Chuyên đề Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Một thực tế hiện nay không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn ở các nước khác trên thế giới là các DNNVV thường xuyên gặp khó khăn trong việc huy động vốn để kinh doanh. Hầu hết, vốn tự có của các doanh nghiệp này chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng vốn huy động, phần còn lại dựa vào các nguồn tài trợ khác mà chủ yếu là vốn vay từ các NHTM. Vì vậy, vốn vay ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các DNNVV. Trong những năm gần đây, sự phát triển của các DNNVV đã thể hiện vai trò tích cực và hứa hẹn nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, để tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp này phát triển thì phải giải quyết được vấn đề thiếu vốn. Trong thời gian thực tập, tôi nhận thấy hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các DNNVV còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của các doanh nghiệp cũng như chưa thực sự đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình là: “Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SGD NHNo & PTNT VN”. Trong quá trình nghiên cứu, tôi có mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị đối với các cơ quan nhà nước, NHNN, bản thân các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay.

doc88 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1704 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rộng dư nợ tín dụng đối với các DNNVV tại SGD Trong 3 năm qua hoạt động tín dụng đối với các DNNVV tại SGD đã rất phát triển và dư nợ cho vay chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng dư nợ cho vay. Để biết rõ hơn về kết quả mở rộng tín dụng DNNVV tại SGD thì ta sẽ tìm hiểu về dư nợ tín dụng đối với DNNVV so với tổng dư nợ cho vay tại SGD qua bảng sau: Bảng 5: tổng dư nợ cho vay đối với DNNVV so với tổng dư nợ cho vay tại SGD Đơn vị: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Tỷ trọng (%) Năm 2006 Tỷ trọng (%) Năm 2007 Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ cho vay 2,051 100 2,933 100 4,290 100 Dư nợ cho vay DNNVV 759.8 37.04 1,127 38.42 2,056 47.92 (Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động tín dụng qua các năm của SGD) Nhìn vào bảng 5 ta có thể thấy dư nợ cho vay của SGD đối với SGD tăng dều và tăng nhanh qua 3 năm và tỷ lệ với sự tăng lên đó thì dư nợ cho vay của SGD tăng đều và tăng nhanh qua 3 năm qua và tỷ lệ với sự tăng lên đó thì dư nợ cho vay đối với các DNNVV cũng tăng lên qua cá năm. Việc này thể hiện rằng SGD đã không những quan tâm thu hút khách hàng mới mà còn luôn chú trọng giữ mối quan hệ tốt với khách hàng có quan hệ tín dụng với SGD để chủ động nắm bắt nhu cầu vốn vay, đầu tư cho vay, tăng thị phần tín dụng đảm bẩon toàn, hiệu quả. Mặt khác, SGD vẫn luôn chú trọng tới việc mở rộng tín dụng đối với các DNNVV bởi đây là một thị phần không nhỏ của SGD. Kết quả dư nợ cho vay trong 3 năm qua tại SGD được phản ánh cụ thể trong các bảng sau: Bảng 6: dư nợ cho vay DNNVV theo thời hạn cho vay Đơn vị: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Tỷ lệ (%) Năm 2006 Tỷ lệ (%) Năm 2007 Tỷ lệ (%) Tổng dư nợ cho vay DNNVV 759.802 100 1127 100 2,056 100 1. Dư nợ cho vay ngắn hạn 356.481 46.9 615.48 54.6 1,118.72 57.5 2. Dư nợ cho vay trung và dài hạn 403.312 53.1 511.52 45.4 837.28 42.5 (Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động cho vay DNNVV của SGD) Quan sát bảng trên ta thấy, dư nợ cho vay theo thời gian, tăng lên liên tục trong 3 năm, nguyên nhân chính là do trong 3 năm đó SGD đã tăng cường thực hiện việc mở rộng cho vay DNNVV. Xét theo cơ cấu dư nợ thì dư nợ cho vay ngắn hạn luôn lớn hơn dư nợ cho vay dài hạn, riêng chỉ có năm 2005 dư nợ cho vay trung và dài hạn lớn hơn. Nguyên nhân là do chu kì sản xuất kinh doanh của các DNNVV thường là ngắn nên nhu cầu vốn vay cũng chỉ trong ngắn hạn, còn trong năm 2005 thì do các DNNN vay vốn của SGD chiếm tỉ lệ cao hơn và các doanh nghiệp này phần lớn là vay vốn trung và dài hạn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình. Dư nợ cho vay đối với các DNNVV phân theo ngành kinh tế ta có bảng sau: Bảng 7: Dư nợ cho vay DNNVV theo thành phần kinh tế Đơn vị: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Tỷ trọng (%) Năm 2006 Tỷ trọng (%) Năm 2007 Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ cho vay DNNVV 759.802 100 1,127 100 2,056 100 1. DNNN 482.837 63.5 920 81.6 1650.3 80.27 2. CT cổ phần, CT hợp danh 167.797 22.1 115 10.3 247.81 12.05 3. Công ty TNHH, DNTN 32.985 4.3 7 0.6 28.3 1.38 4. Cá nhân và hộ gia đình 76.183 10.1 85 7.5 129.7 6.3 (Nguồn: báo cáo kết quả cho vay DNNVV 3 năm qua tại SGD) Nhìn vào bảng 7 ta thấy tỷ trọng cho vay theo thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế nhà nước vẫn là chủ đạo. Sở dĩ các DNNN chiếm tỷ trọng lớn và tăng lên hàng năm như vậy là do khối doanh nghiệp náy phần lớn có tình hình tài chính đáng tin cấy, lại chịu sự quản lý của các cơ quan cấp trên, không có sự lẫn lộn công và tư nên việc giải quyết các thủ tục cầm cố, thế chấp đơn giản hơn. Dư nợ cho vay đối với các DNNvv phân theo ngành kinh tế ta cũng có bảng sau: Bảng 8: Dư nợ cho vay DNNVV theo ngành kinh tế Đơn vị: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Tỷ trọng (%) Năm 2006 Tỷ trọng (%) Năm 2007 Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ cho vay DNNVV 759.802 100  1,127  100 2,056 100  1. Nông- Lâm nghiệp 3.276 0.4 42 3.7 106 5.1 2. Thuỷ sản 0 0 0 0 0 3. Công nghiệp- XD 158.917 22.7 144 12.8 267 13 4. Thương mại- DV- Vận tải 521.426 69.2 856 76 1539 74.9 5. Ngành khác 76.183 7.7 85 7.5 144 7 ( Nguồn: báo cáo kết quả cho vay DNNVV 3 năm qua tại SGD) Xét cơ cấu dư nợ thì nhìn vào bảng 9 ta thấy tỷ trọng cho vay đối với ngành Thương mại - Dịch vụ - Vận tải là lớn nhất, đó là do lĩnh vực thương mại dịch vụ đang rất phát triển, cùng với điều kiện đang dễ thành lập nên các DNNVV được thành lập nhiều hơn do vậy nhu cầu vốn lớn. Trong các ngành thì tỷ trọng của ngành Nông – Lâm nghiệp là nhỏ nhất, đó là do đặc thù về địa bàn hoạt động của SGD, nằm ở thủ đô Đất nước nên ngành Nông và Lâm nghiệp ít phát triển. 2.2.4 Chất lượng tín dụng đối với các DNNVV tại SGD Trong các chỉ tiêu để đo lường chất lượng tín dụng thì một chỉ tiêu quan trọng là tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, để thấy được điều này ta xem bảng dưới đây: Bảng 9: Nợ quá hạn của các DNNVV Đơn vị: tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ quá hạn 8.93 6.06 20.3 Nợ quá hạn của các DNNVV 8.77 6.06 20.3 Tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay các DNNVV (%) 1.15 0.54 0.59 Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNVV so với tổng dư nợ tín dụng(%) 0.43 0.21 0.47 Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNNVV so với tổng dư nợ quá hạn 98.2 100 100 (Nguồn: báo cáo kết quả cho vay DNNVV trong 3 năm qua tại SGD) Nhìn vào bảng 9 ta thấy, năm 2006 nợ quá hạn giảm đi đi khá nhiều so với năm 2005, song đến năm 2007 lại tăng lên đáng kể. Tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ trong năm 2006 giảm mạnh so với năm 2005, đến năm 2007 thì tăng nhẹ. Nợ quá hạn của các DNNVV và tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNVV so với tổng dư nợ quá hạn tăng lên trong năm 2007, điều này là do các DNNVV không tính toán kĩ điều kiện thị trường, mức bán và doanh số nên lượng hàng sản xuất ra không tiêu thụ được hay do một số lí do khác mà làm cho doanh nghiệp không có khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng vì vậy gây nên tình trạng nợ quá hạn đều là của các DNNVV. Nhưng tỷ lệ nợ quá hạn của DNNVV so với tổng dư nợ của các DNNVV là 0.59% là một tỷ lệ khá an toàn ( giới hạn mức cho phép là 5%) cho hoạt động choa vay của SGD. Như vậy, mục tiêu mở rộng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này sẽ ngày càng được quan tâm, chú trọng hơn. Ngoài ra, còn một chỉ tiêu dùng để đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNNVV, đó là việc xem xét thu nhập từ cho vay DNNVV, điề này thể hiện thong qua bảng sau: Bảng 10: thu nhập từ hoạt động cho vay DNNVV Đơn vị :tỉ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Tỷ trọng (%) Năm 2006 Tỷ trọng (%) Năm 2007 Tỷ trọng (%) Tổng thu nhập chung 123.06 100 178.22 100 249.1 100 Thu nhập từ cho vay DNNVV 43.57 32.99 65.3 36.64 107.38 43.1 (Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động tín dung qua các năm của SGD) Nhìn vào bảng 10 ta thấy, thu nhập từ hoạt động cho vay DNNVV tăng lên liên tục trọng 3 năm qua và đang dần dần chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong thu nhập chung của ngân hàng. Đặc biệt, thu nhập trong hoạt động này tăng khá mạnh trong năm 2007 (tăng lên 64.4% so với năm 2006) và chiếm 43.1% so với tổng thu nhập chung năm 2007. Đó là do SGD đang tích cực đẩy mạnh mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNNVV và bước đầu đã đạt được kết quả khả quan và có hiệu quả. Điều này càng khẳng định thêm rằng việc SGD xác định các DNNVV là khách hàng tiềm năng và khách hàng mục tiêu là hoàn toàn đúng và việc mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNVV là rất quan trọng và cần thiết. 2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNVV TẠI SGD. 2.3.1 Những kết quả đạt được. Trong thời gian qua, với mục đích mở rộng thị phần, tăng trưởng tín dụng,phát triển dịch vụ, SGD NHNo & PTNT VN đã thực hiện chủ trương mở rộng tín dụng đối với DNNVV. Việc mở rộng này đã có những dống góp không nhỏ trong hoạt động kinh doanh của SGD trong thời gian vừa qua. Góp phần phân tán rủi ro tín dụng: số lượng các DNNVV chiếm đại đa số trong các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng tại SGD và liên tục tăng qua từng năm ở mọi thành phần kinh tế cũng như ở mọi nhành nghề. Đây là một dấu hiệu rất tốt để SGD có thể đa dạng hoá đối tượng khách hành, giúp phân tán rủi ro, thêm nữa số tiề các DNNVV vay không quá lớn do vậy nếu rủi ro xảy ra thì ngân hàng cũng xảy ra tổn thất không quá nặng nề. Góp phần vào kết quả kinh doanh của SGD: dư nợ tín dụng đối với DNNVV mặc dù không chiếm đa số trong tổng dư nợ nhưng tăng trưởng đều đặn qua các năm. Do đó góp phần đáng kể vào tăng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của SGD. Góp phần tăng thu dịch vụ và đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ Ngân hàng: thu hút thêm được nhiều đối tượng khác hàng sử dụng các dịch vụ của SGD, làm tăng thêm các khoản thu phí đối với SGD đòng thời cũng đòi hỏi ngân hàng phẩi tích cực nghiên cứu đẻ đưa ra những sản phẩm dịch vụ tốt nhất đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Góp phần mở rộng thị phần mở rộng thị phần, nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh: Hoạt động tín dụng đối với các phương thức cho vay linh hoạt, đáp ứng được nhu càc vay vốn của khách hàng, giúp SGD mở rộng được thị phần, nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh của bản thân SGD. 2.3.2 Những mặt còn tồn tại. Cơ cấu tín dụng chưa hợp lý: số lượng DNNVV được cấp tín dụng chủ yếu là các DNNN còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì được cấp tín dụng với một tỷ trọng rất thấp. Thêm nữa, dư nợ theo ngành kinh tế chủ yếu trong lĩnh vực Thương mại - Dịch vụ - Vận tải. Ta có thể thấy, xu hướng mở rộng cho vay DNNVV tại SGD cũng chưa thực sự hiệu quả đối với các lĩnh vực ngoài quốc doanh hoăck chưa mở rộng ra các lĩnh vực xây dựng cơ bản, công nghiệp, thuỷ sản... Các DNNVV thuộc các khu vực ngoài quôc doanh đã khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng nay còn khó hơn, hoạc các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực xây dựng – công nghiệp đang có nhu cầu vay vốn nhiều nhưng nay sẽ càng khó khăn hơn trong việc vay vốn của SGD, bởi xu hướng cho vay của SGD cho thấy càng ngày họ càng đầu tư vào lĩnh vực Thương mại - dịch vụ - vận tải nhiều hơn. Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNVV so với tổng dư nợ quá hạn còn khá lớn và có xu hướng gia tăng. Dư nợ tín dụng chưa xứng với tiềm năng: Mặc dù số DNNvv chiếm một tỷ lế lớn trong số khách hàng là doanh nghiệp tại SGD nhưng số DNNVV có quan hệ tín dụng với SGD đang còn thấp so với tiềm năng của mình. 2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại trên. 2.3.3.1 Về phía Nhà nước Chủ trương khuyến khích các DNNVV phát triển là đúng đắn và hợp lý nhưng Nhà nước phải thi hành nó một cách hiệu quả thì mới tạo ra bước nhảy vọt. Hiện tại, các DNNVV phát triển tràn lan, số lượng đăng ký thành lập nhiều nhưng đi vào hoạt động thực tế thì không nhiều. Mà sự giám sát, quản lý của các cơ quan chức năng đôi khi quá tải nên không thể kiểm soát được hết hoạt động của tất cả các DNNVV. Điều này tạo ra khe hở cho các DNNVV làm ăn phi pháp, lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng. Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng như hoạt động của DNNVV thiếu sự đồng bộ và hướng dẫn cụ thể chi tiết. Đối với DNNVV mới chỉ có Nghị định 90/2001/NĐ-CP về khuyến khích hỗ trợ phát triển DNNVV và chỉ thị 40/2005/ CT-TTg về công tác trợ giúp phát triển DNNVV mà chưa có những hướng dẫn, biện pháp cụ thể áp dụng cho từng loại hình DNNVV. Về phía ngân hàng, mặc dù có nhiều quy định nới lỏng một số điều kiện trong quá trình cho vay tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng cấp tín dụng. Tuy nhiên vẫn có sự thiếu nhất quán với các văn bản pháp luật khác của các bộ ngành khác gây khó khăn cho ngân hàng. Sự triển khai chậm trễ Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV là một trong những nguyên nhân hạn chế nguồn vốn tài trợ cho DNNVV. Tuy Nhà nước đã có quyết định thành lập Quỹ từ năm 2001 và sửa đổi, bổ sung vào năm 2004 nhưng tính đến thời điểm hiện tại, Quỹ vẫn chưa chính thức đi vào hoạt động, thực hiện đúng chức năng của mình. 2.3.3.2 Về phía ngân hàng. Việc thực hiện quy trình cho vay còn nhiều thiếu sót, chưa thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng để có kết quả đánh giá chính xác. Việc kiểm tra, kiểm soát khi cho vay nhiều khi còn mang tính hình thức, việc thẩm định dự án còn nhiều bất cập. Việc thực hiện qui trình tín dụng còn mang tính thủ tục, giấy tờ chứ chưa thực sự làm trong thực tế. Hệ thống thông tin về khách hàng còn thiếu, chất lượng thông tin cung cấp chưa cao, thiếu tính cập nhật. Đội ngũ cán bộ của SGD còn non trẻ, nhất là cán bộ tín dụng. Do chính sách trẻ hoá đội ngũ cán bộ nên hầu như toàn bộ số cán bộ tín dụng tại SGD còn non trẻ, kinh nghiệm chưa có nên trong hoạt động cho vay gặp nhiều khó khăn, nhất là trong khâu thẩm định,đánh giá tài chính DNNVV, đánh giá khả năng trả nợ của DNNVV, dự đoán những biến động trong tương lai của tài sản đảm bảo. Hoạt động marketing tại SGD còn kém, chưa có những chính sách lôi cuốn thu hut khách hàng vay vốn tham gia nên chưa thu hút được nhiều DNNVV có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Việc phân cấp quản lý theo hướng chuyên môn hoá cho vay theo ngành hoặc theo thành phần kinh tế ở SGD chưa được thực hiện. Những kế hoạch, chiến lược cho vay của SGD được xây dựng không phù hợp lắm với năng lực của mình, với tiềm năng huy động, cũng như số lượng DNNVV là khách hàng của SGD. Ở SGD hiện nay, còn ấp dụng quá ít các hình thức tín dụng cho các DNNVV, những hình thức cần thiết và phù hợp với các DNNVV như: thấu chi, cho vay trả góp... chưa được áp dụng. 2.3.3.3 Về phía khách hàng. Trước hết là xuất phát từ chính bản thân DNNVV. Từ những đặc điểm về vốn, năng lực hoạt động, về lao động… mà tác động tới khả năng vay vốn.Với nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ, sự mất cân đối trong cơ cấu vốn cũng như năng lực tài chính hạn chế thì khó có cơ sở đảm bảo vay được vốn của ngân hàng. Cơ chế hạch toán, kế toán, kiểm toán, lập báo cáo tài chính chưa đúng chuẩn mực chế độ kế toán, còn thiếu minh bạch. Nhiều báo cáo tài chính được lập thiếu chính xác, thậm chí còn sai lệch gây khó khăn cho cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định. Đây chính là vấn đề đạo đức của doanh nghiệp. Sự thiếu hợp tác với ngân hàng là rào cản cho việc mở rộng vay vốn đối với các doanh nghiệp này. Quá trình lập phương án vay vốn còn sơ sài, thiếu căn cứ, tính khả thi và hiệu quả thấp nên không thuyết phục được ngân hàng cho vay vốn. Cán bộ tín dụng đôi khi mất thời gian và công sức để tư vấn cho doanh nghiệp làm lại phương án vay vốn cũng như hướng dẫn doanh nghiệp tiến hành thực hiện các yêu cầu của ngân hàng. Một vấn đề gây khó khăn không chỉ ngân hàng mà còn cả DNNVV, đó là tài sản bảo đảm cùng với thủ tục cầm cố, thế chấp tài sản bảo đảm. Giá trị tài sản bảo đảm thấp, tính thanh khoản không cao, không đảm bảo điều kiện pháp lý. Khi làm thủ tục về đăng ký quyền sở hữu hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu, DNNVV thường gặp khó khăn ở khâu thủ tục rườm rà, nhất là đối với bất động sản. Uy tín còn hạn chế, chưa có vị thế trên thị trường, làm ăn nhỏ lẻ, manh mún, nhiều doanh nghiệp ma là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quyết định tài trợ của ngân hàng. Đội ngũ nhà quản lý thiếu chuyên môn cũng như kinh nghiệm quản lý, thiếu kiến thức và khả năng nhạy bén với thị trường luôn là yếu điểm mà DNNVV cần khắc phục. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNNVV TẠI SGD NHNN & PTNT VN. 3.1 ĐỊNH HƯỚNG MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNNVV. 3.1.1 Chủ trương phát triển các DNNVV của Nhà nước Qua một giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy vai trò to lớn của DNVVN nên các hình thức tập đoàn, tổng công ty có xu hướng thu hẹp, chỉ hoạt động trong một số ngành nghề quan trọng và đã có những chính sách để khuyến khích các DNVVN thành lập không chỉ ở thành thị mà còn được thành lập ở các vùng nông thôn nhằm phát huy tối đa nguồn lực của đất nước. Đã có hàng loạt chương trình hành động cũng như các chính sách đã được ra đời nhằm hỗ trợ cho các DNVVN như Nghị định 90/2001/NĐ-CP (ban hành ngày 23/11/2001) của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNVVN đã nêu rõ: “Phát triển DNVVN là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN phát huy tính chủ động sáng tạo nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; Phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Với chủ trương như vậy, Nhà nước đã đưa ra các chính sách cụ thể sau: Khuyến khích đầu tư: Nhà nước khuyến khích các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp và thể nhân góp vốn đầu tư vào các DNVVN; Chính phủ cũng trực tiếp trợ giúp thông qua biện pháp về tài chính, tín dungj áp dụng trong một thời gian nhất định đối với các DNVVN đầu tư vào một số ngành nghề truyền thống và tại các địa bàn cần khuyến khích. Tiếp cận vốn ngân hàng: Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 193/2001/QĐ-TTg (ngày 20/12/2001) ban hành Quy chế thành lập tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN. Bộ tài chính ra thông tư số 42/TT-BTC (ngày 7/5/2002) và NHNN có công văn 1070/NHNN-TD (ngày 3/10/2002) triển khai một số nội dung liên quan đến việc thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN. Mặt bằng sản xuất: trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được Chính phủ phê duyệt, các cấp, ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN có mặt bằng sản xuất phù hợp. DNVVN được hưởng các chính sách ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp và các quyền khác về sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật. Thị trường và khả năng cạnh tranh: Các DNVVN được tạo điều kiện tiệp cận thông tin thị trường, giá cả hàng hóa, được trợ giúp mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm; Chính phủ tạo điều kiện cho các DNVVN tham gia cung ứng hàng hóa theo kế hoạch mua sắm từ nguồn ngân sách Nhà nước. Chính sách xúc tiến xuất khẩu: Các DNVVN được trợ giúp một phần chi phí kiểm soát, học tập, trao đổi hợp tác và tham gia hội chợ, triển lãm, tìm hiểu thị trường nước ngoài thông qua quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Trợ giúp thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực: Nhà nước sẽ trợ giúp cho các DNVVN trong việc tiếp cận thông tin thị trường, tư vấn và giúp các DNVVN trong việc đào tạo nguồn nhân lực. 3.1.2 Định hướng tín dụng đối với DNNVV của NHNNo&PTNT VN. NHNo&PTNT Việt Nam đã có định hướng nhất định cho hoạt động mở rộng tín dụng đối với DNVVN. NH đã đề ra cả mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể cho hoạt động cho vay DNVVN. Mục tiêu tổng quát của Ngân hàng là: NHNo&PTNT Việt Nam phải thực sự trở thành lực lượng chủ đạo và chủ lực trong vai trò cung cấp tín dụng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nông nghiệp nông thôn phù hợp với chính sách, mục tiêu của Đảng, Nhà nước, mở rộng hoạt động một cách vững chắc, an toàn, bền vững về tài chính; áp dụng công nghệ thông tin hiện đại cung cấp các dịch vụ tiện ích, thuận lợi, thông thoáng đến mọi loại hình doanh nghiệp. Các mục tiêu cụ thể của NHNo&PTNT đó là: Phát triển thương hiệu và văn hóa doanh nghiệp của NHNo; từng bước đưa NHNo trở thành “lựa chọn số một” đối với khách hàng hộ sản xuất, DNVVN, trang trại, hợp tác xã tại các địa bàn nông nghiệp, nông thôn và là “ngân hàng chấp nhận được” đối với khách hàng lớn, DNVVN, dân cư có thu nhập cao tại khu vực đô thị, khu công nghiệp. Về khách hàng ưu tiên: ưu tiên khách hàng DNVVN có đủ điều kiện quan hệ tín dụng. Phát triển các sản phẩm có khả năng sinh lời, các sản phẩm tiện ích cao; phân biệt các sản phẩm cho khách hàng lớn, khách hàng là DNVVN, khách hàng cá nhân. NHNo định hướng trong thời gian tới sẽ mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNVVN với mức tăng bình quân hàng năm là 15 – 16%, ước tính doanh số cho vay các DNVVN phải đạt 140 – 160 ngàn tỷ, tỷ lệ nợ xấu dưới 4% và đến 2010 thì phải có quan hệ tín dụng với khoảng 150 ngàn DNVVN (chiếm 30% doanh nghiệp của cả nước). NHNo sẽ cố gắng cung cấp đầy đủ các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng DNVVN: tín dụng, bảo lãnh, thanh toán, bao thanh toán, thấu chi, cho thuê tài chính, góp vốn, dịch vụ ngoại tệ, thanh toán trong nước, quốc tế, internet banking, thẻ, séc, tư vấn, quản lý tài sản, bảo hiểm, dịch vụ, ngân quỹ… 3.1.3 Định hướng tín dụng đối với DNNVV của SGD. Căn cứ vào định hướng chung của NHNo&PTNT Việt Nam, SGD cũng đã xác định cho mình những hướng phát triển riêng. Với quan điểm: Mở rộng tín dụng phải đi đôi với đảm bảo chất lượng tín dụng, mở rộng nhưng phải nằm trong khả năng kiểm soát; mở rộng tín dụng phải đảm bảo nhu cầu và lợi ích của khách hàng, lợi nhuận và an toàn cho ngân hàng, SGD đã đưa ra một số chủ trương đối với đối tượng khách hàng DNVVN trong thời gian tới như sau: Tiếp tục bám sát chủ trương, định hướng, chỉ tiêu tăng trưởng ngành để cụ thể hóa thành mục tiêu hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng đối với DNVVN nói riêng của SGD. Tranh thủ sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện của Ban lãnh đạo NHNo&PTNT Việt Nam, các ban chuyên môn tại trụ sở chính để đảm bảo hoàn thành kế hoạch kinh doanh. Tăng cường công tác tiếp thị, phát triển khách hàng mới để mở rộng cho vay đối với các DNVVN đảm bảo chất lượng, an toàn và hiệu quả. Cân đối hợp lý giữa các ngành và các thành phần kinh tế. Tăng cường công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay.Tập trung xử lý thu hồi nợ quá hạn, nợ đã xử lý rủi ro, đôn đốc các đơn vị có tiềm ẩn rủi ro để thu hồi nợ. Xử lý triệt để thu nợ đến hạn, không để nợ quá hạn mới phát sinh. Thực hiện chuyển nợ quá hạn đúng quy định. Tăng cường công tác kiểm tra hoạt động tín dụng nhằm phát hiện tồn tại thiếu sót để khắc phục kịp thời, nâng cao chất lượng tín dụng. Thường xuyên tổ chức học tập nghiệp vụ, nâng cao trình độ cán bộ, thực hiện tốt chương trình giao dịch WB. 3.2 GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNNVV TẠI SGD. 3.2.1 Xây dựng kế hoạch phải phù hợp với năng lực cho vay. Chiến lược kinh doanh, kế hoạch cho các hoạt động trong thời gian tới là mục tiêu, là cái đích cho hướng hành động để không đi chệch hướng, sai hướng. Bất kỳ một hoạt động nào cũng phải có chiến lược, kế hoạch hoạt động, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý để đi đến thành công và hoạt động cho vay cũng vậy. Nếu xây dựng được kế hoạch phù hợp với năng lực của mình thì sẽ tận dụng được tối đa các nguồn lực, từ đó hoạt động có hiệu quả cao. Còn nếu không xây dựng được chiến lược phù hợp thì sẽ dẫn đến lãng phí, đi sai đườn, chệch hướng. Khi các ngân hàng nói chung và SGD nói riêng, xây dựng được chiến lược kinh doanh cho mình thì họ có thể lường trước những biến động có thể xảy ra và có thể chủ động đưa ra biện pháp khắc phục. Trong những năm qua, SGD đã xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh dài hạn và thường xuyên lập kế hoạch cho vay theo từng năm hoạt động. Nhưng kế hoạch hoạt động cho vay đối với DNVVN của SGD chưa thực sự xứng tầm với tiềm năng của mình. So với DNVVN là khách hàng của SGD thì số khách hàng có quan hệ tín dụng còn quá thấp, và so với số lượng DNVVN trên địa bàn Hà Nội thì SGD tìm kiếm và đặt quan hệ tín dụng được với DNVVN còn rất thấp. Để mở rộng cho vay DNVVN trong số khách hàng là DNVVN của SGD nói riêng và các DNVVN trên địa bàn Hà Nội nói chung thì SGD cần phải có chiến lược đầu tư đúng đắn cho vay DNVVN. Khi xây dựng được kế hoạch cho vay trong dài hạn phù hợp với tiềm năng của mình, SGD sẽ tìm ra các biện pháp để tối ưu hiệu quả hoạt động của mình. 3.2.2 Đa dạng hoá các hình thức cho vay. Đây là một giải pháp có tính khả thi cao, bởi hiện nay các ngân hàng đều có các hình thức cho vay giống nhau nên sức cạnh tranh lớn. Nếu hoạt động cho vay của SGD có hình thức cho vay kém đa dạng so với các ngân hàng khác thì không thể thu hút khách hàng đến với mình. Hiện nay ở SGD chỉ mới áp dụng các hình thức cho vay là cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay theo dự án đầu tư đối với các DNVVN, cho vay gián tiếp. Vậy trong thời gian tới nên áp dụng thêm các hình thức tín dụng như: Cho vay thấu chi: SGD có thể thỏa thuận với khách hàng rằng SGD sẽ cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Trong quá trình sử dụng hình thức cho vay này, khách hàng có thể ký séc, lập ủy nhiệm chi, mua thẻ vượt quá số dư tiền gửi để chi trả khi có nhu cầu cần thiết và ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản. Đây là một hình thức cho vay rất phù hợp với hoạt động kinh doanh của khách hàng DNVVN bởi theo hình thức này thủ tục rất đơn giản, linh hoạt. Hình thức này sẽ khắc phục được tình trạng khách hàng kêu ca về thủ tục rườm rà, mất thời gian. Các DNVVN sẽ rất thuận tiện khi sử dụng hình thức này, khi họ cần vốn cho sản xuất kinh doanh là có thể có ngay mà không phải mất thời gian, thủ tục để được vay vốn theo như các hình thức mà SGD đang áp dụng. SGD có thể áp dụng hình thức này cho những khách hàng là khách hàng truyền thống, khách hàng có tình hình tài chính ổn định, có thu nhâp chu kỳ ngắn. 3.2.3 Nâng cao công tác thẩm định. Phân tích khách hàng. Phân tích khách hàng là bước đầu tiên của quá trình thẩm định khách hàng. Phân tích năng lực pháp lý của DNNVV là yếu tố không thể bỏ qua và xem nhẹ. Bởi vì số lượng DNNVV ngày một tăng, tình trạng doanh nghiệp ma khá phổ biến. Những doanh nghiệp này dễ dàng làm giấy tờ giả để lừa đảo vốn của ngân hàng. Vì vậy, khi xem xét năng lực pháp lý, cán bộ tín dụng yêu cầu doanh nghiệp cung cấp đầy đủ giấy tờ như: quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh do cấp có thẩm quyền cấp, giấy bổ nhiệm giám đốc… Và những giấy tờ này phải hợp pháp, phải có dấu chứng thực của cơ quan có thẩm quyền để tránh tình trạng giả mạo giấy tờ. Một yếu tố cũng quan trọng mà cán bộ tín dụng cần phải đánh giá đó là uy tín của DNNVV. Đối với những doanh nghiệp mà có uy tín trên thị trường thì ngân hàng sẽ nới lỏng các điều kiện cho vay, mở rộng hạn mức và có các chính sách ưu đãi hơn. Một khâu quan trọng không kém trong việc phân tích khách hàng là phân tích tài chính khách hàng. Đây là một căn cứ có tính quyết định tới quyết định cho vay. Thông qua các báo cáo tài chính, Ngân hàng tiến hành tính toán các chỉ tiêu chủ yếu, phân tích các chỉ tiêu đó, so sánh các chỉ tiêu với chỉ tiêu của ngành hay lĩnh vực liên quan. Kết hợp với từng trường hợp cụ thể mà Chi nhánh chú trọng phân tích chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác để có những đánh giá chính xác nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đối với DNNVV năng lực tài chính có hạn nên cán bộ tín dụng cần phải phân tích một cách tỉ mỉ, chính xác, đầy đủ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn. DNNVV hoạt động bao trùm trên mọi lĩnh vực với những đặc trưng riêng, nhu cầu vay vốn khác nhau. Vì vậy, khi phân tích tài chính, cán bộ tín dụng nên chú trọng vào một số chỉ tiêu đặc trưng cho ngành nghề kinh doanh. Trên cơ sở những phân tích cụ thể trên, cán bộ tín dụng cần đưa ra những dự báo và nhận định về rủi ro trong kinh doanh, rủi ro ngành, cấu trúc chi phí lợi nhuận nhằm đưa rra các biện pháp giảm thiểu rủi ro. Thẩm định dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, toàn diện các nội dung cơ bản liên quan đến dự án đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi, hiệu quả và khả năng hoàn vốn đầu tư của dự án. Khi tiến hành thẩm định dự án, cán bộ tín dụng buộc phải tuân thủ theo các bước hướng dẫn thẩm định của ngân hàng như: phân tích kinh tế dự án đầu tư, phân tích kỹ thuật, thẩm định về khả năng thực hiện dự án, đánh giá hiệu quả về mặt tài chính và khả năng trả nợ của dự án, phân tích rủi ro và các biện pháp phòng ngừa cũng như giảm thiểu rủi ro. Muốn có cái nhìn chính xác về dự án thì SGD nên chuyên môn hoá lĩnh vực nhất định, mỗi một lĩnh vực phân công cho một hoặc một số cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Như vậy sẽ tăng tính hiệu quả hơn là việc để cho một cán bộ tín dụng ôm đồm nhiều dự án khác nhau một lúc. Bởi cán bộ tín dụng sẽ phải san sẻ thời gian và kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau, không thể chuyên sâu vào một dự án để tìm hiểu kỹ từng khía cạnh liên quan. Từ đó sẽ kéo dài thời gian thẩm định, làm chậm tiến độ vay vốn và ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án của DNNVV. Thẩm định dự án đầu tư yêu cầu cán bộ tín dụng dự đoán các rủi ro và đưa ra các biện pháp phòng ngừa dựa trên trạng thái động. Trong môi trường kinh doanh đầy biến động, khi triển khai dự án có thể khác xa so với dự tính ban đầu. Nếu không dự đoán từ trước sẽ gây khó khăn cho cả Ngân hàng và doanh nghiệp, vốn sẽ bị tồn đọng trong khi doanh nghiệp lại đang thiếu vốn thi công. Thẩm định tài sản bảo đảm. Tài sản bảo đảm là một khó khăn cản trở DNNVV vay vốn ngân hàng. Bởi nhiều DNNVV không có tài sản bảo đảm hoặc giá trị tài sản bảo đảm so với vốn vay không đáng kể. Đặc biệt, nhằm tránh rủi ro, cán bộ tín dụng thường định giá tài sản bảo đảm thấp hơn giá trị thực của nó. Hoặc cán bộ tín dụng không có đủ chuyên môn cũng như kinh nghiệm thẩm định tài sản bảo đảm, nhất là bất động sản và chứng khoán, nên hạn chế DNNV tiếp cận tín dụng ngân hàng. Vậy để đảm bảo tính chính xác khi thẩm định tài sản bảo đảm thì cán bộ tín dụng phải xem xét các yếu tố: quyền sở hữu, tình trạng tài sản, mức độ chuyên môn hoá tài sản, số tiền bảo hiểm, gía trị tài sản, vấn đề thuê mua và thế chấp tài sản, tính lỏng, tính thị trường của tài sản…. Điều quan trọng là SGD có những điều chỉnh linh hoạt dựa trên cơ sở khung giá Nhà nước và giá thị trường sao cho phù hợp với giá trị thực tế của tài sản. Tài sản bảo đảm nếu là động sản thường bị hao mòn nhanh. Cán bộ tín dụng cần thường xuyên kiểm tra hiện trạng tài sản, đánh giá lại giá trị, trường hợp mà giá trị tài sản không đảm bảo yêu cầu thì yêu cầu doanh nghiệp bổ sung thêm tài sản bảo đảm. Đối với tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá, đặc biệt là chứng khoán, phải liên tục cập nhật thông tin về thị giá, tình hình hoạt động kinh doanh của tổ chức phát hành, từ đó điều chỉnh giá trị khoản bảo đảm này. 3.2.4 Xây dựng các chính sách ưu đãi đối với DNNVV. Thực hiện chính sách khách hàng đặc biệt đối với DNNVV là một trong những giải pháp nhằm mở rộng hơn nữa công tác cho vay đối tượng này. Từng bước đổi mới chính sách khách hàng bằng cách tạo điều kiện thuận lợi để phục vụ khách hàng nhanh hơn, chất lượng hơn, giúp khách hàng cạnh tranh lành mạnh. Qua đó, thu hút nhiều khách hàng có uy tín đến giao dịch và mở rộng thị phần cho vay của SGD. Trước hết, SGD cần phải thường xuyên phân loại khách hàng doanh nghiệp theo từng tiêu chí nhất định và cụ thể để có các chính sách riêng. Ví dụ như phân loại doanh nghiệp thành doanh nghiệp lớn, DNNVV; trong DNNVV phân thành các đối tượng khác nhau nữa để đưa ra chính sách ưu đãi nhất định. Hoặc như những doanh nghiệp có uy tín, có quan hệ tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì phải được hưởng ưu đãi như là giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ… Đối với khách hàng mới vay lần đầu, nếu tình hình tài chính ổn định, món vay lớn mà phương án lại khả thi và hiệu quả thì SGD có thể đưa ra mức lãi suất hợp lý hoặc là đưa ra các yêu cầu về thủ tục ít hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn. Từ đó khiến khách hàng có ấn tượng tốt về SGD và tăng khả năng mở rộng cho vay sau này. Thông thường, SGD áp dụng mức lãi suất khá cứng nhắc. Một số đối tượng khách hàng khác nhau, nhu cầu vay khác nhau nhưng vẫn áp dụng chung một mức lãi suất. Các DNNVV hay phải chịu lãi suất và phí suất cao hơn là các doanh nghiệp lớn. Vì vậy, thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt giúp các DNNVV tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Bởi một trong những điều quan tâm của DNNVV khi vay vốn là lãi suất vì lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại cho doanh nghiệp. Do vậy, mức lãi suất phải hợp lý, hình thành trên cơ sở thoả thuận với khách hàng, hoà hợp lợi ích hai bên. 3.2.5 Cơ chế về tài sản đảm bảo nên nới lỏng hơn. Đây là vấn đề khó khăn nhất khi DNNVV vay vốn. Tài sản đảm bảo chỉ đáp ứng đủ 30% - 40% nhu cầu xin vay do tài sản không đủ giấy tờ cần thiết hoặc bị đánh giá quá thấp so với thực tế hoặc không đủ tài sản đảm bảo. Để đảm bảo lợi ích cho DNNVV, cán bộ tín dụng nên áp dụng linh hoạt khung giá của Nhà nước, có sự điều chỉnh của giá cả thị trường. Gần đây, Chính phủ và Ngân hàng nhà nước đã ban hành một loạt quy định cụ thể về bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng như Nghị định 85/2002/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay. Nhưng mà việc triển khai xuống thực tiễn không đúng như quy định. Chi nhánh còn e ngại khi cho vay không có tài sản bảo đảm đối với những đối tượng đã quy định rõ trong văn bản. Cán bộ tín dụng có tâm lý lo lắng về các khoản nợ quá hạn, nợ xấu nên thường dùng tài sản bảo đảm là khoản thu nợ cuối cùng. Năng lực của các DNNVV thường lớn hơn so với tài sản thực tế của họ. Do đó muốn mở rộng cho vay thì SGD cần áp dụng mạnh dạn hình thức bảo đảm khác nhau. Ngoài hình thức bảo đảm bằng bất động sản hay hàng hoá trong kho, SGD còn có thể áp dụng bảo đảm bằng hợp đồng chi trả của người thứ ba, số dư bù, bảo lãnh, tín chấp… Một số tài sản bảo đảm SGD nên áp dụng như chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đang ngày càng phổ biến và khá an toàn khi làm tài sản thế chấp. Vì giá trị hợp đồng được xác định rõ, SGD chỉ cần căn cứ vào giá trị hoàn lại của hợp đồng mà không cần định giá lại khi nhận là tài sản thế chấp. Mặt khác, không như các loại tài sản khác, hợp đồng nhân thọ có giá trị tăng theo thời gian và được đảm bảo chi trả bởi công ty bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy thủ tục thu hồi nợ khi cần thiết trở nên đơn giản, giảm chi phí và thời gian cho ngân hàng. Việc áp dụng hình thức bảo đảm này tạo nhiều thuận lợi cho cả ngân hàng và DNNVV, nhất là các doanh nghiệp nhỏ. Nhưng cũng cần chú ý là để đảm bảo an toàn tuyệt đối, SGD nên nhận hợp đồng do công ty bảo hiểm có uy tín và phải kiểm tra tính chính xác của hợp đồng. 3.2.6 Đẩy mạnh Marketing ngân hàng để thu hút thêm nhiều khách hàng. Trước hết, bộ phận marketing cần phân đoạn thị trường tín dụng: doanh nghiệp lớn, DNNV, cá nhân và hộ gia đình, để xây dựng chính sách đầu từ phù hợp cho từng phân đoạn thị trường. Sau đó cần xác định thị trường mục tiêu để phân bổ vốn và nguồn nhân lực gúp cho việc mở rộng, nâng cao hiệu quả đầu tư cho DNNVV. Hai là, Triển khai các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại trong giai đoạn mở rộng hiện đại hoá hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng nhằm phát triển các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu DNNV. Ba là, đứng trước áp lực cạnh tranh từ các ngân hàng trong nước và ngoài nước, hình ảnh ngân hàng và thái độ phục vụ ngân hàng sẽ là nhân tố nhằm thu hút khách hàng mới và giữ chân khách hàng cũ. Điều đó đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải tận tình, nhiệt tình, thông thạo nghiệp vụ để phục vụ khách hàng chu đáo, tăng thêm uy tín cho Chi nhánh nói riêng và ngân hàng Quân đội nói chung. 3.2.7 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay. Ngân hàng cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác thanh tra cả về nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ nhằm tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động thanh tra, đặc biệt là thanh tra tại chỗ. Bên cạnh đó, các cuộc thanh tra phải rõ rang, quy trách nhiệm cụ thể cho từng cá nhân, tổ chức vi phạm để thông qua thanh tra, giám sát nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch của chi nhánh, tạo niềm tin trong dân chúng. 3.2.8 Nâng cao chất lượng nhân sự. Ngân hàng là loại hình kinh doanh dịch vụ nên nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất, đảm bảo cho hoạt động ngân hàng diễn ra liên tục. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, trong khi các sản phẩm ngân hàng gần như tương đồng với nhau thì yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa các ngân hàng là trình độ, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng. Với trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững, cộng với khả năng am hiểu và nhạy bén với thông tin thị trường, thái độ nhiệt tình phục vụ khách hàng…, cán bộ tín dụng sẽ làm việc nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho ngân hàng gia tăng thêm khả năng mở rộng cho vay đối với tất cả các đối tượng khách hàng khác nhau. Như vậy, đi đôi với việc mở rộng cho vay DNNVV là việc nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Sau đây là một số giải pháp: - Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, xây dựng tác phong làm việc nghiêm túc, khoa học, giữ vững phẩm chất người cán bộ tín dụng: không vụ lợi, không lợi dụng khách hàng để làm việc bất chính, trung thực, tận tình, có trách nhiệm… Thường xuyên trau dồi kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ. Hoạt động các DNNVV bao trùm mọi lĩnh vực kinh tế- xã hội, cán bộ tín dụng phải có am biết về hoạt động của khách hàng, quy định pháp luật liên quan, tình hình kinhh tế- xã hội trong và ngoài nước thì mới tiến hành thẩm định và kiểm soát có hiệu quả. Cụ thể là cán bộ tín dụng tìm hiểu thông tin một cách kỹ lưỡng về doanh nghiệp trước, trong và sau quá trình cho vay; liên tục cập nhật thông tin thị trường, thông tin pháp luật, các quan đỉêm chỉ đạo của Nhà nước về phát triển DNNVV để đưa ra các điều chỉnh kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho DNNVV vay vốn. Thường xuyên giáo dục đạo đức, phẩm chất chính trị cho cán bộ tín dụng. Tổ chức các khoá học đào tạo nghiệp vụ bổ ích cho cán bộ tín dụng. Đây là biện pháp hữu hiệu giúp nâng cao kiến thức cho cán bộ tín dụng về đặc điểm, thực tế hoạt động và xu hướng phát triển của DNNVV. Từ đó giúp cán bộ tín dụng có cái nhìn chi tiết hơn bổ trợ cho nghiệp vụ của mình. Tạo môi trường làm việc năng động, công bằng, chuyên nghiệp, các chính sách đãi ngộ hợp lý, vừa phát huy hết năng lực của nhân viên vừa tạo ra sự gắn bó lâu dài giữa nhân viên và ngân hàng. Trong quá trình làm việc cần gắn trách nhiệm với quyền lợi, có chế độ thưởng phạt công bằng, hợp lý tạo động lực cho nhân viên làm việc có hiệu quả. Trong 2 năm qua, Chi nhánh đã cử nhiều nhân viên tham gia vào các hoạt động văn nghệ, thể thao chung của toàn ngân hàng làm phong phú thêm đời sống tinh thần của cán bộ công nhân viên. Đây là những hoạt động hết sức bổ ích và nên tiếp tục phát huy trong những năm tới. Bổ sung thêm nguồn nhân lực có trình độ và kỹ năng làm việc. Chi nhánh mới thành lập nên đội ngũ nhân lực còn ít cả về số lượng và chất lượng. Một khi chi nhánh phát triển hơn nữa thì bổ sung nguồn nhân lực trở thành nhiệm vụ cấp bách. Nếu không thì một nhân viên phải đảm nhận nhiều công việc một lúc nên thời gian xử lý hồ sơ khách hàng chậm làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc và hoạt động của cả ngân hàng cũng như khách hàng. 3.2.9 Không ngừng nâng cao hiện đại hoá thông tin ngân hàng. Công nghệ Ngân hàng hiện đại là một trong những yếu tố quan trọng tác động rất lớn đến khách hàng. Chính công nghệ Ngân hàng hiện đại sẽ hấp dẫn và thu hút khách hàng đến với Ngân hàng mình và nó cũng là tiêu thức thể hiện hình ảnh của Ngân hàng, có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển hoạt động của Ngân hàng. Vì vậy, việc đầu tư và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào Ngân hàng là thiết thực và cần thiết đối với tất cả các Ngân hàng. Nhận thức rõ vai trò của việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào Ngân hàng cũng như trước những nhu cầu đặt ra của nền kinh tế, SGD phải không ngừng ứng dụng và đổi mới trang thiết bị công nghệ hiện đại vào Ngân hàng mình để đảm bảo và nâng cao khả năng cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng trên địa bàn. Trong thời gian qua, SGD đã từng bước chú ý, quan tâm đưa công nghệ Ngân hàng hiện đại vào hoạt động như: nối mạng nội bộ, thanh toán chuyển tiền điện tử, quản lý các khoản vay trên máy tính …Mặt khác, SGD phải thường xuyên quan tâm tới việc xây dựng và ứng dụng các phần mềm mới, hiện đại cũng như tạo mối quan hệ với các công ty tin học để có sự hỗ trợ kịp thời khi cần thiết. Ngoài ra, cơ sở vật chất của Ngân hàng cũng là tiêu thức để khách hàng đánh giá Ngân hàng hoạt động hiệu quả đến mức độ nào. Tâm lý của khách hàng bao giờ cũng thích đến với những Ngân hàng lớn, có cơ sở hạ tầng khang trang, hiện đại và thuận tiện vì khách hàng sẽ có tâm lý cảm thấy an tâm hơn. Bên cạnh đó, ngân hàng cần có những tìm hiểu, nắm bắt thông tin tổng hợp về tình hình vĩ mô ảnh hưởng đến cho vay đối với các DNNVV. Đó là các thông tin về những chiến lược, chính sách của chính phủ và Ngân hàng nhà nước có liên quan về tình hình biến động kinh tế-xã hội cũng như những biến động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ Ngân hàng trong và ngoài nước. Hoạt động cho vay khá nhạy cảm với các biến động kinh tế - chính trị - xã hội, do vậy, những thông tin tổng hợp vĩ mô như thế mang ý nghĩa quan trọng: tuỳ thuộc vào mức độ biến động là lớn hay nhỏ, chiều hướng tác động là tốt hay xấu mà các thông tin đó thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng cũng cần nghiên cứu, điều tra tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực cho vay đối với DNNVV của các ngân hàng khác trên địa bàn thành phố. Hiện nay, các Ngân hàng tại Hà nội đều tiến hành và có định hướng phát triển hoạt động cho vay đối với các DNNVV. Nếu SGD tiến hành việc nghiên cứu, điều tra, phân tích được các ưu nhược điểm về hoạt động cho vay với các DNNVV hiện có tại các Ngân hàng, so sánh và rút kinh nghiệm cho Ngân hàng mình thì Ngân hàng sẽ xây dựng được một chính sách sản phẩm cho vay. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần tiến hành điều tra, thu thập và phân tích thông tin về các DNNVV trên địa bàn. Thông qua đó, Ngân hàng nắm bắt được thông tin tổng hợp về các nhu cầu khác nhau của khách hàng cũng như các ý kiến đóng góp, phản hồi của người tiêu dùng về ưu nhược điểm của hoạt động này, cùng sự so sánh dưới con mắt của khách hàng với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Chính việc thu thập thông tin tổng hợp này sẽ là cơ sở ban đầu giúp SGD vạch ra được chiến lược đúng đắn nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNNVV. 3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNVV. 3.3.1 Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước. Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý mà cụ thể là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách thương mại. Tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai. Bởi vấn đề mặt bằng sản xuất kinh doanh là một trong những khó khăn đối với DNNVV. Doanh nghiệp đang trong tình trạng thiếu đất phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh, thủ tục sử dụng đất còn rườm rà, chậm chạp, lẫn lộn giữa quyền sử dụng đất cho mục đích thương mại, công nghiệp nên gặp khó khăn khi thế chấp vay ngân hàng. Do đó, Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ cấp quyền sử dụng đất, quyền thuê đất cho các DNNVV để họ yên tâm đầu tư lâu dài. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thuế. Nhà nước phải tạo sân chơi bình đảng cho mọi thành phần kinh tế trong đó có chính sách thuế đối với DNVVN. Đơn giản hoá thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng…; tăng mức độ ưu đãi thuế đối với DNNVV nhất là các doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp xuất nhập khẩu, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm mới. Có như vậy mới khuyến khích các DNNVV phát triển hơn. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tín dụng. Bằng cách tạo ra một “sân chơi bình đẳng” về tín dụng cho tất cả các chủ thể đi vay, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn; Sửa đổi một số quy đinh về bảo đảm tiền vay sao cho có sự thống nhất với Luật đất đai tạo điều kiện cho DNNVV tiến hành cầm cố và thế chấp dễ dàng. Chính phủ cần cụ thể hoá hình thức tín chấp, bảo lãnh khuyến khích các địa phương, hiệp hội bảo lãnh cho DNNVV vay vốn; đơn giản hoá và chuyên môn hoá các giao dịch đảm bảo, đưa các thông tin giao dịch đảm bảo lên mạng. Thứ hai, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có trình độ tay nghề, trình độ quản lý cho các DNNVV. Đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá, đây là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Thị trường biến động thường xuyên, các DNNVV nếu không có đội ngũ lãnh đạo có kiến thức và kinh nghiệm thì rất dễ bị tác động theo hướng tiêu cực. Thứ ba, tăng cường sự phối hợp quản lý của nhà nước theo cả chiều dọc và chiều ngang. Bộ thương mại sẽ thường xuyên phối hợp với Bộ kế hoạch đầu tư và các bộ ngành có liên quan để tổ chức thực hiện tốt nghị định 90/CP; tạo điều kiện cho DNNVV niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Thứ tư, đẩy mạnh việc thành lập và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Nguyên nhân là do tâm lý e ngại tính hiệu quả của quỹ, khó huy động được nguồn vốn cho quỹ, vướng mắc trong tổ chức và điều hành quỹ. Chính vì vậy, Nhà nước cần phát huy vai trò quản lý của mình, can thiệp hơn nữa và đưa ra các điều kiện đảm bảo để cho Quỹ chính thức đi vào hoạt động. 3.3.2 Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước. Thứ nhất, Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục rà soát lại các cơ chế, quy định hiện hành về hoạt động của Ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Giảm bớt sự bất hợp lý, trùng lắp, không phù hợp với các văn bản pháp luật của Chính phủ và các Bộ ngành khác. Thứ hai, Ngân hàng nhà nước cần tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại.Ngân hàng nhà nước là cơ quan chủ quản, trực tiếp quản lý, chỉ đạo hoạt động của ngân hàng thương mại. Để thực hiện đúng vai trò và chức năng điều tiết vĩ mô, Ngân hàng nhà nước cần phải thường xuyên giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của Ngân hàng thương mại đề phòng rủi ro xảy ra ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống ngân hàng. Cụ thể là giám sát việc thực hiện quy chế cho vay, quy chế bảo lãnh, quy trình tín dụng, chính sách tín dụng, cũng như hồ sơ tín dụng. Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngân hàng thương mại sao cho vừa đảm bảo lợi nhuận vừa đảm bảo an toàn, ổn định cho ngân hàng. Thứ ba, nâng cao chất lượng hệ thống thông tin tín dụng. Hệ thống thông tin tín dụng là công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho hoạt động cho vay của ngân hàng. Đây là nguồn cung cấp thông tin đáng tin cậy, chứa đựng đầy đủ thông tin liên quan đến tình hình tài chính- tiền tệ trong nền kinh tế thị trượng. Nó giúp giảm sự không cân xứng về thông tin giữa người vay và người cho vay. từ đó, ngân hàng có cơ sở đánh giá rủi ro chính xác hơn, nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay. Thứ tư, Ngân hàng nhà nước cần có biện pháp tăng cường hoạt động liên ngân hàng. Sự trao đổi thông tin giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng có ý nghĩa quan trọng tạo ra sự liên kết với nhau cùng phát triển. Hơn nữa, sự phối hợp giữa các ngân hàng sẽ tạo điều kiện mở rộng cho vay DNNVV thông qua hoạt động đồng tài trợ. 3.3.3 Kiến nghị với NHNNo&PTNT VN. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tín dụng làm cương lĩnh hoạt động chung cho toàn bộ hệ thống. Cần cụ thể hoá chính sách riêng đối với DNNVV chỉ đạo cho các SGD thực hiện. Dựa trên chính sách chung, SGD sẽ xây dựng chính sách riêng sao cho phù hợp với khả năng hoạt động của mình, phát huy lợi thế và nâng cao chất lượng hoạt động của SGD. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ thông tin. Hệ thống công nghệ thông tin giúp cho ngân hàng thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng, khai thác và phát triển các sản phẩm mới, đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh. Nhờ đó, Ngân hàng sẽ trở thành một ngân hàng cổ phần đa năng trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Vì vậy, ngân hàng nên đầu tư vào hệ thống công nghệ hiện đại với tính bảo mật cao. Hiện nay, thương mại điện tử mang lại nhiều lợi ích không chỉ cho các ngân hàng mà còn cho cả doanh nghiệp. Giao dịch điện tử vừa tiết kiệm thời gian, lại tiết kiệm chi phí, tạo thuận lợi cho khách hàng khi tiến hành giao dịch với ngân hàng. Hơn nữa, ngân hàng có thể mở rộng phạm vi hoạt động, phạm vi thị trường mà không cần quan tâm đến khoảng cách địa lý. Đây là vấn đề ngân hàng nên quan tâm. KẾT LUẬN Một thực tế hiện nay không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn ở các nước khác trên thế giới là các DNNVV thường xuyên gặp khó khăn trong việc huy động vốn để kinh doanh. Hầu hết, vốn tự có của các doanh nghiệp này chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng vốn huy động, phần còn lại dựa vào các nguồn tài trợ khác mà chủ yếu là vốn vay từ các NHTM. Vì vậy, vốn vay ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các DNNVV. Trong những năm gần đây, sự phát triển của các DNNVV đã thể hiện vai trò tích cực và hứa hẹn nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, để tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp này phát triển thì phải giải quyết được vấn đề thiếu vốn. Trong thời gian thực tập, tôi nhận thấy hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các DNNVV còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của các doanh nghiệp cũng như chưa thực sự đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình là: “Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SGD NHNo & PTNT VN”. Trong quá trình nghiên cứu, tôi có mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị đối với các cơ quan nhà nước, NHNN, bản thân các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu có hạn cũng như những hạn chế về mặt kiến thức, kinh nghiệm nên chuyên đề của tôi khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ dẫn của các thầy cô giáo để chuyên đề của tôi được hoàn chỉnh hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO TS. Nguyễn Hữu Tài ( chủ biên), 2002, Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB Thống Kê. Phan Thị Thu Hà (2006), “Ngân hàng thương mại”, NXB Thống Kê. Frederic S.Mishkin (1999), “Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính”, NXB Khoa học kỹ thuật. Peter Rose (2004), “Quản trị Ngân hàng thương mại”, NXB Tài chính. PGS.TS Lê Văn Tề, “Quản trị Ngân hàng thương mại”, NXB Thống kê. NHNo&PTNT Việt Nam (2004), “Sổ tay tín dụng”. Nguyễn Thị Minh Hiền (2004), “Giáo trình Marketing Ngân hàng - Học viện Ngân hàng”, NXB Thống kê. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), “Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học ngành ngân hàng”, NXB Văn hóa – Thông tin. Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1997). Nghị định 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 về Tổ chức và hoạt động của NHTM. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam các năm 2005, 2006, 2007. Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam các năm 2005, 2006, 2007. Báo cáo kết quả hoạt động cho vay đối với DNNVV của SGD NHNo & PTNT VN các năm 2005, 2006, 2007. Kế hoạch cho vay – thu nợ năm 2008 của Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam. Quyết định của Chủ tịch HĐQT NHNo&PTNT Việt Nam về việc ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động của Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam. “Tạp chí Ngân hàng” số 8 năm 2006 và số 11 năm 2007 Các website: MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10455.doc
Tài liệu liên quan