Chuyên đề Kế toán thuế giá trị gia tăng trong các doanh nghiệp Việt Nam

Thuế GTGT là một loại thuế quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu ngân sách nhà nước.Thuế GTGT đã khcs phục được một số nhược điểm của thuế doanh thu, góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá, đặc biệt là khuyến khích đảy mạnh đối với xuất khẩu, trên cơ sở quy mô sản xuất ngày càng tăng trưởng mà dẫn đến hiệu quả tích cực là tăng thu ngân sách nhà nước. Thuế GTGT ra đời đã góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước,Tuy nhiên, luật thuế này còn rất mới mẻ và còn nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Trong phạm vi tiểu luận này,em đã nêu ra một số ý kiến đề xuất được góp nhặt thông qua quá trình học tập và sách báo nhằm phát huy những tác động tiêu cực và khắc phục những tác động tiêu cực về kinh tế - xã hội của thuế GTGT đồng thời góp phần củng cố, hoàn thiện chính sách thuế GTGT ở nước ta. Trong thời gian tới, hy vọng những bất hợp lý sẽ được nhanh chóng phát hiện và sửa chữa để cho thuế GTGT và các luật thuế mới góp phần tích cực vào việc đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng đã đề ra. Với bài viết của mình em hi vọng sẽ giúp cho các doanh nghiệp có có cái nhìn tích cực hơn về thuế GTGT đồng thời cũng mạnh dạn xin kiến nghị một vài ý kiến nhằm hoàn thiện hơn về thuế GTGT và cách hạch toán thuế GTGT. Do hạn chế về thời gian cũng như kinh nghiệm thực tiễn, bài viết của em không thê tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự giúp đỡ của quý thầy cô và bạn bè quan tâm đến vấn đề này

doc49 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Kế toán thuế giá trị gia tăng trong các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hàng xuất khẩu, quà biếu, quà tặng, hàng viện trợ nhân đạo... nếu đem bán hoặc xuất dùng vào mục đích khác thì phải kê khai, nộp thuế GTGT với cơ quan thuế trực tiếp quản lý cơ sở như quy định đối với hàng hóa do cơ sở kinh doanh. Cơ sở kinh doanh cố định đi mua nguyên liệu, hàng hoá, vận chuyển hàng của cơ sở đi bán hoặc trao đổi với cơ sở khác, vận chuyển trong nội bộ cơ sở phải có đủ hoá đơn, chứng từ theo quy định, nếu không sẽ phải nộp thuế GTGT tính trên giá trị hàng hoá; hàng nhập khẩu còn bị truy thu thuế nhập khẩu và thuế GTGT khâu nhập khẩu. Trong một kỳ tính thuế, nếu cơ sở kinh doanh có số thuế nộp thừa kỳ trước được trừ vào số thuế phải nộp của kỳ tiếp theo, nếu kỳ trước nộp thiếu thì phải nộp đủ số thiếu đó. Thuế GTGT nộp vào NSNN bằng đồng Việt nam. Trường hợp cơ sở kinh doanh có doanh thu hoặc mua hàng hoá, dịch vụ thanh toán bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt nam theo tỷ giá mua, bán thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt nam công bố tại thời điểm phát sinh hoạt động mua, bán hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ để xác định số thuế GTGT phải nộp. * Hoàn thuế GTGT và phương pháp hạch toán, đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế . CSKD thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế đầu vào trong các trường hợp sau : Có số thuế đầu vào được khấu trừ của các tháng trong quý thường xuyên lớn hơn số thuế đầu ra phát sinh các tháng trong quý. Trường hợp này khi nhận được số tiền NSNN hoàn lại, ghi : Nợ TK 111, 112 Có TK 133 : thuế GTGT được khấu trừ CSKD xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc theo từng lần xuất khẩu với số lượng lớn nếu phát sinh số thuế đầu vào được khấu trừ lớn thì được xét hoàn thuế GTGT đầu vào theo từng kỳ hoặc tháng. Trường hợp này khi nhận được tiền NSNN hoàn lại ghi : Nợ TK 111, 112 Có TK 133 CSKD thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế có đầu tư mua sắm TSCĐ, có số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn được hoàn thuế như sau : Đối với cơ sở đầu tư mới đã đăng ký nộp thuế nhưng chưa phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra nếu thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Trường hợp có số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn lớn thì được xét hoàn thuế từng quý. Khi nhận được tiền NSNN hoàn lại ghi : Nợ TK 111, 112 Có TK 133 Trường hợp cơ sở mới đầu tư nhưng chưa thành lập doanh nghiệp hoặc đã thành lập doanh nghiệp nhưng chưa đăng ký nộp thuế thì không thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT đầu vào theo quy định . Đối với CSKD đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nếu số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư đã khấu trừ trong 3 tháng( kể từ tháng phát sinh thuế đầu vào của tài sản đầu tư ) mà chưa được khấu trừ hết thì được hoàn lại số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ này: Nợ TK 111, 112 Có TK 133 CSKD quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT đầu vào nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuế GTGT nộp thừa. Khi nhận được tiền NSNN hoàn lại ghi Nợ TK 111, 112 Có TK 3331 CSKD được hoàn thuế trong trường hợp có quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính yêu cầu phải hòan trả lại thuế cho CSKD Trường hợp này khi nhận tiền NSNN hoàn lại ghi Nợ TK 111, 112 Có TK 133: thuế GTGT được khấu trừ 1.2.5. Kế toán thuế GTGT trong doanh nghiệp theo phương pháp trực tiếp. Xác định thuế GTGT phải nộp Số thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hóa , dịch vụ chịu thuế GTGT x thuế suất thuế GTGT của hàng hóa , dịch vụ đó Phương pháp xác định làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với từng CSKD như sau : Đối với CSKD đã thực hiện đầy đủ việc mua bán hàng hóa, dịch vụ có hóa đơn, chứng từ ghi chép sổ sách kế toán thì GTGT được xác định căn cứ vào giá mua , giá bán ghi trên chứng từ. Đối với CSKD đã thực hiện đầy đủ hóa đơn, chứng từ bán hàng hóa, dịch vụ xác định được đúng doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ theo hóa đơn bán hàng hóa , dịch vụ nhưng không có đủ hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ thì GTGT được xác định bằng doanh thu nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu. Đối với cá nhân (hộ) kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hóa đơn mua, bán hàng hóa, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn định mức doanh thu tính thuế GTGT được xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ(%) GTGT tính trên doanh thu. Tổng cục thuế hướng dẫn các cục thuế xác định tỷ lệ( %) GTGT tính trên doanh thu làm căn cứ tính thuế GTGT phù hợp với từng ngành nghề kinh doanh và hợp lý giữa các địa phương . Phương pháp hạch toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Sơ đồ 5 : Kế toán thuế GTGT theo pp trực tiếp Đầu vào đầu ra TK 111,112,331 TK 152,153,156 TK 511 TK 111,112,131 giá thanh toán DT bán hàng (bao gồm cả VAT) (giá bán có VAT) TK 33312 TK 33311 TK 511 VAT của hàng NK VAT đầu ra phải nộp Phần II : Hoàn thiện kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp Việt Nam. 2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thuế GTGT và kế toán thuế GTGT. 1-/ Về đối tượng chịu thuế GTGT: Đặc điểm của thuế GTGT là có diện bao quát rộng, bao gồm hầu như toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế, đó là mảng tiêu dùng thu nhập đã có. Theo Điều 3 Luật thuế GTGT và Điều 3 NĐ 28/1998/NĐ - CP thì tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh, kinh doanh hàng hóa,... đều là đối tượng nộp thuế GTGT. Vấn đề đặt ra ở đây là việc thu thuế một cách bao quát như vậy có hiệu quả hay không. Số thuế thu được trong một số trường hợp có bù đắp được chi phí cho việc quản lý thu thuế của một số trường hợp cụ thể hay không? đó là việc thu thuế ở các hộ kinh doanh nhỏ. ở nước ta việc thu thuế ở các đối tượng này rất khó khăn và phức tạp nên chăng loại trừ một số hộ kinh doanh nhỏ ra khỏi đối tượng nộp thuế GTGT và dùng sắc thuế khác để điều chỉnh. ở các nước, nhằm nâng cao tính hiệu quả của chính sách thuế họ quy định mức doanh thu bình quân tháng hoặc năm để giới hạn đối tượng nộp thuế. Cụ thể như Philippines quy định doanh thu của các doanh nghiệp hàng năm dưới 200.000 pê xô thì không phải là đối tượng nộp thuế GTGT, Thuỵ Điển là dưới 200.000 SEK,... Ngoài ra, việc xác định đối tượng chịu thuế và không chịu thuế GTGT sẽ gây ra hiện tượng phân đoạn các hoạt động kinh tế, gây tác động khấu trừ thuế GTGT để các đơn vị đáp ứng đủ điều kiện của thuế GTGT đều được khấu trừ thuế. Và trong quy định phải thật đơn giản nhưng rõ ràng tránh mọi khả năng phân đoạn nền kinh tế một cách bất lợi như trên. 2-/ Về thuế suất thuế GTGT: Một trong những ưu điểm của thuế GTGT so với thuế doanh thu là có ít mức thuế suất (4 mức thuế suất) nhưng chính điều này lại không đảm bảo yêu cầu công bằng trong chính sách động viên giữa người giầu và người nghèo. Vì thuế GTGT có ít mức thuế suất cho nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải nộp thuế giống nhau. Do đó thuế mang tính luỹ thoái. Tỉ lệ động viên qua thuế GTGT của người có thu nhập thấp lại lớn hơn tỷ lệ động viên đối với người có thu nhập cao. Nhưng cũng chính điều này, hiện nay với 4 mức thuế suất ở ta là quá phức tạp và lạc hậu so với tiến bộ của thuế GTGT hiện đại. Đa số các nước công nghiệp phát triển đều áp dụng một mức thuế ưu đãi (khoảng 5%) và một mức thông dụng (khoảng 10%) ngoài mức 0% dành cho xuất khẩu. Điều này gây nhập nhằng và tuỳ tiện khi vận dụng, tạo cơ hội cho trốn lậu thuế. Tăng chi phí cho việc thanh tra kiểm soát thuế. Do đó việc quy định thuế GTGT một cách đơn giản để nâng cao tính hiệu lực pháp lý của thuế GTGT thì lại mâu thuẫn với một trong những vai trò của chính sách thuế như đã nêu trên, đó là đảm bảo sự công bằng xã hội. 3-/ Về phương pháp tính thuế GTGT: Luật thuế GTGT của Việt Nam quy định áp dụng hai phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng. Với hai phương pháp này đã tạo ra sự khác biệt giữa các doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính thuế khác nhau. Theo phương pháp khấu trừ thuế: = - Theo phương pháp này, mỗi một ngường trung gian trong các khâu luân chuyển thu từng phần thuế và thanh toán lại cho ngân sách. Luật thuế GTGT khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ và khi áp dụng doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn chứng từ. Về phương pháp tính thuế này không có gì phải làm thêm, nhưng đối với phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT thì: = x Mà GTGT của hàng hoá, dịch vụ là khoản chênh lệch giữa giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra và giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng với loại hàng hoá bán ra. Cách tính trên cho thấy vẫn còn có hiện tượng thuế chồng thuế. Để khắc phục nhược điểm này, theo kinh nghiệm của một số nước bằng cách áp dụng phương pháp quy đổi thuế suất GTGT (theo luật thuế) thành thuế suất tính theo giá thanh toán như sau: Y = Trong đó: X là thuế suất thuế GTGT theo Luật thuế. Y là thuế suất GTGT quy đổi. Và căn cứ vào thuế suất quy đổi (Y) và giá thanh toán trên hoá đơn GTGT ta có thể xác định được thuế GTGT phải nộp và từ đó xác định được cả giá bán. Đây là một cách tính hợp lý, có thể tham khảo vận dụng. 4-/ Về phương pháp kế toán thuế GTGT: Để thực hiện được thuế GTGT, công tác hạch toán kế toán, tổ chức chứng từ thanh toán phải rất khoa học. Đây là công việc phải có thời gian hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác kế toán. Việc kế toán thuế GTGT được hướng dẫn một cách cụ thể trong thông tư số 100/1998/TT-BTC ngày 15/7/1998 và được sửa đổi, bổ sung bởi các thông tư số 180/1998/TT-BTC ngày 26-12-1998 và thông tư số 120/1999/TT-BTC. Đối với kế toán thuế GTGT em xin đưa ra một số ý kiến sau: - Đối với vật tư hàng hoá mua về dùng đồng thời cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT. Đối với trường hợp không thể hạch toán riêng số thuế GTGT đầu vào thì toàn bộ số thuế GTGT đầu vào sẽ được hạch toán vào TK 133. Chu kì kế toán xác định số thuế GTGT được khấu trừ theo tỷ lệ (%) giữa doanh thu chịu thuế GTGT so với tổng doanh thu bán ra, số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ tính vào giá vốn của hàng hoá bán ra trong kỳ. Trường hợp thuế GTGT không được khấu trừ có giá trị lớn thì được tính vào giá vốn của hàng hoá bán ra trong kỳ tương ứng với doanh thu trong kỳ, số còn lại được tính vào giá vốn hàng bán ra của kỳ kế toán sau. Quy định này là không khoa học bởi vì: nếu kỳ kế toán sau doanh thu đạt thấp đơn vị vẫn phải kết chuyển toàn bộ thuế GTGT không được khấu trừ vào giá vốn hàng bán, sẽ gây nên tình trạng lỗ giả. Vì thuế GTGT không được khấu trừ là một bộ phận xác định chính xác kết quả kinh doanh, nên phân bổ dần thuế GTGT không được khấu trừ tương ứng với doanh thu thực hiện qua các kỳ kế toán như sau: Kỳ này: Nợ TK 142 - Chi phí trả trước. Có TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ. Các kỳ sau: Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán. Có TK 142 - Chi phí trả trước. Việc hạch toán như vậy sẽ hợp lý hơn và tránh được tình trạng lỗ giả của doanh nghiệp. - Đối với các đơn vị nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp quy định: Thuế GTGT được hạch toán và chi phí quản lý doanh nghiệp (TK 642). Điều này không phản ánh đúng bản chất của nội dung nghiệp vụ bởi vì chi phí quản lý doanh nghiệp là một chỉ tiêu có liên quan đến việc phản ánh chất lượng công tác quản lý doanh nghiệp. Thông qua TK này có thể đánh giá công tác quản lý doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Cho nên ở đây cũng giống như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT nên hạch toán giảm doanh thu (TK 511): Nợ TK 511 : Doanh thu bán hàng. Có TK 3331 : Thuế GTGT phải nộp. Hạch toán như vậy ngoài chỉ rõ bản chất của nghiệp vụ nó còn giảm thiểu các bút toán đơn lẻ tránh được sự phức tạp cho quá trình thực hiện kế toán thuế GTGT. - Đối với các khoản chiết khấu bán hàng, theo quy định mới được đưa vào chi phí hoạt động tài chính, bởi vậy doanh nghiệp không được ghi giảm số thuế GTGT phải nộp. Đây là điều hợp lý vì nếu được giảm thuế trong chiết khấu bán hàng thì doanh nghiệp có thể thoả thuận với khách hàng từ đó tìm cách gian lận, giảm thuế thông qua việc khai tăng chiết khấu bán hàng. Đối với giảm giá hàng bán, lẽ ra cũng phải quy định tương tự (không được ghi giảm thuế GTGT phải nộp trên khoản giảm giá). Vì doanh nghiệp thông qua việc giảm giá đã thực sự tiêu thụ được hàng. Đã phát sinh doanh nghiệp. Giảm giá chính là điều kiện mà doanh nghiệp phải đánh đổi để có thể tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn sau khi đã cân nhắc lợi ích nào cao hơn giữa hai phương án này. Nhưng đối với hàng bán bị trả lại (TK 531) thì việc giảm thuế GTGT trên khoản hàng bị trả lại là hợp lý vì thực tế doanh nghiệp không tiêu thụ được hàng không phát sinh doanh thu. 5-/ Hoàn thuế GTGT: Về vấn đề hoàn thuế GTGT cho các doanh nghiệp, đặc biệt là trong trường hợp đầu tư tài sản cố định cho sản xuất kinh doanh. Do giá trị tài sản là lớn nên số thuế GTGT đầu vào tính trên tỷ lệ (%) của tài sản là một khoản tài sản không phải là nhỏ. Đối với Nhà nước, việc hoàn lại tức thời cho doanh nghiệp số thuế GTGT đầu vào phát sinh lớn hơn so với số thuế GTGT đầu ra của doanh nghiệp, có thể gây ra giảm thu tạm thời. Nhưng về phía các doanh nghiệp số dư nợ của TK 133 quá lớn trong thời gian dài (3 tháng đối với tài sản cố định đầu tư mở rộng chiều sâu, quý hoặc năm đối với tài sản cố định đầu tư mới) làm chậm vòng quay vốn của doanh nghiệp, giảm hiệu quả hoạt động của đồng vốn và đôi khi doanh nghiệp chịu mất đi những cơ hội kinh doanh do thiếu vốn. 2.2. Đánh giá kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp. Thuế GTGT ra đời để khắc phục việc đánh thuế trùng lặp của thuế doanh thu nó chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tại mỗi công đoạn sản xuất, lưu thông làm sao cho tới cuối chu kỳ sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ thì tổng số thuế thu được ở các công đoạn sẽ khớp với số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Tuy nhiên, do sự tác động của thuế GTGT đối với các doanh nghiệp và đối với người tiêu dùng có sự khác nhau nên để có thể xem xét kỹ cơ chế vận hành của thuế GTGT ta có thể phân tích như sau: * Đối với doanh nghiệp, thuế GTGT gắn liền với 2 yếu tố riêng biệt độc lập với nhau: - Thứ nhất; yếu tố liên quan đến chế độ khấu trừ, tức là liên quan đến bộ phận thuế GTGT đánh trên các nghiệp vụ mua hàng hoá và dịch vụ đầu vào, kể cả nghiệp vụ mua tài sản cố định. - Thứ hai: yếu tố liên quan đến chế độ tính thuế, tức là gắn liền với bộ phận thuế GTGT thu được (thuế GTGT đánh trên các nghiệp vụ bán hàng hoá và dịch vụ đầu ra kể cả nghiệp vụ bán tài sản cố định). Chênh lệch giữa thuế GTGT thu được và thuế GTGT có thể khấu trừ rơi vào 1 trong 2 trường hợp sau: + Nếu là số dương (sau 1 kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp phải nộp. + Nếu là số âm (sau 1 kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp được Nhà nước thoái trả. Cơ chế vận hành của thuế GTGT đối với các doanh nghiệp được thể hiện qua ví dụ sau: + Giả định thuế suất là 5% + Doanh thu bán hàng: 30000 ; thuế GTGT: 1500 Doanh số mua hàng: 20000 ; thuế GTGT: 1000 thuế GTGT phải nộp: 500 + Doanh thu bán hàng: 20000 ; thuế GTGT : 1000 Doanh số mua hàng: 30000 ; thuế GTGT : 1500 thuế GTGT được thoái trả: 500 2.2.1. Những kết quả đạt được. Thuế GTGT được áp dụng ở nước ta từ năm 1999, trong thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam á tác động mạnh đến nền kinh tế nước ta, gây ra những bất lợi, nhưng tính đến nay đã đạt được nhiều kết quả tốt và đang phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế. Thứ nhất, thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là không thu trùng lắp thuế nên đã có tác động tích cực đối với sản xuất, dịch vụ. Có một số ngành nghề, mặt hàng trong thời gian đầu áp dụng Luật thuế GTGT đã không tránh khỏi gặp khó khăn, lúng túng ban đầu do chậm chuyển đổi phù hợp với mức thuế mới như than, cơ khí (trừ cơ khí tiêu dùng), luyện cán - kéo kim loại, máy vi tính, hoá chất cơ bản, vận tải, bốc xếp, xây dựng, khách sạn, ăn uống, du lịch... Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời ban hành các văn bản pháp quy tháo gỡ khó khăn như: cho bổ xung một số hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế, mở rộng việc khấu trừ thuế... Đến cuối năm 1999, các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng trên đã đi vào ổn định, sản phẩm tăng, nộp được thuế và có lãi. Có nhiều sản phẩm, tính chung cả năm 1999, tăng cao hơn so với năm 1998 như phân hoá học tăng 14%, sứ vệ sinh tăng 52,9%, gạch lát tăng 25%, thép cán tăng 12,9%, máy biến thế tăng 23,2%, động cơ đi-ê-zen gấp hơn 2,5 lần. Đối với một số doanh nghiệp đã bị thua lỗ lớn từ trước, qua hơn một năm áp dụng các luật thuế mới, chưa kịp chuyển biến nên sản xuất kinh doanh vẫn trì trệ và chưa hết lỗ. Các hoạt động dịch vụ có khá hơn, giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 3,5% so với năm 1998. Việc thực hiện thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp còn đòi hỏi các doanh nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế phải tăng cường quản lý, thực hiện tốt công tác hạch toán kế toán như: ghi chép ban đầu, mở sổ sách kế toán và mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ; đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trong tình hình mới. Về lưu thông hàng hoá, tuy trong bối cảnh nền kinh tế giảm phát kéo dài, nhưng vì thuế GTGT chỉ điều tiết trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên đã thúc đẩy việc lưu thông hàng hoá thuận lợi. Tính chung cả năm 1999, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng 5,1% (bao gồm cả yếu tố trượt giá 4,7%). Thứ hai, Luật thuế GTGT và các Luật thuế mới đã khuyến khích đầu tư trong nước, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại. Thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua sắm tài sản cố định sẽ được nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh nghiệp. Đồng thời, trong quá trình thực hiện, Chính phủ còn có những biện pháp khuyến khích thêm như: đối với những công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành bàn giao trong năm 1998 sang năm 1999 mới thanh toán thì được nộp thuế theo mức thuế doanh thu cũ; từ 01/09/1999 đã giảm 50% mức thuế GTGT cho xây dựng, lắp đặt. Nhờ đó, trong năm 1999, tuy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện chỉ bằng 77,7% so với thực hiện năm 1998 nhưng vốn đầu tư xã hội vẫn tăng khoảng 9% so với năm trước. Thứ ba, thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất khẩu, giải quyết nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Luật thuế GTGT quy định hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và được hoàn thuế GTGT đầu vào, giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu nên đã khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện để hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh về giá với hàng hoá tương tự của các nước trên thị trường quốc tế. Số tiền hoàn thuế gần 1800 tỷ đồng trong năm 1999 cho hàng xuất khẩu đã góp phần quan trọng để thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng xuất khẩu. Một số mặt hàng xuất khẩu được hoàn thuế đầu vào tăng cao như: gạo tăng 12%; hàng dệt may tăng 14%; giày dép tăng 31%; thuỷ hải sản tăng 11%; hàng điện tử tăng 16%; rau quả tăng 31%; hàng thủ công mỹ nghệ tăng 33%. Kết quả cho thấy năm 1999 là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của nước ta vừa đạt tốc độ tăng trưởng cao, vừa vựơt mức kế hoạch. Trong điều kiện kinh tế thế giới lâm vào tình trạng giảm phát, hàng hoá ứ đọng, thị trường tiêu thụ hàng hoá bị co lại, nhiều mặt hàng liên tục giảm giá, nhưng tính chung cả năm 1999, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại đạt 115,2% kế hoạch năm và tăng 23,1% so với năm 1998 (năm 1998 tăng 1,9%). Thuế GTGT có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước thông qua việc đánh thuế vào hàng hoá nhập khẩu. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước, bảo hộ được thị trường tiêu thụ hàng hoá nội địa, kích thích sản xuất trong nước phát triển, tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới khi nước ta phải cắt giảm thuế nhập khẩu, thực hiện thuế suất ưu đãi khi tham gia các hiệp định thương mại đa phương, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Kết hợp với cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 1999, thuế GTGT đã góp phần hạn chế hàng tiêu dùng, nhất là hàng tiêu dùng cao cấp từ nước ngoài, thực hiện tiết kiệm cho sản xuất. Đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu vẫn thực hiện thu thuế GTGT khi hàng nhập về, nhưng đã có xem xét, điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu để ổn định sản xuất trong nước. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó phải kể đến tác động của thuế GTGT, mà tổng kim ngạch nhập khẩu năm 1999 chỉ tăng 1% so với năm 1998. Thuế GTGT còn góp phần cơ cấu lại nền kinh tế từ sản xuất thay thế nhập khẩu chuyển mạnh sang sản xuất hướng nhập khẩu. Thuế GTGT khuyến khích việc sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng nước ta có thế mạnh như nông sản, lâm sản, thuỷ sản... bằng các quy định cụ thể như: không thu thuế GTGT đối với hàng do người sản xuất bán ra; cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các cơ sở chế biến, thương mại mua các mặt hàng trên; hoàn thuế đầu vào cho các cơ sở xuất khẩu các mặt hàng này nếu có hoá đơn GTGT đầu vào... Nhờ vậy, trong năm 1999, lượng gạo xuất khẩu đạt 4,55 triệu tấn, tăng hơn 80 vạn tấn so với năm trước; lượng thuỷ sản xuất khẩu cả năm đạt giá trị 979 triệu USD, bằng 11,4% so với năm 1998. Hầu hết các nông sản xuất khẩu chủ yếu tăng về khối lượng như chè tăng 13,0%; cà phê tăng 27,6%; cao su 37,2%; hạt tiêu tăng 2,3 lần. Thứ tư, thuế GTGT không làm tăng giá cả hàng hoá. Bản chất của thuế GTGT là không làm tăng giá vì nó thay thế thuế doanh thu đã được kết cấu vào trong giá. Một vài tháng đầu thực hiện Luật thuế GTGT, một số doanh nghiệp và hộ kinh doanh đã cộng thêm thuế vào giá cũ để bán làm giá cả hàng hoá đã nhích lên chút ít. Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã có biện pháp quản lý kịp thời; mặt khác, hàng hoá dồi dào, còn sức mua hạn chế nên giá cả sớm ổn định trở lại. Theo tài liệu của Tổng cục Thống kê thì chỉ số giá tiêu dùng cả năm 1999 chỉ tăng 0,1% so với tháng 12 năm 1998, trong đó giá lương thực và thực phẩm giảm (thực phẩm giảm 7,8%). Nếu trừ nhóm lương thực và thực phẩm thì giá các nhóm hàng công nghệ phẩm và dịch vụ trong năm tăng 3% là mức bình thường và phổ biến của nhiều nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Về cơ bản, giá cả hàng hoá trong năm 1999 vẫn dừng ở mức cuối năm 1998 mặc dù trong đó có cả thuế GTGT. Năm 1999 là năm chỉ số giá tiêu dùng có tốc độ tăng thấp nhất từ 1990 đến nay. Thứ năm, về số thu ngân sách, thuế GTGT thu được từ 1999 đến nay đạt kết quả như sau: Đơn vị tính: Nghìn tỷ đồng Năm 1999 2000 2001 2002 (dự tính) Tổng số thu ngân sách 76,128 88,721 95,600 103,200 Tổng thu về thuế 63,942 72,787 80,305 102,530 Thu thuế GTGT 17,239 17,072 18,916 23,015 Tỷ lệ % thuế GTGT trong tổng thu NS 22,64 19,24 18,196 23,015 Tỷ lệ % thuế GTGT trong tổng thu về thuế 26,96 23,45 23,55 26,30 Theo số liệu ở trên ta thấy rằng thuế GTGT là một nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, từ khi ban hành đến nay thuế GTGT luôn chiếm khoảng 20% tổng số thu cho ngân sách nhà nước và khoảng 25% trong tổng số thu từ thuế. Năm 1999, tổng thu ngân sách nhà nước cả năm đạt 95,9% so với dự toán năm, thu thuế GTGT tương đương với thu thuế doanh thu trước đây; trong đó, thu thuế GTGT hàng nhập khẩu đạt 113,1% so với dự toán năm. Có được kết quả này còn nhờ vào sự tích cực, chủ động và phối hợp chặt chẽ của các ngành, đơn vị chức năng như ngành thuế, hải quan, quản lý thị trường, bộ đội biên phòng, công an... với các địa phương trong việc tính thuế và thu thuế hàng hoá, giám sát kiểm tra hàng hoá, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Các số liệu minh hoạ trên phần lớn đều là các số liệu của năm 1999, năm đầu tiên nước ta triển khai áp dụng Luật thuế GTGT, nhưng nhìn chung từ đó đến nay, qua hơn ba năm thực hiện Luật thuế GTGT đã đảm bảo được yêu cầu của Nhà nước đề ra là góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc thực hiện mua, bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ tạo điều kiện chống thất thu thuế, bảo đảm nguồn thu ổn định, lâu dài và ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, nó góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta, phù hợp với sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.2.2. Những tồn tại. Bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được, trong thời gian triển khai thực hiện Luật thuế GTGT đã nổi lên những khó khăn, tồn tại, vướng mắc sau đây: Một là, về thuế suất thuế GTGT: đang từ thuế doanh thu có 11 mức thuế suất đến áp dụng thuế GTGT có 4 mức thuế suất không thể tránh khỏi sự chênh lệch số thuế gián thu phải nộp giữa hai loại thuế này. Những sản phẩm trước đây chịu thuế doanh thu với mức thấp 0,5%, 1%, 2% nay lên 10% trên giá chưa có thuế, mặc dù được khấu trừ thuế đầu vào nhưng số thuế GTGT phải nộp vẫn cao hơn thuế doanh thu phải nộp trước kia rất nhiều. Vì vậy, khi áp dụng thuế GTGT, một số ngành, một số doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, nếu nộp đủ thuế GTGT thì bị lỗ. Chẳng hạn, các doanh nghiệp ngành chế tạo cơ khí trước đây đang nộp thuế doanh thu từ 1% - 2% (trừ nhóm hàng điện dân dụng và lắp ráp ô tô dưới 24 chỗ có mức thuế suất 4%) nay áp dụng thuế suất thuế GTGT 10% đã gặp rất nhiều khó khăn. Với 4 mức thuế suất như hiện nay, ngành thuế liên tục nhận được đơn xin giảm thuế và đã điều chỉnh giảm thuế đối với nhiều nhóm hàng. Nhưng điều chỉnh giảm thuế tạo ra những phản ứng dây chuyền, lan rộng, gây nhiều tiêu cực. Hai là, về việc khấu trừ thuế, hoàn thuế. Nghị định 102/1998/NĐ-CP ngày 21/12/1998 và Nghị định số 78/1999/NĐ-CP ngày 20/08/1999 của Chính phủ đã cho phép mở rộng điều kiện khấu trừ thuế cho các hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản, phế liệu, hàng hoá chịu thuế TTĐB của cơ sở thương mại mua trực tiếp của người sản xuất... thực chất là khuyến khích sản xuất, chế biến hàng nông, lâm, thuỷ sản, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, để các doanh nghiệp không phải nộp thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã nảy sinh các mâu thuẫn mới: Có quá nhiều tỉ lệ khấu trừ, gây phức tạp cho quá trình thực hiện và không khuyến khích thực hiện hoá đơn, chứng từ. Việc cho phép khấu trừ khống, dựa vào bảng kê đã tạo khe hở cho việc kê khai không trung thực để được khấu trừ hoặc hoàn thuế, gây thất thu cho NSNN. Chính sách thuế chưa thống nhất, chưa công bằng giữa các đối tượng nộp thuế như chưa cho khấu trừ thuế đối với dịch vụ chịu thuế GTGT có hoá đơn bán hàng thông thường như: vận tải, bốc xếp, sửa chữa... trong khi các hàng hoá dịch vụ khác được khấu trừ hoặc hoàn thuế. Quá trình xét hoàn thuế chậm, gây khó khăn ách tắc vốn sản xuất kinh doanh cho nhiều doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. Nguyên nhân của tình hình trên một phần do doanh nghiệp chưa làm đúng thủ tục, một phần do cơ quan thuế chưa quen, văn bản hướng dẫn lại chưa rõ ràng. Việc xác định số thuế được khấu trừ và số thuế hoàn lại khiến ngành thuế phải mất một thời gian để xác minh. Năm 2000, theo kế hoạch, ngành thuế sẽ tiến hành hoàn thuế khoảng 3.260 tỷ đồng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến hết năm 2000, thực tế số thuế được hoàn lên tới 4.000 tỷ đồng tăng 740 tỷ đồng so với kế hoạch. Ba là, về hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn. Thực tế nền kinh tế nước ta có khoảng 4 vạn doanh nghiệp có khả năng tổ chức hạch toán và gần 1,6 triệu hộ chủ yếu sản xuất, kinh doanh nhỏ, cho nên khi thực hiện thuế GTGT đã áp dụng hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn. áp dụng phương pháp khấu trừ và hoá đơn GTGT đối với các doanh nghiệp đủ điều kiện hạch toán kế toán và áp dụng phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng và sử dụng hoá đơn thông thường đối với các hộ kinh doanh nhỏ. Việc áp dụng đồng thời 2 cách tính thuế GTGT và 2 loại hoá đơn trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay là cần thiết, song trên thực tế lại nảy sinh những điều bất cập, gây trở ngại cho các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Việc tồn tại hai phương pháp tính thuế GTGT tạo ra sân chơi không bình đẳng, công bằng giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh. Theo số liệu của ngành thuế hiện nay, riêng TP HCM có trên 120.000 đơn vị thực hiện thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và 10.000 đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế. Số đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ chỉ chiếm khoảng 8% trong tổng số các đơn vị được cấp mã số thuế, song hiện đang thực hiện các giao dịch về hàng hoá, dịch vụ đầu vào với các đơn vị, cá nhân thực hiện theo phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT khá lớn nên nhiều doanh nghiệp có hoá đơn bán hàng (đã có thuế GTGT) mà không được khấu trừ thuế. Do đó, trong các khoản chi phí và việc hình thành giá bán có một phần thuế không được khấu trừ, nhưng khi đơn vị tiêu thụ sản phẩm vẫn phải nộp 10% trên tổng giá trị hàng hoá. Như vậy là thuế đánh chồng lên thuế, các đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ sẽ mất đi một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngược lại, khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp có quan hệ giao dịch, cung ứng dịch vụ, hàng hoá với các đơn vị hiện theo phương pháp khấu trừ thì hàng hoá không được khấu trừ thuế GTGT, thực chất các đơn vị phải trả phần thuế GTGT chìm trong giá bán mà các đơn vị trực tiếp đã nộp. Từ cách thực hiện như trên ta thấy hiện đang tồn tại hai sân chơi khác nhau mà mỗi bên chỉ chơi theo một loại hình, chính vì vậy đang hình thành 2 xu hướng là một số đơn vị đang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ chuyển sang nộp theo phương pháp trực tiếp và ngược lại, tuỳ thuộc vào chiến lược khách hàng của họ và dĩ nhiên là ngành thuế sẽ khó lòng giải quyết ngay được. Hơn nữa trong thực tế, tiến hành thu thuế tính theo phương pháp trực tiếp rất khó chính xác, vẫn chủ yếu tính theo phương pháp khoán (đối với hộ nhỏ) như thuế doanh thu trước đây, chính điều này đã gây không ít lúng túng, khó khăn cho thương nghiệp quốc doanh một khi họ phải cạnh tranh trực tiếp với các hộ buôn bán thuế theo phương pháp trực tiếp. Ngoài ra, để quản lý cơ sở áp dụng phương pháp tính trực tiếp phải huy động gần một nửa số cán bộ thuế với chi phí tương ứng, nhưng thu cho ngân sách Nhà nước chỉ chiếm gần 10% trong tổng thuế GTGT. Bốn là, tình trạng trốn thuế ngày càng trở nên phổ biến, nghiêm trọng và ngày càng tinh vi. Chế độ hoá đơn chứng từ là cơ sở xác định số thuế sát đúng với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Việc không ít đơn vị lập hai hệ thống sổ sách kế toán chứng từ, hoá đơn, hợp đồng kinh tế: một để sử dụng nội bộ, một để kê khai thuế không còn là chuyện lạ. Kinh doanh không giấy phép hoặc ngoài nội dung giấy phép, không kê khai doanh số phát sinh ... cũng thường xuyên xảy ra. Ngành thuế đang lên tiếng báo động là việc xuất hiện hoá đơn giả, khống về tình trạng các doanh nghiệp khi mua hàng không có hoá đơn, đã mua hoá đơn ngoài, tự ghi số lượng, giá cả để tránh thuế đầu vào, đồng thời hợp thức hoá hàng hoá đầu vào để được khấu trừ thuế GTGT kết hợp với việc kìm hãm thuế GTGT đầu ra thấp hơn để không phải nộp thuế, không những thế có những trường hợp còn được hoàn lại thuế. Việc sử dụng hoá đơn giả khá phổ biến, hầu như khu vực kinh tế nào cũng có sử dụng hoá đơn giả. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn lợi dụng sự lỏng lẻo trong quản lý của cán bộ thuế, làm đơn xin tạm ngưng kinh doanh, hoặc xin giải thể, dùng hoá đơn GTGT mua được bán cho các doanh nghiệp khác, thực chất vẫn hoạt động thông đồng với cán bộ thuế để kinh doanh trốn thuế. Năm là, về việc ban hành hệ thống văn bản pháp lý: qua hơn ba năm thực hiện luật thuế GTGT, Bộ Tài chính đã có hàng trăm văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế, phần lớn các văn bản ban hành sau chỉ điều chỉnh bổ xung hoặc sửa đổi một số nội dung của văn bản trước. Do vậy, hàng trăm văn bản đều có hiệu lực thi hành. Việc làm này gây nhiều khó khăn, phức tạp trong điều hành, tổ chức và quản lý thu thuế, chưa nói đến giữa các văn bản lại phát sinh mâu thuẫn, không nhất quán. Nguyên nhân sâu xa của những khó khăn, vướng mắc chính nêu trên là do nước ta mới chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, hệ thống tài chính và ngân hàng chưa phát triển kịp với đà tăng trưởng kinh tế, nên việc thanh toán tiền hàng trong mua bán trao đổi hàng hoá chủ yếu là ngoài luồng ngân hàng, rất khó kiểm soát. Theo số liệu thống kê, tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng trong năm 1999 tăng 17% so với năm 1998. Mặt khác, người dân chưa có thói quen sử dụng hoá đơn, chứng từ trong mua bán. Thêm vào đó, thuế GTGT ở nước ta còn chứa đựng nhiều quy định bất cập, không hợp lý so với thực tiễn nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay. 2.3. Một số ý kiến đề suất nhằm hoàn thiện kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp. Về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn, thuế GTGT đã chứng tỏ những ưu việt hơn hẳn so với hình thức thu cũ của nó là thuế doanh thu. Thực tế cho thấy ngay cả các nước từ lâu đã áp dụng thuế GTGT và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng đều phải trải qua những giai đoạn nhất định để hoàn thiện dần những quy định pháp lý về loại thuế này. Trong điều kiện Việt Nam, áp dụng thuế GTGT là việc làm có tính chất đột phá trong tiến trình cải cách căn bản và lâu dài hệ thống thuế nên không thể tránh khỏi những bất cập ban đầu. Trong hơn ba năm thực hiện Luật thuế GTGT, Ban chỉ đạo các luật thuế mới của Chính phủ cùng các bộ, các ngành và các địa phương đã bám sát tình hình thực tế, đề xuất và triển khai các biện pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện thuế GTGT và các luật thuế mới khác. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định và quyết định về thực hiện thuế GTGT và các luật thuế mới. Trong đó, Nghị quyết số 90/1999/NQ-UBTVQH10 ngày 03/09/1999; nghị quyết số 240/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 27/10/2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X đã bổ xung thêm một số danh mục hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT và thuế suất thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ. Để giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp, chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 1999, cơ quan chức năng đã điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu cho 850 mặt hàng là vật tư, nguyên liệu và cho kéo dài thời gian nộp thuế nhập khẩu, thuế GTGT thêm 30 ngày đối với hàng là nguyên vật liệu nhập khẩu. Bộ Tài chính cũng có các thông tư hướng dẫn việc áp dụng thuế GTGT cho các ngành đặc thù như: điện, bưu chính viễn thông, hàng không, hàng hải; các lĩnh vực như: cho thuê tài chính, tín dụng, ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, xổ số kiến thiết, đầu tư nước ngoài, gia công xuất khẩu... Để phát huy những mặt tích cực của Luật thuế GTGT trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu, bổ xung, hoàn thiện chính sách thuế GTGT và thực hiện có hiệu quả một số giải pháp mang tính chất kiến nghị sau đây: Về đối tượng chịu thuế: Mở rộng các đối tượng chịu thuế GTGT, giảm bớt tối đa hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế. áp dụng thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB cho phù hợp nguyên tắc chung của thuế GTGT (thuế đánh trên tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ). Về thuế suất thuế GTGT: Mức thuế suất là bao nhiêu phụ thuộc vào yêu cầu điều tiết của từng quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác nó phụ thuộc vào cơ cấu điều tiết của hệ thống thuế. Thuế GTGT chiếm phần chủ yếu trong cơ cấu thuế đánh vào tiêu dùng xã hội. Việc điều tiết này chỉ đảm bảo được yêu cầu công bằng theo chiều ngang song lại dễ thu, ít gặp phản ứng. Cho nên nếu một quốc gia coi trọng điều tiết vào tiêu dùng xã hội, sẽ quy định mức thuế suất thuế GTGT cao. Ngược lại, nếu coi trọng điều tiết vào thu nhập, bảo đảm yêu cầu công bằng theo chiều dọc thì có thể giảm nhẹ mức thuế suất thuế GTGT để nâng tổng thu về thuế thu nhập lên. Số lượng thuế suất: Số lượng thuế suất càng ít càng đơn giản hoá quá trình tính và thu thuế, thể hiện tính chính xác bản chất của thuế GTGT và đảm bảo tính trung lập của loại thuế này. Kinh nghiệm các nước trong khu vực và trên thế giới chỉ áp dụng hai mức thuế suất thuế GTGT (bao gồm cả mức thuế suất 0%). Giải pháp cho vấn đề này ở nước ta trong thời gian tới là: giảm số lượng thuế suất tối đa còn 2 mức (trong đó thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu; 10% áp dụng cho tất cả ). Tuy nhiên để thực hiện được điều này thì phải đảm bảo các yêu cầu sau: Xác định mức thuế suất phải đảm bảo không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước, đồng thời phải nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Mức thuế suất phải bảo hộ được sản xuất trong nước do phải giảm thuế nhập khẩu vào năm 2006 theo hiệp định AFTA. Mức thuế suất phải đảm bảo công bằng quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp, đảm bảo ổn định thị trường trong nước, không có biến động lớn về giá cả và không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Mức thuế suất dự kiến là 8% và 10% (vào năm 2005). Trong đó, sắp xếp lại để hạn chế các sản phẩm, dịch vụ, thuộc nhóm thuế suất 8%, còn lại là nhóm thuế suất 10%, tiến tới áp dụng một mức thuế suất là 10%. Về phương pháp tính thuế: Hiện nay, luật thuế cho phép sử dụng hai phương pháp tính thuế tùy theo đặc điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trình độ hạch toán kế toán của các cơ sở kinh tế. Điều này tuy phù hợp với trình độ phát triển chưa cao của nền kinh tế nước ta hiện nay, nhưng lại tạo nhiều bất cập, nhiều khe hở cho việc gian thuế, lậu thuế...như đã đề cập ở trên. Giải pháp kiến nghị là: Thực hiện thống nhất một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế vì nó có nhiều ưu điểm; ít nhất nó cũng tránh được sự vận động không cần thiết của tiền thuế từ đối tượng nộp thuế vào kho bạc Nhà nước và ngược lại. Phân loại các hộ kinh doanh có quy mô nhỏ, thu nhập thấp ra khỏi diện phải nộp thuế GTGT do chi phí quản lý cao so với lượng thuế thu được. Quy định mức doanh số xác định đối tượng là hộ kinh doanh nhỏ để chuyển sang áp dụng nộp thuế theo mức tỷ lệ % ấn định trên doanh thu. Đẩy mạnh thực hiện chế độ kế toán đối với các hộ kinh doanh có quy mô lớn để chuyển những đối tượng này sang áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. Trên cơ sở đó, mở rộng diện tính theo phương pháp khấu trừ thuế tạo điều kiện cho việc sử dụng một phương pháp tính thuế GTGT duy nhất là phương pháp khấu trừ thuế. Đối với các đối tượng khác như HTX, công ty trách nhiệm hữu hạn... bắt buộc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ là căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Về hoàn thuế GTGT. Đẩy nhanh hơn nữa tốc độ hoàn thuế cho các doanh nghiệp, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Để rút ngắn thời gian hoàn thuế và hạn chế gian lận thuế, ngành thuế cần phải nhanh chóng vi tính hoá trong công tác quản lý thuế. Điều này có thể thực hiện được khi cấp hoá đơn cho mặt hàng hoặc lĩnh vực kinh doanh và mã số thuế. Tất cả các dữ liệu này sẽ được nối mạng cho tất cả các cục thuế và mỗi cục thuế sẽ có bộ phận kiểm tra nguồn gốc của hoá đơn, giá trị của hoá đơn trên mạng máy tính. Cần đề cao hơn nữa trách nhiệm của cơ sở trước những hồ sơ xin được hoàn thuế, đồng thời đơn giản hoá các thủ tục xin được hoàn thuế và tăng cường kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế. Cải cách hành chính thuế. Mục tiêu của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra. Để đẩy mạnh công tác cải cách hành chính thuế cần thực hiện: Hoàn thiện các văn bản pháp luật về thuế, đặc biệt là thuế GTGT. Hệ thống văn bản pháp luật sẽ được tách riêng ra thành hệ thống văn bản thuế và hệ thống văn bản hành chính đảm bảo các mục tiêu đơn giản, công bằng và không làm thiệt hai cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp tự tính, tự kê khai và nộp thuế tại kho bạc nhà nước. Cơ quan thuế chỉ có chức năng kiểm tra, giám sát việc chấp hành nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế. Hoàn chỉnh chế độ xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuế, đảm bảo tính nghiêm minh trong thực hiện nghĩa vụ thuế. Cải cách hệ thống kế toán thuế GTGT cho đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện. Nâng cao tính hiệu quả trong công tác quản lý, sử dụng hoá đơn chứng từ. Hiện nay, cho phép các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sử dụng hoá đơn thuế GTGT. Đối với hộ kinh doanh lớn tính thuế theo phương pháp trực tiếp, hộ kinh doanh nhỏ nộp thuế theo phương pháp khoán, sử dụng hoá đơn bán hàng không ghi thuế GTGT. Trong thời gian tới Bộ Tài chính cần nghiên cứu loại giấy in hoá đơn, chứng từ và ký hiệu, mã hiệu để chống in giả. Hạn chế tối đa thiệt hại do tình trạng sử dụng hoá đơn giả gây ra. áp dụng mẫu hoá đơn thống nhất trên toàn quốc và hạn chế cho đăng ký sử dụng hoá đơn đặc thù. Có đủ số lượng chứng từ, hoá đơn thống nhất trên toàn quốc để áp dụng cho các ngành nghề, các khu vực kinh tế khác nhau. Nhanh chóng nối mạng về quản lý sử dụng hoá đơn của đối tượng nộp thuế trên máy vi tính trong toàn quốc nhằm quản lý chặt chẽ hơn việc phát hành và sử dụng hoá đơn chứng từ của các đối tượng nộp thuế. Ngành thuế phối hợp với các cơ quan pháp luật khác kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm hơn nữa các trường hợp vi phạm. Hình thành và phát triển các nhóm tư vấn thuế Hình thành nhóm tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết đối với các đối tượng chịu thuế, nộp thuế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhiều nước trên thế giới coi dịch vụ tư vấn thuế là một nghề, đây là dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, kinh nghiệm và sự hiểu biết về lĩnh vực thuế. Bộ phận này có tính độc lập tương đối với bộ phận trực tiếp quản lý thu thuế. Đồng thời, để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn thuế, nên có quy định chấp nhận chi phí tư vấn thuế là một loại chi phí hợp lý, hợp lệ để tính thu nhập chịu thuế. Về tổ chức thực hiện thuế GTGT. Công tác tổ chức thực hiện Luật thuế GTGT đóng vai trò quyết định để cho chính sách thuế GTGT thật sự đi vào đời sống kinh tế-xã hội một cách hữu hiệu. Vì vậy cần thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các biện pháp sau: Chú trọng thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ thuế và trang bị phương tiện hiện đại cần thiết đáp ứng yêu cầu của dông tác quản lý thu thuế GTGT. Đây là khâu quan trọng quyết định tính thực thi, tính hiệu quả của chính sách thuế GTGT, bởi việc quản lý thu thuế GTGT rất phức tạp nên nếu trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ thuế yếu hay thiết bị phương tiện quản lý lạc hậu sẽ không thể quản lý tốt thuế GTGT, làm gia tăng hiện tượng trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Nếu thuế GTGT được quản lý tốt sẽ có tác dụng thúc đẩy thực hiện nghiêm túc công tác sổ sách, chứng từ hoá đơn, giúp khắc phục được tình trạng thất thu thuế. Có chính sách động viên hợp lý đội ngũ cán bộ ngành thuế, nhất là ở cơ sở, kết hợp công tác giáo dục thường xuyên và quản lý chặt chẽ đội ngũ này để chống tiêu cực lệch lạc. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế, thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các biện pháp kinh tế, nghiệp vụ và hành chính trong công tác hành thu thuế GTGT; phối hợp chặt chẽ các cơ quan thuế với các cơ quan quản lý thị trường, các cơ quan thực thi pháp luật nhằm ngăn chặn, hạn chế tình trạng hoá đơn chứng từ, hợp đồng giả, khống, thiếu độ tin cậy để trốn thuế, gây thất thu thuế cho ngân sách Nhà nước, thị trường biến động, cơ cấu lao động bị xáo trộn. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách thuế GTGT bằng nhiều hình thức sinh động, thiết thực đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Cần tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích thật cụ thể về nội dung chính sách thuế, cách ghi chép hoá đơn chứng từ, cách kê khai thuế, công khai quy trình hoàn thuế tới từng cơ sở tính, nộp thuế. Điều này nhằm giúp cho mọi người hiểu rõ bẩn chất và nắm được những ưu điểm của thuế GTGT, tránh những hiểu lầm, nhận thức không đúng, gây ngộ nhận do không hiểu biết về thuế GTGT tạo nên khe hở cho kẻ khác lợi dụng, gây bất an trong nhân dân, qua đó khuyến khích mọi người an tâm, mạnh dạn đầu tư vốn để giúp nền kinh tế có thêm lượng vốn cần thiết cho nhu cầu phát triển. Về lâu dài, cần kết hợp với ngành giáo dục nghiên cứu đưa các kiến thức cơ bản về các luật thuế vào chương trình giáo dục công dân trong trường phổ thông để giáo dục cho các công dân tương lai ý thức, trách nhiệm và quyền lợi trong việc tự giác đóng thuế. Mẫu sổ: 01 GTKT- 3LL. Ký hiệu: AA/02 Số: 0000001 Hoá đơn giá trị gia tăng. Liên 1:(Lưu) Ngày........ tháng....... năm 200... Đơn vị bán hàng........................................................................................................................ Địa chỉ:.............................................Số tài khoản..................................................................... Điện thoại:..........................................MS.................................................................................. Họ tên người mua:..................................................................................................................... Tên đơn vị.................................................................................................................................. Địa chỉ:....................................................................................................................................... Hình thức thanh toán:...........................MS............................................................................. STT Tên hàng hoá Đơn vị tính Số lượng Đơn giá Thành tiền A B C 1 2 3=1x2 Cộng tiền hàng:..................................................................................................................... Thuế suất GTGT: % Tiền thuế GTGT:......................................................................... Tổng cộng tiền thanh toán:..................................................................................................... Số tiền viết bằng chữ:.............................................................................................................. Người mua hàng Người bán hàng Thủ trưởng đơn vị (Ký, họ tên) (Ký, họ tên) (Ký, họ tên, đóng dấu). -Mẫu số 01 GTKT-3L-01 đối với hoá đơn tự in, đuôi 01 chỉ số lượng mẫu hoá đơn tự in tổ chức, cá nhân đăng kí sử dụng; Ví dụ: tổ chức, cá nhân đăng kí 5 mẫu hoá đơn tự in GTKT thì kí hiệu ghi là; Mẫu số: 01 GTKT- 3L-01( 02, 03, 04, 05) Doanh nghiệp………… Mẫu sổ S01/DN. Ban hành theo Thông tư số:100/1998/TT-BTC ngày 15-7-1998 của Bộ Tài chính. Sổ theo dõi thuế giá trị gia tăng. Năm:………….. Chứng từ Diễn giải Số tiền thuế GTGT đã nộp Số tiền thuế GTGT phải nộp Số hiệu Ngày, tháng 1 2 3 4 5 1.Số dư đầu kỳ 2.Số phát sinh trong kỳ Cộng số phát sinh. 3.Số dư cuối kỳ Ngày…. tháng …..năm…. Người ghi sổ Kế toán trưởng Giám đốc (Ký, họ tên) (Ký, họ tên) (Ký, họ tên, đóng dấu). Doanh nghiệp………… Mẫu số S02-DN Ban hành theo Thông tư số:100/1998/TT-BTC ngày 15-7-1998 của Bộ Tài chính. Sổ chi tiết thuế GTGT được hoàn lại. Năm:……… Chứng từ Diễn giải Số thuế GTGT được hoàn lại Số thuế GTGT đã hoàn lại Số hiệu Ngày, tháng 1 2 3 4 5 1.Số dư đầu kỳ 2.Số phát sinh trong kỳ Cộng số phát sinh. 3.Số dư cuối kỳ Ngày…. tháng…..Năm… Ngưòi ghi sổ Kế toán trưởng Giám đốc. (Ký, họ tên) (Ký, họ tên) (Ký, họ tên, đóng dấu). Doanh nghiệp………… Mẫu số S03-DN Ban hành theo Thông tư số:100/1998/TT-BTC ngày 15-7-1998 của Bộ Tài chính Sổ chi tiết thuế GTGT được miễn giảm. Năm:……… Chứng từ Diễn giải Số thuế GTGT được miễn giảm Số thuế GTGT đã miễn giảm Số hiệu Ngày, tháng 1 2 3 4 5 1. Số dư đầu kỳ 2. Số phát sinh trong kỳ Cộng số phát sinh. 3. Số dư cuối kỳ Ngày…. tháng…..Năm… Ngưòi ghi sổ Kế toán trưởng Giám đốc. (Ký, họ tên) (Ký, họ tên) (Ký, họ tên, đóng dấu). Kết luận Thuế GTGT là một loại thuế quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu ngân sách nhà nước.Thuế GTGT đã khcs phục được một số nhược điểm của thuế doanh thu, góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá, đặc biệt là khuyến khích đảy mạnh đối với xuất khẩu, trên cơ sở quy mô sản xuất ngày càng tăng trưởng mà dẫn đến hiệu quả tích cực là tăng thu ngân sách nhà nước. Thuế GTGT ra đời đã góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước,Tuy nhiên, luật thuế này còn rất mới mẻ và còn nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Trong phạm vi tiểu luận này,em đã nêu ra một số ý kiến đề xuất được góp nhặt thông qua quá trình học tập và sách báo nhằm phát huy những tác động tiêu cực và khắc phục những tác động tiêu cực về kinh tế - xã hội của thuế GTGT đồng thời góp phần củng cố, hoàn thiện chính sách thuế GTGT ở nước ta. Trong thời gian tới, hy vọng những bất hợp lý sẽ được nhanh chóng phát hiện và sửa chữa để cho thuế GTGT và các luật thuế mới góp phần tích cực vào việc đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng đã đề ra. Với bài viết của mình em hi vọng sẽ giúp cho các doanh nghiệp có có cái nhìn tích cực hơn về thuế GTGT đồng thời cũng mạnh dạn xin kiến nghị một vài ý kiến nhằm hoàn thiện hơn về thuế GTGT và cách hạch toán thuế GTGT. Do hạn chế về thời gian cũng như kinh nghiệm thực tiễn, bài viết của em không thê tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự giúp đỡ của quý thầy cô và bạn bè quan tâm đến vấn đề này Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Thuế, Lê Văn ái, Học Viện Tài Chính - Kế toán Hà Nội, 2000. 2. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ (Trường đại học kinh tế quốc dân_ khoa Ngân hàng tài chính). 3. Luật thuế GTGT và văn bản hướng dẫn áp dụng, NXB Chính trị quốc gia, 2001. 4. Thuế VAT và mô hình áp dụng tại Việt Nam, Nguyễn Xuân Nhạt, 1997. 5. Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2000. 6. Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2001. 7.Tạp chí kinh tế và phát triển. 8.Tạp chí phát triển kinh tế. 9.Tạp chí tài chính. 10.Tạp chí ngân hàng. 11. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. 12. Tạp chí thực tiễn kinh nghiệm. 13. Tạp chí thương mại. 14.Tạp chí thống kê. Website bộ Tài chính: Mục lục Kết luận 47

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1163.doc
Tài liệu liên quan