cho việc thiếu nguồn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng tăng lên làm cho mức chi phí nhân công cho hoạt động của Ngân hàng nói chung và của bảo lãnh Ngân hàng nói riêng tăng theo. Công nghệ Ngân hàng vẫn còn lỗ hổng. Hệ thống các trang thiết bị, công nghệ của Ngân hàng phục vụ cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng còn chưa được đầu tư đầy đủ, chưa đáp ứng được các yêu cầu nghiệp vụ. Công việc thống kê, quản lý khách hàng, quản lý dữ liệu hiện nay vẫn chưa có một chương trình riêng, cơ sở vật chất chưa đồng bộ, chưa có máy photo riêng, … điều này gây ảnh hưởng tới tiến độ xử lỹ công việc trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số nhân viên chưa vững. Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động còn khá mới ở Việt Nam, chính vì thế mà trình độ quản lý của ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động của ngân hàng. Một số cán bộ của ngân hàng chưa được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ hoặc chưa được đào tạo lại nên hiện không thể đáp ứng được nhu cầu đặt ra của công việc ngày một phức tạp. Ngay đối với việc chấp hành thể lệ, chế độ của các chi nhánh trong vấn đề bảo lãnh vay vốn nước ngoài nói chung và mở L/C trả chậm nói riêng còn có những biểu hiện thiếu tinh thần trách nhiệm như việc chấp hành mức phán quyết của giám đốc, nhiều khi quyết định bảo lãnh trong khi vẫn chưa được Tổng giám đốc phê duyệt. Cuối cùng, việc quản lý vay nợ tại Eximbank vẫn còn nhiều thiếu sót, công tác gia hạn nợ và chuyển giao nợ quá hạn không được thực hiện theo đúng quy trình nghiệp vụ. Đặc biệt là tình trạng đảo nợ xảy ra trong một chi nhánh hoặc giữa các chi nhánh, đảo nợ nội tệ với ngoại tệ dẫn đến tình trạng xấu chạy vòng quanh, nguy cơ mất vốn ngân hàng ngày càng lớn. Những tồn tại, hạn chế trên đã cản trở sự phát triển trong hoạt động bảo lãnh của Eximbank, mà để giải quyết những khó khăn trên không phải chỉ cần đến sự nỗ lực của bản thân ngân hàng mà phải có sự phối hợp đồng bộ từ nhiều phía. 3.3.2. Nguyên nhân khách quan 3.3.2.1. Môi trường pháp lý và kinh tế Môi trường kinh tế trong những năm qua có nhiều biến động phức tạp không chỉ trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. Sự biến động của các đồng tiền mạnh, tình hình trong nước cũng gặp nhiều khó khăn; nạn dịch cúm gia cầm, thiên tai lũ lụt; giá cả leo thang, đặc biệt là giá cả của các vật liệu kinh doanh như dược phẩm, dầu khí,thép, các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản…Bên cạnh đó là sự biến động về lãi suất, lạm phát và các chính sách về tỷ giá, tình hình cạnh tranh lãi suất nóng bỏng giữa các ngân hàng, đã ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các thành phần kinh tế. Chính những lý do đó làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả của các dự án đâu tư bị giảm sụt. Quản lý của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhiều tồn tại, đặc biệt là tình trạng thành lập doanh nghiệp tràn lan, hoạt động trái pháp luật, tình trạng doanh nghiệp ma, doanh nghiệp bị mất tích mà nhà nước chưa nắm bắt và quản lý sát sao được đã gây ra nhiều rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Mặt khác môi trường pháp lý cũng có nhiều bất cập, không phù hợp và không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động dịch vụ bảo lãnh, các yêu cầu của hội nhập kinh tế, và sự xuất hiện của các hình thức bảo lãnh mới. Đặc biệt là môi trường pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động của Ngân hàng còn thiếu, không ổn định và đồng bộ, chưa bảo vệ được quyền lợi chính đáng của ngân hàng bảo lãnh. Cho đến nay, các bộ luật như Luật dân sự, Luật thương mại, Luật các tổ chức tín dụng đều đề cập và đưa ra khái niệm, định nghĩa về bảo lãnh song tất cả mới chỉ dừng lại ở việc nêu ra bản chất, nguyên tắc chung của loại hình nghiệp vụ này. Hiện nay, chúng ta chưa có riêng một bộ luật bảo lãnh, các ngân hàng thương mại chỉ căn cứ vào các văn bản dưới luật về bảo lãnh như “ Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng” để thực hiện nghiệp vụ này. Do bản “Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng” do thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành kèm theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000 đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sót về điều kiện bảo lãnh, mức phí bảo lãnh…nên ngày 26/6/2006, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN để thay thế cho văn bản nói trên. Tuy nhiên, sau một năm thực hiên thì quyết định này cũng đã bộc lộ những bất cập của nó: Vấn đề được quan tâm nhất trong Quy chế bảo lãnh là giới hạn bảo lãnh. Không như sự mong đợi của các ngân hàng thương mại, giới hạn bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng vẫn được quy định ở mức 15 % vốn tự có của tổ chức tín dụng. Trong đó, bao gồm cả các cam kết phát hành theo hình thức tín dụng chứng từ; trừ hình thức mở thư tín dụng trả ngay được khách hàng ký quỹ đủ hoặc được cho vay 100% giá trị thanh toán. Điều này sẽ hạn chế rất nhiều hoạt động của các ngân hàng do giá trị của các hợp đồng ngày càng lớn, do đó giá trị bảo lãnh cũng rất cao. Trong điều kiện như vậy, các ngân hàng chỉ có thể giải quyết bằng cách thực hiện đồng bảo lãnh. Tuy nhiên, việc tìm được đối tác đồng bảo lãnh tin cậy sẽ mất rất nhiều thời gian, và có thể làm lỡ thời cơ kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng Nhà nước đang soạn thảo quy chế mới, theo đó các ngân hàng sẽ được phép bảo lãnh hoặc cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có, thay vì chỉ được 15%. Về điều kiện bảo lãnh. Không bó hẹp trong các điều kiện cụ thể như quy định 283 mà các tổ chức tín dụng chỉ cần đáp ứng những yêu cầu về pháp lý và đủ năng lực tài chính cho hoạt động bảo lãnh là được phép phát hành bảo lãnh. Tuy nhiên, quy chế mới cũng yêu cầu: trong trường hợp khoản bảo lãnh liên quan đến các tổ chức, cá nhân nước ngoài thì phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam. Đứng trên góc độ nhà quản lý, Ngân hàng Nhà nước cho rằng quy định như vậy nhằm thống nhất quản lý, và không có cớ gì để Quy chế bảo lãnh có những quy định trái với Pháp lệnh Ngoại hối vừa ban hành. Song đối với các ngân hàng thương mại thì quy định này sẽ làm hạn chế hoạt động bảo lãnh của họ, nhất là khi phải cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang có mặt ngày càng nhiều ở Việt Nam. Về thẩm quyền ký bảo lãnh cũng còn gặp nhiều khó khăn do các văn bản pháp luật không đồng bộ. Theo quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh thì đại diện theo pháp luật của ngân hàng có thể uỷ quyền bằng văn bản cho Giám đốc các chi nhánh ký thư bảo lãnh đối với khách hàng trong phạm vi mức uỷ quyền cho phép. Nhưng theo quy định của pháp luật thì người được uỷ quyền không được tái uỷ quyền. Như vậy, khi Giám đốc chi nhánh đi vắng hoặc nếu khách hàng xin bảo lãnh mở tài khoản tại các phòng giao dịch của chi nhánh thì việc giải quyết bảo lãnh cho khách hàng gặp nhiều khó khăn và phải mất nhiều thời gian do Phó giám đốc hoặc trưởng phòng giao dịch không được uỷ quyền ký thư bảo lãnh. Thủ tục bảo lãnh cũng chưa thực sự thuận tiện cho doanh nghiệp, thiếu chi tiết, gây khó khăn cho việc thực hiện. Cơ chế bảo lãnh hiện quy định doanh nghiệp xin bảo lãnh phải có tài sản thế chấp cầm cố. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, tài sản đảm bảo phải có xác nhận của các cơ quan liên quan. Để có những xác nhận này, doanh nghiệp phải tốn thời gian, đôi khi làm xong các thủ tục để ngân hàng bảo lãnh thì cơ hội kinh doanh đã qua. Còn đối với các doanh nghiệp quy mô nhỏ, vốn ít, tài sản dùng để đảm bảo còn hạn chế thì có nhiều dự án quy mô lớn, ngân hàng khó có thể đứng ra bảo lãnh được. Ngân hàng Nhà nước cũng chưa ban hành mẫu thư bảo lãnh cụ thể theo thông lệ quốc tế và cũng không đề cập các luật và quy tắc áp dụng trong giao dịch bảo lãnh. Điều này rõ ràng sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại khi giao dịch bảo lãnh với các đối tác nước ngoài. Đã có không ít trường hợp các bên bị hiểu nhầm, thậm chí có thể bị phía bên kia lừa đảo đồng thời phát sinh các tranh chấp, kiện tụng. 3.3.2.2. Nguyên nhân đến từ khách hàng Bên cạnh những rủi ro do hành lang pháp lý chưa được quy định chặt chẽ và hợp lý, nghiệp vụ bảo lãnh của Eximbank cũng như phần lớn các ngân hàng thương mại khác, vẫn thường phải chịu những rủi ro do những tồn tại từ phía khách hàng. Bản thân các doanh nghiệp với trình độ nghiệp vụ còn non kém chưa có đủ tư cách và khả năng để tiến hành giao dịch với ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp chưa nắm chắc các quy định về bảo lãnh song trong một số trường hợp khi phát sinh nhu cầu bảo lãnh vay vốn thì các doanh nghiệp mới tới ngân hàng xin bảo lãnh. Điều này gây khó khăn không ít cho Eximbank trong việc thẩm định khách hàng, bởi nếu thẩm định kỹ lưỡng thì không đảm bảo thời gian cho doanh nghiệp rút vốn và có thể làm mất cơ hội kinh doanh của họ, song ngược lại nếu xem xét qua loa thì rủi ro cho ngân hàng nhận bảo lãnh là không thể lường hết được. Ngoài ra, các doanh nghiệp của Việt Nam cũng gặp nhiều trở ngại do không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện để được ngân hàng bảo lãnh. Nguyên nhân của tình trạng này một phần xuất phát từ khả năng tài chính còn rất thấp của các doanh nghiệp trong nước. Phần lớn tài sản cố định là nhà xưởng, máy móc thiết bị đã lạc hậu, vốn lưu động phục vụ trong sản xuất kinh doanh hầu hết là vốn vay ngân hàng và chiếm dụng lẫn nhau. Chính vì vậy, thực tế đang diễn ra một nghịch lý là trong khi nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp hiện nay là rất lớn song giá trị tài sản đảm bảo vốn vay ngân hàng lại không đủ. Hơn nữa, bản thân năng lực, trình độ và kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh của các cán bộ trong doanh nghiệp cũng chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn của hoạt động thương mại hiện nay. Đây chính là lý do giải thích tại sao trong những năm gần đây, dù Eximbank đã cố gắng đa dạng hoá đối tượng khách hàng của mình, song nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng vẫn chưa thể phát triển tương xứng với tiềm năng bảo lãnh của một ngân hàng thương mại lớn ở Việt Nam. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH XUẤT NHẬP KHẨU TẠI EXIMBANK TRONG THỜI GIAN TỚI 1. Sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện và phát triển hoạt động bảo lãnh tại Eximbank Việc gia nhập WTO đã mở ra những cơ hội phát triển mới cho thị trường tài chính Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó, đầu tư trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng cũng đặt ra nhiều thách thức và rủi ro đối với các ngân hàng thương mại của Việt Nam. Nhờ vậy, thị trường ngân hàng sẽ cạnh tranh lành mạnh hơn, mức độ cạnh tranh cao hơn, với quy mô thị trường có thể tăng từ mức tổng tài sản có của hệ thống ngân hàng chiếm 90% GDP hiện nay lên đến mức 120-140% GDP. Vì vậy, để không ngừng đáp ứng nhu cầu bảo lãnh ngày càng tăng của các doanh nghiệp đồng thời củng cố vị trí cạnh tranh, nâng cao uy tín của mình trong ngành cũng như với các đối tác, Eximbank cần phải phát triển hơn nữa nghiệp vụ bảo lãnh của mình. Hiện nay, Eximbank cũng như hầu hết các ngân hàng thương mại khác đều rất thận trọng trong việc bảo lãnh mở L/C mua hàng trả chậm, bảo lãnh vay vốn nước ngoài vì đã có rất nhiều vụ án kinh tế lớn xảy ra gây thiệt hại về tài chính và uy tín của các ngân hàng thương mại. Mặc dù các doanh nghiệp đó đã cố tình làm trái, lừa đảo nhưng các ngân hàng lại phải chịu trách nhiệm do những yếu kém về quy trình nghiệp vụ bảo lãnh, sự thoái hoá của không ít cán bộ ngân hàng. Điều này một mặt sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính trong lúc nhu cầu về vốn, trang thiết bị máy móc nhập khẩu từ nước ngoài đang rất lớn, mặt khác cũng làm giảm thu nhập của ngân hàng. Hơn nữa, bảo lãnh chỉ được coi là một nghiệp vụ đơn giản khi không xảy ra thanh toán. Các ngân hàng Việt Nam thường không đề cập đến yếu tố chứng từ và thường nội địa hoá giao dịch bảo lãnh bằng những việc làm khá tuỳ tiện. Nhiều khái niệm chung chung, thiếu chuẩn mực được đưa ra trong thư bảo lãnh chính là cơ sở phát sinh tranh chấp giữa các bên. Ví dụ có ngân hàng phát hành thư bảo lãnh với cam kết sẽ trả tiền thay cho bên được bảo lãnh khi họ không trả được tiền nhưng lại không đề cập cụ thể căn cứ nào khẳng định là không thể trả được tiền, hay người được bảo lãnh không muốn trả tiền. Hay như bảo lãnh độc lập và bảo chứng khác nhau về tính chất, nhưng các văn bản pháp luật của ta lại chưa phân biệt hai loại bảo lãnh này. Đây chỉ là một vài ví dụ nhỏ minh chứng cho một thực tế giao dịch bảo lãnh tại Việt Nam là tính pháp lý của bảo lãnh thiếu nhất quán, thiếu đồng bộ, thiếu hướng dẫn giao dịch cụ thể, nhiều khi mang tính tự phát. Đối với ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam, mặc dù nghiệp vụ bảo lãnh còn chiếm một vị trí khá khiêm tốn so với nghiệp vụ cho vay nhưng cũng còn tồn tại những vướng mắc chung như toàn hệ thống ngân hàng thương mại. Tiềm năng của nghiệp vụ bảo lãnh rất lớn trong bối cảnh hoạt động tài chính-tiền tệ phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đòi hỏi Eximbank cần có những giải pháp trước mắt cũng như lâu dài để hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh. 2. Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại Eximbank trong thời gian tới Với những mục tiêu phát triển nghiệp vụ bảo lãnh, phát huy tiềm năng của nghiệp vụ này trong tương lai, Eximbank đã xác định cho mình một định hướng phát triển trong thời gian tới, vừa phải phù hợp với nội lực của bản thân vừa thích ứng với hoàn cảnh khách quan, với mục tiêu tổng quát là tiếp tục giữ vị trí là một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu, thực hiện kế hoạch lợi nhuận theo xu hướng ngày càng tăng nhanh và ổn định. Trước tiên, ngân hàng cần tăng cường cải cách một cách triệt để, nâng cao năng lực tài chính và hoạt động, bằng việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, thông qua huy động các nguồn đầu tư trong nước, lựa chọn các đối tác chiến lược lớn có uy tín để tranh thủ vốn, công nghệ và mạng lưới hoạt động toàn cầu của ngân hàng, điều chỉnh lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý. Ngoài ra, ngân hàng cần cơ cấu đầu tư vốn trong điều kiện mới theo hướng, giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, phát triển cho vay tiêu dùng đối với các cá nhân trong nền kinh tế. Điểm thứ hai là tăng cường hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán. Các ngân hàng thương mại cần tăng mức vốn đầu tư để trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, các dự án đầu tư công nghệ cần tính toán kỹ lưỡng để sử dụng công suất phù hợp với chiến lược mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Từng bước hiện đại hoá theo hướng tin học hoá các khâu trong thanh toán, truyền nhận thông tin, lưu trữ và quản lý hồ sơ để có thể thích ứng với nền thương mại điện tử. Điểm thứ ba là nhân lực chất lượng cao là động lực để bức phá. Nâng cao năng lực cán bộ thông qua nâng cao trình độ quản trị điều hành. Việc nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng thương mại sẽ được thực hiện nhanh nhất và hiệu quả nhất thông qua sự trợ giúp của các đối tác chiến lược nước ngoài. Ngân hàng cũng có thể kết hợp với các trung tâm đào tạo hoặc các trường đại học như Học viện Ngân hàng, Đại học Ngoại Thương… để tiến hành đào tạo lại và tiếp nhận sinh viên mới ra trường nhằm có được đội ngũ cán bộ có chuyên môn và phẩm chất đạo đức tốt. Và một phần quan trọng để khắc phục những rủi ro là thực hiện quản trị ngân hàng thương mại từ chiều rộng sang chiều sâu theo hướng nâng cao năng lực quản trị rủi ro thông qua việc hoàn thiện bộ máy tổ chức quản trị nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và chế độ báo cáo thường xuyên. Thực tế hiện nay, các ngân hàng chưa chú trọng công tác quản lý rủi ro, kể cả các ngân hàng thương mại nhà nước lẫn các ngân hàng thương mại cổ phần. Do vậy, ngân hàng cần từng bước xây dựng cho mình cơ chế quản lý rủi ro hiệu quả hơn. Việc bổ sung, hoàn thiện quy chế nghiệp vụ cho phù hợp thực tiễn cũng đóng vai trò rất quan trong. Một mặt sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong kinh doanh, mặt khác vẫn đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của vốn. Ngân hàng cũng cần đa dạng hóa các loại hình bảo lãnh trên cơ sở các loại bảo lãnh truyền thống ngân hàng đang thực hiện, nâng cao chất lượng dịch vụ kết hợp với các nghiệp vụ khác đem lại tiện ích tối đa cho khách hàng, và mở rộng khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau theo hướng an toàn và hiệu quả, phát huy hiệu quả hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu tăng lợi nhuận. Dịch vụ ngân hàng là loại hình dịch vụ có tính đặc thù, đòi hỏi uy tín cao. Vì vậy, ngân hàng cần xây dựng cho mình một hình ảnh đẹp, một thương hiệu mạnh, tin cậy. II. NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM 1. Ứng dụng chính sách Marketing vào nghiệp vụ bảo lãnh hợp lý và hiệu quả Marketing trong hoạt động ngân hàng là một đòi hỏi cần thiết hiện nay. Việc ứng dụng marketing sẽ đảm bảo nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp ngân hàng đứng vững trong một môi trường kinh doanh vốn rất khó khăn do nhiều đối thủ cạnh tranh trên cùng một địa bàn với cùng một loại sản phẩm dịch vụ. Cơ sở để xây dựng kế hoạch hoá marketing là nhiệm vụ, mục tiêu và các nguồn lực của ngân hàng. Vị trí quan trọng nhất trong hoạt động marketing là việc kế hoạch hoá các chiến lược khách hàng, chiến lược giá cả, chiến lược sản phẩm và chiến lược giao tiếp, khuyếch trương.Vì vậy, để làm tốt công tác này, ngân hàng cần chú ý thực hiện các biện pháp quan trọng sau 1.1 Xây dựng chiến lược đa dạng hóa khách hàng Khách hàng khi có nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo lãnh tức là có cầu về sản phẩm. Ngân hàng trên cơ sở mức cầu đó cần thực hiện cung cấp sản phẩm sao cho thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng cần xác định đoạn thị trường mục tiêu của mình để tập trung năng lực phục vụ đối tượng khách hàng mục tiêu đó. Ngân hàng cần tiến hành phân loại khách hàng nhằm xác định: - Ngân hàng đang phục vụ những nhóm đối tượng khách hàng nào, nhu cầu của từng nhóm như thế nào. Ngân hàng phải thoả mãn như thế nào, số lượng nhu cầu chiếm bao nhiêu % thị phần. Những đối tượng khách hàng nào là chủ yếu, lâu dài, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và lợi thế của ngân hàng đang thực hiện. - Xác định đối tượng khách hàng nào mang lại thu nhập lớn nhất và tương lai phát triển của họ ra sao? Nhóm khách hàng nào sẽ thay thế? Nhóm khách hàng nào hiện đang đem lại thu nhập thấp nhưng có tiềm năng tăng trưởng trong thời gian tới? Trên cơ sở các kết quả phân tích ở trên, ngân hàng sẽ có những biện pháp cụ thể để giữ khách hàng và xây dựng chiến lược phát triển khách hàng trong tương lai như: - Tạo dựng uy tín và quan hệ gắn bó với khách hàng, coi lợi ích và sự phát triển của khách hàng cũng là lợi ích và sự phát triển của ngân hàng. - Có chế độ ưu đãi và thưởng vật chất cho các doanh nghiệp có số dư bảo lãnh lớn và các khách hàng truyền thống, có quan hệ tín nhiệm lâu năm với ngân hàng. - Hỗ trợ, tư vấn cho khách hàng cùng giải quyết những khó khăn, vướng mắc nhằm mục tiêu thoả mãn nhu cầu của khách hàng hiện tại và khơi dậy khả năng và nhu cầu của khách hàng tiềm năng. Mục tiêu cụ thể trước mắt là ngân hàng cần tiếp tục duy trì quan hệ truyền thống với các khách hàng lớn. Muốn vậy ngân hàng cần có chính sách ưu tiên, ưu đãi về tỷ lệ ký quỹ, thủ tục tài sản thế chấp, tạo điều kiện cấp bảo lãnh nhanh chóng cho doanh nghiệp khi có yêu cầu, đồng thời phát triển đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp liên doanh. Và các doanh nghiệp trên các địa bàn khác. Ngân hàng cần chủ động tiếp cận đánh giá nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo lãnh của đối tượng khách hàng mới để kịp thời đáp ứng. Khi tiến hành nghiên cứu thị trường, ngân hàng cần tập trung nghiên cứu tập tính, thái độ và đặc biệt là động cơ của khách hàng trong việc lựa chọn sử dụng dịch vụ của ngân hàng cũng như nhu cầu của khách hàng đối với nghiệp vụ bảo lãnh, thực hiện thu thập thông tin một cách có hệ thống, thường xuyên, tập trung vào “Hồ sơ bảo lãnh”của khách hàng cùng “Hồ sơ tín dụng”. Tiếp nhận những ý kiến phản hồi từ doanh nghiệp để có sự thay đổi hợp lý, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Đồng thời có những cải tiến trong quy trình nghiệp vụ thuộc phạm vi quyền hạn của chi nhánh, và có những ý kiến đề xuất lên cấp trên về các vấn đề ngoài thẩm quyền của ngân hàng. 1.2 Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm Sản phẩm ở đây chính là dịch vụ bảo lãnh mà ngân hàng cung cấp. Điều quan trọng trước mắt là ngân hàng phải đa dạng hoá các hình thức cấp bảo lãnh. Ngoài các hình thức bảo lãnh truyền thống như bảo lãnh L/C trả chậm, bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, Eximbank cần chú trọng phát triển các hình thức bảo lãnh khác như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh bảo hành…hay các hình thức bảo lãnh liên quan đến chứng khoán để đáp ứng nhu cầu thị trường chứng khoán đang hoạt động hết sức sôi nổi. Bên cạnh đó, hình thức đồng bảo lãnh là giải pháp cho ngân hàng đáp ứng nhu cầu bảo lãnh những dự án, công trình lớn mà giá trị bảo lãnh vượt quá hạn mức được uỷ quyền, đồng thời hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Việc phát triển hình thức đồng bảo lãnh đòi hỏi ngân hàng phải thiết lậo được những mối quan hệ hợp tác tin cậy, đôi bên cùng có lợi với các ngân hàng khác. Tuy nhiên, do khả năng đáp ứng các loại hình bảo lãnh giữa các ngân hàng là không có sự khác biệt lớn nên chất lượng dịch vụ bảo lãnh đóng vai trò quan trọng trong chiến lược sản phẩm. Chất lượng sản phẩm ở đây là sự thuận tiện, chính xác, kịp thời trong quy trình nghiệp vụ, giải quyết đầy đủ các yêu cầu của khách hàng với mức phí hợp lý. Cạnh tranh về chất lượng sản phẩm là sự cạnh tranh phi giá, nhiều khi mức phí rẻ mà chất lượng phục vụ không tốt cũng không thu hút được khách hàng. ở một mức độ nào đó, các nhân tố như bề ngoài, sự giúp đỡ tận tình, thái độ lịch sự quan tâm tôn trọng khách hàng của nhân viên ngân hàng nhiều khi tạo nên ấn tượng tốt, nhận xét tích cực khi đánh giá chất lượng sản phẩm dịch vụ của khách hàng. 1.3 Xây dựng một chiến lược giá cả phù hợp Nếu so sánh bảng phí dịch vụ bảo lãnh của Eximbank với biểu phí của các ngân hàng khác thì sự khác nhau là không lớn do những quy định của ngân hàng Nhà nước về mức phí bảo lãnh. Do đó việc cạnh tranh về phí bảo lãnh là hạn chế. Tuy nhiên, do Eximbank và hầu hết các ngân hàng khác đều áp dụng chế độ phí do các bên thoả thuận không vượt quá 2%/năm tính trên số tiền còn đang được bảo lãnh, nên ngân hàng cũng có thể thay đổi mức phí cho phù hợp với các đối tượng khách hàng, độ rủi ro nhằm thu hút khách hàng và tạo cơ hội cạnh tranh về giá với các ngân hàng khác vì các bảo lãnh khác nhau đều có những đặc điểm riêng, và các tổ chức với quy mô kinh tế khác nhau cũng như nhu cầu bảo lãnh ở các mức độ khác nhau. Thành phần đến đề nghị bảo lãnh ở ngân hàng có thể là các tổ chức kinh tế lớn như tổng công ty nhà nước, các công ty quy mô lớn, cũng có thể là các thành phần kinh tế nhỏ và cá nhân. Do vậy, ngân hàng cần phải có chính sách định giá cho từng đối tượng này một cách hợp lý và tuỳ theo mức độ quan hệ với ngân hàng.Việc định giá đối với tổ chức kinh tế (khách hàng truyền thống) nên linh hoạt hơn và ưu đãi hơn đối với cá nhân(khách hàng mới, đã có sử dụng hoặc chưa sử dụng lần nào. 1.4 Xây dựng chiến lược giao tiếp, khuyếch trương hoạt động bảo lãnh Bản chất của hoạt động bảo lãnh là ngân hàng sử dụng uy tín của mình để đứng ra đảm bảo cho các giao dịch. Do vậy ngân hàng cần tạo dựng một hình ảnh nổi bật trên thương trường, tạo dựng niềm tin trong khách hàng. Đội ngũ cán bộ là điểm mấu chốt trong chính sách giao tiếp với khách hàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng là phương pháp tuyên truyền, quảng cáo hiệu quả nhất về hình ảnh của ngân hàng. Ngân hàng cần củng cố và nâng cao chất lượng của mạng lưới phục vụ hiện có nhằm củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Chiến lược giao tiếp khuyếch trương sản phẩm cũng như hình ảnh về ngân hàng được thực hiện thông qua khâu bán hàng của các cá nhân, tuyên truyền, quảng cáo nhằm kích thích tiêu thụ. Để mở mang hoạt động của ngân hàng thì việc tuyên truyền quảng cáo về các dịch vụ trong đó có dịch vụ bảo lãnh trên các báo, tạp chí, phương tiện thông tin đại chúng là rất cần thiết. Trong tuyên truyền quảng cáo cần chú ý đến các đối tượng khách hàng của ngân hàng, các nhóm khách hàng thường xuyên và nhóm khách hàng tiềm năng để có thể lựa chọn phương pháp, phương tiện tuyên truyền quảng cáo cho phù hợp mà khách hàng thuận tiện và dễ dàng tiếp cận. Đồng thời ngân hàng cũng nên xác định ngân sách dành cho nhiệm vụ này bởi những hoạt động trên đều đòi hỏi một số chi phí nhất định. 2. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các yêu cầu bảo lãnh Công tác thẩm định cần dựa trên cơ sở kết hợp thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để đảm bảo đầy đủ và chính xác. Nên kết hợp công tác thẩm định với việc kiêm rtra, giám sát doanh nghiệp trong suốt thời gian bảo lãnh có hiệu lực. Cán bộ ngân hàng cần xem xét, kiểm tra và đánh giá 5 điều kiện quan trọng sau: + Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp + Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh chính + Khả năng quản lý, điều hành của chủ doanh nghiệp + Khả năng về tài chính và tài sản thế chấp + Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh cụ thể trong yêu cầu bảo lãnh Trong năm điều kiện trên thì có hai điều kiện cần tập trung xem xét, nghiên cứu cụ thể: - Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh: Các cán bộ ngân hàng phải có đủ năng lực, kinh nghiệm và trung thực khi đánh giá, xem xét tính khả thi của dự án dựa trên các phương diện: yếu tố thị trường, yếu tố kỹ thuật, yếu tố tài chính. Bên cạnh đó, cán bộ ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng về các vấn đề có liên quan đến tính khả thi của dự án. Kết quả của việc thẩm định là tiêu chuẩn quan trọng để quyết định có cấp bảo lãnh cho khách hàng hay không. - Khả năng về tài chính và tài sản thế chấp Trước hết, khách hàng phải đáp ứng tỷ lệ ký quỹ theo quy định, còn lại sẽ được đảm bảo bằng tài sản thế chấp. Đây là biện pháp để hạn chế và bù đắp rủi ro khi phát sinh thanh toán mà doanh nghiệp không đủ khả năng hoặc không chịu thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng. Thông thường khi đến Eximbank xin bảo lãnh, khách hàng đều muốn ký quỹ ở mức tối thiểu theo quy định (thường là 5% trên tổng giá trị bảo lãnh). Đồng thời khách hàng phải thực hiện việc cầm cố, thế chấp thay cho việc ký quỹ 100%. Cán bộ ngân hàng cần xem xét kỹ quyền sở hữu tài sản, công chứng của các cơ quan công chứng Nhà nước, tính chuyển nhượng của tài sản thế chấp. Việc cầm quản kho hàng (thay thế cho việc thế chấp các tài sản khác) chỉ được đặt ra trong trường hợp ngân hàng thực sự quản lý trực tiếp được kho hàng, tránh mang tính hình thức. Ngân hàng chỉ bảo lãnh tối đa bằng 70% giá trị tài sản thế chấp, cầm cố. Đối với các tài sản thế chấp thuộc sở hữu Nhà nước của các doanh nghiệp Nhà nước khi đem đi cầm cố phải có văn bản xác nhận đồng ý của Tổng cục quản lý vốn và tài sản của Nhà nước. Ngoài ra, để thực hiện tốt các giải pháp đề xuất trên đây, ngân hàng cũng cần nâng cao chất lượng công tác thông tin phòng ngừa rủi ro. Đây được coi là yếu tố quan trọng của công tác thẩm định dự án đầu tư. Hiện nay Eximbank đã có một phòng ban phụ trách về thông tin tín dụng song cũng phải thừa nhận rằng việc thu thập thông tin tín dụng nói chung và bảo lãnh nói riêng của ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng, mất cân xứng và thiếu tin cậy, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả bảo lãnh. Để khắc phục được nhược điểm này đòi hỏi ngân hàng cần phải: - Nâng cao chất lượng cán bộ và đào tạo cán bộ. Yêu cầu cán bộ chuyên trách làm thông tin tín dụng phải có trình độ về ngân hàng, tài chính, kinh tế, thông thạo máy tính và ngoại ngữ. Các cán bộ cần được tập huấn để biết cách thu thập, khai thác thông tin, biết phân tích và đánh giá về doanh nghiệp. - Hoàn thiện chương trình quản lý, phân loại khách hàng, phân loại dư nợ bảo lãnh bằng hệ thống máy vi tính và qua các mạng thông tin điện tử khác. - Tăng cường công tác thu thập, xử lý, lưu trữ và cung cấp thông tin để có thể đáp ứng nhu cầu của các chi nhánh một cách chính xác và kịp thời. 3. Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong hoạt động bảo lãnh. Công tác quản trị rủi ro nói chung và rủi ro trong hoạt động bảo lãnh là một nhân tố quan trọng tác động tới chất lượng hoạt động bảo lãnh của Chi nhánh. Bởi vậy, trong thời gian tới chi nhánh cần xây dựng một chương trình quản trị rủi ro bảo lãnh toàn diện: Xác định hạn mức rủi ro bảo lãnh: Bộ phận nghiệp vụ quản trị rủi ro phải xác định hạn mức rủi ro cho nghiệp vụ bảo lãnh – là mức rủi ro nhất định mà chi nhánh có thể chấp nhận được trong nỗ lực có được lợi nhuận – trên cơ sở sẵn sàng chịu đựng rủi ro và sức mạnh tài chính của Chi nhánh. Đánh giá rủi ro: Việc đánh giá rủi ro đòi hỏi phải xác định được những rủi ro liên quan đến hoạt động bảo lãnh; phải có các chốt kiểm tra nằm trong quá trình nghiệp vụ bảo lãnh (hệ thống Kiểm soát nội bộ) để kiềm chế rủi ro bảo lãnh trong hạn mức đã được đề ra. Bên cạnh đó, xây dựng các biện pháp để theo dõi các trường hợp ngoại lệ vượt hạn mức rủi ro bảo lãnh. Quy trình đánh giá rủi ro bao gồm có bốn yếu tố: - Nhận biết rủi ro: Nhận biết rủi ro là khâu đầu tiên quan trọng trong quá trình đánh giá rủi ro. Các loại rủi ro bảo lãnh mà Chi nhánh có thể phải đối mặt cần được nhận biết thông qua việc phân tích đặc thù các loại hình bảo lãnh mà ngân hàng cung cấp. - Định lượng rủi ro: định lượng rủi ro là việc ngân hàng đề ra và xem xét lại hạn mức rủi ro bảo lãnh, từ đó xác định được loại rủi ro trong hoạt động bảo lãnh cần ưu tiên theo dõi và kiểm soát. Có ba phương pháp ước lượng cơ bản: + Phương pháp thống kê: Bản chất của phương pháp này là dựa trên việc tính toán xác suất xảy ra thiệt hại đối với hoạt động bảo lãnh. + Phương pháp kinh nghiệm: phương pháp này được hình thành dựa trên kinh nghiệm của các chuyên gia. + Phương pháp tính toán – Phân tích: Phương pháp này dựa trên việc xây dựng đường cong xác suất thiệt hại và đánh giá rủi ro bảo lãnh dựa trên động thái biến thiên của đồ thị toán ứng dụng bằng phương pháp ngoại suy. - Theo dõi rủi ro: Theo dõi rủi ro là việc thực hiện đầy đủ các hệ thống, các thủ tục kiểm soát, nhờ đó có thể theo dõi được mức rủi ro bảo lãnh. - Kiểm soát rủi ro: Rủi ro được kiểm soát bằng việc thực hiện các thủ tục nằm trong hệ thống kiểm soát nội bộ trong các quy trình bảo lãnh nhằm giảm thiểu rủi ro. Cần tìm ra sự cân bằng tối ưu giữa chi phí cho các thủ tục kiểm soát và lợi ích đem lại từ các thủ tục đó, từ đó lựa chọn các thủ tục kiểm soát rủi ro bảo lãnh phù hợp. 4. Tăng cường quỹ ngoại tệ tạo điều kiện bảo lãnh với nước ngoài Trong sự vận động của thương mại toàn cầu và sự liên kết, hợp tác về kinh tế giữa các nước thì nhu cầu ngoại tệ của các doanh gnhiệp Việt Nam là rất lớn, vừa để khơi thông nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, vừa để tiến hành các giao dịch. Song có vay tất phải có trả. Các khoản bảo lãnh khi đến hạn sẽ phải thanh toán cho nước ngoài và khi đó, việc thu xếp đủ nguồn vốn ngoại tệ để thanh toán là một vấn đề nan giải nếu như ngân hàng không dự tính ngay từ lúc phát hành bảo lãnh. Chính vì vậy, với đặc điểm thị trường quốc tế như hiện nay, bảo lãnh L/C trả chậm và vay vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn, việc tích luỹ ngoại tệ sẽ giúp cho Eximbank đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài, nâng cao uy tín của ngân hàng. Để có đủ nguồn ngoại tệ kinh doanh, ngân hàng cần tập trung vào một số vấn đề sau: - Thực hiện tốt chính sách khách hàng, thu hút doanh nghiệp mở tài khoản và thanh toán quốc tế tại ngân hàng mình. - Duy trì và phát triển hiệu quả mạng lưới thu đổi ngoại tệ, rà soát lại các hợp đồng trao đổi, đồng thời thường xuyên kiểm tra các bàn đại lý để tăng nguồn thu ngoại tệ và tránh được hiện tượng tư nhân núp dưới danh nghĩa ngân hàng để kinh doanh ngoại tệ trái với quy định của pháp luật. - Phát triển các dịch vụ ngân hàng khác để tăng thu ngoại tệ như dịch vụ chi trả kiều hối, dịch vụ đổi tiền mặt ngoại tệ, séc du lịch… 5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát Một mặt cần kiểm tra giám sát việc tuân thủ những quy định của ngân hàng Nhà nước và của ngân hàng Xuất nhập khẩu trong khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của các cán bộ ngân khác. Mặt khác cũng cần thường xuyên giám sát quá trình thực hiện hợp đồng của các doanh nghiệp, đảm bảo việc doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, kịp thời phát hiện và xử lý những sai phạm nếu có, đồng thời có kế hoạch chuẩn bị đáp ứng nguồn vốn trong trường hợp phải trả tiền theo yêu cầu của người nhận bảo lãnh. Ngân hàng cần từng bước hiện đại hoá công tác lưu trữ và quản lý hồ sơ bảo lãnh trên máy vi tính để các cán bộ bảo lãnh có thể kiểm tra các khoản bảo lãnh của doanh nghiệp một cách nhanh chóng và chính xác. 6. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ Đội ngũ cán bộ là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công cho ngân hàng. Họ là người trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách hàng, tiếp xúc, giao dịch với khách hàng. Đây cũng chính là người tạo ra hình ảnh của ngân hàng đối với khách hàng. Do vây, việc nâng cao năng lực trình độ, ý thức thái độ phục vụ khách hàng là nhân tố quan trọng tác động đến sự lựa chọn sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Đối với hoạt động bảo lãnh hiện nay thì việc cạnh tranh bằng mức phí bảo lãnh là hạn chế do những quy định về phí bảo lãnh của ngân hàng Nhà nước, vì vậy chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ sẽ là yếu tố hàng đầu giúp ngân hàng cạnh tranh thắng lợi. Công tác đào tạo cán bộ cần tập trung vào các yêu cầu chính sau: - Đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ thông qua các lớp đào tạo dài hạn trong và ngoài nước kết hợp với việc đào tạo tại chỗ. Cần tập trung vào việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, sự hiểu biết về các luật và quy tắc áp dụng trong giao dịch bảo lãnh nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động giao dịch với các đối tác nước ngoài. Điều này sẽ giúp ngân hàng hạn chế được các rủi ro không lường trước được do môi trường kinh doanh ngày càng phức tạp. - Bồi dưỡng, nâng cao ý thức, thái độ, tinh thần trách nhiệm khi phục vụ khách hàng. Mọi nhân viên cũng như các cán bộ lãnh đạo phải luôn ý thức được rằng lợi ích của khách hàng cũng chính là lợi ích của ngân hàng. Thái độ nhiệt tình, phục vụ chu đáo, chính xác chính là những yếu tố làm hài lòng khách hàng và tạo ấn tượng tốt về ngân hàng. - Hình thức đào tạo không chỉ là việc cử đi học mà có thể thông qua các phong trào, hội thi tại đơn vị và giữa các đơn vị giúp cho cán bộ công nhân viên bổ sung kiến thức, tạo ra bầu không khí làm việc sôi nổi, đoàn kết trong ngân hàng, khuyến khích việc tự học, tự nghiên cứu khoa học nâng cao trình độ, có biện pháp khen thưởng, khuyến khích về vật chất và tinh thần xứng đáng cho các cá nhân và tập thể có sáng kiến cải tiến trong công việc. - Tổ chức, phân công, sử dụng đúng người đúng việc, đảm bảo phát huy hết năng lực bảo lãnh của cán bộ, mạnh dạn sử dụng những cán bộ trẻ có năng lực đặc biệt trong lĩnh vực mới đòi hỏi sự nhanh nhậy và óc sáng tạo. Nội lực của ngân hàng chính là đội ngũ cán bộ công nhân viên. Phát huy hết tiềm năng sẵn có này sẽ đem lại sức mạnh cạnh tranh cho Eximbank trên thương trường. 7. Tiêp tục công tác hiện đại hoá ngân hàng Bao gồm việc áp dụng các quy trình công nghệ mới hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung, nhất là công nghệ thông tin ngân hàng, nhằm cung cấp cho cán bộ bảo lãnh những nguồn thông tín cập nhật, đầy đủ, chính xác và kịp thời, giúp cán bộ tín dụng có được những thông tin cần thiết trong việc thẩm định và đưa ra quyết định bảo lãnh đúng đắn. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng nên quan tâm đến cơ sở vật chất, kỹ thuật trang thiết bị nhằm nâng cao hình ảnh của ngân hàng và tăng tiện ích cho khách hàng. III. KIẾN NGHỊ 1. Đối với chính phủ và các cơ quan nhà nước Mọi hoạt động của các doanh nghiệp, ngân hàng đều nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Pháp luật quy định càng cụ thể, chặt chẽ thì hoạt động kinh doanh càng ít phát sinh tranh chấp, lừa đảo. Vì vậy, chính phủ cần ban hành luật sở hữu tài sản, các văn bản dưới luật liên quan đến sở hữu tài sản như cấp chứng thư sở hữu, đăng ký, chuyển nhượng, xác nhận…, cũng như hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Các bộ, ngành cần nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về đấu thầu, quy chế quản lý đầu tư và xây dựng để hạn chế rủi ro như giải ngân vốn đầu tư chậm trễ, không đúng thời hạn và đầy đủ. Các luật của Việt Nam như Luật dân sự, Luật thương mại, Luật các tổ chức tín dụng đều đề cập và đưa ra khái niệm, định nghĩa về bảo lãnh nhưng vẫn chỉ giới hạn trong việc nêu ra bản chất, nguyên tắc chung của nó. Các cơ quan ban hành pháp luật cần kết hợp với các cơ quan chuyên môn nhu Ngân hàng Nhà nước, Bộ công thương, các ngân hàng thương mại để đưa ra Luật về bảo lãnh, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động bảo lãnh. Chính phủ và các bộ ngành cũng cần có các văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể về tài sản thế chấp, xử lý phát mại tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh khi doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng, đặc biệt là vấn đề tài sản thế chấp của các doanh nghiệp Nhà nước. Mặc dù Bộ tài chính cho phép các doanh nghiệp được sử dụng tài sản thuộc sở hữu nhà nước để thế chấp trong bảo lãnh, nhưng việc thế chấp tài sản hầu như chỉ mang tính hình thức, vì thực tế các ngân hàng không thể phát mại được, gây rủi ro cho ngân hàng. Vì thế Chính phủ có thể xem xét việc xoá bỏ việc thế chấp tài sản đối với doanh nghiệp khi yêu cầu bảo lãnh. Tương tự như hoạt động cho vay, việc ra quyết định cấp bảo lãnh hay không sẽ hoàn toàn dựa vào tính khả thi, độ an toàn của dự án hoặc cho phép thế chấp bằng chính tài sản hình thành trong dự án; cho phép các ngân hàng được phép phát mại tài sản mà doanh nghiệp nhà nước cầm cố, thế chấp theo quy định của pháp luật. Chính phủ cũng cần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, xác định rõ quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp với tài sản đem đi thế chấp. Việc hoàn thiện các văn bản pháp luật về bất động sản, hình thành thị trường bất động sản có sự quản lý của nhà nước cũng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng giải toả nhanh chóng tài sản thế chấp để thu hồi lại vốn. Chính phủ cần củng cố hệ thống doanh nghiệp, đặc biệt là việc thành lập cũng như phá sản, biến mất của các doanh nghiệp, quản lý một cách hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, ban hành các văn ban luật về kiểm toán kê toán trong doanh nghiệp kinh tế; Thường xuyên giám sát tình hình thực hiện các nguyên tắc kế toán sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh những hành vi gian lận và lừa đảo trong kế toán và báo cáo tài chính cũng như các gian lận trong việc lập các giấy tờ liên quan đến tài sản đảm bảo bảo lãnh. Công khai hoá các thông tin tài chính, báo cáo tài chính, tạo ra một môi trường kinh doanh trong sáng, lành mạnh không chỉ trong hệ thống doanh nghiệp mà còn trong hệ thống ngân hàng thương mại. 2. Đối với ngân hàng nhà nước Việt Nam Ngân hàng nhà nước không cần quy định cụ thể về mức phí, hạn mức bảo lãnh trong quy chế mà có thể để các ngânhàng thương mại chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Ngân hàng nhà nước chỉ cần tập trung quản lý vĩ mô, kiểm tra giám sát, phòng ngừa rủi ro thông qua quy định về quỹ bảo lãnh và ký quỹ bảo lãnh. Ngân hàng nhà nước cần ban hành cụ thể về bảo lãnh và trích lập quỹ bảo lãnh đối với nghiệp vụ bảo lãnh trong nước, quy định khách hàng phải ký quỹ tại ngân hàng thương mại như thế nào, cũng như việc trích lập quỹ bảo lãnh, sử dụng quỹ, bởi vì hiện nay các ngân hàng thương mại đều vận dụng theo quy chế nghiệp vụ bảo lãnh đối ngoại để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối nội. Ngân hàng nhà nước cũng cần nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng nhằm cung cấp chính xác, kịp thời theo yêu cầu của các tổ chức tín dụng. Phát triển Trung tâm Thông tin tín dụng CIC của NHNN: Hệ thống Thông tin tín dụng sử dụng hiệu ứng “đẩy” và hiệu ứng “chặn” để thu hẹp phạm vi lựa chọn khách hàng tín dụng cũng như để giải quyết vấn đề về rủi ro đạo đức. Với hiệu ứng chặn, nó giúp ngăn chặn những khách hàng xấu trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng. Với hiệu ứng đẩy thì ngược lại, nó giúp các khách hàng tốt có nhiều cơ hội tiếp cận với tín dụng ngân hàng với mức chi phí hợp lý. Đặc biệt nó hỗ trợ đắc lực cho việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi cơ cấu người vay từ khu vực không chính thức sang khu vực chính thức. Như vậy, CIC hoạt động hiệu quả sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh. 3. Đối với Eximbank-ngân hàng bảo lãnh Ngân hàng cần xây dựng quy trình nghiệp vụ bảo lãnh cụ thể để các chi nhánh có cơ sở thực hiện, cải tiến thủ tục cấp bảo lãnh nhanh chóng thuận tiện cho doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo an toàn khi thực hiện. Quan tâm đầu tư đúng mức cho công tác hiện đại hoá toàn bộ hệ thống, ứng dụng công nghệ hiện đại, thực hiện mối liên qua chặt chẽ giữa các chi nhánh, qua đó dễ dàng cho công tác truyền tin và cập nhật thông tin khi cần thiết, cũng như tạo ra sự hỗ trợ kịp thời giữa các chi nhánh khi có vấn đề xảy ra. Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra kiểm tra hệ thống Eximbank Việt Nam 4. Đối với doanh nghiệp-người được bảo lãnh Các nghiệp vụ của ngân hàng chính là những công cụ hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong hoạt động bảo lãnh, khi phát sinh rủi ro thì người chịu thiệt chính là các doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có chiến lược sản xuất kinh doanh đúng đắn, dựa trên nhu cầu của thị trường, lựa chọn đối tác kỹ càng, có tín nhiệm trước khi ký kết hợp đồng. Doanh nghiệp cần nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cán bộ trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, năng lực đánh giá dự án về trình độ ngoại ngữ, luật pháp, sự hiểu biết về các quy tắc và thông lệ quốc tế trong giao dịch thương mại quốc tế. Việc tranh thủ sự tư vấn của ngân hàng trước khi ký kết hợp đồng ngoại thương hay hợp đồng vay vốn nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp hạn chế được rất nhiều rủi ro. Doanh nghiệp cũng cần nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của ngân hàng về ký quỹ, tài sản thế chấp, và cần có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng và trong cam kết xin bảo lãnh với ngân hàng. KẾT LUẬN Trong hơn mười năm nghiệp vụ bảo lãnh được phát triển tại Việt Nam, bảo lãnh ngân hàng đã khẳng định được vai trò to lớn trong nền kinh tế thị trường, đem lại thu nhập, góp phần đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là trong xu thế hội nhập và phát triển diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ như hiện nay. Trước tình hình đó, có thể nói, cho đến nay ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam đã phát huy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng, phát huy được vai trò chủ lực của một ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu, đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự đổi mới và hội nhập, ngân hàng phải luôn nâng cao cả về chất và lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng, chuẩn bị một cách tốt nhất cho tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Trong bài viết đã đưa ra được phần nào thực trạng hoạt động bảo lãnh và đưa ra được một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam. Nhưng do thời gian tìm hiểu thực tế, trình độ còn hạn chế, và dưới góc độ phân tích của một sinh viên bài viết của em còn có nhiều thiếu sót là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, em rất mong nhận được sự giúp đỡ và bổ sung từ phía thầy cô. Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn thầy giáo TS. Bùi Huy Nhượng cùng toàn thể các cô, các chú, các anh, các chị tại Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam – Chi nhánh Long Biên đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Đinh Xuân Trình- Giáo trình thanh toán quốc tế - Nhà xuất bản Lao động xã hội-2006 Học viện Ngân hàng - Giáo trình tín dụng ngân hàng – Nhà xuất bản Thống kê 2001. Học viên Ngân hàng - Quản trị ngân hàng– Nhà xuất bản Thống kê 2001. Báo cáo kết quả bảo lãnh và kinh doanh của Eximbank Việt Nam các năm 2002, 2003, 2004, 2005 và 2006. Lê Hồng Tâm, Bàn thêm về vai trò, chức năng của bảo lãnh ngân hàng, Tạp chí Ngân hàng - Số 10 tháng 7/2003. Lê Hồng Tâm, Các hình thức và nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, Tạp chí Tài chính - số 4 tháng 7+8/2003. Lê Hồng Tâm, Nghiệp vụ bảo lãnh - nguồn tài trợ cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu, Tạp chí Thương mại - Số 26 tháng 7/2003. Lê Hồng Tâm, Rủi ro vay vốn ngoại tệ và sự lựa chọn nghiệp vụ bảo lãnh, Tạp chí Thương mại - Số 32 tháng 9/2003. Lê Hồng Tâm, Về thực trạng bảo lãnh tại các NHTM Nhà nước, Tạp chí Ngân hàng - Số Chuyên đề, tháng 6/2003. Luật các Ngân hàng Thương mại và tổ chức tín dụng- Nhà xuất bản chính trị Quốc gia. Nguyễn Trọng Thuỳ- Bảo lãnh tín dụng dự phòng và những điều luật áp dụng- Nhà xuất bản Thống kê, 2000. Quy chế bảo lãnh ngân hàng - Ban hành kèm theo Quyết định 26/2006/QĐ-NHNN. Trần Bùi Quốc Huệ, Nhận diện rủi ro trong bảo lãnh xây dựng và giải pháp phòng ngừa, Tạp chí Ngân hàng - Số 8 năm 2004. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................................................................................................. ..................................................................................................................................................................................................................................

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28576.doc
Tài liệu liên quan